Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển từ thực tiễn huyện đảo lý sơn, tỉnh quảng ngãi (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.96 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia ven biển có bờ biển dài 3.260 km
với diện tích 1 triệu Km2 rộng gấp ba lần lãnh thổ trên đất liền, vùng
biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của
nước ta chứa đựng nhiều tài nguyên và tiềm năng phong phú để phát
triển kinh tế - xã hội. Xuất phát từ lợi ích của biển mà các nước trong
khu vực tiếp giáp Biển Đông với nước ta luôn có xu hướng cạnh
tranh, tạo ra những mâu thuẫn bất đồng trong việc tranh giành quyền
chủ quyền quốc gia trên biển. Nhận thức được vị trí, vai trò, tiềm
năng của biển trong phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh
nên từ năm 1993 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW
ngày 06/5/1993 Về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong
những năm trước mắt, trong đó khẳng định rằng phải đẩy mạnh phát
triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền
và lợi ích quốc gia; xây dựng quốc gia Việt Nam mạnh về biển và
phát triển kinh tế biển thành một bộ phận mũi nhọn của nền kinh tế
quốc dân là một mục tiêu chiến lược, đồng thời là nhiệm vụ bức bách
đang đặt ra cho dân tộc ta trước thách thức lớn trên Biển Đông. Ngày
09 tháng 02 năm 2007 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X ban
hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về Chiến lược biển Việt Nam đến
năm 2020, trong đó xác định phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia
mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền,
quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu
mạnh. Nhằm cụ thể hóa quan điểm của Đảng về chiến lược biển,
Tỉnh ủy Quảng Ngãi đã ban hành Chương trình hành động số 151


CTr/TU ngày 29/6/2007, trong đó xác định mục tiêu tổng quát
là “Phấn đấu đến năm 2020, đưa tỉnh ta trở thành một trong các tỉnh


mạnh về biển, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền và lợi ích quốc
gia trên biển và đảo”. Phát huy tiềm năng lợi thế sẵn có, trên cơ sở
chương trình hành động số 15 – CTr/ TU của tỉnh ủy Quảng Ngãi,
huyện Lý Sơn đã xây dựng và triển khai kế hoạch để thực hiện
chương trình hành động. Với mục tiêu kinh tế biển là ngành kinh tế
mũi nhọn của địa phương trong thời gian đến.
Huyện đảo Lý Sơn có vị trí chiến lược quan trọng về quốc
phòng, an ninh, là đảo tiền tiêu trong khu vực phòng thủ của tỉnh
Quảng Ngãi. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà
đặc biệt là từ khi có các Nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế
biển và Chiến lược biển Việt Nam, kinh tế của huyện không ngừng
phát triển theo hướng chuyển dịch từ nông nghiệp sang ngư nghiệp,
sản lượng đánh bắt thủy sản ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn
trong cơ cấu GDP của huyện và chiếm gần 1/3 tổng sản lượng khai
thác thủy sản của tỉnh Quảng Ngãi. Với những kết quả đạt được từ
lĩnh vực thủy sản đã và đang góp phần quan trọng trong việc nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân huyện đảo Lý Sơn.
Trên cơ sở đó, huyện Lý Sơn đã thực hiện chính sách phát
triển kinh tế biển và coi đây là chủ trương lớn thúc đẩy phát triển
kinh tế địa phương. Hiện nay, ngành kinh tế biển của Lý Sơn đã
không ngững phát triển, trong đó lĩnh vực thủy sản của huyện có
bước phát triển đáng kể, số lượng và công suất tàu thuyền tăng lên
hàng năm, ngư trường đánh bắt được mở rộng, năng suất đánh bắt
ngày càng tăng, đặc biệt là sự hiện diện của ngư dân trên các vùng
biển (Hoàng Sa, Trường Sa) đã góp phần quan trọng trong công tác
bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Tuy nhiên, những kết quả
2


đạt được chưa xứng tầm với lợi thế tiềm năng hiện có; công tác quy

hoạch phát triển chưa đồng bộ, việc thực hiên các chính sách hổ trợ
từ nguồn vốn nhà nước tuy có nhiều khả quan nhưng còn nhiều bất
cập, đặc biệt là chủ trương hiện đại hóa đội tàu đánh bắt xa bờ theo
NĐ 67 của Chính Phủ tuy được thực hiện nhưng chưa đáp ứng yêu
cầu đề ra; lĩnh vực chế biến, nuôi trồng thủy sản, dịch vụ hậu cần
nghề cá tuy được quan tâm đầu tư khai thác nhưng chưa phát huy hết
tiềm năng sẵn có.
Trước thực trạng trên, cấp ủy Đảng, chính quyền huyện đảo
Lý Sơn đã ban hành nhiều đề án, dự án, kế hoạch về phát triển kinh tế
trong đó xác định kinh tế biển là ngành kinh tế mũi nhọn của huyện,
xong những chương trình, kế hoạch chỉ dừng lại ở tính định hướng
chưa đi sâu nghiên cứu đánh giá, phân tích thực trạng và có những
giải pháp mang tính khoa học để vận dụng vào thực tiễn, đồng thời
đến nay vẫn chưa có đề tài khoa học nghiên cứu về kinh tế biển
huyện đảo Lý Sơn. Chính vì vậy, đề tài “Thực hiện chính sách phát
triển kinh tế biển từ thực tiễn huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi”
nhằm đánh giá thực trạng và đưa ra những giải pháp có tính khoa học
và khả thi để vận dụng vào quá trình quản lý, điều hành phát triển
ngành kinh tế biển huyện đảo Lý Sơn xứng tầm với tiềm năng hiện
có.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong những năm gần đây, có một số tác giả đã đề cập đến
các khía cạnh mà đề tài nghiên cứu quan tâm. Trong số đó có:
Giải pháp phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam giai
đoạn 2011 – 2020 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng của
TS. Nguyễn Văn Cường, Phó Vụ trưởng Văn phòng Chính Phủ.
Tiếp cận Chiến lược kinh tế biển của Việt Nam của PGS. TS.
3



Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam. Tác giả đánh
giá Viêt Nam có hai lợi thế đó là: Tiềm năng tự nhiên và vị trị địa
kinh tế và địa chiến lược và đi sâu phân tích về hiện trạng kinh tế
biển và những định hình chiến lược kinh tế biển.
Về Chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam trong hội
nhâp quốc tế của tác giả Phạm Ngọc Anh, Đại học Sư phạm Hà Nội.
Nhóm giải pháp phát triển kinh tế biển của TS. Hồ Văn
Hoành, Phó Chủ tịch Hội khoa học phát triển nguồn nhân lực, nhân
tài Việt Nam.
Tổng cục Biển và Hải đảo với nhiệm vụ phát triển kinh tế
biển và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc của Nguyễn Đăng
Đạo, Phó Tổng cục trưởng, Chỉ huy trưởng Ban CHQS Tổng cục.
Bài viết của TS. Tạ Quang Ngọc - Nguyên Bộ trưởng Bộ thủy
sản Việt Nam “ Để Việt nam sớm trở thành mốt quốc gia mạnh về biển
và giàu lên từ biển” trong Tạp chí Cộng sản số 777, tháng 7/2007.
Và còn nhiêu công trình nghiên cứu khác liên quan đến kinh
tế biển, song trong pham vi nghiên cứu tác giả đã tiếp cận và tham
khảo các công trình nghiên cứu nhưng chưa có đề tài nào đi sâu
nghiên cứu vấn đề thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển từ thực
tiễn Huyện đảo Lý Sơn. Xuất phát từ lý do trên tôi chọn đề tài này
làm luận văn thạc sĩ của mình, đề tài luân văn thực hiện có sự kế
thừa, phát triển những kết quả thực hiện trước đó để đánh giá, phân
tích, từ đó đề xuất ra các giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của
địa phương trong những năm tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng về thực
hiện chính sách phát triển kinh tế biển và những yếu tố ảnh hưởng
4



đến chính sách phát triển kinh tế biển tù thực tiễn huyện đảo Lý Sơn,
tỉnh Quảng Ngãi. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp tăng cường
thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến thực hiện
chính sách phát triển kinh tế biển;
Đánh giá, phân tích thực trạng thực hiện chính sách phát triển
kinh tế biển tại huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian
qua;
Đề xuất các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách phát
triển kinh tế biển trong thời gian đến.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực hiện chính sách phát
triển kinh tế biển từ thực tiễn huyện Lý Sơn Quảng Ngãi dưới góc độ
khoa học chính sách công.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian: Tập trung chủ yếu về thực hiện
chính sách phát triển kinh tế biển từ thực tiễn huyện đảo Lý Sơn,
tỉnh Quảng Ngãi
Phạm vi về thời gian: Từ năm 2005 đến 2015 và giải pháp
đến năm 2020.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã
hội học và vận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công. Đó
là cách tiếp cận quy phạm chính sách công về chu trình chính sách
từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện, đánh giá chính sách công có sự
5



tham gia của các chủ thể chính sách.Luận văn được thực hiện dựa trên
cơ sở lý luận và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
công tác phát triển kinh tế biển.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin từ các nguồn có sẵn liên
quan, bao gồm các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị, Nghị định, Quyết
định của Đảng, Nhà nước, các văn bản quy phạm pháp luật ở trung
ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài
liệu thống kê liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề chính
sách phát triển kinh tế biển ở nước ta nói chung và thực tế ở Lý Sơn
nói riêng.
Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, chuyên gia,
phương pháp dự báo các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội,
phương pháp phân tích chiến lược phát triển.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài nghiên cứu thành công sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn
về mặt lý luận và đóng góp vào sự hoàn thiện lý luận về thực hiện
chính sách phát triển kinh tế biển.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài nghiên cứu thành công sẽ là cơ sở khoa học để áp
dụng vào quá trình hoạch định chính sách và đề ra biện pháp phát
triển kinh tế biển tại huyện Đảo Lý Sơn; đồng thời là tài liệu tham
khảo cho những người quan tâm đến vấn đề thực hiện chính sách
phát triển kinh tế biển.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm ba chương:

6


Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách
phát triển kinh tế biển
Chương 2: Thực trạng thực hiện kinh tế biển tại huyện đảo
Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi
Chương 3: Tăng cường thực hiện chính sách phát triển kinh
tế biển ở nước ta hiện nay

7


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
1.1. Khái quát về chính sách phát triển kinh tế biển
1.2. Khái niệm, vai trò của thực hiện chính sách phát
triển kinh tế biển
1.2.1. Khái niệm về chính sách và chính sách công
Khái niệm chính sách:
Theo từ điển Tiếng Việt, Chính sách là một thuật ngữ được
sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội; chính sách là sách lược, kế
hoạch cụ thể nhằm đạt được một mục đích nhất định, dựa vào đường
lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra chính sách.
Theo tác giả Vũ Cao Đàm thì “chính sách là một tập hợp
biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể
quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội,
kích thích vào động cơ hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục
tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã

hội”.
Khái niệm chính sách công:
Chính sách công là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong
đời sống kinh tế - xã hội. Hiện nay có nhiều các khái niệm về chính
sách công trên thế giới vì các hình thái nhà nước, hệ thống chính trị
khác nhau. Ở nước ta, tồn tại cụm từ “chính sách của Đảng và Nhà
nước” vì Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua việc vạch ra
các cương lĩnh, chiến lược, các định hướng chính sách. Đây là các
căn cứ chỉ đạo để nhà nước ban hành chính sách công. Như vậy,
chính sách công là một trong những công cụ cơ bản được Nhà nước
8


sử dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước. Do đó,
có thể định nghĩa chính sách công như sau: “Chính sách công là một
tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước nhằm lựa
chọn các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực hiện giải
quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu xác định của đảng chính trị
cầm quyền”
1.2.2. Khái niệm kinh tế biển
1.2.3. Khái niệm về thực hiện chính sách phát triển kinh tế
biển
Từ khái niệm chung về chính sách công có thể định nghĩa
thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển như sau: Thực hiện
chính sách phát triển kinh tế biển là một tập hợp các quyết định chính
trị có liên quan của Nhà nước với mục tiêu, giải pháp, công cụ cụ thể
nhằm thực hiện chinh sách phát triển kinh tế biển phù hợp với thực
tiến đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển kinh tế biển hiện nay.
1.2.4. Vai trò của việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế
biển

Phát triển kinh tế biển đồng bộ và bền vững góp phần thúc
đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế.
Phát triển kinh tế biển góp phần giải quyết công ăn việc làm,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho vùng nông thôn ven biển.
Phát triển kinh tế biển góp phần vào công tác bảo vệ chủ
quyền vùng biển của tổ quốc.
1.3. Nội dung thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển
Thứ nhất, phát triển mạnh giao thông vận tải biển để đáp ứng
nhu cầu xuất, nhập khẩu hàng hoá. Việt Nam có nhiều điều kiện
thuận lợi để phát triển giao thông vận tải biển.
9


Thứ hai, tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo, huấn luyện
thuyền viên.
Thứ ba, tập trung phát triển du lịch đảo và du lịch ven biển.
Thứ tư, tăng cường khai thác năng lượng, khoáng sản, thuỷ
sản biển. Đẩy mạnh sản xuất muối biển trên cơ sở thâm canh, cải tiến
kỹ thuật, nâng cao năng suất các đồng muối hiện có.
Thứ năm, phát triển kết cấu hạ tầng biển trên cơ sở đầu tư
nâng cấp các cụm cảng, đáp ứng yêu cầu xuất nhập khẩu.
1.4. Qui trình (các bƣớc) thực hiện chính sách phát triển
kinh tế biển
Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách; Về
thông tin, tuyên truyền chính sách; Phân công phối hợp thực hiện
chính sách công; Đôn đốc thực hiện chính sách công; Tổng kết thực
thi chính sách công.
1.5. Những yếu tố ảnh hƣởng đến thực hiện chính sách
phát triển kinh tế biển Việt Nam

Điều kiện địa lý; Vốn và công nghệ; Lực lượng lao động; Về
cơ chế chính sách; Về hợp tác quốc tế; Thị trường tiêu thụ.
Kết luận Chƣơng 1
Thế kỷ XXI là thế kỷ của Đại Dương vì vậy Đảng và Nhà
nước xây dựng chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 là một tất
yếu khách quan phù hợp với xu thế vận động và phát triển của một
nước có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế biển. Sự nhìn nhận và
đánh giá toàn diện về vai trò cũng như các nhân tố tác động đến kinh
tế biển cho ta một bức tranh toàn cảnh về nhu cầu và định hướng phát
triển kinh tế xã hội trong thời gian đến. Những chủ trương của Đảng
và Nhà nước về phát triển kinh tế biển được trình bày ở phần trên cho
10


ta thấy rằng như là một sự quyết tâm cao để đạt được các yêu cầu về
mục tiêu phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
nhân dân gắn với yêu cầu đòi hỏi trong công tác bảo vệ chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Với lợi thế của quốc gia ven biển,
Việt Nam đã và đang từng bước khai thác các tiềm năng của biển để
xây dựng và phát triển ngành kinh tế biển bền vững, đóng góp quan
trọng vào quá trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Từ những chủ trương và quyết sách về kinh tế biển của Đảng
và Nhà nước là cơ sở lý luận, là định hướng chiến lược quan trọng để
các cấp, các ngành, đặc biệt là các địa phương ven biển nghiên cứu
để đề ra các kế hoạch phát triển kinh tế biển phù hợp với điều kiện
thực tế của địa phương mình.

11



CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ BIỂN TẠI HUYỆN ĐẢO LÝ SƠN,
TỈNH QUẢNG NGÃI
2.1. Những yếu tố ảnh hƣởng đến thực hiện chính sách
phát triển kinh tế biển tại huyện đảo Lý Sơn, tính Quảng Ngãi
Yếu tố vị trí địa lý huyện Đảo Lý Sơn; Yếu tố về khí hậu;
Yếu tố về quốc phòng – an ninh; Yếu tố về tài nguyên thiên nhiên;
Yếu tố về cơ cấu kinh tế; Yếu tố về du lịch; Yếu tố về lao động; Yếu
tố về chính sách vĩ mô của Nhà nước.
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách phát triển
kinh tế biển tại huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi
2.2.1. Quan điểm của cấp ủy, chính quyền huyện đảo Lý Sơn
về phát triển kinh tế biển
2.2.2. Kinh tế biển
2.2.2.1. Đối với lĩnh vực đánh bắt thủy sản:
Tập trung nguồn lực để hiện đại hóa đội tàu đánh bắt xa bờ
với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm.Phát triển mô hình
nghiệp đoàn nghề cá để hỗ trợ trong quá trình đánh bắt dài ngày trên
biển.Phát triển dịch vụ hậu cần trên biển để hỗ trợ cho hoạt động
đánh bắt xa bờ.Có chính sách hỗ trợ ngư dân hợp lý gắn với công tác
tuyên truyền nâng cao nhận thức trong công tác bảo vệ chủ quyền
biển đảo.
Phát triển các cơ sở sửa chữa tàu thuyền phục vụ cho hoạt
động đánh bắt xa bờ.
2.2.2.2. Đối với lĩnh vực chế biến thủy sản
Quy hoạch phát triển các cơ sở chế biến thủy sản vừa mang
12



tính công nghiệp vừa mang tính làng nghề.
Xây dựng cơ chế khuyến khích đầu tư đối với lĩnh vực chế
biến thủy sản.
Phát triển chế biển thủy sản gắn với quy hoạch nơi neo đậu
tránh bão cho tàu thuyền.
2.2.2.3. Đối với lĩnh vực nuôi trồng thủy sản
Tiến hành khảo sát, nghiên cứu, quy hoạch khu nuôi trồng
thủy sản phù hợp với điều kiện tự nhiên của huyện đảo.
Phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm gắn với thương hiệu
Lý Sơn.
2.2.2.4. Đối với lĩnh vực vận tải biển
Có chính sách khuyết khích các thành phần kinh tế tham gia
đầu tư nâng cấp phương tiện tàu vận tải cao tốc.
Xây dựng cơ chế nhà nước đầu tư phát triển hệ thống cảng
biển gắn với nhiệm vụ đảm bảo an ninh quốc phòng.
2.2.2.5. Đối với lĩnh vực Du lịch biển đảo
Bảo tồn, phát triển các khu di tích lịch sử, danh lam thắng
cảnh trên địa bàn huyện; Xây dựng chính sách thu hút các nhà đầu tư
tập trung phát triển hệ thống dịch vụ; Khảo sát, nghiên cứu phát triển
loại du lịch biển dưới nước; Khôi phục và phát triển các giá trị truyền
thống gắn với công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo.
2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển
kinh tế biển huyện Đảo Lý Sơn
2.3.1. Khái quát việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xh tại
huyện đảo Lý Sơn
Lĩnh vực Ngư nghiệp: Là ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến
lược phát triển kinh tế biển của huyện và cũng là ngành nghề truyền
thống của người dân Lý Sơn. Sự định hướng phát triển ngư nghiệp

13


của huyện trong thời gian qua cho thấy huyện Lý Sơn đang có hướng
đi đúng và phù hợp với chiến lược biển đảo và bảo vệ chủ quyền
quốc gia trên biển. Tổng giá trị sản xuất của huyện, đặc biệt là trong
năm 2015 sản lượng khai thác thủy sản đạt 38.854 tấn, gần bằng 1/3
tổng sản lượng đánh bắt thủy sản của toàn tỉnh; giá trị sản xuất đạt
278.674 triệu đồng, chiếm 31,07% giá trị sản xuất toàn ngành của
huyện.
Lĩnh vực dịch vụ và du lịch: Đây được coi là thế mạnh của
huyện và phát triển mạnh trong những năm gần đây, hiện nay toàn
huyện có hơn 800 hộ kinh doạnh các dịch như khách sạn, nhà hàng,
vận tải thủy nội địa, vận tải bộ….với tỷ trọng dịch vụ giai đoạn 20052015 chiếm trên 25 % cơ cấu GDP của huyện. Để tạo điều kiện phát
triển du lịch biển, chính quyền huyện Lý Sơn đã có nhiều chủ trương
khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển hạ tầng dịch
vụ. Đến nay, đã có nhiều dự án lớn như Khách sạn, nhà hàng, khu vui
chơi giải trí, … được đầu tư vào Lý Sơn, với tổng số vốn hàng ngàn
tỷ đồng. Hiện nay lĩnh vực dịch vụ - du lịch đang phát triển mạnh và
là lĩnh vực chiếm giá trị tỷ trọng cao trong nền kinh tế của huyện đảo.
Về lĩnh vực nông nghiệp: Huyện chú trọng khuyến khích
nhân dân mở rộng diện tích sản xuất cây hành, tỏi và thâm canh thêm
một số cây xen canh khác như: cây ngô, đậu, dưa hấu. . . Đây được
coi là ngành nông nghiệp truyền thống của huyện và cho ra những
sản phẩm có thương hiệu như Hành, Tỏi Lý Sơn và được bán trên thị
trường cả nước. Tuy nhiên, do yêu cầu đặc trưng của canh tác đòi hỏi
người nông dân phải thường xuyên khai thác nguồn cát trắng pha vôi
để cải tạo đất dẫn đến nguồn cát cạn kiệt dần làm ảnh hưởng đến xâm
thực của biển, bên cạnh đó dân số ngày càng tăng trong khi quỹ đất
phát triển nông nghiệp thì càng thu hẹp, mặt khác sản xuất nông

14


nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện khí hậu thời tiết, nên sản lượng
thu hoạch được qua các năm không ổn định, không có tính bền vững;
tình trạng nông dân sử dụng quá nhiều phân bón, thuốc BVTV làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sản phẩm và môi trường
sống. Do khó khăn từ sản xuất nông nghiệp nên nhiều người dân đã
dần chuyển sang ngư nghiệp hoặc thương mại, dịch vụ. Trước những
khó khăn của ngành nông nghiệp, chính quyền huyện Lý Sơn đã có
chủ trương ổn định diện tích sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh quảng
bá thương hiệu nhằm nâng cao giá trị sản phẩm, đồng thời khuyến
khích người dân chuyển đổi ngành nghề sang lĩnh vực ngư nghiệp.
Về Công nghiệp –xây dựng: Có thể thấy rằng lĩnh vực công
nghiệp-xây dựng của huyện Lý Sơn phát triểm chậm và không được
coi là ngành kinh tế mũi nhọn vì xuất phát từ điều kiện địa lý, nguồn
nguyên liệu hạn chế và một số nguyên nhân khách quan khác nên
việc phát triển công nghiệp gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, toàn
huyện có trên 350 cơ sở sản xuất với quy mô vừa và nhỏ theo hình
thức hộ gia đình là chủ yếu như sản xuất khai thác đá, đá lạnh, mộc
dân dụng, may mặc, sữa chữa tàu thuyền .
Về lĩnh vực môi trường: Công tác bảo vệ môi trường được
các cấp chính quyền quan tâm đẩy mạnh công tác tuyên truyền để
nhằm động viên nhân dân nâng cao ý thức giữ gìn và bảo vệ môi
trường, hiện nay trên địa bàn huyện có một khu xử lý rác thải sinh
hoạt với công suất xử lý từ 25-30 tấn rác/ngày đã phần nào cải thiện
môi trường trên đảo.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Hiện tại Lý Sơn có 10 trường đủ
các cấp học (THPT; THCS; trường tiểu học; mầm non và Trung tâm
hướng nghiệp dạy nghề với hơn 6.000 học sinh). Huyện có 01 Trung

tâm y tế quân dân kết hợp đảm bảo chăm sóc sức khỏe cho cán bộ và
15


chiến sĩ trên đảo. Các hoạt động văn hoá thông tin kịp thời đáp ứng
công tác tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính
trị và phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
2.3.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách phát triển
kinh tế biển
Ngành đánh bắt thủy sản; Dịch vụ hậu cần nghề cá, chế biến
thủy sản; Ngành nuôi trồng thủy sản; Ngành vận tải biển; Ngành du
lịch biển.
Kết luận Chƣơng 2
Cùng với xu thế phát triển, Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân huyện đảo Lý Sơn đã tích cực lao động sản xuất, ổn định cuộc
sống vươn lên làm giàu. Bám sát vào các chủ trương của Đảng nhất
trong những năm qua, Lý Sơn đã tập trung phát triển kinh tế biển làm
nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Với điều kiện
thiên nhiên ưu đãi, ngư trường mở rộng cùng với sự lao động miệt
mài, chịu khó của ngư dân Lý Sơn và các chính sách hỗ trợ của Nhà
nước đã từng bước đem lại hiệu quả kinh tế, nâng cao mức sống của
người dân. Tuy nhiên, Lý Sơn vẫn đang đứng trước những khó khăn,
thách thức như nguồn vốn cho đầu tư phát triển nói chung và đầu tư
cho hiện đại hóa đội tàu đánh bắt xa bờ còn nhiều bất cập và hạn chế;
trình độ quán lý, phương thức sản xuất của ngư dân còn thấp, mang
tính truyền thống; ý thức bảo vệ môi trường của người dân chưa tốt
còn xảy ra tình trạng đánh bắt hải sản bằng vật liệu nổ, cào bay...làm
hủy hoại môi trường sinh thái biển. Bên cạnh đó, với điều kiện thời
tiết bất thường như hiện nay và tình hình tranh chấp chủ quyền trên

Biển Đông đã và đang gây ra những bất lợi cho ngư dân. Đứng trước
16


những thuận lợi và khó khăn, đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân huyện đảo
Lý Sơn cần phải có những định hướng phát triển kinh tế hợp lý mà
trước hết là tập trung thực hiện các giải pháp về phát triển kinh tế
biển vì đây là nền tảng phát triển kinh tế - xã hội của Lý Sơn trong
tương lai và phù hợp với chủtrương của Đảng về Chiến lược biển đến
năm 2020.

17


CHƢƠNG 3
TĂNG CƢỜNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
3.1. Mục tiêu, quan điểm tăng cƣờng thực hiện chính sách
phát triển kinh tế biển ở nƣớc ta
3.1.1. Mục tiêu tổng quát
Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu đưa
Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, phát
triển toàn diện các ngành, nghề biển gắn với cơ cấu phong phú, hiện
đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao;: “Mục
tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển, đảo,
biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
XHCN…
3.1.2. Mục tiêu cụ thể
Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển đóng góp khoảng 53 55% GDP, 55 - 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt

các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống của nhân dân
vùng biển và ven biển.
Quy hoạch phát triển kinh tế đảo Việt Nam đến năm 2020.
Thực hiện chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên
và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
3.1.3. Quan điểm tăng cường thực hiện chính sách phát
triển kinh tế biển của Việt Nam
Đối với nước ta, vùng biển, đảo không chỉ là một bộ phận
cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, mà cùng với đất liền,
còn tạo ra môi trường sinh tồn, phát triển đời đời của dân tộc Việt
18


Nam. Vì thế, đã từ lâu, hướng ra biển, kết hợp phát triển kinh tế với
bảo vệ chủ quyền biển, đảo được Đảng, Nhà nước hết sức coi trọng.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, hiệu quả khai thác các
nguồn lợi từ biển những năm trước đây có mặt còn hạn chế. Nhận
thức rõ điều đó, Hội nghị Trung ương 4 (khóa X) về “Chiến lược
biển Việt Nam đến năm 2020” đã xác định các quan điểm về định
hướng phát triển Chiến lược biển của đất nước, với nội dung cơ bản
như sau:
Một là, nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm
giàu từ biển, trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển
toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra
tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn.
Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với
bảo đảm quốc phòng - an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường,
kết hợp giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển
vùng nội địa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ba là, khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội,

bảo vệ môi trường biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa,
phát huy đầy đủ và có hiệu quả các nguồn lực bên trong; tranh thủ
hợp tác quốc tế, thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài theo nguyên
tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Quan điểm trên của Đảng ta thể hiện rõ tư tưởng chỉ đạo
xuyên suốt, mục tiêu cần đạt được và các phương thức chủ yếu nhằm
thực hiện thắng lợi “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”.
Trong đó, việc khai thác, phát huy các nguồn lực (cả trong và ngoài
nước); kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc
phòng - an ninh; thực hiện bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
19


thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ gắn với gìn giữ môi trường hòa bình để
phát triển bền vững trên các vùng biển, đảo giữ vai trò hết sức quan
trọng. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, nguy cơ mất ổn định an ninh
ở Biển Đông nói chung, các vùng biển, đảo nước ta nói riêng có chiều
hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, khó lường, thì các quan điểm chỉ
đạo nói trên của Đảng càng có ý nghĩa quan trọng. Điều đó đòi hỏi
chúng ta cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc các quan điểm
chỉ đạo của Đảng về định hướng phát triển “Chiến lược biển Việt Nam
đến năm 2020” bằng nhiều kế hoạch, chương trình hành động thiết
thực, góp phần đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu
từ biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa
thiêng liêng của Tổ quốc.
3.2. Phƣơng hƣớng, giải pháp tăng cƣờng thực hiện chính
sách phát triển kinh tế biển ở nƣớc ta nói chung và huyện Lý Sơn
nói riêng

Phương hướng tăng cường thực hiện chính sách phát triển
kinh tế biển ở Việt Nam; Các giải pháp tăng cường thực hiện chính
sách phát triển kinh tế biển ở Việt Nam; Các giải pháp tăng cường
thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển ở huyện Lý Sơn.
Kết luận Chƣơng 3
Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, là một chủ trương
đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trước những yêu cầu đòi hỏi của
công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Với đặc điểm của một quốc gia ven biển, Việt Nam có
tiềm năng và lợi thế lớn để phát triển ngành kinh tế biển trở thành
một ngành kinh tế chủ lực đóng góp quan trọng vào quá trình công
20


nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phấn đấu đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại như
Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định. Với tinh thần
chung của cả nước và để hiện thực hóa các Nghị quyết của Đảng về
phát triển kinh tế biển, trong những năm qua huyện Đảo Lý Sơn đã
tiến hành triển khai và tập trung phát triển kinh tế biển và coi đây là
ngành kinh tế chủ lực. Với điều kiện địa lý cách xa đất liền, xung
quanh là biển cả, vùng biển Lý Sơn được thiên nhiên ban tặng những
sản vật quý hiếm và đa dạng, là nguồn sống của người dân Lý Sơn
qua bao đời nay và hơn thế nữa ngư trường đánh bắt của ngư dân Lý
Sơn không chỉ giới hạn xung quanh đảo mà đã mở rộng ra khắp vùng
Biển Đông, đặc biệt là khu vực quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa
được coi là ngư trường truyền thống của ông cha ta để lại, còn có ý
nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ chủ quyền vùng biển thiêng liêng
của Tổ quốc. Bên cạnh những ưu đải về thiên nhiên thì người dân Lý
Sơn có truyền thống cần cù, chịu khó trong lao động, sản xuất và coi

nghề biển là nghề nuôi sống của bản thân và gia đình....Đó là những
tiềm năng và lợi thế để Lý Sơn phát triển kinh tế biển trong thời gian
đến.
Tuy vậy, nhìn lại quá trình phát triển kinh tế biển huyện đảo
Lý Sơn thời gian qua vẫn chưa thấy được những điểm nổi bật của nó
với vai trò là một ngành kinh tế chủ đạo theo như Nghị quyết Đảng
bộ huyện Lý Sơn đã khẳng định. Mô hình phát triển chưa có sự đổi
mới, phương thức quản lý và sản xuất vẫn mang tính truyền thống và
lạc hậu, ngư dân đánh bắt hải sản chủ yếu dựa trên kinh nghiệm là
chính mà chưa thật sự áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất; đội
tàu đánh bắt và công suất tàu có tăng nhưng không bền vững, và chủ
yếu là tàu vỏ gỗ hiệu quả khai thác không cao, sức chịu đựng với thời
21


tiết bão tố thấp nên thường xuyên xảy ra những tai nạn đáng tiết; giá
cả thị trường không ổn định, được mùa thì rớt giá, mất mùa thị được
giá, vì vậy đời sống của ngư dân vẫn còn nhiều khó khăn. Dù Đảng
bộ và chính quyền địa phương cũng đã ban hành các chủ trương, giải
pháp về phát triển kinh tế biển những hầu như vẫn cn mang tính định
hướng chung chung, sự cụ thể hóa và quyết tâm thực hiện vẫn chưa
quyết liệt nên kinh tế của huyện nói chung và kinh tế biển nói riêng
hiệu quả phát triển vẫn còn thấp.
Trước những yêu cầu đổi mới mạnh mẽ của đất nước, trước
sự phát triển và tiến bộ nhanh của khoa học kỹ thuật và yêu cầu
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc đòi hỏi việc định
hướng phát triển kinh tế biển của huyện trở thành một ngành kinh tế
chủ lực là yêu cầu tất yếu khách quan, là sự cần thiết để đẩy nhanh
tốc độ phát triển kinh tế-xã hội của huyện từng bước xây dựng huyện
Lý Sơn giàu mạnh.


22


KẾT LUẬN
Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, là một chủ trương
đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trước những yêu cầu đòi hỏi của
công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Với đặc điểm của một quốc gia ven biển, Việt Nam có
tiềm năng và lợi thế lớn để phát triển ngành kinh tế biển trở thành
một ngành kinh tế chủ lực đóng góp quan trọng vào quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phấn đấu đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại như
Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định. Với tinh thần
chung của cả nước và để hiện thực hóa các Nghị quyết của Đảng về
phát triển kinh tế biển, trong những năm qua huyện Đảo Lý Sơn đã
tiến hành triển khai và tập trung phát triển kinh tế biển và coi đây là
ngành kinh tế chủ lực. Với điều kiện địa lý cách xa đất liền, xung
quanh là biển cả, vùng biển Lý Sơn được thiên nhiên ban tặng những
sản vật quý hiếm và đa dạng, là nguồn sống của người dân Lý Sơn
qua bao đời nay và hơn thế nữa ngư trường đánh bắt của ngư dân Lý
Sơn không chỉ giới hạn xung quanh đảo mà đã mở rộng ra khắp vùng
Biển Đông, đặc biệt là khu vực quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa
được coi là ngư trường truyền thống của ông cha ta để lại, còn có ý
nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ chủ quyền vùng biển thiêng liêng
của Tổ quốc. Bên cạnh những ưu đải về thiên nhiên thì người dân Lý
Sơn có truyền thống cần cù, chịu khó trong lao động, sản xuất và coi
nghề biển là nghề nuôi sống của bản thân và gia đình....Đó là những
tiềm năng và lợi thế để Lý Sơn phát triển kinh tế biển trong thời gian
đến.

Tuy vậy, nhìn lại quá trình phát triển kinh tế biển huyện đảo
23


Lý Sơn thời gian qua vẫn chưa thấy được những điểm nổi bật của nó
với vai trò là một ngành kinh tế chủ đạo theo như Nghị quyết Đảng
bộ huyện Lý Sơn đã khẳng định. Mô hình phát triển chưa có sự đổi
mới, phương thức quản lý và sản xuất vẫn mang tính truyền thống và
lạc hậu, ngư dân đánh bắt hải sản chủ yếu dựa trên kinh nghiệm là
chính mà chưa thật sự áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất; đội
tàu đánh bắt và công suất tàu có tăng nhưng không bền vững, và chủ
yếu là tàu vỏ gỗ hiệu quả khai thác không cao, sức chịu đựng với thời
tiết bão tố thấp nên thường xuyên xảy ra những tai nạn đáng tiết; giá
cả thị trường không ổn định, được mùa thì rớt giá, mất mùa thị được
giá, vì vậy đời sống của ngư dân vẫn còn nhiều khó khăn. Dù Đảng
bộ và chính quyền địa phương cũng đã ban hành các chủ trương, giải
pháp về phát triển kinh tế biển những hầu như vẫn cn mang tính định
hướng chung chung, sự cụ thể hóa và quyết tâm thực hiện vẫn chưa
quyết liệt nên kinh tế của huyện nói chung và kinh tế biển nói riêng
hiệu quả phát triển vẫn còn thấp.
Trước những yêu cầu đổi mới mạnh mẽ của đất nước, trước
sự phát triển và tiến bộ nhanh của khoa học kỹ thuật và yêu cầu
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc đòi hỏi việc định
hướng phát triển kinh tế biển của huyện trở thành một ngành kinh tế
chủ lực là yêu cầu tất yếu khách quan, là sự cần thiết để đẩy nhanh
tốc độ phát triển kinh tế-xã hội của huyện từng bước xây dựng huyện
Lý Sơn giàu mạnh.

24




×