Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn "Cây trường minh đăng" và "Thị chúng" của Lỗ Tấn)_2 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.68 KB, 7 trang )


Nghệ thuật tự sự trong truyện
ngắn "Cây trường minh đăng" và
"Thị chúng" của Lỗ Tấn







Lỗ Tấn là tên tuổi vĩ đại của văn học Trung Quốc thế kỉ XX. Ông là
một trong số không nhiều các tác gia truyện ngắn trên thế giới có tài hấp
dẫn độc giả bao thế hệ. Sức lôi cuốn của truyện ngắn Lỗ Tấn được tạo
nên bởi sự kết hợp của nhiều yếu tố. Nghệ thuật tự sự là một trong những
yếu tố cơ bản góp phần làm nên nét độc đáo, thú vị của những trang
truyện ngắn Lỗ Tấn, góp tiếng nói khẳng định chỗ đứng vững chắc của
nhà văn trên văn đàn thế giới.

Như đã biết, văn học truyền thống Trung Quốc thường sử dụng lối
tự sự theo ngôi thứ ba. Việc sử dụng ngôi thứ nhất để kể hết sức hạn chế.
Phương thức tự sự này bị chi phối bởi quan niệm đạo đức, triết học, bởi
phương thức tư duy, mĩ học cổ điển Trung Quốc. Văn học cổ Trung Quốc
vốn coi trọng sự “gợi ý”, khước từ lối nói trực tiếp, công khai, tường tận.
Phương thức tự sự ngôi thứ ba không để nhân vật trực tiếp thể hiện mình,
mà thông qua sự khêu gợi, dẫn dụ của một nhân vật trung gian, các biến
cố, sự kiện và nhân vật trong tác phẩm dần được khám phá. Trong văn
học truyền thống Trung Quốc, người kể chuyện luôn đóng vai trò “người
ngoài cuộc” nhưng lại được xem như người am tường mọi chuyện. Tuy
không thuộc vào thế giới truyện kể, không trực tiếp tham gia vào hành
động truyện, chỉ đứng ngoài thế giới được trình bày để mục kích, kể lại,


nhưng anh ta luôn thể hiện rõ vai trò dẫn dắt và điều khiển mọi đường đi
nước bước của nhân vật. Điểm nhìn của người kể không bị hạn chế, cho
phép có thể di chuyển một cách thoải mái từ nhân vật này qua nhân vật
khác, từ thời điểm này qua thời điểm khác, từ không gian này qua không
gian khác mà không gặp bất cứ cản trở nào. Người kể chuyện không chỉ
thâu tóm mọi biểu hiện bên ngoài của nhân vật, anh ta còn dễ dàng thâm
nhập và nắm bắt được cả mọi ý nghĩ thầm kín trong thẳm sâu tâm hồn họ.
Lối kể chuyện truyền thống mang những giá trị không thể phủ nhận, song
cũng phải thấy rằng, do khoảng cách giữa người kể và nhân vật bị rút
ngắn, thậm chí rút xuống bằng không (tự sự vô tiêu cự), cho nên truyện
kể nhiều khi thiếu đi vẻ chân thực, sống động. Để câu chuyện trở nên hấp
dẫn, tác giả thường tự tạo khả năng “lạ hoá” các sự kiện. Vì vậy, cốt
truyện của các tác phẩm được đặc biệt coi trọng. Mặt khác, trong tự sự
truyền thống, người kể thường hiện diện với tư cách tác giả, tư tưởng,
cảm xúc được bày tỏ rõ ràng qua thế giới nghệ thuật, nên dù muốn hay
không, độc giả ít nhiều bị áp đặt vào cách cảm, cách nghĩ của nhà văn. Do
đó, vai trò “đồng sáng tạo”, cơ hội tạo khả năng tham gia cắt nghĩa tác
phẩm của độc giả, vô hình chung bị hạn chế phần nào.

Truyện ngắn Lỗ Tấn về cơ bản đã phá vỡ lối kể chuyện quen thuộc
truyền thống. Vẫn sử dụng ngôi thứ ba để kể nhưng thường thấy xuất
hiện trong truyện ngắn của ông hiện tượng người kể chuyện vô hình đã
nhiều lúc nhập vai vào nhân vật, đứng cùng bình diện với các nhân vật
trong tác phẩm. Lỗ Tấn gặp gỡ truyền thống khi nhà văn vẫn sử dụng phổ
biến phương thức tự sự ngôi thứ ba. Trong hai tập Gào thét và Bàng
hoàng, hình thức tự sự này chiếm 13/25 truyện. Song, điểm sáng tạo của
Lỗ Tấn thể hiện ở ngay sự cách tân truyền thống. Truyện Lỗ Tấn luôn có
sự đổi thay điểm nhìn trần thuật. Nhà văn không chỉ trần thuật theo con
mắt của người đứng ngoài chứng kiến, mà chuyển điểm nhìn vào bên
trong nhân vật, nhập vào nhân vật để kể. Khi vận dụng điểm nhìn bên

ngoài, lúc lại luân chuyển vào điểm nhìn bên trong, sự kết hợp và vận
dụng linh hoạt các điểm nhìn trần thuật ấy đã giúp các truyện kể theo ngôi
thứ ba của Lỗ Tấn vừa có khả năng bao quát được muôn mặt đa dạng của
đời sống hiện thực, vừa có khả năng đi sâu mổ xẻ, bóc tách, lí giải chiều
sâu tâm lí, thế giới nội tâm bí ẩn, phức tạp của con người. Trong phạm vi
bài viết này, chúng tôi dừng lại ở hai tác phẩm tiêu biểu thể hiện rõ sự kế
thừa và cách tân nghệ thuật tự sự truyền thống đặc biệt, tạo nên phong
cách rất riêng của nhà văn.

Cây trường minh đăng và Thị chúng nằm trong tập truyện Bàng
hoàng (Theo Truyện ngắn Lỗ Tấn (Trương Chính dịch và giới thiệu). Nxb.
Văn học, H, 1998. Các chú dẫn trong bài đều theo sách này). Như những
tác phẩm tự sự theo ngôi thứ ba truyền thống, hai tác phẩm này cũng
được kể lại một cách thuần tuý bởi người kể giấu mặt xuất hiện vô hình
trong thế giới tác phẩm. Nhưng khác với truyện kể truyền thống, người kể
chuyện ở đây không phải lúc nào cũng hiện ra lồ lộ trên trang sách, nói
với độc giả mọi điều. Anh ta thường giấu mình đi, “lẩn” phía sau nhân vật,
tự tước bỏ của mình cái đặc quyền có thể xâm nhập vào bên trong câu
chuyện, chi phối, quyết định mọi việc thay cho nhân vật. Với cái nhìn hạn
chế, người kể chuyện chỉ kể một cách khách quan những gì diễn ra bên
ngoài nhân vật như hành động, ngôn ngữ, diện mạo mà không thâm
nhập vào chiều sâu ý thức nhân vật. Không đưa ra những phán đoán, suy
xét chủ quan, không giải thích, bình luận dông dài, người kể chuyện,
chung qui lại, tuồng như không tham gia can thiệp đối với bất kể những
điều gì anh ta được thấy, được nghe. Bởi vậy, nếu độc giả chờ đợi ở
người kể trung gian những chỉ dẫn cụ thể để bắt đúng mạch suy tư, tình
cảm của nhân vật, sẽ dễ thất vọng khi đọc những truyện này. Tuy nhiên,
phương thức tự sự này lại tạo điều kiện mở ra cho độc giả nhiều không
gian suy ngẫm, nhiều khoảng trống cần thiết, buộc họ đích thân tham gia
vào cuộc chơi lí thú “đi tìm ý nghĩa không có hồi kết thúc” của tác phẩm.


Hai truyện Cây trường minh đăng và Thị chúng không có cốt truyện,
không lắm tình tiết phức tạp. Chúng thuộc dạng truyện không có chuyện,
không dễ kể và dường như chẳng có gì để kể. Phần lời kể chiếm tỉ lệ
không lớn so với lời tả và thường chỉ mang tính thông báo ngắn gọn về
chủ thể và hành động của chủ thể mà thôi. Ít thông tin nào chứng tỏ sự
hiểu biết thế giới bên trong nhân vật của người kể chuyện. Người kể
chuyện ở đây thực sự chỉ là người quan sát, người quay phim “không biết
gì” hơn ngoài những gì mình quan sát được. Luôn giữ khoảng cách với
câu chuyện được kể, người kể chuyện hiển nhiên “nói” ít hơn bất cứ nhân
vật nào trong tác phẩm. Các nhân vật có khả năng vượt trội tự biểu đạt
trực tiếp “tiếng nói” bản thân qua cử chỉ, hành động, qua hành vi ngôn
ngữ mà không cần nhiều tới sự can dự của tác giả hàm ẩn. Các nhân vật
biết tự thể hiện mình và tự “khắc hoạ” nhau.

Cây trường minh đăng xoay quanh sự kiện đám đông người dân
thôn Cát Quang phản ứng trước hành động thách thức táo bạo của
“người điên” “đòi thổi cho tắt quách đi” cây đèn được thắp lên từ thời
Lương Võ Đế – cây đèn tượng trưng cho những hủ tục lưu truyền từ ngàn
năm xưa cũ. Thị chúng lại xoay quanh sự kiện một đám đông vô thức,
hiếu kì, tụ tập hóng coi cuộc thị chúng. Trong khuôn khổ của những thiên
truyện ngắn có dung lượng vừa phải (Cây trường minh đăng: 18 trang, Thị
chúng: 8 trang), thế giới nhân vật hiện lên trong các tác phẩm tương đối
đông đảo. Họ không được giới thiệu cụ thể, rõ ràng với đầy đủ tên tuổi,
nguồn gốc, nghề nghiệp, chức vụ, theo kiểu “sơ đồ hình hoạ” hay “lí
lịch trích ngang” như các nhân vật trong truyện truyền thống. Họ hiện lên
với một danh sách sơ lược thiếu khuyết nhiều mục, ngay đến cả cái tên
cũng ở dạng không hoàn chỉnh, mang đậm tính ước lệ và đặc trưng khái
quát. Vị thế khách quan “xa lạ” của người kể chuyện bộc lộ trước hết ở
ngay cách gọi tên nhân vật. Cây trường minh đăng có 13 nhân vật thì chỉ

có 4 nhân vật có tên đúng với nghĩa của nó, đó là: Trang Thất Quang, thím
Năm Khôi, cụ Quách và cụ Tứ. Còn lại, các nhân vật khác đều được gọi
tên bằng những đặc điểm cơ thể nào đó dễ dàng khu biệt họ với
nhau: anh mặt lưỡi cày, anh đầu vuông, anh trán rộng, anh mặt vuông
vàng khè (người điên), đứa trẻ ở trần, đứa bé gái, đứa lớn nhất, đứa ở gái
tóc vàng khè, cu Sẹo. Cũng vậy, 15 nhân vật trong Thị chúng, không ai có
nổi cái tên cho ra tên: tên cảnh sát gày gò, người đàn ông mặc áo chẽn
trắng, ông già đầu trọc lốc, ông người cao cắp chiếc dù tây, anh chàng
béo đẫy, anh người gầy, em bé béo mập, mụ đàn bà béo, người mặt bầu
dục, người mặt tròn như mặt ông Phật, anh chàng công nhân, chị vú em,
anh phu xe, em học sinh Các nhân vật trong cả hai tác phẩm đều là các
nhân vật hành động. Độc giả chỉ thấy họ đi đứng, nói năng, chứ ít thấy họ
nghĩ ngợi, cảm nhận. Nói đúng ra, cũng có khi thấy họ biểu lộ trạng thái
tâm lí nào đó, như buồn bực, tức giận, khó chịu, thất vọng song những
trạng thái tâm lí ấy bao giờ cũng được thể hiện qua những biểu hiện bên
ngoài là hành động và ngôn ngữ, chẳng hạn “đập bàn nói”, “ngạc nhiên
hỏi”, “thở dài, nói”, “thất kinh, khua tay liên tiếp nói”, “giận dữ gắt”, “chau
mày nhìn” Người kể chuyện dường như không hé lộ một thái độ, tình
cảm nào đối với thế giới nhân vật ấy, dường như anh ta chẳng có việc gì
khác ngoài việc thuật lại nhân vật nói gì, làm gì.

Nếu như Cây trường minh đăng là truyện của tập hợp các hành vi
ngôn ngữ thì Thị chúng là chuyện của tập hợp các hành động đan xen dồn
dập. Cây trường minh đăng được kể theo “thức kịch tính”, nhân vật được
tự do thể hiện mình dưới ánh đèn sân khấu; cònThị chúng lại được kể
theo “điểm nhìn ống kính máy quay phim”, nhân vật cứ hiện dần ra qua
ống kính trường quay.
Trong Cây trường minh đăng, sự kiện được dẫn ra, nhân vật hiện lên
chủ yếu qua hình thức ngôn ngữ trực tiếp, đặc biệt là ngôn ngữ đối
thoại của nhân vật. Truyện được kể theo hình thức “truyện kể sân khấu”,

gồm 4 cảnh diễn ra tại 4 địa điểm (Cảnh 1: tại quán trà; cảnh 2: ở cổng
đền; cảnh 3: tại phòng khách nhà cụ Tứ; cảnh 4: ở sân đền). Mỗi cảnh là
một cuộc đối thoại triền miên. Câu chuyện cứ triển khai lần lượt qua từng
cuộc đối thoại ấy. Đi đến hết thiên truyện, dường như chỉ thấy nhân
vật nói và nói. Hơn chục trang sách có tới gần 80 lượt người nói. Người
này “hỏi”, người kia “nói”, người khác “cướp lời”, người khác nữa “nói
xen vào”, “hùa theo nói”, thậm chí có khi “cả ba người một lúc cùng nói”.
Có giọng “trầm trầm khe khẽ”, có giọng “khảng khái”, “ôn hoà”, có giọng
“ngạc nhiên”, “khinh bỉ”, có giọng “thong thả”, “bình thản”, có giọng
“giận dữ”, “mỉa mai” Mỗi người mỗi giọng tự tạo dựng lên “khuôn mặt”
tính cách của chính mình. Một “gã điên” kiên quyết, dám bất chấp tất cả,
đương đầu chống chọi với cả một thế lực đen tối, bảo thủ. Một “trán
rộng”, một “đầu vuông”, một “mặt lưỡi cày” thô lỗ, hung hãn, tàn nhẫn.
Một “cụ Tứ” tâm địa ác độc, giả dối nhưng tỏ ra từ tốn, nhã nhặn, có lòng
thương

×