Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ CHUYỂN DỊCH cơ cấu KINH tế NGÀNH NÔNG NGHIỆP HUYỆN GIA lâm, THÀNH PHỐ hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.01 KB, 96 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

Chương 1

1.1.
1.2.

Chương 2

2.1.

2.2.

Chương 3

3.1.
3.2.

3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ NGÀNH NÔNG NGHIỆP Ở HUYỆN
GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Một số vấn đề chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp
Quan niệm, nội dung và các nhân tố tác động đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở huyện Gia
Lâm, thành phố Hà Nội
THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH
TẾ NGÀNH NÔNG NGHIỆP Ở HUYỆN GIA LÂM,


THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN QUA
Những thành tựu, hạn chế trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành nông nghiệp ở huyện Gia Lâm, thành
phố Hà Nội thời gian qua
Nguyên nhân thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra
từ thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH
NÔNG NGHIỆP Ở HUYỆN GIA LÂM, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI
Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
huyện Gia Lâm trong thời gian tới
Giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp ở huyện Gia Lâm trong thời gian tới

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

13
13

23

40

40

54


65
65
69
89
91
96


MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa (bao gồm việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn) nhằm hướng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền
kinh tế nói chung, công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
nói riêng dẫn tới những thay đổi nhất định cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu
kinh tế trong nội bộ nông nghiệp nói riêng, những chuyển biến trong cơ cấu
kinh tế ngành nông nghiệp đã biến nông nghiệp từ trạng thái tự cấp, tự túc đã
chuyển sang kinh tế hàng hóa, gia tăng tốc độ phát triển, tạo tiền đề cho từng
bước ra đời nền nông nghiệp hiện đại.
Gia Lâm là huyện ngoại thành của Hà Nội, trong những năm qua trước
sự tác động mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, cùng với
đó là sự quan tâm của các cấp, các ngành, đặc biệt là sự nỗ lực vượt bậc của
lãnh đạo, chính quyền các cấp ở địa phương và tập thể người lao động ngành
nông nghiệp trong toàn Huyện, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp ở huyện Gia Lâm đã đạt được những thành tựu quan trọng, cơ
cấu kinh tế ngành nông nghiệp cũng đã có những chuyển biến tích cực. Khảo
sát thực tế cho thấy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp đã diễn ra

theo hướng làm tăng thêm hiệu quả trong đầu tư phát triển, làm tăng thu nhập
cho đời sống dân cư... Mặc dù vậy, so với tiềm năng và thế mạnh của Huyện,
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp thời gian qua còn bộc
lộ những thiếu sót, hạn chế. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chưa thật sự
bảo đảm theo hướng: hiện đại, hiệu quả và bền vững. Mặt khác, nhìn nhận
động thái phát triển nông nghiệp theo hướng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành nông nghiệp phải hướng tới mục tiêu hình thành ở huyện Gia Lâm
một ngành nông nghiệp có cơ cấu hiện đại, vừa phù hợp với đặc điểm tình

3


hình kinh tế xã hội của địa phương, vừa tác động mạnh mẽ và hiệu quả tích
cực nhất đến sự tăng trường và phát triển của ngành nông nghiệp trên địa bàn
Huyện, thì vẫn còn nhiều việc phải làm. Thực tế đó cho thấy, việc đánh giá
thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, chỉ ra những thành công,
hạn chế cùng nguyên nhân và rút ra những bài học kinh nghiệm làm cơ sở cho
việc đề xuất những chính sách và giải pháp tiếp tục thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp của Huyện có ý nghĩa hết sức quan trọng và mang
tính cấp thiết. Đó là lý do khiến tác giả lựa chọn vấn đề “Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành nông nghiệp ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội” làm đề tài
luận văn thạc sĩ kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, chuyển dịch cơ cấu ngành nông
nghiệp hiện đang là vấn đề lớn, một trong hai nội dung của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Do vậy, đây là vấn đề được các nhà khoa học, nhà quản
lý hết sức quan tâm. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và cơ cấu ngành nông nghiệp dưới dạng những báo cáo chuyên đề lớn,
đề tài luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và bài báo khoa học được công bố. Có
thể gộp thành các nhóm công tình sau:

Nhóm các công trình sách chuyên khảo và tham khảo có:
Đỗ Hoài Nam (1996), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển
những ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam, Nxb Khoa học - Xã hội, Hà
Nội. Tác giả đã trình bày những vấn đề lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế, trên cơ sở đó xem xét, đánh giá nền kinh tế
Việt Nam. Nghiên cứu mối quan hệ giữa cơ cấu ngành kinh tế với cơ cấu
vùng kinh tế, gắn chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành với phát triển các vùng
kinh tế trọng điểm của Việt Nam.
Lê Du Phong, Nguyễn Thành Độ (1999), Chuyển dịch CCKT trong điều
kiện hội nhập với khu vực và thế giới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nội dung

4


cuốn sách đề cập tương đối hệ thống vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta, phạm vi nghiên cứu rộng, có
tính chất khái quát. Trong đó, đặc biệt là làm rõ những nhân tố tác động đến quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như những yêu cầu cơ bản trong điều kiện
hội nhập.
PGS.TS Bùi Tất Thắng (2009), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở
Việt Nam - Thông tin chung, Nxb Khoa học - Xã hội, Hà Nội. Tác giả đề tài
đã đánh giá một cách tương đối toàn diện thực trạng quá trình chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới dựa
trên cơ sở khái quát những vấn đề lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành, những tiêu chí đánh giá chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
Bùi Tất Thắng, Lê Bộ Lĩnh, Nguyễn Ngọc Quang, Phan Sỹ Mẫn, Cù Chí
Lợi (1997), Các nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
trong thời kỳ công nghiệp hóa ở Việt Nam, Nxb Khoa học - xã hội, Hà Nội. Trong
nội dung cuốn sách này, các tác giả tập trung phân tích một số nhân tố tác động
đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế như: môi trường quốc tế, lợi thế so sánh của

các nguồn lực trong nước, sự hình thành của cơ chế thị trường và chức năng kinh
tế của Nhà nước. Đồng thời, phản ánh những đặc điểm cơ bản, đặc thù, hiện trạng
kinh tế Việt Nam - một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi. Việc nêu lên
những đặc điểm này cho phép cách nhìn nhận vấn đề rõ nét hơn, trong đó có các
chính sách chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa ở
nước ta. Tuy nhiên, những vấn đề nêu trên chưa bao quát đầy đủ những khía cạnh
và nội dung của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, nhất là trong điều kiện nước ta
đang mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhóm các công trình luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ có:
Trần Tuấn Anh (2007), Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành tỉnh Trà Vinh đến 2015, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Đại học kinh tế Thành
phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh. Luận án đã hệ thống hóa cơ sở lý

5


luận về cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nghiên cứu các mô hình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một nước trong khu vực và việc vận dụng kinh
nghiệm đó vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam. Đánh giá thực trạng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành của các khu vực kinh tế tỉnh Trà Vinh. Từ
đó, xác định quan điểm, phương hướng và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và các giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
Tạ Đình Thi (2007), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm phát
triển bền vững của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - Việt Nam, Luận án Tiến
sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Trong công trình này, tác giả
trình bày những vấn đề chủ yếu về lý luận và thực tiễn chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trên quan điểm phát triển bền vững, Hiện trạng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ trên quan điểm phát triển bền
vững. Định hướng và các giải pháp bảo đảm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ trên quan điểm phát triển bền vững.

Phạm Hùng (2001), Chuyển mạnh cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở miền Đông Nam Bộ hiện nay, Luận án Tiến
sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Trong công
trình này tác giả đã trình bày hệ thống hóa cơ sở khoa học vấn đề về cơ cấu
kinh tế nông thôn; thực trạng cơ cấu nông thôn ở Đông Nam Bộ và các
phương hướng, giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong những năm tới ở vùng này.
Võ Tấn Danh (2011), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Kon Tum, Luận
văn Thạc sĩ kinh tế, Đại học Đà Nẵng, Đà Nẵng. Luận văn đã làm rõ cơ cấu
kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Kon Tum. Phân tích những thành
tựu, hạn chế và nguyên nhân của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm phát huy
hơn nữa những tiềm năng, thế mạnh của kinh tế tỉnh Kon Tum. Từ đó, đưa ra
định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Kon Tum.

6


Nguyễn Thị Đông (2009) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hà Nội - Thực
trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính sách và Phát triển,
Hà Nội. Tác giả khẳng định chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa - hiện đại hóa là con đường tất yếu để Việt Nam thoát khỏi tình trạng lạc
hậu, chậm phát triển trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại. Luận văn cũng
đã đánh giá được thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn thành phố
Hà Nội, những hạn chế, yếu kém và đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh và
nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này góp phần vào quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế trên địa bàn thành phố Hà Nội
nói riêng.
Trương Thị Mỹ Hoa (2011), Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp huyện
Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Đại học Đà Nẵng,

Đà Nẵng. Luận văn đã hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý luận về cơ cấu
nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. Phân tích, đánh giá thực
trạng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp huyện Thăng Bình; chỉ ra những thành
tựu, hạn chế và nguyên nhân những tồn tại của chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp huyện Thăng Bình. Từ đó đề xuất một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
Trần Anh Hùng (2013), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Gia
Lai, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Đại học Đà Nẵng, Đà Nẵng. Luận văn đã làm rõ
một số vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. Phân tích đánh giá
thành tựu, hạn chế, nguyên nhân thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp tỉnh Gia Lai. Từ đó, đề ra những giải pháp chủ yếu chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa của tỉnh Gia Lai.
Trần Đức Việt (2011), Giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Hà
Tĩnh, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Đại học Đà Nẵng, Đà Nẵng. Luận văn đã làm
rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu

7


kinh tế ngành tỉnh Hà Tĩnh 2006 - 2010. Từ đó đưa ra quan điểm và giải pháp
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành tỉnh Hà Tĩnh những năm tiếp theo.
Nhóm các công trình là các bài viêt đăng trên các tạp chí khoa học có::
Nguyễn Sinh Cúc (2002), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng Đồng bằng
Sông Cửu Long”, Tạp chí Cộng sản (Số 32). Nội dung cơ bản là nêu đặc thù và đề
ra các giải pháp thúc đẩy chuyển dịch CCKT vùng ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Nguyễn Xuân Dũng (2007), “Về giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp hiện nay”, Tạp chí Cộng sản (Số 06). Tác giả chỉ chuyên
bàn về chuyển dịch CCKT nông nghiệp nông thôn, những ngành nghề cụ thể
để giải quyết vấn đề nông nghiệp - nông thôn trong thời kỳ công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, phạm vi rộng, mang tầm khái quát chứ không đi sâu bàn ở một
địa phương cụ thể.
Lê Thị Phương Mai (2003) “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tỉnh Hà
Tây”, Tạp chí Cộng sản, (Số 7). Nội dung bài viết chuyên bàn về thành tựu và
nêu các giải pháp chuyển dịch CCKT nói chung trên địa bàn tỉnh Hà Tây
Phan Ngọc Mai Hương (2006), “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh
Thái Nguyên theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, tạp chí Kinh tế và Dự
báo số 5. Bài viết tập trung trình bày về thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế, phân tích những ưu, khuyết điểm của quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế của tỉnh Thái Nguyên. Trên cơ sở phân tích thực trạng, tác giả đưa
ra bốn quan điểm có tính chất định hướng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế tỉnh Thái Nguyên. Các định hướng đề cập đến cơ sở và những yêu cầu
thực hiện nhằm đảm bảo quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành đúng
hướng, đạt được những mục tiêu đã định. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số
giải pháp chủ yếu để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhằm
hướng tới việc thực hiện thắng lợi mục tiêu đặt ra đến 2020.
TS Trần Anh Phương (2009), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế - thực trạng
và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Cộng sản, số 1(169). Bài báo khẳng định

8


chuyển dịch cơ cấu kinh tế là con đường nhanh chóng đưa nước ta ra khỏi
tình trạng lạc hậu, kém phát triển. Khái quát nội dung chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, khái quát lại toàn bộ kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế sau hơn 20
năm đổi mới. Đồng thời, tác giả chỉ rõ những mâu thuẫn trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và kiến nghị năm giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của đất nước trong thời kỳ mới.
Bên cạnh những công trình trên đây còn một số sách tham khảo và
công trình khác dưới dạng luận án luận văn: Lê Xuân Bá, Nguyễn Thị Tuệ

Anh (2006), Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 15 năm (1991 – 2005) từ góc độ
phân tích đóng góp của các nhân tố sản xuất, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà
Nội; Tác giả Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
thời kỳ đổi mới, Nxb Thống kê, Hà Nội; Tác giả Trần Thọ Đạt (2005), Các
mô hình tăng trưởng kinh tế, Nxb Thống kê, Hà Nội; Tác giả Nguyễn Điền
(1997), Công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn ở các nước Châu Á và Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Tác giả Lê Cao Đoàn (2001), Triết lý
phát triển quan hệ công nghiệp – nông nghiệp, thành thị - nông thôn trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội; Tác giả Phan Huy Đường (2008), Hội nhập Quốc tế với phát triển bền
vững, Kỷ yếu Hội thảo Kinh tế quốc tế Việt Nam học lần thứ 3, Nxb Đại học
quốc gia, Hà Nội; Tác giả Chu Minh Hằng (2003), Một số vấn đề về hiện đại
hóa nông nghiệp Trung Quốc, Nxb Khoa học xã Hội, Hà Nội; Tác giả Lương
Đình Hải (chủ biên), Lê Xuân Đình và Nguyễn Đình Hòa (2008), Hiện đại
hóa xã hội vì mục tiêu công bằng ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội 2008; Tác giả Nguyễn Văn Nam, Trần Thọ Đạt (2006), Tốc độ và
chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân,
Hà Nội.Đỗ Hoài Nam (1996), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển
các ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam, Nxb Khoa học và xã hội, Hà
Nội; Tác giả Lê Quốc Sử (2001), Chuyển dịch cơ cấu và xu hướng phát triển

9


của kinh tế nông nghiệp Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
từ thế kỷ XX đến thế kỷ XXI trong thời đại kinh tế tri thức, Nxb Thống Kê,
Hà Nội; Tác giả Đặng Kim Sơn (2001), Công nghiệp hóa từ nông nghiệp. Lý
luận thực tiễn và triển vọng áp dụng ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội;
Tác giả Lê Hữu Tầng, Lưu Hàm Nhạc (2002), Nghiên cứu so sánh đổi mới
kinh tế ở Việt Nam và cải cách kinh tế ở Trung Quốc, Nxb Chính trị Quốc

Gia, Hà Nội; Tác giả Bùi Tất Thắng (1994), Sự chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế trong thời kỳ CNH của các NIEs Đông á và Việt Nam, Nxb Khoa học
và xã hội, Hà Nội; Tác giả Lê Đình Thắng (1998), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Cùng với các sách tham khảo trên là hai báo cáo chuyên đề: Ngân hàng
thế giới (1999) Báo cáo nghiên cứu chính sách “Xanh hoá công nghiệp -vai
trò mới của cộng đồng thị trường và Chính phủ”; Trung tâm dự báo Kinh tế xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2007), “Tăng trưởng và xóa đói
giảm nghèo ở Việt Nam: Thành tựu, thách thức và giải pháp, Hà Nội”.Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2004), “Báo cáo về tình hình chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong gần 20 năm đổi mới”,
Báo cáo tổng kết, Hà Nội.
Tóm lại, các tác giả đã tập trung nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong điều kiện kinh tế - xã hội mới; phân tích những nhân tố tác động đến
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mỗi tác giả, tập thể tác giả nghiên cứu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở một góc độ khác nhau và đây là những nguồn tài
liệu tham khảo quan trọng cho luận văn.
Một số bài viết của một số tác giả khác cũng đã đề cập đến vấn đề
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện Gia Lâm. Tuy nhiên vẫn chưa
có đề tài, công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện vấn đề
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn huyện Gia Lâm dưới góc
độ kinh tế chính trị. Chính vì vậy, tác giả chọn vấn đề:“Chuyển dịch cơ cấu

10


kinh tế ngành nông nghiệp ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội” có ý nghĩa
cả lý luận và thực tiễn, đồng thời không trùng lắp với bất kỳ công trình nào.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

nông nghiệp ở huyện Gia Lâm, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng, giải pháp
đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở huyện Gia Lâm
trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận giải làm rõ cơ sở lý luận của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp ở huyện Gia Lâm.
Phân tích, đánh giá thực trạng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp ở huyện Gia Lâm thời gian qua: chỉ ra thành tựu, hạn chế, nguyên
nhân và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
Đề xuất phương hướng, giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp ở huyện Gia Lâm thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu đồng bộ sự chuyển dịch các cơ cấu bộ
phận hợp hành cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp (cơ cấu kinh tế ngành trong
nông nghiệp, cơ cấu kinh tế vùng trong nông nghiệp và cơ cấu thành phần
kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp).
Phạm vi về không gian: Địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Phạm vi về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành nông nghiệp ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội từ năm 2008 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận : Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng và phương pháp duy vật lịch sử để nghiên cứu sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành nông nghiệp đặt ra trong bối cảnh của cơ chế kinh tế thị trường,
gắn liền với những điều kiện kinh tế khách quan của đất nước, của thành phố

11



Hà Nội và của huyện Gia Lâm. Từ đó có cách nhìn nhận đánh giá khách quan
về sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện Gia
Lâm, thành phố Hà Nội.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề
tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính trị Mác Lênin, trong đó chú trọng các phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp
lôgic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, phương pháp chuyên
gia và một số phương pháp khác.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài được nghiên cứu thành công sẽ góp phần làm rõ thêm những vấn đề
lý luận chung và thực tiễn của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp.
Cung cấp thêm luận cứ khoa học làm cơ sở để Đảng bộ, chính quyền
huyện Gia Lâm đề ra chủ trương, chính sách nhằm phát huy những tác động tích
cực và hạn chế những mặt tiêu cực của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nhiệp của địa phương.
Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu, vận dụng vào quá trình giảng dạy
và học tập bộ môn Kinh tế chính trị ở các nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
có được kết cấu thành 3 chương (6 tiết).
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NGÀNH NÔNG NGHIỆP Ở HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1. Một số vấn đề chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
1.1.1. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
* Cơ cấu kinh tế:
Nền kinh tế của mỗi nước là một hệ thống lớn phức tạp, bao gồm nhiều
phân hệ hợp thành. Trong mỗi phân hệ lại được cấu trúc gồm nhiều bộ phận.

Việc phân tích, đánh giá cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải xem xét cấu trúc bên
trong của hệ thống kinh tế đó biểu hiện ở những mối quan hệ kinh tế giữa các

12


phân hệ; hoặc cấu trúc bên trong của các bộ phận và của các bộ phận cấu
thành các phân hệ của hệ thống kinh tế. Những mối quan hệ kinh tế đó ràng
buộc lẫn nhau và được biểu hiện ở những quan hệ về mặt lượng cũng như
quan hệ về mặt chất. C.Mác đã chỉ ra rằng: Cơ cấu kinh tế là sự phân chia về
chất lượng và tỉ lệ về số lượng của quá trình sản xuất. Khi có sự thay đổi của
một số bộ phận và phân hệ nào đó trong hệ thống kinh tế sẽ làm thay đổi các
bộ phận và phân hệ còn lại, hoặc ngược lại. Trong khi phân tích và đánh giá
một cơ cấu kinh tế trên quan điểm hệ thống nhất thiết phải chỉ ra được định
lượng và định tính của các quan hệ kinh tế. Là kết quả của quá trình phân
công lao động xã hội, cơ cấu kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất của nền kinh tế. Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải có
các bộ phận, các phân hệ được kết hợp với nhau một cách hài hoà, sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực, tài nguyên của đất nước, làm cho nền kinh tế phát
triển lành mạnh, có nhịp độ tăng trưởng và phát triển ổn định, nâng cao mức
sống của dân cư và tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động làm việc có
hiệu quả.
Như vậy, cơ cấu kinh tế của quốc gia xét trên tổng thể bao gồm những
mối liên hệ giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế của quốc gia đó, bao gồm
các yếu tố kinh tế, các lĩnh vực kinh tế (sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu
dùng), các ngành kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ …), các khu vực
kinh tế (nông thôn, thành thị), các thành phần kinh tế (nhà nước, tập thể, tư
nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế tư nhân). Ở mỗi vùng, mỗi
ngành, mỗi thành phần kinh tế lại có cơ cấu riêng tuỳ thuộc vào những điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội cụ thể.

Để có một nền kinh tế phát triển với tốc độ tăng trưởng cao và ổn định
đòi hỏi mỗi quốc gia phải có cơ cấu kinh tế hợp lý. Cơ cấu kinh tế đó phản
ánh được các yêu cầu của các quy luật kinh tế, các quy luật tự nhiên và các
quy luật xã hội liên quan trực tiếp tới cơ cấu kinh tế. Việc hình thành và vận

13


động của cơ cấu kinh tế trong mỗi giai đoạn, thời kỳ nhất định luôn gắn liền
với hoạt động thực tiễn của con người và sự nhận thức đúng đắn, đầy đủ và
ngày càng sâu sắc các quy luật khách quan, qua đó có sự phân tích, đánh giá
hiện trạng của cơ cấu kinh tế, biết được xu hướng biến đổi của cơ cấu kinh tế
để tìm ra các phương án xác lập cơ cấu kinh tế và lựa chọn phương án tối ưu
có hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất trong những điều kiện cụ thể của đất
nước. Đồng thời qua đó tìm ra và thực hiện các giải pháp hữu hiệu để đảm
bảo cơ cấu kinh tế đó đi vào cuộc sống.
Lịch sử phát triển kinh tế - xã hội trên thế giới đã cho thấy cơ cấu kinh
tế của mỗi quốc gia không phải là một hệ thống tĩnh, bất biến mà luôn ở trạng
thái vận động, biến đổi và có sự chuyển dịch cần thiết phù hợp với những
thay đổi, biến động của các điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội. Do
tác động của tiến bộ kỹ thuật và ứng dụng công nghệ mới, do sự phát triển
của khoa học quản lý và ứng dụng nó trong thực tiễn hoạt động kinh tế - xã
hội, cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia cũng theo sự phát triển đó mà ngày càng
hoàn thiện hơn.
Như vậy, theo sự phát triển của xã hội, lực lượng sản xuất ngày càng
phát triển, phân công lao động xã hội ngày càng sâu rộng, nên cơ cấu kinh tế
cũng ngày càng tiến bộ. Các quốc gia muốn xác lập cơ cấu kinh tế hợp lý, phù
hợp với những mục tiêu, chiến lược kinh tế - xã hội của các thời kỳ lịch sử nhất
định, thì phải nghiên cứu các quy luật tự nhiên và quy luật kinh tế - xã hội, trên
cơ sở đó hoạch định và dự báo cơ cấu kinh tế hiện tại và trong tương lai.

Từ sự phân tích trên có thể khái quát cơ cấu kinh tế như sau: Cơ cấu
kinh tế của một quốc gia là một tổng thể các bộ phận hợp thành nền kinh tế
của quốc gia đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu
hiện ở các quan hệ tỷ lệ về số lượng, tương quan về chất lượng trong những
không gian và thời gian nhất định, phù hợp với những điều kiện kinh tế- xã hội
nhất định, nhằm đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
* Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp:

14


Quan niệm cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp:
Xét dưới góc độ kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế của nền kinh tế của nhiều
quốc gia trên thế giới hiện nay, trong đó có Việt Nam bao gồm các ngành:
Công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi
quốc gia mà tỷ trọng các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ trong cơ
cấu của nền kinh tế sẽ có sự khác nhau. Trong mỗi ngành trên lại phân ra
thành các mối quan quan hệ kinh tế, yếu tố, bộ phận khác nhau. Do đó, bên
cạnh cơ cấu kinh tế của nền kinh tế ở mỗi quốc gia, có cơ cấu kinh tế của các
ngành tạo thành cơ cấu kinh tế của nền kinh tế, như cơ cấu kinh tế ngành công
nghiệp, cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp và cơ cấu kinh tế ngành dịch vụ.
Như vậy, từ quan niệm chung về cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc
dân, có thể hiểu cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp như sau: Cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp là bộ phận cấu thành cơ cấu nền kinh tế quốc dân; là
tổng thể các quan hệ kinh tế và các mối quan hệ tỷ lệ về số lượng, chất lượng
và các quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các bộ phận cấu thành kinh tế ngành
nông nghiệp.
Các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp:
Việc phân tích các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
sẽ làm rõ hơn cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Trước hết chúng ta thấy

rằng, cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp là sản phẩm của phân công lao động
xã hội. Phân công lao động xã hội diễn ra liên tục và phát triển cùng với sự
phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Phân công lao động xã hội gồm hai
hình thức cơ bản: Phân công lao động xã hội theo ngành và phân công lao
động xã hội theo lãnh thổ. Hai hình thức cơ bản của phân công lao động xã
hội đó gắn bó với nhau. Sự phát triển của phân công lao động xã hội theo
ngành kéo theo sự phát triển của phân công lao động xã hội theo lãnh thổ,
ngược lại mỗi bước tiến của phân công lao động xã hội theo lãnh thổ lại góp

15


phần quan trọng cho bước phát triển mới cho phân công lao động xã hội theo
ngành. Sự phân công lao động xã hội và chế độ sở hữu tạo ra cơ cấu các thành
phần kinh tế.
Như vậy, xem xét dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp, bao gồm: Cơ cấu kinh tế ngành trong nội bộ ngành nông
nghiệp, cơ cấu kinh tế vùng trong nội bộ ngành nông nghiệp và cơ cấu thành
phần kinh tế trong nội bộ ngành nông nghiệp.
- Cơ cấu kinh tế ngành trong nội bộ ngành nông nghiệp (gọi tắt là cơ
cấu kinh tế ngành trong nông nghiệp): Cơ cấu kinh tế ngành trong nông
nghiệp thể hiện các mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành trong nông nghiệp theo
nghĩa rộng. Nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm các phân ngành: nông
nghiệp (theo nghĩa hẹp), lâm nghiệp và thuỷ sản. Các ngành này có mối quan
hệ mật thiết với nhau trong quá trình phát triển tạo thành cơ cấu kinh tế nông
nghiệp. Đồng thời, các phân ngành của nông nghiệp (theo nghĩa rộng) lại bao
gồm các tiểu ngành. Những tiểu ngành này lại được phân ra thành những
ngành nhỏ hơn. Cụ thể như sau:
Đối với phân ngành nông nghiệp (theo nghĩa hẹp) bao gồm các tiểu
ngành: trồng trọt, chăn nuôi. Trong trồng trọt lại phân ra: Trồng cây lương

thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây cảnh …. Trong chăn nuôi lại phân ra:
chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi thuỷ, hải sản….
Đối với phân ngành lâm nghiệp bao gồm các tiểu ngành: trồng rừng,
khai thác gỗ, lâm sản ngoài gỗ,... Ngành lâm nghiệp có chức năng xây dựng
rừng, quản lý bảo vệ rừng, khai thác lợi dụng rừng, chế biến lâm sản và chức
năng môi trường như: phòng chống thiên tai và hình thành các đặc điểm văn
hóa, xã hội của nghề rừng.
Đối với phân ngành thuỷ sản bao gồm các tiểu ngành: nuôi trồng, khai
thác, đánh bắt và chế biến thuỷ hải sản. Đó là một ngành kinh tế có lợi thế để
phát triển, góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

16


nghiệp theo hướng kết hợp nuôi trồng thuỷ đặc sản với nông nghiệp, lâm nghiệp.
- Cơ cấu kinh tế vùng trong nội bộ ngành nông nghiệp (gọi tắt là cơ
cấu kinh tế vùng trong nông nghiệp): Ở mỗi quốc gia, trên cơ sở những điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, quá trình phát triển các vùng kinh tế được hình
thành và phát triển. Cơ cấu ngành và cơ cấu vùng có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, cơ cấu vùng là nhân tố hàng đầu để tăng trưởng và phát triển bền vững
các ngành kinh tế nông nghiệp được phân bố ở vùng. Mục đích của việc xác
lập cơ cấu kinh tế vùng một cách hợp lý là bố trí các ngành theo lãnh thổ vùng
sao cho thích hợp và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của từng
vùng.
- Cơ cấu thành phần kinh tế trong ngành nông nghiệp (gọi tắt là cơ cấu
thành phần kinh tế trong nông nghiệp): Các thành phần kinh tế ở nông nghiệp
ra đời và phát triển là tuỳ thuộc vào đặc thù của mỗi ngành và do yêu cầu của
sản xuất và nâng cao đời sống của dân cư nông thôn. Trên cơ sở yêu cầu và
khả năng phát triển sản xuất, mở rộng thị trường, các thành phần hợp tác với
nhau, kết hợp và đan xen với nhau một cách đa dạng với nhiều loại quy mô

trình độ và hình thức khác nhau. Hiện nay ở nước ta, tham gia vào hoạt động
sản xuất kinh doanh nông nghiệp có nhiều thành phần kinh tế như: kinh tế nhà
nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân (kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế cá thể,
tiểu chủ; kinh gia đình), trong đó kinh tế hộ nông dân tự chủ là đơn vị sản
xuất kinh doanh chính, là lực lượng chủ yếu trực tiếp tạo ra các sản phẩm
nông - lâm - thuỷ sản cho nền kinh tế quốc dân.
1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp.
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Như trên đã đề cập, cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân là kết quả
của quá trình phát triển về số lượng, chất lượng của các yếu tố, bộ phận cấu
thành nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, cơ cấu kinh

17


tế của nền kinh tế quốc dân không phải là các quan hệ tĩnh mà luôn luôn biến
đổi không ngừng theo sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao
động xã hội nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh của quốc gia.
Trong quá trình CNH tư bản chủ nghĩa, xu hướng biến động, chuyển
dịch của cơ cấu kinh tế cũng cho thấy điều đó. C.Mác đã tích phân tích kỹ về
tính quy luật này khi bàn về quá trình tái sản xuất tổng tư bản xã hội trong tác
phẩm "Tư bản" của Ông. Sau C.Mác, vấn đề này còn được V.I.Lênin bổ sung,
phát triển khi bàn quy luật ưu tiên phát triển tư liệu sản xuất trong tái sản xuất
mở rộng đặt trong điều kiện tiến bộ kỹ thuật.
Ngày nay, sự phát triển sự thay đổi nhanh chóng của nhu cầu thị trường
và tiến bộ khoa học công nghệ, đặc biệt là trước sự tác động của xu thế toàn
cầu hóa, mở cửa, hội nhập quốc tế và khu vực, các nước trên thế giới đều đã
và đang đặt ra những đòi hỏi khách quan mới về chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Riêng ở nước ta cũng như một số nước đang phát triển khác, cơ cấu kinh tế

phải luôn luôn gắn liền với CNH, HĐH, là quá trình tạo lập, xây dựng một cơ
cấu kinh tế phù hợp với yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
Từ những vấn đề trên, có thể quan niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế như
sau: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi thành phần, quan hệ tỷ lệ giữa
các mặt, các yếu tố, các bộ phận cấu thành nền kinh tế (hoặc trong nội bộ
các các bộ phận cấu thành nền kinh tế) từ trạng thái này sang trạng thái khác
phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội
và khai thác, phát huy được tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao giờ cũng là hệ quả từ những hoạt động
chủ quan của con người, trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật và
điều kiện kinh tế khách quan. Theo đó, nhằm biến đổi cơ cấu kinh tế theo
những chủ đích nhất định với phương hướng đã được xác định. Đó là quá trình
thay đổi, điều chỉnh các yếu tố trong cấu trúc kinh tế cho phù hợp với điều kiện
tự nhiên, kinh tế, xã hội, trình độ phân công lao động xã hội và xu thế phát triển

18


chung của nền kinh tế nhằm hướng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh,
hiệu quả và bền vững. Đối với nước ta, trong tính quy luật của sự phát triển kinh
tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế luôn là một trong những nội dung của quá trình
CNH, ngay cả khi quá trình CNH đã hoàn thành thì chuyển dịch cơ cấu kinh tế
vẫn phải được đặt ra.
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp:
Cũng như cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân và cơ cấu kinh tế các
ngành khác, cơ cấu ngành nông nghiệp là kết quả của quá trình phát triển về
số lượng, chất lượng ngành nông nghiệp trong khoảng thời gian nhất định. Vì
vậy cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp không ở trạng thái tĩnh mà luôn luôn
vận động, biến đổi theo sự phát triển của các yêu tố, bộ phận, các phân ngành,
tiểu ngành tạo nên cơ cấu kinh tế toàn ngành. Đó là sự thay đổi tất yếu về mối

quan hệ và tỷ lệ giữa các ngành: nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi), lâm
nghiệp, thủy sản trên quy mô cả nước, trên các vùng kinh tế; thay đổi về số
lượng, loại hình quy mô các chủ thể tham gia sản xuất kinh doanh trong các
chuyên ngành, tiểu ngành ở các vùng; sự thay đổi về mối quan hệ giữa nông
nghiệp với các ngành kinh tế khác như: công nghiệp và dịch vụ cung ứng đầu
vào cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản và các hoạt
động phân phối, tiêu thụ nông sản làm ra. Sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa
các phân ngành, tiểu ngành; giữa các yếu tố, bộ phận trong nông nghiệp là
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp, phản ánh lợi thế và
khả năng phát triển của các chuyên ngành, tiểu ngành trên phạm vi quốc gia,
vùng và tiểu vùng.
Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp chính là sự
thích ứng của quá trình tái sản xuất xã hội trong ngành nông nhiệp (sản xuất,
phân phối, trao đổi, tiêu dùng) với các điều kiện khách quan trong từng giai
đoạn phát triển nhất định. Nói cách khác, kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế

19


ngành nông nghiệp phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của
phân công lao động xã hội phạm vi toàn bộ nền của nền kinh tế và ngành
nông nghiệp đạt được trong từng thời kỳ nhất định. Trong điều kiện nền kinh
tế mở cửa và hội nhập của nước ta hiện nay, ngoài việc phản ánh trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất của phân công lao động xã hội phạm vi toàn bộ
nền của nền kinh tế và ngành nông nghiệp, kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp còn phản ánh mức độ thị trường hóa ở quy mô quốc gia,
quốc tế của ngành trong từng giai đoạn trong quá trình hội nhập khu vực và
quốc tế của ngành nông nghiệp Việt Nam.
Từ quan niệm chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và những vấn đề
phân tích trên, có thể quan niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp ở nước ta hiện nay như sau: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp là quá trình thay đổi quan hệ tỷ lệ giữa các yếu tố, bộ phận cấu thành
cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo hướng phù hợp hơn với các điều kiện
kinh tế khách quan, tạo ra cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp vừa mang tính
ổn định tương đối, vừa năng động trong vận động phát triển, đáp ứng yêu
cầu hình thành và phát triển một nền nông nghiệp hiện đại, bền vững của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Như vậy, có thể hiểu thực chất của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp ở nước ta hiện nay là đưa cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp từ
trạng thái cũ sang trạng thái mới trước những đòi hỏi của xu hướng vận động
kinh tế mới và của điều kiện khách quan đang diễn ra trong đời sống kinh tế xã hội.
* Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở nước ta hiện
nay
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành:

20


Xu hướng chuyển dịch chung: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông - lâm thủy sản theo xu hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng lâm
nghiệp và ngư nghiệp nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng đất đai trung du, miền
núi, diện tích mặt nước, ao hồ, sông, suối, biển. Đồng thời kết hợp chặt chẽ với
nông - lâm - thủy sản để hỗ trợ nhau cùng phát triển và bảo vệ môi trường.
Xu hướng chuyển dịch trong ngành nông nghiệp (theo nghĩa hẹp): Đối
với ngành trồng trọt, xu hướng chuyển dịch làm giảm dần độc canh lúa, tăng
dần tỷ trọng cây công nghiệp, rau, quả, cây đặc sản để sản xuất ra nhiều nông
sản hàng hóa và xuất khẩu có giá trị cao. Đối với ngành chăn nuôi, chuyển
dịch theo hướng tăng các loại vật nuôi có giá trị phục vụ tiêu dùng với chất
lượng cao và xuất khẩu.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng:
Sự phân công lao động theo ngành bao giờ cũng diễn ra trên những

vùng lãnh thổ nhất định, nghĩa là cơ cấu vùng lãnh thổ chính là việc bố trí các
ngành trong sản xuất nông nghiệp theo không gian cụ thể nhằm khai thác tiềm
năng, thế mạnh của vùng. Hiện nay ở nước ta, cũng như các địa phương, xu
thế chuyển dịch cơ cấu vùng lãnh thổ trong ngành nông nghiệp là đi vào
chuyên môn hoá và tập trung hoá để hình thành những vùng sản xuất hàng
hóa lớn tập trung có hiệu quả cao mở với các vùng chuyên môn hóa khác, gắn
cơ cấu của từng khu vực với cơ cấu kinh tế của cả nước. Trong từng vùng
lãnh thổ coi trọng chuyên môn hoá kết hợp với phát triển tổng hợp đa dạng.
Để hình thành cơ cấu kinh tế vùng hợp lý thì cần bố trí các ngành trên vùng
hợp lý, để khai thác đầy đủ tiềm năng của từng vùng. Đặc biệt cần bố trí các
ngành chuyên môn hoá dựa trên những lợi thế so sánh từng vùng, đó là những
vùng đất đai màu mỡ, khí hậu thuận lợi, đường giao thông thuận tiện, gần thị
trường tiêu thụ v.v..
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phần:
Ở nước ta trong thời kỳ bao cấp, cơ cấu thành phần kinh tế trong nông

21


nghiệp chuyển biến chậm, chỉ tồn tại hai loại hình: kinh tế quốc doanh và kinh
tế tập thể. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, chủ trương phát triển nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì nền kinh tế nông nghiệp
nước ta phát triển đa dạng và nhiều thành phần. Đáng chú ý trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế trong ngành nông nghiệp nổi lên các
xu hướng sau: đó sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
hộ nổi lên thành kinh tế hộ độc lập, tự chủ, tạo ra sản phẩm hàng hoá phong
phú đa dạng cho xã hội. Trong quá trình phát triển kinh tế hộ chuyển từ sản
xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá nhỏ tiến tới bình thành các trang
trại, nông trại (sản xuất hàng hóa lớn). Thành phần kinh tế nhà nước trong
nông nghiệp có xu hướng giảm mạnh. Nhà nước đang có biện pháp sắp xếp,

rà soát lại, hoặc chuyển sang các chức năng khác cho phù hợp với điều kiện
hiện nay. Thành phần kinh tế tập thể (hình thức chủ yếu là hợp tác xã) cũng
chuyển đổi chức năng; các hợp tác xã kiểu mới làm chức năng hướng dẫn sản
xuất và công tác dịch vụ cho nguyện vọng của các hộ nông dân mà trước đây
chức năng của hợp tác xã là trực tiếp điều hành sản xuất. Như vậy sự phát
triển đa dạng của các thành phần kinh tế cùng với việc chuyển đổi chức năng
của nó làm cơ cấu thành phần kinh tế trong ngành nông nghiệp ở nước ta có
những chuyển biến mạnh mẽ theo hướng phát huy hiệu quả của các thành
phần kinh tế.
Như vậy, trên đây là những vấn đề chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp ở nước ta hiện nay. Những vấn đề chung này là cơ sở lý
luận để mỗi địa phương, trong đó có huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội căn
cứ vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể của địa phương mình mà vận dụng
cho phù hợp.
1.2 . Quan niệm, nội dung và các yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở huyện Gia lâm, thành phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm, nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội

22


* Quan niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở huyện
Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Trên cơ sở quan niệm chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp, có thể quan niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở huyện
Gia Lâm, thành phố Hà Nội như sau: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội là tổng thể các hoạt động chủ động,
tích cực của các chủ thể liên quan đến nông nghiệp trên địa bàn Huyện nhằm
thay đổi quan hệ tỷ lệ giữa các yếu tố, bộ phận cấu thành cơ cấu kinh tế ngành

nông nghiệp ở huyện Gia Lâm theo hướng tạo ra cơ cấu kinh tế mới trong
ngành nông nghiệp phù hợp với các điều kiện kinh tế khách quan, một cơ cấu
kinh tế nông nghiệp vừa ổn định, vừa năng động trong quá trình vận động phát
triển, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu hình thành nông nghiệp hiện đại và
bền vững đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trên địa bàn Huyện.
Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở huyện Gia
Lâm, thành phố Hà Nội là những việc làm nỗ lực chủ quan của các chủ thể
kinh tế trên địa bàn huyện (cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp và nhân dân, các
lực lượng, thành phần kinh tế của Huyện...) nhằm chuyển cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp của địa phương từ dạng này sang dạng khác phù hợp với sự phát
triển của lực lượng sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ trong ngành
nông nghiệp của địa phương. Đây không phải đơn thuần là sự thay đổi vị trí,
mà là sự thay đổi cả về lượng và chất trong cơ cấu ngành nông nghiệp trên cơ
sở cơ cấu hiện có, theo hướng cải tạo cơ cấu cũ lạc hậu, chưa phù hợp với
thực tiễn để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến hoàn thiện và phù hợp hơn…
Việc phân tích mục tiêu, chủ thể, lực lượng, nội dung chuyển dịch sẽ làm
rõ hơn quan niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở huyện
Gia Lâm, thành phố Hà Nội hiện nay.
Mục tiêu chuyển dịch: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp bao gồm mụ c tiêu tổ ng quá t và mụ c tiêu cụ thể . Theo đó mụ c

23


tiêu tổ ng quá t xây dựng phát triển ngành kinh tế nông nghiệp theo hướng
công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phát triển ngành kinh tế nông nghiệp phù
hợp với đặc điểm, phát huy tối đa khả năng và thế mạnh của vùng. Mụ c
tiêu tổ n g quá t đó được thực hiện thông qua các mụ c tiêu cụ thể : Một là,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa và
mở rộng phân công hợp tác. Hai là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp theo hướng chuyển từ độc canh thuần nông sang đa canh đa dạng
hóa ngành nghề. Ba là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
hướng chuyển từ sản xuất phân tán, sang sản xuất tập trung, chuyên môn
hóa, phát huy lợi thế. Bốn là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
theo hướng chuyển từ kỹ thuật thủ công lạc hậu, sản xuất theo tập quán
thói quen cũ sang cơ cấu kinh tế dựa trên kỹ thuật công nghệ tiên tiến
hơn. Năm là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng động
viên tối đa nguồn lực cho phát triển nông nghiệp.
Về chủ thể: Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
ở huyện Gia Lâm đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp và
sự quản lý của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến thành phố Hà Nội. Tuy
nhiên, chủ thể trực tiếp lãnh đạo, quản lý là cấp ủy, tổ chức đảng và chính
quyền các cấp của huyện Gia Lâm, trong đó cấp ủy, tổ chức đảng các cấp của
Huyện có vai trò đề ra chủ trương, biện pháp chuyển dịch; chính quyền các
cấp của Huyện xác định mục tiêu, kế hoạch chuyển dịch và tổ chức thực hiện.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo, quản
lý của cấp ủy đảng và chính quyền các cấp của huyện Gia Lâm đối với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở huyện Gia Lâm phải trên
cơ sở nhận thức các quy luật kinh tế khách quan. Ngoài chủ thể lãnh đạo quản
lý, lực lượng tham gia chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở
huyện Gia Lâm còn bao gồm lực lượng thuộc các thành phần kinh tế của
Huyện và các lực lượng thuộc các thành phần kinh tế ngoài Huyện ở trong

24


nước và nước ngoài. Tuy nhiên, ở huyện Gia Lâm hiện nay, các lực lượng,
các thành phần kinh tế và các tầng lớp nhân dân trong huyện là lực lượng,
nguồn nhân lực chủ yếu tham gia chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp của Huyện.

Về phương thức chuyển dịch: Phương thức chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp được tiến hành thông qua việc tổ chức thực hiện các chủ
trương của lãnh đạo, chính quyền địa phương trên cơ sở các quy dịnh hiện
hành về cơ chế chính sách. Dựa trên các cơ chế chính sách, chính quyền các
cấp điều chỉnh hướng phát triển, quy mô hoạt động của ngành sao cho phù
hợp với mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể về chuyển dịch cơ cấu ngành
nông nghiệp đã được xác định dựa trên các điều kiện kinh tế khách quan và
trình độ phân công lao động xã hội hiện đạt được ở thời điểm đó.
Trong điều kiện của kinh tế thị trường, dù đó là kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
không chỉ diễn ra dưới những tác động chủ động tích cực của các chủ thể như
đã trình bày ở trên, mà nó còn chịu sự chi phối ở mức độ nhất định bởi những
tác động của những quy luật kinh tế thị trường. Lưu ý rằng, khi tiến hành các
hoạt động chủ động, tích cực nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế hiện hành, các chủ
thể tác động đã phải nhận thức và có sự vận dụng các yêu cầu khách quan của
các quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Song, có một thực tế là, một
quyết định quản lý được đưa ra và vận hành trong thực tiễn bao giờ cũng có
độ trễ nhất định. Trong khi sự vận động của các lực lượng sản xuất xã hội bao
giờ cũng mang tính năng động trước những tác động của các quy luật kinh tế.
Vì vậy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp còn diễn ra theo
hướng "tự chuyển dịch" thông qua cơ chế thị trường. Mặc dù sự "tự chuyển
dịch" không phải là xu hướng chủ đạo, nhưng các nhà lãnh đạo, quản lý và
điều hành kinh tế phải nhận thức được xu hướng đó, để có những giải pháp
thực tiễn phù hợp.

25


* Nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở huyện
Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp nói riêng được tiến hành bởi các hoạt động có chủ đích của con
người dựa trên các cơ sở khoa học nhất định. Bởi vậy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành nông nghiệp của huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội bao gồm
các nội dung sau:
Nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở huyện
Gia Lâm, thành phố Hà Nội gồm:
Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong nông nghiệp ở huyện
Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong nông nghiệp ở huyện Gia Lâm
thành phố Hà Nội có nội dung cụ thể, đó là chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp – lâm
nghiệp - thủy sản, chuyển dịch cơ cấu kinh tế cây trồng vật nuôi, chuyển dịch cơ
cấu giá trị sản xuất trong chế biến sản phẩm và dịch vụ lĩnh vực nông nghiệp..
Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp Huyện tăng trưởng bình quân đạt
1,66%/năm. Diện tích trồng lúa giảm dần, năm 2011 là 5.900 ha/năm, năm
2014 là 5.373 ha/năm (giảm 527 ha gieo trồng) [7, tr 20]. Diện tích rau sản
xuất theo quy trình rau an toàn ngày càng tăng. Chăn nuôi gia súc, gia cầm,
thủy sản tiếp tục được duy trì và phát triển; Nuôi trồng thủy sản theo hướng
thâm canh với tổng diện tích đạt 453ha [7, tr 21].
Cơ sở của cơ cấu ngành là sự phân công lao động xã hội; phân công lao
động xã hội càng sâu sắc thì cơ cấu ngành càng được phân chia đa dạng. Tiền đề
của sự phân công lao động trong nông nghiệp là năng suất lao động nông nghiệp.
Trước hết, năng suất lao động của khu vực sản xuất lương thực phải đạt tới một
giới hạn nhất định, đảm bảo đủ lương thực cần thiết cho xã hội. Đây là cơ sở
quan trọng cho sự phân công giữa những người sản xuất lương thực với những
người chăn nuôi và các ngành nghề khác trong nông nghiệp.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng trong nông nghiệp ở huyện
Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng trong nông

26



×