Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Tín dụng đầu tư phát triển thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.7 KB, 45 trang )

Mục lục
A.Lời nói đầu………………………………………………………………

A:LỜI NÓI ĐẦU
Xu thế hội nhập kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng như hiện nay đã đặt
nền kinh tế nước ta trước nhiều cơ hội và không ít thử thách. Yêu cầu đặt ra là cần
phải đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Để thực hiện
được nhiệm vụ đó cần phải có các điều kiện về cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng kinh
tế xã hội phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế của đất nước còn nhiều khó khăn,
ngân sách nhà nước hạn hẹp thì hình thức tín dụng đầu tư phát triển tỏ ra rất ưu
việt trong việc huy động và quản lý nguồn lực của nhà nước cho đầu tư phát triển.
Thông qua hình thức tín dụng đầu tư phát triển nguồn vốn huy động cho
đầu tư phát triển đa dạng hơn, bền vững hơn không những từ nguồn vốn ngân sách
mà còn thu hút được một khối lượng lớn vốn nhàn rỗi trong xã hội.
Là công cụ điều tiết vĩ mô của Chính phủ đối với nền kinh tế hoạt động tín
dụng đã quản lý và sử dụng nguồn vốn ưu đãi hiệu quả hơn, phù hợp với các ưu
tiên phát triển của đất nước trong từng thời kỳ, góp phần phát triển cân đối nền
kinh tế.
Hoạt động tín dụng đầu tư mới thực sự được thực hiện ở Việt Nam từ năm
1990 tuy cũng đã có những đóng góp đáng kể vào sự nghiệp phát triển đất nước


nhưng vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định, chưa thực sự phát huy tốt là công
cụ chính sách của nhà nước.
Tiếp tục thực hiện chủ trương phát huy nội lực để đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa đất nước, hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới khi Việt Nam chính
thức là thành viên của WTO hoạt động tín dụng nhà nước đã có những bước
chuyển hợp lý hơn với thực tiễn.
Xuất phát từ những lý do đó việc nghiên cứu đề tài: “Tín dụng đầu tư phát
triển. Thực trạng và giải pháp” là cần thiết để có những giải pháp tăng cường
hoạt động tín dụng đầu tư phát triển cho phù hợp với các thông lệ quốc tế về giảm


trợ cấp; phát huy hơn nữa vai trò của hoạt động này đối với sự phát triển kinh tế,
xã hội.

B.NỘI DUNG
Chương I. Những vấn đề lý thuyết về tín dụng đầu tư
1. Nguồn vốn đầu tư:
Đầu tư phát triển là một hoạt động thường xuyên, liên tục của một nền
kinh tế.
Đầu tư phát triển đòi hỏi rất nhiều loại nguồn lực, một trong những
nguồn lực quan trọng nhất chính là nguồn vốn đầu tư, trong khuôn khổ vấn đề
được giao, đề tài này chỉ đề cập đến một vài mục nguồn vốn đầu tư với mục tiêu


đầu tiên là chỉ rõ vốn tín dụng đầu tư thuộc bộ phận nào trong tổng vốn đầu tư
toàn xã hội.
1.1. Khái niệm
Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích lũy được thể hiện dưới
dạng giá trị được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã
hội. Đây chính là thuật ngữ để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu
tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của Nhà nước và của xã hội.
1.2. Bản chất
Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích lũy mà nền
kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Điều này
được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị Mác-Lênin và kinh tế học hiện đại
chứng minh.
- Theo quan điểm kinh tế học cổ điển về bản chất của nguồn vốn đầu tư,
đại diện điển hình Adam Smith khẳng định “Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp
gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích lũy cho quá trình tiết kiệm. Nhưng
dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa,nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ
tăng lên”. Khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các vấn đề có liên quan trực tiếp

đến tích lũy,C.Mac đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế với hai khu vực,
khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dung. Cơ cấu
tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm (c+v+m) trong đó c là phần tiêu hao vật
chất, (v+m) là phần giá trị mới sáng tạo ra. Khi đó, điều kiện để đảm bảo tái sản
xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm bảo (v+m) của khu
vực I lớn hơn tiêu hao vật chất (c) của khu vực II. Tức là :
(v+m)> cII hay (c+v+m) > cII +cI
Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ
bồi hoàn toàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế mà còn phải dư thừa để đầu
tư làm tăng qui mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo.
Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo:
(c+v+m)II > (v+m)I +(v+m)II


Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản
phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thỏa mãn, nền kinh tế
mới có thể dành một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô vốn
đầu tư cũng sẽ gia tăng.
-Theo quan điểm kinh tế học hiện đại về bản chất nguồn vốn đầu tư. John
Maynard Keynes đã chứng minh được rằng: đầu tư chính bằng phần thu nhập mà
không chuyển vào tiêu dung. Tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập vào tiêu
dùng. Tức là:
Thu nhập= Tiêu dụng + Đầu tư
Tiết kiệm= Thu nhập – Tiêu dung
Như vậy: Đầu tư = Tiết kiệm hay I=S
Trong nền kinh tế đóng đầu tư chính là phần thu nhập không chuyển vào
tiêu dung (I=S). Trong nền kinh tế mở,nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn tích lũy nội bộ
của nền kinh tế vài tài khoản vãng lai (CA=S-I,CA là tài khoản vãng lai) bị thâm
hụt thì có thể huy động vốn đầu tư từ nước ngoài. Khi đó, đầu tư nước ngoài hoặc
vay nợ có thể trở thành một trong những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền

kinh tế. Nếu tích lũy của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều
kiện thặng dư tài khoản vãng lai thì quốc gia đó có thể đầu tư vốn ra nước ngoài
hoặc cho vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
1.3. Các nguồn huy động vốn:
1.3.1. Phân loại nguồn vốn trên góc độ vĩ mô ( toàn bộ nền kinh tế):
1.3.1.1. Các nguồn vốn huy động từ trong nước:
Bao gồm các nguồn sau:
-Nguồn vốn của Nhà nước:
 Nguồn vốn của ngân sách Nhà Nước: Đây là nguồn chi của NSNN cho đầu tư. Đó

chính là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế-xã
hội.


 Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà Nước: Cùng với quá trình đổi mới

và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng
kể trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội. Nếu như trước năm 1990, vốn đầu tư
phát triển của Nhà nước chưa được sử dụng như một công cụ quản lý và điều tiết
nền kinh tế thì trong giai đoạn 1991-2000, nguồn vốn này đã có mức tăng trưởng
đáng kể và bắt đầu có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của Nhà nước
 Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà Nước: Nguồn vốn này chủ yếu bao

gồm từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp Nhà nước.
-Nguồn vốn của dân cư và tư nhân: gồm phần tích kiệm của dân cư, phần
tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh,các hợp tác xã.
1.3.1.2. Các nguồn vốn huy động từ nước ngoài:
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích lũy của cá
nhân,các doanh nghiệp,các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy
động vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại.Theo tính chất luân chuyển

vốn,có thể phân loại các nguồn vốn nước ngoài như sau:
-Tài trợ phát triển chính thức(ODF): Nguồn này bao gồm Viện trợ phát
triển chính thức (ODA) và các hình thức tài trợ khác. Trong đó ODA chiếm tỷ
trọng chủ yếu trong nguồn ODF
-Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.
-Đầu tư trực tiếp nước ngoài.(FDI)
-Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của tín dụng đầu tư
2.1. Khái niệm tín dụng đầu tư
Tín dụng đầu tư phát triển là một hình thức nhằm thực hiện chính
sách đầu tư phát triển của Nhà nước, thể hiện mối quan hệ vay - trả giữa Nhà
nước (hiện nay là Ngân hàng Phát triển Việt Nam đại diện cho Nhà nước) với
các pháp nhân và thể nhân hoạt động trong nền kinh tế, được Nhà nước hỗ trợ


với chính sách ưu đãi cho từng đối tượng cụ thể nhằm mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội trong từng thời kỳ nhất định theo định hướng của Nhà nước.
Tín dụng đầu tư phát triển ra đời khi việc sử dụng vốn ngân sách Nhà nước
cho đầu tư phát triển chuyển từ việc cấp phát không hoàn lại sang hình thức cho
vay có hoàn lại là chủ yếu . Cùng mục đích như các hình thức tín dụng khác, tín
dụng đầu tư phát triển không chỉ giúp cho nền kinh tế tập trung được lượng vốn
cần thiết mà còn có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo toàn và phát triển
được nguồn vốn cho đầu tư phát triển.
Hiện nay, tín dụng ĐTPT của Nhà nước bao gồm các hình thức sau:
 Nghiệp vụ cho vay đầu tư với điều kiện ưu đãi.

(Về lãi suất,thời hạn trả nợ,thời hạn ân hạn…).
 Bảo lãnh tín dụng đầu tư là cam kết của Nhà nước (Ở đây Ngân hàng Phát triển

Việt Nam là tổ chức được ủy thác thực hiện tín dụng đầu tư) với tổ chức cho vay

vốn về việc sẽ trả nợ thay cho chủ đầu tư, trong trường hợp chủ đầu tư không trả
hoặc trả nợ không đủ cho bên nhận bảo lãnh.
(Khoản 11-Điều 3, nghị định 151/2006/NĐ-CP)
 Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là việc Nhà nước hỗ trợ một phần lãi suất cho chủ đầu

tư vay vốn của các tổ chức tín dụng để đầu tư dự án, sau khi dự án đã hoàn thành
đưa vào sử dụng và trả được nợ vay.
(Khoản 14-Điều 3, nghị định 151/2006/NĐ-CP)
Trong đó, hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư chỉ có duy nhất tại Việt
Nam.
2.2. Đặc điểm của tín dụng đầu tư:
Tín dụng đầu tư phát triển có các đặc điểm chủ yếu sau:
- Nguyên tắc cơ bản : Chỉ tài trợ cho các dự án có khả năng thu hồi vốn,có
hiệu quả về kinh tế xã hội, phù hợp với quy hoạch và mục tiêu ưu tiên phát triển
kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Hoạt động này được thực hiện theo nguyên tắc
không cạnh tranh với các Ngân hàng thương mại,đảm bảo sự phối hợp bình đẳng


giữa các thành phần kinh tế, phù hợp với nguyên tắc thị trường và thông lệ quốc
tế.
- Là hình thức tín dụng trung và dài hạn, đầu tư nhằm mục đích hướng đến
việc xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng cho nền kinh tế.
- Một chủ thể trong hoạt động tín dụng đầu tư luôn là Nhà nước. Hiện nay,
Nhà nước ủy thác cho một tổ chức thực hiện tín dụng đầu tư là Ngân hàng phát
triển Việt Nam.
- Tín dụng đầu tư phát triển có chức năng phân phối và phân bổ các nguồn
lực tài chính cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Không vì mục đích sinh lời: Tín dụng đầu tư phát triển gắn với việc điều
tiết kinh tế vĩ mô và vấn đề quản lý hành chính theo chủ trương của Nhà nước. Do
đó tổ chức làm nhiệm vụ quản lý, cho vay là các đơn vị, cơ quan chuyên môn của

Nhà nước (hiện nay là Ngân hàng Phát triển Việt Nam), được Nhà nước cấp vồn
pháp định, cấp bù lãi suất, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận nhưng phải đảm
bảo thu hồi đủ vốn đầu tư và phải tuân thủ theo những quy định của Nhà nước.
- Tính chất ưu đãi của tín dụng đầu tư phát triển thể hiện ở một số điểm cụ
thể như: lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường, quy mô cho vay lớn, thời gian cho
vay dài, điều kiện đảm bảo nợ vay ưu đãi hơn...
Các quy định về cơ chế, chính sách của tín dụng đầu tư phát triển:
 Lãi suất cho vay do Chính phủ quy định phù hợp với yêu cầu, mục tiêu và đặc

điểm của phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển
của đất nước.
 Đối tượng cho vay: theo quy định của Chính phủ, giới hạn chủ yếu tập trung vào

các lĩnh vực then chốt, cần thiết có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội,
hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế hoặc các lĩnh vực mà các thành phần kinh tế tư
nhân không có khả năng hoặc không muốn tham gia đầu tư do hiệu quả thấp, vốn
đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn kéo dài... Về nguyên tắc, tín dụng đầu tư phát
triển chỉ cho vay đối với các dự án đầu tư theo định hướng phát triển của Nhà
nước và phải nằm trong kế hoạch đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển


hàng năm của Nhà nước. Danh sách đối tượng cho vay được quy định rõ tại mục
lục của nghị định 106/2008/NĐ-CP của Chính phủ.
 Nguồn vốn cho vay: là vốn ngân sách của Nhà nước được cân đối để cho vay đầu

tư; nguồn vốn huy động theo kế hoạch của Nhà nước để phục vụ cho đầu tư phát
triển theo chủ trương của Nhà nước.
- Đặc điểm cuối cùng : tín dụng đầu tư phát triển có tính lịch sử, nó chi tồn
tại và phát triển trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế đất nước. Khi
nền kinh tế phát triển, chuyển sang kinh tế thị trường, các nhà đầu tư quen với hoạt

động trong môi trường cạnh tranh... thì phạm vi của tín dụng đầu tư phát triển thu
hẹp lại và chuyển đổi sang các hình thức tín dụng khác.
2.3.Tổ chức thực hiện tín dụng ĐTPT của Nhà nước:
Với đặc điểm quan trọng là công cụ nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển
KT-XH của Nhà nước, tín dụng ĐTPT của Nhà nước được giao cho một tổ chức
cụ thể để triển khai nhằm đảm bảo sự quản lý, giám sát và thực thi một cách có
hiệu quả để đạt được mục tiêu đề ra. Đa số các nước trên thế giới đều thành lập
một tổ chức trung gian tài chính để thực hiện nhiệm vụ này với tên gọi phổ biến là
“Ngân hàng phát triển”. Ngân hàng phát triển khác với Ngân hàng thương mại và
Ngân hàng đầu tư ở một số điểm cơ bản sau:
-Do Chính phủ thành lập và thuộc sở hữu của Chính phủ hoặc Chính phủ
nắm giữ lượng vốn chi phối rất mạnh nhằm đảm bảo hoạt động của NHPT theo
đúng mục tiêu đề ra đáp ứng nhu cầu ĐTPT đất nước.
-Hoạt động của NHPT có gắn bó mật thiết với hoạt động của Chính phủ và
các bộ, ngành, cơ quan của Chính phủ như: cơ quan về kế hoạch hóa và phát triển
kinh tế đất nước, cơ quan về quản lý chuyên ngành (công nghiệp, nông nghiệp, hạ
tầng, xã hội và các cơ quan khác về chương trình phát triển của Chính phủ).
-Các NHTM chủ yếu cung cấp tín dụng ngắn hạn, hầu hết các khoản vay có
thời hạn dưới 1 năm trong khi NHPT tập trung vào tín dụng trung và dài hạn.


-Các NHĐT tập trung vào huy động vốn trung - dài hạn thông qua việc bảo
lãnh hoặc phát hành chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu) và các công cụ tài chính
khác để đáp ứng các nục tiêu kinh doanh mang tính dài hạn. Trong chính sách hoạt
động của mình, các NHĐT không tập trung ưu tiên/hướng tới tài trợ cho các dự án
phát triển KT-XH như ở các dự án phát triển của NHPT.
Điều quan trọng là, chính sách hoạt động của NHPT nhằm tài trợ cho các
dự án phát triển trên cơ sở:
 Thẩm định/phân tích dự án về cả lợi ích kinh tế và xã hội
 Thực hiện vai trò cho vay/tài trợ cuối cùng khi các dự án này không hoặc rất khó


tìm kiếm được các nguồn tài trợ khác một cách phù hợp hoặc chưa tìm đủ nguồn
vốn cần thiết. Điều đó có nghĩa là khi các tổ chức khác không muốn hoặc không
thể hoặc không đủ vốn thì NHPT sẽ sử dụng nguồn vốn dài hạn của mình để cho
vay phần còn thiếu để đầu tư dự án. Trong quá trình đó, hỗ trợ về vốn và huy động
vốn từ NHPT có thể coi là biện pháp quan trọng để đạt mục tiêu phát triển KT-XH
theo nguyên tắc thị trường.
2.4. Huy động các nguồn vốn cho hoạt động tín dụng đầu tư phát triển
Theo Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg thành lập Ngân hàng phát triển
VN, nguồn vốn dành cho hoạt động tín dụng đầu tư của Ngân hàng Phát triển
gồm:
- Nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước:
 Vốn điều lệ của Ngân hàng Phát triển Việt Nam;
 Vốn của Ngân sách Nhà nước cho các dự án theo kế hoạch hàng năm;
 Vốn ODA được Chính phủ giao.

- Vốn huy động:
 Phát hành trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi theo quy định của pháp luật.
 Vay của Tiết kiệm bưu điện, Quỹ Bảo hiểm xã hội và các tổ chức tài chính, tín

dụng trong và ngoài nước.
- Nhận tiền gửi ủy thác của các tổ chức trong và ngoài nước.


- Vốn đóng góp tự nguyện không hoàn trả của các cá nhân, các tổ chức kinh
tế, tổ chức tài chính, tín dụng và các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các
hội, các tổ chức trong và ngoài nước.
- Vốn nhận ủy thác cấp phát, cho vay của chính quyền địa phương, các tổ
chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các hội, các tổ chức, các cá
nhân trong và ngoài nước.

- Các nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật.
2.5. Đối tượng chủ yếu của hoạt động tín dụng đầu tư
Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một trong những công cụ điều
tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Đối tượng của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước có thể là một bộ phận dân cư, ngành, lĩnh vực kinh tế, hoặc là những dự án
đầu tư chương trình kinh tế lớn có hiệu quả kinh tế - xã hội, có khả năng hoàn trả
vốn vay. Do vậy tuỳ theo từng mặt hàng cần khuyến khích hỗ trợ mà Nhà nước
quy định đối tượng ưu tiên trong từng thời kỳ, từng năm. Điều này thể hiện một
quan điểm rất rõ ràng của Nhà nước là: do nguồn lực tài chính có hạn Nhà nước
không thể hỗ trợ cho tất cả các mặt hàng, nên chỉ nhằm hỗ trợ vào các mặt hàng
mới có thị trường chưa có sức cạnh tranh mạnh mẽ và những mặt hàng để duy trì
các thị trường truyền thống. Mặc khác, mục đích của Nhà nước hỗ trợ nhằm giúp
cho mặt hàng đó nhanh chóng đứng vững trên thị trường, nhanh chóng đủ sức
cạnh tranh khi bước vào hội nhập và lúc đó không cần sự trợ giúp của Nhà nước.
Một điểm nữa cần nói đến đó là trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới và
khu vực, khi đã cùng một sân chơi, các tổ chức thương mại quốc tế không cho
phép bất cứ một nước nào có hình thức bảo hộ cho các mặt hàng riêng của mình
trong thời gian quá dài.


2.6. Mục đích và vai trò của tín dụng đầu tư đối với sự phát triển kinh
tế xã hội
2.6.1. Mục đích
Khi chúng ta bắt đầu chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế
kinh tế thị trường có sự điều tiết và quản lý của Nhà nước, Chính phủ với quyết
tâm hạn chế bao cấp cho các Doanh nghiệp (Ở đây là các doanh nghiệp Nhà nước)
nhưng cũng cố gắng không tạo ra các cú sốc cho các doanh nghiệp này trong quá
trình chuyển đổi, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ra đời với mục tiêu
trước tiên là giúp các doanh nghiệp thích nghi dần với tình hình, môi trường mới.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, chính phủ đã từng bước trao thêm cho tín

dụng đầu tư phát triển các vai trò khác, biến nó thành một công cụ đắc lực phục vụ
cho sự phát triển.
Cho đến thời điểm hiện nay, mục đích của tín dụng đầu tư phát triển được
ghi rõ trong điều lệ khi thành lập Ngân hàng phát triển Việt Nam - cơ quan được
Nhà nước ủy quyền nhận cấp phát và hoạt động tín dụng đầu tư là hỗ trợ các dự
án đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực quan
trọng, chương trình kinh tế lớn có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.
2.6.2. Vai trò
Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng cho
việc thúc đẩy phát triển kinh tế đặc biệt đối với các nước đang phát triển, điều này
thể hiện ở các điểm như sau:
Thứ nhất, chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước hỗ trợ tích
cực cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Tín dụng đầu tư là công cụ để Nhà nước tham gia quản lý và điều tiết nền kinh tế.
Thông qua nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đầu tư cho
những dự án trong lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở, lĩnh vực kinh tế trọng
điểm quốc gia, lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, sản xuất vật liệu


mới, sản phẩm công nghệ cao,... có tác dụng định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành, vùng lãnh thổ và quốc gia theo hướng tăng trưởng bền vững. Đối với các
loại dự án này nếu sử dụng hoàn toàn vào vốn vay thương mại là rất khó thực hiện
và nhiều dự án sẽ không thực hiện được.
Thứ hai, chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước động viên
thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam tích cực tìm kiếm thị trường, đổi mới công
nghệ, nâng cao năng lực sản xuất để thúc đẩy sản xuất hàng hóa, tăng kim ngạch
xuất khẩu hàng năm của Việt Nam, góp phần cải thiện cán cân thương mại quốc
tế, giảm bớt nhập siêu như hiện nay. Bởi trong lĩnh vực này đòi hỏi đầu tư cho
công nghệ cao với quy mô vốn lớn, thời gian thu hồi dài, rủi ro lớn nếu không có

sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước thì rất khó khăn cho doanh nghiệp khi phải tiếp cận nguồn vốn tín dụng
thương mại.
Thứ ba, cung cấp một lượng vốn cho việc đầu tư phát triển các dự án ở
các khu vực, vùng, ngành khó khăn nhằm khai thác tài nguyên tại chỗ, giải quyết
việc làm cho người lao động, ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, tạo nên sự ổn định
tình hình chung của quốc gia, tạo môi trường cho sự phát triển.
Thứ tư, thông qua hệ thống tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tạo
thêm một kênh huy động vốn cho đầu tư phát triển, phục vụ cho quá trình phát
triển kinh tế đất nước. Tuy còn những định chế ràng buộc nhưng là một định chế
tài chính Nhà nước nên dễ tạo nên niềm tin cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực tài
chính tiền tệ này.
3. Quá trình phát triển của tín dụng đầu tư:
3.1.Vài nét chính về hoạt động tín dụng đầu tư của một số nước trên
thế giới sau năm 1945 đến nay
Để tăng cường hoạt động tín dụng ĐTPT các nước trên thế giới đã chú
trọng xây dựng và phát triển mô hình tổ chức thực hiện để tổ chức này phát huy
tốt hơn vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Chính phủ trong việc thực hiện chính
sách tín dụng ĐTPT Nhà nước. Các mô hình tổ chức thực hiện này đã đem lại


những hiệu quả cao trong hoạt động tín dụng ĐTPT và phù hợp với diễn biến
thực tế. Việt Nam là nước đi sau sẽ có nhiều thuận lợi trong việc học hỏi kinh
nghiệm quốc tế về xây dựng và phát triển tổ chức thực hiện tài trợ phát triển của
Chính phủ. Sau đây là một số nét về hoạt động tín dụng ĐTPT của Đức và Trung
Quốc.
3.1.1.Ngân hàng phát triển Đức (KFW)
KFW là một tổ chức công được thành lập vào tháng 11 năm 1948 theo luật
KFW về khuyến khích tái thiết nền kinh tế của Tây Đức sau chiến tranh.
Phần lớn nguồn vốn của KFW là tự huy động thông qua phát hành trái

phiếu và các khoản vay trên hối phiếu nhận nợ, hoặc các khoản vay của các quỹ xã
hội. Nguồn vốn chính dành cho tài trợ đầu tư là từ vốn tự có của KFW. Đối với
các chương trình ổn định ngân hàng duy trì lãi suất thấp bằng cách phối hợp các
nguồn vốn từ các quỹ công cộng. Ngoài ra để có đủ nguồn vốn cần thiết, KFW
dùng vốn vay với lãi suất thấp từ quỹ đặc biệt chương trình khôi phục Châu Âu
hoặc phát hành trái phiếu huy động vốn trực tiếp từ thị trường vốn và cũng nhận
vốn ủy thác từ Chính phủ liên bang.
KFW rất chú trọng trong công tác quản lý rủi ro tín dụng. Để phòng ngừa
rủi ro phát sinh do thay đổi lãi suất và tỷ giá, KFW tham gia vào một số các giao
dịch có kỳ hạn tương lai. KFW đã tiến hành một số bước để cải thiện khả năng cải
thiện tài sản nợ của mình, và những bước này đã góp phần tăng khả năng sinh lời
và ổn định tài chính của ngân hàng.
Về lãi suất cho vay: Thời gian đầu thực hiện KFW cấp tín dụng với lãi suất
thấp hơn lãi suất thị trường nhưng sau đó lãi suất sẽ được điều chỉnh sát với lãi
suất thị trường để giảm sự bao cấp của Nhà nước. Bên cạnh việc giảm ưu đãi về
lãi suất là mở rộng thời hạn cho vay, chất lượng dịch vụ, điều kiện vay vốn…
Hệ thống kế toán kiểm toán của KFW được quy định tại Luật KFW, trong
đó quy định rằng báo cáo kế toán hàng năm do hội đồng quản trị soạn thảo, có sự


tham gia ý kiến của cơ quan kiểm toán Chính phủ. Các báo cáo tài chính của KFW
phải được lập phù hợp với các quy định của kế toán ngân hàng.
3.1.2.Ngân hàng phát triển Trung Quốc (CDB)
CDB được thành lập vào tháng 3 năm 1994. Là tổ chức chịu sự điều hành
trực tiếp từ Quốc vụ viện, CDB phải trình báo các hoạt động lên Quốc vụ viện
theo quy định. Hội đồng quản lý được thành lập như một đơn vị điều hành nội bộ;
bao gồm các thành viên đại diện cho: Ủy ban kế hoạch Nhà nước, Ủy ban thương
mại và kinh tế Nhà nước, Bộ ngoại thương và hợp tác kinh tế, Kiểm toán.
Mỗi năm CDB được kiểm tra tổng thể một lần xem các chính sách hoạt
động của CDB có phù hợp với chính sách quốc gia hay không, không hề có việc

kiểm tra nhỏ lẻ ở tầm vi mô và Hội đồng quản lý không được phép can thiệp tùy
tiện vào các hoạt động hàng ngày của CDB.
Nguồn vốn của CDB phần lớn từ phát hành trái phiếu. Trái phiếu của CDB
phát hành trong nước được Chính phủ bảo lãnh. Phần lớn các trái phiếu 5 năm
được các ngân hàng thương mại và trái phiếu 8 năm do tiết kiệm bưu điện mua.
Lãi suất do ngân hàng nhân dân quyết định và có cân nhắc tới lãi suất của các
công cụ tài chính khác có cùng thời hạn. Từ năm 1998, CDB đưa ra một phần hệ
thống đấu thầu thông qua việc kết hợp một nhóm các ngân hàng thương mại để
quyết định lãi suất của trái phiếu, do vậy mà huy động được vốn với lãi suất thấp.
Các hình thức hỗ trợ của CDB ngày càng được đa dạng hơn. Đặc biệt là
việc mở rộng hình thức tư vấn đầu tư cho các dự án. Đây là hình thức mới nhưng
lại mang lại hiệu quả cao đối với các dự án đầu tư. Hiện nay CDB đã tư vấn cho
các dự án mới của Nhà nước trước khi nó được trình lên nội các.
Ngoài ra, chúng tôi cũng đã thu thập thông tin về những chính sách cụ thể
của các nước châu Á hỗ trợ cho quá trình Công nghiệp hóa, hầu hết các nước đều
đưa ra các chính sách về tín dụng đầu tư:


3.2.Sự hình thành hoạt động tín dụng đầu tư tại Việt Nam
Giai đoạn những năm 60 cho tới đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Ở Việt
Nam, sự tài trợ của Nhà nước trong thời gian được thực hiện dưới dạng cấp phát
vốn. Từ những năm 1990-1995 manh múm hình thành hình thức tài trợ có thu hồi
vốn. Lý do chính là Nhà nước ta trong giai đoạn “Mở cửa” thực hiện chuyển đổi
hình thức cấp phát vốn sang cơ chế tự hạch toán.
Để thấy được ưu đãi tín dụng của Nhà nước, ta chỉ xem xét ba thời kỳ của
quá trình hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước, thời kỳ chuyển tiếp 1995-1999,
thời kỳ đi vào hoạt động theo cơ chế thị trường 2000-2006 và thời kỳ 2006-nay,
khi các thể chế thực hiện tín dụng đầu tư đi vào chuyên nghiệp hơn. Các giai đoạn
này gắn với sự hình thành và phát triển của ba tổ chức thực hiện tín dụng đầu tư là
Tổng cục ĐTPT và quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia trong giai đoạn 1995-1999, quỹ hỗ

trợ phát triển (DAF) giai đoạn 2000-2005, Ngân hàng phát triển Việt Nam (VDB)
giai đoạn 2006-nay.
3.2.1.Chính sách tín dụng của Nhà Nước giai đoạn 1995-1999:
Trước nhu cầu nâng cao hiệu quả tín dụng ĐTPT Nhà nước, thu hút các
nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội cho ĐTPT đồng thời tách bạch dần hoạt động cho
vay chính sách ra khỏi vay thương mại. Chính phủ đã thành lập Tổng cục Đầu tư
phát triển, trực thuộc Bộ Tài chính, với nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về Tài chính ĐTPT, tổ chức việc thực hiện
việc cấp phát vốn Ngân sách Nhà nước đầu tư và vốn tín dụng ưu đãi của Nhà
nước đối với các dự án, mục tiêu, chương trình theo danh mục do Chính phủ quyết
định hàng năm.
Cũng trong thời gian này, Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia được thành lập ngày
9/12/1995 theo quyết định 808/TTg của Thủ tướng chính phủ, để huy động vốn và
cho vay đối với các dự án đầu tư phát triển các ngành, nghề, thuộc diện ưu đãi và
các vùng kinh tế khó khăn theo quy định của Chính phủ. Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc


gia là một tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động theo điều lệ do Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt và chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ tài chính.
Như vậy trong thời gian từ 1995 – 1999, hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà
nước được nhiều tổ chức chung tay thực hiện, đó là: Ngân hàng Đầu tư và phát
triển Việt Nam (BIDV), Tổng cục đầu tư phát triển, trực thuộc Bộ tài chính, Quỹ
hỗ trợ đầu tư quốc gia thuộc Chính phủ và các Ngân hàng thương mại quốc doanh
khác. Nghĩa là giai đoạn này chính phủ vẫn chưa tách cho vay chính sách ra khỏi
ngân hàng thương mại Quốc doanh. Sự khác biệt so với trước đó thể hiện ở việc
cho vay có tính đến lãi suất, có thu hồi vốn, bỏ dần hình thức cấp phát vốn.
*Ưu điểm:
-Hình thành cơ chế vay trả có tính đến lãi suất, có thu hồi vốn, bỏ dần
hình
thức cấp phát vốn

*Hạn chế:
-Mỗi đầu mối cho vay và quản lý nhiều chương trình khác nhau, làm cho
nguồn vốn đầu tư phát triển của Nhà nước bị phân tán, giảm hiệu quả vốn đầu tư,
gây khó khăn trong quản lý vốn.
-Tổ chức cho vay không có sự độc lập và tự chủ về tài chính cũng như
quyết định tài trợ dự án, kế hoạch trả nợ được xác định dựa trên đặc điểm của dự
án, việc thẩm định tính khả thi và khả năng trả nợ của dự án còn rất sơ khai, hầu
như chỉ dừng ở mức xem xét tính đầy đủ, hợp lệ của hồ sơ và thủ tục do việc cho
vay dựa trên kế hoạch chỉ định hàng năm.
3.2.2.Chính sách tín dụng của Nhà Nước giai đoạn 2000-2006
Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới toàn diện cơ chế quản lý kinh tế và cơ
chế quản lý tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, nhằm góp phần thực hiện chủ
trương phát huy nội lực, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế theo tinh thần, nghị quyết TW 4 và TW 6
lần 1 khóa VIII. Tháng 6 năm 1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
43/1999/NĐ – CP về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, đồng thời thành lập


Quỹ hỗ trợ phát triển (QHTPT) theo Nghị định số 50/1999/NĐ– CP ngày
8/7/1999 để thực hiện chính sách tín dụng ĐTPT Nhà nước(Ngoài ra có kèm theo
thực hiện tín dụng xuất khẩu).
Đây là một bước đi quan trọng trong việc đổi mới quản lý tín dụng ĐTPT
Nhà nước, tập trung vào một đầu mối, khắc phục những tồn tại của cơ chế tín dụng
ĐTPT trong 10 năm trước theo hướng giảm bao cấp, tăng cường hiệu quả vốn đầu
tư, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chủ đầu tư và cơ quan cho vay,
tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng thương mại trong lĩnh vực đầu tư xây
dựng cơ bản.
QHTPT chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/2000 với những nhiệm vụ:
huy động vốn, tiếp nhận và quản lý các nguồn vốn của Nhà nước để thực hiện
chính sách tín dụng ĐTPT Nhà nước thông qua các hình thức cho vay đầu tư, bảo

lãnh tín dụng đầu tư, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, cho vay
theo hiệp định của Chính phủ và thực hiện một số nhiệm vụ khác được Thủ tướng
Chính phủ giao.
Tháng 4/2004, chính phủ ban hành nghị định 106/2004/NĐ-CP ngày
01/04/2004 về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước thay thế nghị định
43/1999/NĐ-CP, với một số thay đổi chính là:
 Mục đích của tín dụng ĐTPT của Nhà Nước: chuyển từ việc tập trung hỗ trợ các

dự án thuộc địa bàn khó khăn, đặc biệt khó khăn cần khuyến khích đầu tư sang hỗ
trợ các dự án ĐTPT thuộc nhóm ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế
lớn có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế bền vững.
 Bổ sung các hình thức cho vay đầu tư theo Hiệp định chính phủ, hàng năm với

nguồn vốn thực hiện được chuyển từ NSNN (Bộ tài chính).
 Một dự án có thể được hỗ trợ đồng thời bằng hình thức cho vay đầu tư, hỗ trợ lãi

suất sau đầu tư hoặc đồng thời cho vay đầu tư và bảo lãnh tín dụng đầu tư.
 Đối tượng ngành nghề được cho vay đã thu hẹp và thống nhất lại so với trước đây,

áp dụng chung một mức lãi suất và giữ nguyên trong suốt thời hạn cho vay. Lãi


suất cho vay được xác định tương đương 70% lãi suất thị trường thay vì ấn định cụ
thể so với trước đây.
 Xóa bỏ sự đối xử phân biệt theo thành phần kinh tế trong việc bảo đảm tiền vay;

các chủ đầu tư được dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm tiền vay.
 Quỹ dự phòng rủi ro được trích hàng năm tối đa bằng 0,2% trên dư nợ bình quân


cho vay đầu tư và nghĩa vụ bảo lãnh tín dụng đầu tư (trước đây được trích tối đa
2% số lãi thực thu), tăng thẩm quyền của bộ trưởng bộ tài chính trong việc hướng
dẫn chính sách, quyết định lãi suất cho vay và xử lý rủi ro, bỏ phí bảo lãnh (trước
đây mức phí bảo lãnh quy đinh là 0.5%/năm).
Trong giai đoạn này, mặc dù đã cải thiện về nhiều mặt trong hoạt động tín
dụng đầu tư tại DAF, song đứng trước việc Việt Nam mong muốn hội nhập sâu
rộng vào nền kinh tế quốc tế và khu vực. Nhà nước đã tận dụng khoảng thời gian
chuyển tiếp khi gia nhập WTO để cải cách lại hệ thống tài chính quốc gia, tách các
ngân hàng chính sách ra khỏi các ngân hàng thương mại Nhà nước, cùng với đó là
việc chính phủ mong muốn thành lập một tổ chức mới hoàn thiện hơn nữa so với
DAF về cơ cấu tổ chức, hình thức hoạt động, quy mô hoạt động và biến nó thành
công cụ đắc lực cho sự phát triển giai đoạn tiếp theo của đất nước.
*Ưu điểm
-Quỹ HTPT có quyền tự chủ trong hoạt động tín dụng đầu tư.
-Các hoạt động của quỹ có tính chuyên nghiệp hơn về cách thức thực hiện,
đa dạng hơn về hình thức.
*Hạn chế:
- Một là, DAF là một tổ chức không thuộc tổ chức tín dụng Việt Nam, tại
thời điểm quỹ này hoạt động, quỹ không chịu sự điều chỉnh của “Luật các tổ chức
tín dụng”. Với một tổ chức tài chính quan trọng thì điều này là vô cùng nguy hiểm.
- Hai là, quỹ HTPT không phù hợp với quy định của WTO khi mà chúng ta
trong thời gian đó đang nỗ lực đàm phán gia nhập tổ chức này.
- Ba là, mặc dù vai trò của quỹ HTPT ngày càng được khẳng định song về
hoạt động tính chuyên nghiệp vẫn chưa cao. Ví dụ như, quỹ thiếu đi một chuẩn


mực trong việc phân loại nợ…Điều đó là cản trở rất lớn cho quá trình phát triển
của quỹ nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
Kế thừa và tiếp tục cải tiến hoạt động và bộ máy của DAF một tổ chức
mới ra đời mở ra giai đoạn mới cho của họat động tín dụng đầu tư Nhà nước.



Chương II. Thực trạng của hoạt động tín dụng đầu tư
1. Thực trạng của hoạt động tín dụng đầu tư tại Việt Nam
1.1. Thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư tại Tổng cục Đầu tư phát triển
Việt Nam và quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia (Từ năm 1990-1999)
Đây là những năm ghi nhận sự ra đời và hoạt động của “Tổng cục đầu tư phát
triển ” và sau đó có thêm “Quỹ hỗ trợ quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia” (1995), tín dụng đầu tư
phát triển được thực hiện theo kế hoạch chỉ định với lãi suất ưu đãi bằng nguồn ngân sách
chuyển hàng năm. Tổ chức cho vay không có sự độc lập và tự chủ về tài chính cũng như
quyết định tài trợ dự án. Kế hoạch trả nợ dựa trên đặc điểm của dự án, việc thẩm định
tính khả thi và khả năng trả nợ của dự án còn rất sơ khai, hầu như chỉ dừng lại ở tính đầy
đủ, hợp lệ của hồ sơ và thủ tục do việc cho vay dựa trên kế hoạch chỉ định hàng năm, sự
khác biệt so với trước đó chỉ thể hiện ở việc cho vay có tính lãi suất, có thu hồi vốn.
Bảng 1: TỶ TRỌNG VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TOÀN XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 19962000 PHÂN THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ
Đơn vị: %
1995
Tổng số
100
I.Vốn Nhà nước
38,3
1. Vốn Ngân sách Nhà nước 19,9
-Trung ương
11,5
-Địa phương
8,4
2.Vốn tín dụng ưu đãi
4,5
3.Vốn của DNNN
13,9

II.Vốn của khu vực tư nhân
29,4
III.Vốn đầu tư trực tiếp Nhà 32,3

1996
100
45,2
20,8
11,3
9,5
10,4
14,0
26,2
28,6

1997
100
48,1
21,3
10,2
11,1
13,1
13,7
20,6
31,3

1998
100
54,0
22,9

10,4
12,5
10,4
20,7
21,0
25,0

1999
100
62,1
26,0
12,1
13,9
18,1
18,1
20,0
18,0

2000
100
61,9
23,2
10,8
12,4
20,5
18,2
19,5
18,6

nước

Trong vòng 5 năm từ 1995 đến 2000, vốn tín dụng ưu đãi tăng nhanh và chiếm tỷ
trọng rất lớn. Nếu như năm 1995 nguồn vốn này mới chiếm 4,5% thì năm 2001 chiếm tới


20,5% bằng 1/3 vốn của khu vực Nhà nước và lớn hơn vốn của khu vực kinh tế tư nhân
trong nước.
1.2.Thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư phát triển tại Quỹ Hỗ trợ đầu tư
(DAF) từ năm 2000 đến năm 2006
Trong hơn 6 năm qua (Giai đoạn 2000-2005), không kể số thu hồi nợ vay đưa
vào vay mới, quỹ HTPT đã huy động thêm tổng số vốn gần 75.000 tỷ đồng, bằng 6,7 %
tổng vốn đầu tư trong nước của toàn xã hội, tương đương 5,6% tổng số vốn đầu tư toàn
xã hội giai đoạn này. Tính chung số vốn giải ngân tăng trưởng bình quân 21,2%/năm,
trong đó giải ngân từ nguồn thu hồi nợ vay chiếm trung bình 19%. Đặc biệt riêng giai
đoạn 2002-2004, số vốn được giải ngân hàng năm tăng bình quân 50%/năm, số huy động
mới tăng bình quân 45%/năm.
- Quỹ HTPT đã cho vay vốn trong nước để đầu tư trên 8000 dự án (Trong đó có
90 dự án nhóm A), với tổng số vốn theo hợp đồng tín dụng đã ký đạt gần 83.000 tỷ đồng,
đã giải ngân trên 56.000 tỷ đồng, dư nợ tại thời điểm 30/06/2006 là gần 42.150 tỷ đồng,
các dự án nhóm A chiếm 30% tổng số dư nợ.
-Quỹ HTPT cũng bảo lãnh tín dụng đầu tư cho 5 dự án với số vốn 32,5 tỷ đồng.
-Quỹ HTPT cấp hỗ trợ lãi suất sau đầu tư gần 2300 dự án với tổng số vốn theo hợp
đồng là 3250 tỷ đồng, thực tế đã cấp 430 tỷ.
1.3. Ghi nhận hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Ngân hàng phát triển
Việt Nam (Sau năm 2006 cho tới nay)
Sau hơn 3 năm đi vào hoạt động, tức là đến giữa năm 2010, chúng tôi đã có
những con số ghi nhận hoạt động tín dụng đầu tư của VDB.
Dưới đây là những con số ghi nhận hoạt động tín dụng đầu tư từ khi VDB được
thành lập đến thời gian gần đây nhất mà chúng tôi ghi nhận được từ các nguồn thông
thông tin sẵn có, chủ yếu dựa trên các báo cáo của VDB cho chính phủ, đồng thời là các
phát ngôn chính thức từ các lãnh đạo của VDB về giai đoạn hoạt động 2006-2009 và 1

vài con số, sự kiện ghi nhận năm 2010. Thực tế, chưa có một báo cáo thống kê chi tiết
nào của chính phủ hoặc của chính VDB ghi nhận hoạt động tín dụng đầu tư của VDB
giai đoạn 2006-2009. Ngày 17/3/2011, tại Hà Nội, Ngân hàng Phát triển Việt Nam và


Kiểm toán Nhà nước đã phối hợp tổ chức Hội nghị công bố Quyết định kiểm toán Báo
cáo tài chính năm 2010 của Ngân hàng Phát triển Việt Nam (NHPT).

Hộp 1 :Báo cáo của giám đốc VDB cho thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.
(Nguồn : Bài viết “Đ/c Nguyễn Tấn Dũng, UV Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ
đến thăm và làm việc tại NH Phát triển VN” của NHPT)
Ngày 11/8/2009, tổng Giám đốc NHPT Nguyễn Quang Dũng đã báo cáo với Thủ
tướng Chính phủ kết quả hoạt động trong 3 năm (2006 - 2009), trong đó nêu rõ:
- Tổng tài sản của NHPT hiện nay trên 170.000 tỷ đồng, tăng hơn 63% so với thời
điểm mới thành lập.
-NHPT Việt Nam đã huy động mới gần 120.000 tỷ đồng, bằng 7% vốn đầu tư toàn
xã hội cùng kỳ, gấp 1,84 lần so với thời kỳ Quỹ Hỗ trợ phát triển.
(Trong đó, vốn phát hành TPCP đạt trên 77.000 tỷ, bình quân 3 năm chiếm 55%
tổng nguồn huy động của NHPT.)
- NHPT hiện đang quản lý cho vay trên 3.970 dự án với số vốn theo hợp đồng tín
dụng gần 146.000 tỷ đồng ( gồm 86.000 tỷ đồng tín dụng đầu tư và 60.000 tỷ đồng tín dụng
xuất khẩu ).
(Về Tín dụng đầu tư, dư nợ các dự án nhóm A chiếm 45%. Tổng dư nợ tín dụng của
NHPT giai đoạn 2006 -2008 chiếm khoảng 12% tín dụng toàn thị trường và tập trung vào lĩnh
vực Công nghiệp - Xây dựng với tỷ lệ bình quân 78%/năm.)
- Các chương trình / dự án trọng điểm nổi bật là:
 Thủy điện Sơn La và các dự án về ngành điện.


 Lọc dầu Dung Quất.

 Các nhà máy xi măng, luyện thép, cơ khí trọng điểm.
 Vệ tinh Vinasat.
 Phân bón DAP Hải Phòng, đạm Ninh Bình, đạm Hà Bắc, Apatit Lào Cai, đóng tàu biển...

Bảng 2 :Hoạt động huy động và sử dụng vốn tại VDB
(Gồm cả tín dụng dành cho xuất khẩu)
Tổng
giải

Năm 2007
vốn 39.588 tỷ đồng

ngân

tín

Tổng

số 34.992 tỷ đồng

Năm 2008
56.210 tỷ đồng

Năm 2009
45.680 tỷ đồng

40.230 tỷ đồng

44.000 tỷ đồng


dụng.
tiền

huy

động

được.
Số tiền huy 24.495 tỷ đồng
động

qua

26.512 tỷ đồng

trái

phiếu chính phủ
(Nguồn : )
Kể từ khi chuyển đổi mô hình hoạt động thành Ngân hàng Phát triển (VDB),
tổng tài sản của VDB tăng 65%, vốn chủ sở hữu tăng 200%.
Trong tổng số gần 100 ngân hàng của cả nước, VDB xếp thứ 5 về tổng tài sản và
dư nợ tín dụng. Đặc biệt, nếu xét riêng về tín dụng trung - dài hạn thì VDB đang giữ vị trí
thứ nhất, kể cả phát hành các công cụ nợ và quản lý vốn uỷ thác. Đối với con số VDB xếp
thứ 5 về tổng tài sản và dư nợ tín dụng, chúng tôi cho rằng sở dĩ có được điều này là do
có sự chống lưng và được cấp vốn liên tục từ nhà nước đối với VDB.(Điều này được quy


định rõ ràng tại điều lệ của VDB khi mới thành lập). Cụ thể hoạt động tín dụng đầu tư
của VDB được thể hiện qua các con số trên 3 lĩnh vực nghiệp vụ: Tín dụng đầu tư , bảo

lãnh tín dụng đầu tư , hỗ trợ sau đầu tư.
-Về hoạt động nghiệp vụ tín dụng đầu tư : đến giữa năm 2010, VDB cho vay
khoảng hơn 3.200 dự án, trong đó có 127 dự án trọng điểm của Chính phủ với số vốn
cam kết theo hợp đồng tín dụng khoảng 146.000 tỷ đồng.
Các nguồn vốn ODA cho vay lại, các quỹ quay vòng đã được NHPT quản lý tốt và
thu hồi nợ có hiệu quả, góp phần nâng cao uy tín của Việt Nam với các nhà tài trợ quốc
tế. Cụ thể, NHPT đang quản lý cho vay lại đối với 380 dự án với tổng số vốn cam kết
theo Hiệp định vay là 7,3 tỷ USD, tăng 124 dự án với 1,15 tỷ USD so với thời điểm mới
thành lập.
(Các số liệu trên lấy từ bài phỏng vấn ngày 14/7/2010 với ông Nguyễn Chí Trang,
Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Phát triển Việt Nam
)
Hộp 2:Bài báo “ VDB: “Chúng tôi cho vay theo chỉ đạo”.
Phỏng vấn Tổng giám đốc VDB Nguyễn Quang Dũng (Đăng ngày 25/06/2010
trên Vneconomy)
Có nhiều doanh nghiệp thắc mắc là tại sao các hợp đồng tín dụng của VDB chủ
yếu tập trung vào lĩnh vực điện và dầu khí....
Những hợp đồng trên có được là do sự chỉ đạo của Chính phủ bởi VDB là ngân
hàng của Chính phủ. Chúng tôi phải tập trung vào những cái gì mà Chính phủ và nền
kinh tế cần nhất. Hiện lĩnh vực điện đang được chúng tôi “ưu ái” nhất với tổng số vốn
đầu tư cho ngành này là lớn trong tất cả các ngành.


Tuy nhiên, việc đầu tư với giá trị lớn như vậy là hoàn toàn hợp lý. Chẳng hạn, với
công trình Thủy điện Sơn La, ngoài phần vốn trong nước chúng tôi cho vay hơn 4.000 tỷ
đồng, cộng với vốn nước ngoài là 400 triệu USD nữa.
…Ví dụ các dự án điện của EVN, chúng tôi đang quản lý 5,6 tỷ USD và khoảng
36.000 tỷ đồng, trong đó tập trung vào giải phóng mặt bằng cho nhiều dự án trọng điểm
của ngành điện và nhiều ngành khác.Hiện, đối với ngành dầu khí thì theo chỉ đạo của
Chính phủ, chúng tôi đã giải ngân 1 tỷ USD trên tổng mức đầu tư của nhà máy 3 tỷ USD

của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất…

Nghiệp vụ tín dụng đầu tư của VDB không chỉ tập trung vào các dự án trọng điểm,
quan trọng của quốc gia. VDB thực hiện các nghiệp vụ tín dụng đầu tư phát triển cho các
chương trình xóa đói giảm nghèo, mục tiêu quốc gia ở vùng sâu vùng xa như chương
trình 135, các xã biên giới thuộc chương trình 120, vùng có đông đồng bào Khơme sinh
sống tập trung, xã vùng bãi ngang, các dự án nhà ở xã hội cho sinh viên, người có thu
nhập thấp.
Hộp 3: Ghi nhận vài con số và sự kiện của VDB
Nguồn: />Các dự án do Ngân hàng phát triển cho vay đầu tư đi vào sản xuất, góp phần quan
trọng tạo ra năng lực mới cho nền kinh tế, như: xây mới 100.000km kênh mương, 13
trạm bơm, hạ tầng của 817 cụm tuyến dân cư… Ngoài ra, Ngân hàng Phát triển Việt Nam
còn cho vay các dự án đầu tư cho người có thu nhập thấp và nhà ở cho công nhân khu
công nghiệp với 7 dự án, tổng số vốn cho vay theo hợp đồng tín dụng là 902,72 tỷ đồng,
giải ngân đến 31.12.2010 đạt hơn 100 tỷ;
-Hoạt động bảo lãnh các doanh nghiệp vay vốn các ngân hàng thương mại :
thông qua những dự án đầu tư trung và dài hạn. Qua xem xét, chúng tôi thấy rằng hoạt


×