Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Thuyết minh về Tiền Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 42 trang )

BÀI THU HOẠCH:
CHƯƠNG TRÌNH ĐỊA
PHƯƠNG
1
Tổ thực hiện: tổ 2
Trường: Thực
Nghiệm Sư Phạm.
Lời ngỏ
2
I. S ơ lược
Tiền Giang nằm trong tọa độ 105°50’–106°45’ đông và 10°35’-10°12’ bắc.
Phía bắc và đông bắc giáp tỉnh Long An và thành phố Hồ Chí Minh, phía tây
giáp Đồng Tháp, phía nam giáp Bến Tre và Vĩnh Long, phía đông giáp biển
Đông.Tiền Giang nằm trải dọc trên bờ Bắc sông Tiền (một nhánh của sông
Mê Kông) với chiều dài 120km.Tiền Giang có địa hình tương đối bằng phẳng,
đất phù sa trung tính, ít chua dọc sông Tiền, chiếm khoảng 53% diện tích
toàn tỉnh, thích hợp cho nhiều loại giống cây trồng và vật nuôi. Bờ biển dài
32km với hàng ngàn ha bãi bồi ven biển, nhiều lợi thế trong nuôi trồng các
loài thủy hải sản (nghêu, tôm, cua...) và phát triển kinh tế biển. Khí hậu Tiền
Giang chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa khô bắt đầu từ tháng 12 và mùa mưa từ
tháng 5. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 27°C; lượng mưa trung bình
hằng năm 1,467 mm.
3
Tiền Giang có quốc lộ I chạy qua
với 77 km, phía Đông có 32 km bờ
biển, là cửa ngõ thông ra biển Đông,
ra đường giao thương quốc tế với 2
cửa sông lớn là Soài Rạp và sông
Tiền. Thành phố Mỹ Tho vừa là
trung tâm chính trị kinh tế văn hoá
của tỉnh, vừa là một trung tâm giao


lưu kinh tế văn hoá quan trọng trước
đây của đồng bằng sông Cửu Long.
Tỉnh Tiền Giang được hình thành từ tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và
thành phô Mỹ Tho từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nằm cách
thành phố Hồ Chí Minh 70km về phía Tây - Nam, giáp với các tỉnh Long An,
Đồng Tháp, Bến Tre, Vĩnh Long. Tiền Giang là cửa ngõ của miền tây Nam Bộ
và là địa bàn trung chuyển, giao lưu khối lượng lớn nông sản, hàng hóa của
miền Tây với thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Đông Nam Bộ, thuộc
một trong những tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, được thiên nhiên ưu đãi về
nhiều mặt. Tiền Giang có diện tích tự nhiên 2.339,22 km2, nằm ở bờ Bắc và
dài 120 km của sông Tiền đổ ra biển Đông với địa hình bằng phẳng, gần 60%
diện tích là đất phù sa màu mỡ, thích hợp với nhiềi loại cây trồng.
Do địa thế trải rộng dọc sông Tiền từ biển Đông vào đến Đồng Tháp
Mười nên điều kiện tự nhiên khá phong phú và đa dạng. Nhìn tổng quát, địa
bàn tỉnh Tiền Giang có các đặc điểm chung như sau: Tỉnh Tiền Giang có 9
đơn vị hành chính, gồm có thành phố Mỹ Tho, thị xã Gò Công và bảy huyện.
Dân số có 1.750.000 người, với mật độ 714 người/km2, cao nhất trong khu
vực.
4
II. Lịch sử
Tỉnh Tiền Giang vào những thế kỷ đầu Công Nguyên thuộc vương quốc Phù
Nam. Định chế chính trị ban đầu của Phù Nam còn mang nhiều tính chất thị
tộc. Triều đại thứ nhất theo truyền thuyết là sự kết hợp giữa hai thị tộc: Mặt
trăng của Liễu Diệp và Mặt trời của Hỗn Điền. Sau đó vùng đất Tiền Giang
thuộc quyền sở hữu của người Chân Lạp. Vào đầu thế kỷ XVII, Jayajettha II
lên ngôi ở Chân Lạp. Để chấm dứt việc thuần phục nước Xiêm, ông tìm đến
chúa Nguyễn tạo ra một thế lực và liên minh mới đối trọng với nước Xiêm
qua cuộc hôn nhân với công chúa Ngọc Vạn.Nhờ sự hỗ trợ của chúa
Nguyễn, Batom Reachea trở thành vua Chân Lạp. Trong lúc châu thổ sông
Cửu Long gần như hoang vu, Batom Reachea cho người Việt định cư, được

quyền sở hữu đất đai mà người Việt khai phá.
Từ thế kỷ XVII, vùng Tiền Giang được người Việt, từ miền Trung và miền
Bắc, trong đó phần lớn là từ vùng Ngũ Quảng, đến khai hoang và định cư.
5
Mảnh đất này, ngay từ những thế kỷ đầu Công Nguyên, cách chúng ta gần
2000 năm đã từng tồn tại vương quốc cổ đại: Vương quốc Phù Nam. Ít ai
ngờ rằng, vương quốc cổ đại ấy đã từng tạo ra một nền thương nghiệp rất
thịnh đạt, giao thương với nhiều nước trên thế giới. Trên địa bàn Tiền Giang,
có nhiều địa điểm còn lưu lại dấu tích văn hóa của vương quốc ấy. Đó là
những vỉa gạch cùng với những vật dụng bằng đá, kim loại, đồ gốm, tượng
thờ… ở nhiều địa điểm, dấu tích của những kiến trúc cổ như đền, tháp, trung
tâm tôn giáo, khu cư trú, khu mộ táng v.v
Vùng đất Tiền Giang cũng phải trải qua rất nhiều cuộc kháng chiến khốc
liệt. Trong suốt thời kháng chiến, Tiền Giang cũng có tiếng vang không chỉ
trong nước mà còn có tiếng vang ở nhiều châu lục, như trận Rạch Gầm -
Xoài Mút tiêu diệt gần 5 vạn quân Xiêm cùng mưu đồ xâm lược của chúng,
vào ngày 20 tháng 1 năm 1785; hoặc như trận Giồng Dứa ngày 25 tháng 4
năm 1947, đánh vào đoàn xe của chính phủ bù nhìn Lê Văn Hoạch, nước
Pháp phải để quốc tang; hoặc như trận Ấp Bắc ngày 2 tháng 1 năm 1963, bẻ
gãy các chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận, bủa lưới phóng lao là chiến
thuật tân kỳ của Mỹ. Chỉ một trận Ấp Bắc đủ để các nhà quân sự Mỹ nhận ra
chiến lược “chiến tranh đặc biệt” sẽ sụp đổ, chỉ một trận như thế đủ làm rung
chuyển lầu Năm Góc.
Mảnh đất ấy, vị trí và vị thế ấy, đã đặt Tiền Giang vào những cuộc đối
đầu quyết liệt với các kẻ thù xâm lược, vì thế mà ở đây có những tên đất, tên
sông đã đi vào huyền thoại: Rạch Gầm - Xoài Mút tiêu diệt quân Xiêm xâm
lược, Đám Lá Tối Trời của nghĩa quân Trương Định; Long Hưng trong Khởi
nghĩa Nam kỳ; Cổ Cò, Giồng Dứa, Kinh Bùi trong kháng chiến chống Pháp;
Ấp Bắc, Ba Rài, Đồng Sơn, Vành đai Bình Đức, đập Ông Tải, Ngã Sáu…
trong kháng chiến chống Mỹ. Biết bao anh hùng liệt sĩ mà tên tuổi còn sống

mãi trong ký ức mọi người. Có những anh hùng mà chỉ nhắc tên là mọi người
Việt Nam đều biết, như Trừ Văn Thố, Lê Thị Hồng Gấm v.v…
6
Không chỉ thế mà vùng đất Tiền Giang còn có những vị anh hùng như
Trương Định - người đầu tiên của Việt Nam dấy binh khởi nghĩa, Thủ khoa
Nguyễn Hữu Huân - nhà thơ bất khuất ba lần dấy binh, ba lần bị bắt, trước
cái chết vẫn ung dung làm bài thơ tuyệt mạng; như Trương Quyền, Tứ Kiệt,
Âu Dương Lân, Đốc binh Kiều cùng nhiều anh hùng khác làm rạng rỡ quê
hương Tiền Giang. Phải ở một vị trí thế nào đó, quan trọng đến mức nào đó
trong cảnh quan chung của toàn vùng mới tạo ra được những con người như
thế. Phải chăng, có một mạch ngầm của văn hóa chảy qua hàng chục thế kỷ
để có một diện mạo văn hóa ngày nay, mà nhiều thế hệ người Việt đã ra sức
tạo dựng.
• Thời kỳ sơ sử ở Tiền Giang qua các di chỉ tiêu biểu
1. Di tích Gò Thành
Thuộc địa phận ấp Tân Thành, xã Tân Thuận Bình, huyện Chợ Gạo, cách
Thành phố Mỹ Tho khoảng 12 km về hướng đông - đông bắc được
L.Malleret, một nhà nghiên cứu người Pháp phát hiện năm 1941
Di tích nằm trên một gò đất sét pha cát, có chiều cao 3,00m so với mực
nước biển. Diện tích rộng khoảng 10.000m
2
. Các năm 1988, 1989 và 1990,
qua 2 đợt khai quật đã phát hiện 3 loại di chỉ khác nhau, gồm: di chỉ cư trú, di
chỉ kiến trúc và di chỉ mộ táng.
Di chỉ cư trú
Ở độ sâu 1,50m - 3,00m tại gò và độ sâu 0,50m - 2,00m tại các thửa ruộng
phía tây và tây nam gò, có rất nhiều mảnh gốm cổ thuộc loại hình Óc Eo với
mật độ dày đặc, gồm gốm tô màu đỏ nhạt hoặc nâu, hoặc không tô màu, có
hoa văn trang trí hoặc không hoa văn, một số vòi bình, nhiều di cốt bò, heo,
xương cá, nhiều dấu vết than tro, vỏ trái cây cùng với một số cọc gỗ được

gia công, một số chì lưới bằng đất nung có hình quả lê, dọi xe chỉ bằng gốm;
nắp ấm nhỏ hình bánh xe, hình trái mận v.v… Phân tích bằng phóng xạ
cácbon C14 một mẫu hiện vật có niên đại 1585
±
80BP (tức thế kỷ IV sau
Công Nguyên).
7
Di chỉ kiến trúc
Chủ yếu là kiến trúc gạch nằm ở giữa gò. Những nền gạch hầu như không
còn nguyên vẹn. Có 3 nền gạch có dạng những “căn phòng” hình tứ giác,
trong đó, có một kiến trúc có bình diện hình chữ nhật, hướng bắc - nam, có
lối đi vào ở mạn Nam, bên trong có một tường gạch ngăn thành 2 phần bằng
nhau, phần phía nam là một khối đá kiến trúc hình chữ nhật có chốt ở 2 đầu,
có bệ thờ bằng đá đục lỗ ở giữa; ở phía bắc có dấu vết gạch vỡ xếp thành
hình tròn, đường kính 0,90m ở độ sâu 1,00m - 1,50m (tính từ mặt đường
móng).
Ngoài 3 kiến trúc có dạng căn phòng được nêu trên, còn có một kiến trúc
giống như con đường có “lòng” và có “lề” và một kiến trúc có rãnh tựa như
“đường thoát nước”.
Tại các kiến trúc gạch, còn phát hiện cột đá mang nhiều hoa văn trang trí, 6
diềm ngói tạc hình lá đề theo hình lòng máng của ngói ống. Lá đề đắp nổi
hình Phật ngồi thiền. Một số gạch hình thang, một số gạch bị cắt khúc hoặc
cắt góc; có kích cỡ khác nhau: 25,5cm x 14cm x 5,5cm; 24cm x 15cm x 6cm;
24cm x 14cm x 5,5cm.
Tại di chỉ và gần di tích còn phát hiện 1 tượng đá nam thần (mất đầu và
chân), một tượng Visnu còn nguyên vẹn, 1 tượng Ganesa, tất cả đều bằng
đá, một mảnh đá có minh văn Phạn ngữ (Sanskrit).
Các dấu vết kiến trúc và hiện vật được phát hiện cho thấy đây là những
kiến trúc tôn giáo. Việc xác định các công trình kiến trúc (đền hoặc tháp)
cùng các tính chất và chức năng của nó vẫn còn là ẩn số đối với các nhà

nghiên cứu.
Di chỉ mộ táng: Qua 2 đợt khai quật đã phát hiện 12 mộ xây gạch, hình
vuông, mỗi cạnh từ 1,80m - 2,00m, loại không có “gò nổi” và từ 2,00m -
3,00m, loại có “gò nổi” nằm theo hướng đông bắc và phân bố không đều trên
mặt gò, trong đó có những ngôi mộ phần trên được ốp gạch để tạo thành “gò
nổi” cao khoảng 0,60m, rộng từ 100m
2
- 200m
2
, có những mộ phần trên
không ốp gạch nên không tạo thành “gò nổi”.
8
Huyệt sâu từ 1,50m - 3,00m. Lòng huyệt được lấp bằng những lớp đá cuội,
cát màu xám và gạch vỡ vụn. Có 3 mộ sát đáy huyệt được xây gạch hoặc
xếp lên 4 khúc gỗ, bên trong có cát, tro và vàng lá hình vuông hoặc hình
bông hoa nhiều cánh có chạm hình voi ở những tư thế khác nhau. Một ngôi
mộ khác lại chôn hiện vật ở 4 góc huyệt.
Hiện vật tìm thấy tại di tích Gò Thành rất phong phú, với 196 hiện vật bằng
vàng (nguyên và vỡ), trong đó có 111 hiện vật được chôn trong các ngôi mộ;
6 hiện vật bằng đồng, trong đó có 2 nhẫn, 1 xập xoã, 1 ống đồng nhỏ, 2
mảnh đồng hình thang; 22 hiện vật đá, (đáng kể là 1 pho tượng Visnu còn
nguyên vẹn, một tượng nam thần chỉ còn phần thân, 1 tượng Ganesa,1 hạt
đá quí màu tím xanh và trắng trong, 1 Yoni và 1 mảnh đá có minh văn Phạn
ngữ); hàng ngàn hiện vật gốm, trong đó có một số vòi bình, 6 mảnh gốm có
hình lá đề, số còn lại thì phần bị vỡ khó nhận dạng.
Qua hiện vật và 5 mẫu được phân tích bằng phóng xạ cácbon C14, bước
đầu cho phép các nhà khoa học xác định vào khoảng từ thế kỷ IV - VIII sau
Công Nguyên, người Phù Nam còn chịu ảnh hưởng nhiều của Hinđu giáo.
2. Di tích Chùa Bà Kết
Được phát hiện năm 1988, qua một cuộc khảo sát khảo cổ học, thuôc địa

phận xã Bình Phan, huyện Chợ Gạo.
Di tích nằm trên gò rộng khoảng 3.000m
2
, cao khoảng 5,00m so với mặt
ruộng chung quanh. Giữa gò xuất lộ những vỉa gạch dạng Óc Eo. Tại đây có
một miếu nhỏ được nhân dân thờ tượng Visnu và 2 bàn Visnu bằng đá.
3. Di tích Giồng Bà Phúc
Thuộc địa phận xã Song Bình, huyện Chợ Gạo. Nhiều dấu vết kiến trúc cổ
đã lộ lên khỏi mặt đất. Tại đây, dân địa phương phát hiện 1 bình gốm Óc Eo
còn nguyên vẹn.
9
4. Di tích Trường Sơn A
Thuộc địa phận Ấp 1, xã Lương Hòa Lạc, huyện Chợ Gạo. Trong cuộc điều
tra khảo cổ học năm 1988, đã tìm được 1 bình gốm, 1 tượng thần Ganesa
và một số mảnh gốm vỡ. Đào thám sát chưa thấy có tầng văn hóa vào thời
đại Óc Eo.
5. Di tích Gò chùa Bửu Tháp
Thuộc địa phận ấp Tân Phong, xã Tân Hội, huyện Cai Lậy, trên một gò đất
rộng hơn 1.000m
2
, cao khoảng 0,50m so với mặt đất chung quanh. Hiện có
1 ngôi chùa nhỏ có tên là Bửu Tháp.
Theo nhân dân trong quá trình canh tác thường gặp những vỉa gạch lớn ở
độ sâu 0,40m, loại gạch thường gặp trong các kiến trúc thời kỳ Óc Eo - hậu
Óc Eo, và phát hiện 1 tượng nữ thần nhỏ bằng sa thạch màu xám xanh, bị
mất đầu và tay chân, chỉ còn phần thân cao 10cm, thân tròn, ngực nở, mang
đặc điểm tượng thời hậu Óc Eo.
6. Di tích Đìa Tháp
Thuộc địa phận ấp 4, xã Mỹ Thành Bắc, huyện Cai Lậy, trong vùng trũng
của Đồng Tháp Mười. Thế đất tại di tích cao hơn vùng trũng chung quanh từ

0,30m - 0,40m. Hiện có 1 ngôi chùa mới dựng, gọi là chùa Trường Tháp.
Quanh chùa có nhiều gạch nguyên và vỡ, màu đỏ nhạt hoặc xám đỏ. Gạch
cổ được chất thành đống hoặc lát đường đi. Số gạch này được xáng (tàu
cuốc) múc từ lòng Đìa tháp gần đó, ở độ sâu 0,60m, trên chiều dài 1km dọc
theo bờ kinh. Cùng với gạch có số lượng lớn, còn có nhiều mảnh gốm thuộc
loại hình Óc Eo nằm rải rác, 1 Linga, 1 Pesani, một phần bệ thờ và 3 đoạn
cột đá kiến trúc.
Các hiện vật bằng đá được lưu giữ tại nhà truyền thống huyện Cai Lậy, có
đặc điểm tương tự những di vật cùng loại ở các di tích Đá Nổi (Kiên Giang),
Ba Thê (An Giang), có niên đại từ thế kỷ VI -VII sau Công Nguyên.
10
7. Di tích Gò Tân Hiệp
Thuộc địa phận thị trấn Tân Hiệp, huyện Châu Thành (nay thuộc khu làm
việc của Huyện uỷ) phân bố trên một gò cao khoảng 5-7m so với chung
quanh, diện tích khoảng 3.000m
2
.
Đây là di tích kiến trúc có qui mô được xem là lớn nhất ở Tiền Giang. Gò
nhân tạo này được bó nền (bọc nền) bằng gạch có hình vuông với chiều cao
khoảng 4,00m. Gạch bó nền có kích thước giống gạch tại di tích Gò Thành
(Chợ Gạo). Hiện nay còn 1 tảng đá lớn rộng khoảng 1,50m
2
nằm bên ngoài
thành gạch cũ.
Trên mặt gò, các kiến trúc đã bị sụp đổ. Thực dân Pháp sử dụng độ cao
của gò để xây đồn bót. Thời Mỹ xâm lược cũng xây dựng các công trình
phục vụ quân sự tại đây. Nay thành gạch không còn vết tích cũ. Qua khảo
sát, có thể đoán định di tích là kiến trúc trung tâm có liên quan đến tôn giáo
vào thời kỳ Óc Eo muộn (thế kỷ thứ VII-XIII).
8. Di tích Gò Gạch

Thuộc địa phận xã Tân Lý Tây, huyện Châu Thành, nằm trên một gò cao
của giồng Tân Hiệp, có diện tích khoảng 1.000 m
2
. Hiện một ngôi chùa có
tên Kim Thạch Bửu Tự được xây cất khá lâu trên di tích. Tại đây, vẫn còn
những nền gạch lộ trên mặt đất. Nhiều viên gạch của kiến trúc cổ đã được
mang đi lát đường hoặc xây nền chùa.
Trong sân chùa còn nhiều đá cuội, một số tảng đá bị vỡ, nhiều mảnh tượng
và bệ tượng vỡ. Nhiều khả năng di tích là kiến trúc tôn giáo vào thời kỳ Óc
Eo muộn.
11
9. Di tích Gò Sau
Thuộc địa phận ấp Tân Phú, xã Tân Lý Tây, huyện Châu Thành, nằm trong
khu vực đình Tân Lý Tây, phía trước Uỷ ban Nhân dân xã. Di tích xuất lộ
nhiều nền gạch gần đình và các vỉa gạch nằm ở độ sâu 1,00m cách đình
20,00m về phía tây nam. Đã phát hiện 1 tượng Visnu bán tròn, 1 rìu đá, một
số mảnh vỡ của bình cổ, 1 bàn nghiền bị vỡ. Khảo sát các loại gạch cho
thấy nhiều khả năng di tích ở vào thời kỳ Óc Eo muộn.
10. Di tích Thân Hòa
Thuộc địa phận ấp Thân Hòa, xã Thân Cửu Nghĩa, huyện Châu Thành,
thuộc giồng Tân Hiệp, trên diện tích rộng hàng chục ngàn mét vuông. Tầng
văn hóa cổ có độ sâu từ 1,00m - 2,50m tập trung ở chùa Cầu Kè - một gò
nổi cao hơn trên giồng cát pha sét ở Thân Hòa.
Nhiều vỉa gạch xuất lộ trên đường đi cũng như sân, vườn của các gia đình
trong ấp. Đã phát hiện một số rìu đá, 1 chì lưới bằng đất nung, 1 núm đậy
lớn khá lạ mắt, một số đá cuội; nhiều gạch thuộc văn hóa Óc Eo được người
địa phương đem lót đường hoặc xây nhà. Trong một lần dùng xáng đào
kinh, đã phát hiện nhiều mảnh gốm tô màu và không tô màu, nhiều bàn
nghiền bằng đá, chày đá và vòi bình. Tại chùa Cầu Kè hiện có một tảng đá
lớn có lỗ ở giữa được sử dụng làm đá thờ.Đây là di tích được phân bố trên

diện tích rộng, cần tiếp tục khảo sát, khai quật và nghiên cứu. Bước đầu,
qua hiện vật bằng đá và gốm cùng các loại gạch cho thấy có nhiều khả năng
di tích ở vào thời kỳ Óc Eo muộn.
12
III. Cảnh Quan – Nét Đặc Trưng
Tiền Giang là tỉnh có nhiều tiềm năng về du lịch. Hàng năm, lượng du khách
đến đạt hơn 331.500 lượt. Thế mạnh của du lịch Tiền Giang chủ yếu nhờ vào
các di tích văn hóa lịch sử và sinh thái như: Gò Thành (thế kỷ 1 đến thế kỷ 6
sau công nguyên); di tích lịch sử Rạch Gầm-Xoài Mút, di tích Ấp Bắc, lũy
Pháo Đài; nhiều lăng mộ, đền chùa: lăng Trương Định, lăng Hoàng Gia, lăng
Tứ Kiệt, chùa Vĩnh Tràng, chùa Bửu Lâm, chùa Sắc Tứ... các điểm du lịch
sinh thái mới được tôn tạo như: vườn cây ăn quả ở cù lao Thới Sơn, Ngũ
Hiệp, Trại rắn Đồng Tâm, khu sinh thái Đồng Tháp Mười, biển Gò Công.
• Nhưng nói Tiền Giang thì ngừơi ta sẽ nghĩ ngay đến một di tích
lịch sử cổ và nổi tiếng, đó chính là : Chùa Vĩnh Tràng
Chùa tọa ở xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ
Tho, tỉnh Tiền Giang. Chùa do ông bà Bùi
Công Đạt xây dựng vào khoảng đầu thế
kỷ XIX. Đến năm 1849, Hòa thượng Huệ
Đăng ở chùa Giác Lâm (Gia Định) về trụ
trì đã tổ chức xây dựng thành ngôi đại tự
và đặt tên là chùa Vĩnh Tràng. Đến năm 1907, Hòa thượng Chánh Hậu đã
cho trùng kiến ngôi chùa, pha hòa cả nét kiến trúc Aá-Âu. Chánh điện được
bài trí trang nghiêm, chùa còn bảo tồn nhiều tượng cổ, bao lam chạm trổ
công phu. Bộ Thập bát La hán thượng kỳ thú là những tác phẩm tượng tròn
độc đáo được các nghệ nhân Nam Bộ tạc vào những năm đầu thế kỷ XX.
Chùa hiện đặt văn phòng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Tiền Giang. Vĩnh Tràng là
ngôi chùa danh tiếng bậc nhất ở miền Nam. Chùa đã được Bộ Văn hóa công
nhận là Di tích lịch sử - văn hoá quốc gia.


Sau năm 1849 Hòa thượng Huệ Đăng, người trụ trì ngôi chùa đầu tiên đã đặt
hiệu chùa là Vĩnh Trường, với ngụ ý ước cho chùa được "Vĩnh cửu đối sơn
hà, trường tồn tề thiên địa". Người dân vùng lân cận đến nay vẫn quen gọi là
chùa Vĩnh Tràng.
13
Chùa Vĩnh Trường nằm về hướng đông bắc thành phố Mỹ Tho, ven tỉnh lộ
22, tọa lạc trên địa phận ấp Mỹ An, xã Mỹ Phong - một xã ven thành phố Mỹ
Tho, tỉnh Tiền Giang.
Chùa được xây cất do công trình kiến trúc của nhiều người, trong nhiều năm,
là một chùa lớn, được kiến trúc khá tinh vi, đa dạng theo lối kiến trúc tổng
hợp Á - Âu (Pháp, La Mã, Thái, Miên, Chàm). Tuy nhiên, chùa vẫn mang đậm
nét lối kiến trúc điêu khắc dân tộc.
Chùa Vĩnh Trường được xây cất năm 1849, trước đó, chùa mới chỉ là một cái
am nhỏ, mái lá vách đất, quang cảnh hoang vu, do ông Bùi Công Đạt kiến
tạo. Năm 1849, hòa thượng Huệ Đăng khởi tạo xây chùa, ngoài việc lo kinh
kệ, Huệ Đăng còn gánh đất đắp nền cùng với nhiều đạo hữu đến giúp. Năm
1864 Huệ Đăng mất trong lúc công việc chưa hoàn tất, ông Huệ Đăng không
có đệ tử kế truyền nên bổn đạo thỉnh ông Minh Đề làm trụ trì. Năm 1878,
Hòa thượng Minh Đề tịch hòa thượng Quản Ân thay thế được một thời gian
rồi đi du học ở Thái Lan. Bổn đạo thỉnh sư Minh Truyện về chủ trì được một
thời gian rồi cũng chuyển đi nơi khác. Vì chùa
không có người chủ trì nên phật tử trong bổn
đạo họp nhau lại bàn bạc và nhất trí đến hội ý
hòa thượng Tổ Từ Trung, hoà thượng Trung
(chùa Bửu Lâm, Mỹ Tho) đến thỉnh hòa thượng
Trà Chánh Hậu (hiệu là Quảng Ân) về trụ trì, tiếp
tục công việc của hòa thượng Huệ Đăng.
Năm 1907, hòa thượng Trà Chánh Hậu bắt đầu trùng tu lại ngôi chùa, tầng 1
của gian chánh điện được xây cất. Hòa thượng Lê Ngọc Xuyên, pháp danh
Tục Thông, tự Tâm Liễu, pháp hiệu An Lạc là đệ tử kế thế của hòa thượng

Quảng Ân lên thay. Đến năm 1930, ông lo chỉnh trang nóc chùa và mặt dựng
14
bốn phía chùa. Cuối 1930, chùa được hoàn tất thêm 3 gian và tầng 2 của
gian chánh điện. Năm 1933, ông cho xây 2 cổng Tam quan và xây rào xung
quanh. Ngày 22-6-1939 hòa thượng qua đời, thọ 67 tuổi.
Chùa Vĩnh Trường được kiến trúc theo
dạng chữ Quốc, gồm 4 gian nối tiếp nhau
(tiền đường, chánh điện, nhà tổ và nhà
hậu) rộng 14.000 m2, dài 70m, rộng 20m,
xây bằng xi măng và gỗ quý, nền đúc cao
1m, xung quanh xây tường vững chắc.
Phía trong gian chánh điện và nhà tổ làm theo kiểu Trung Quốc nhưng vẫn
giữ được nét kiến trúc Việt Nam, nối hai gian này là một khoảng nhỏ có hòn
non bộ ở giữa, hòn non bộ này phác họa lại cảnh thiên nhiên sinh động mang
bản sắc Việt Nam, điều đó chứng tỏ rằng tổ tiên ta nhễ muốn đưa thiên nhiên
vào tận nhà. Đúng trên hòn non bộ nhìn về mặt sau gian chánh điện, hai bên
nhà cầu, mặt trước nhà tổ, ta sẽ thấy lối kiến trúc Rôma với những hàng đá
hoa màu sắc sặc sỡ của Pháp được trang trí trên thành nóc, trên những cột
xây bằng xi măng kiểu cách.
Đi vào từng gian ta sẽ thấy một màu vàng óng ánh được thếp rên các hình
chạm, trên các tượng phật. Đáng chú ý hơn cả là những đôi long trụ trong
gian chánh điện, đó là những cây cột tròn to, bằng gỗ quý kiến trúc theo kiểu
"thượng thu hạ cách".
Trước chùa có 2 cổng Tam quan kiểu võ rất tinh xảo, xây theo kiểu cổ lầu để
hình hòa thượng Lê Ngọc Xuyên đúng trên bậc đúc bằng xi măng, cửa ngõ
này cẩn toàn bằng đồ sứ có giá trị (sứ Trung Hoa, Việt Nam) in hình long,
lân, quy, phượng. Canh, mục, ngư tiều, mấy câu đối cũng cẩn bằng miếng
chai nổi mầu sắc óng ánh trông rất đẹp.
Tóm lại, bằng những vất liệu gỗ, những nhà kiến trúc, nhà điêu khắc cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã chạm khắc những hình tượng mang mầu sắc tôn

giáo huyền ảo, thoáng đượm vẻ vương quyền, qua đó ta thấy được những
15
công trình điêu khắc của người xưa - qua những hình tượng sống động ấy ta
thấy rõ cuộc sống vui tươi và ý chí vươn lên của dân tộc Việt Nam - một dân
tộc tự nhận mình là dòng dõi con rồng cháu tiên thể hiện qua chạm khắc hình
tượng tứ linh.
Chùa Vĩnh Trường được trang bị trên 60 tượng phật đúc bằng gỗ, đồng, đất
nung, xi măng, đa số tượng bằng gỗ, tất cả được thếp vàng óng ánh và được
tạo vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Riêng 3 tượng đồng (Di đà, cao 98
cm, Quan Âm và Thế Chí cao 93 cm) được tạo tác giữa thế kỷ XIX.
Bên cạnh những pho tượng, hiện vật còn lại trong chùa này phải kể dến là
Đại Hồng Chung mang tên Pháp Bảo Chuông cao 12 cm, nặng khoảng 150
kg được đúc giữa tháng 5 năm 1854 trên đó khắc chữ "Vĩnh Trường Tự".
Hiện nay Pháp Bảo Chuông không sử dụng được, bị hỏng do nằm lâu dưới
nước sau thời gian thất lạc.
Ngoài ra trong chùa hiện nay còn hơn 20 bức tranh sơn thủy rất giá trị. Tuy
ảnh hưởng tranh vẽ Trung Quốc nhưng những bức vẽ này mang đậm nét
dân gian Việt Nam, in hình "Mai, lan, cúc, trúc" in hình phong cảnh Việt Nam
rất nên thơ. Đó là công trình của Long Giang cư sĩ phác họa năm 1904.
Điều đáng chú ý là những bức hoành, câu đối trong chùa được điêu khắc
chữ nổi thếp vàng như những chữ "Hoàng kim bửu điện" được khắc từ 1851
đến nay vẫn còn khá đẹp...
Từ trước tới nay, ngôi chùa vẫn được bảo quản tốt, bổn đạo khắp nơi vẫn
thường đến viếng, góp tiền của cho việc tu sửa chùa, các tu sĩ trong chùa
vẫn chú trọng công tác bảo vệ chùa.
16

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×