Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

14 hỏi và trả lời ôn thi triết học đại học thủy lợi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.89 KB, 39 trang )

Câu 1: Theo V.I. Lênin: “Trong thế giới, không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật
chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”. Bằng sự hiểu
biết quan điểm về vận động vật chất của CNDVBC và xu thế hội nhập toàn cầu, chứng
minh rằng việc Đảng Cộng Sản Việt Nam lựa chọn con đường phát triển trong chiến lược
phát triển kinh tế năm 2000-2010 là hoàn toàn phù hợp với quy luật tất yếu của cuộc sống.
Trả lời:
Định nghĩa về vận động:
Theo quan điểm của CNDVBC, vận động không chỉ là sự thay đổi vị trí trong không gian
(hình thức vận động thấp, giản đơn của vật chất) mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự
biến đổi. Ph.Ăngghen viết “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất (…) bao gồm tất cả mọi sự
thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.
Đặc điểm vận động:
Khi định nghĩa vận động là sự biến đổi nói chung thì vận động “là thuộc tính cố hữu của
vật chất”, “là phương thức tồn tại của vật chất”. Điều này có nghĩa là vật chất tồn tại bằng các
vận động. Trong vận động và thông qua vận động mà các dạng vật chất biểu hiện sự tồn tại của
mình.
Với tính cách “là thuộc tính cố hữu của vật chất”, theo quan điểm của triết học MácLênin, vận động là sự tự thân vận động của vật chất, được tạo nên từ sự tác động lẫn nhau của
chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất.
Vật chất là vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi và vận động là một thuộc tính
không thể tách rờivật chất nên bản thân sự vận động cũng không thể bị mất đi hoặc sáng tạo ra.
Kết luận này của triết học Mác-Lênin đã được khẳng định bởi định luật bảo toàn chuyển hóa
năng lượng trong vật lý. Theo định luật này, vận động của vật chất được bảo toàn cả về mặt
lượng và chất. Nếu một hình thức vận động nào đó của sự vật mất đi thì tất yếu nảy sinh một
hình thức vận động khác thay thế nó. Các hình thức vận động chuyển hóa lẫn nhau, còn vận
động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
Các hình thức vận động:
Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân chia vận
động thành 5 hình thức cơ bản, đó là.
- Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian).
- Vận động vật lý (vận động của các phần tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá
trình nhiệt điện…)


- Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân giải và
phân giải các chất).
- Vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường.
- Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tếxã hội).
Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất, về trình độ của sự vận động. Các
hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó tất
cả các hình thức vận động thấp hơn, các hình thức vận động thấp không có khả năng bao hàm
các hình thức vận động ở trình độ cao.
Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn nhiều hình thức vận động khác nhau.
Tuy nhiên, bản thân sự tồn tại của sự vật đó bao giờ cũng đặc trưng bằng một hình thức vận
động cơ bản.
Quan hệ giữa vận động và đứng im
Khi triết học Mac-Lênin khẳng định thế giới vật chất tồn tại trong sự vận động vĩnh cữu
của nó, thì điều đó không có nghĩa là phủ nhận hiện tượng đứng im của thế giới vật chất mà
ngược lại còn thừa nhận rằng, quá trình vận động không ngừng chẳng những không loại trừ mà
còn bao hàm trong nó hiện tượng đứng im. Đứng im, là một trạng thái đặc biệt của vận độngvận động trong cân bằng.
Đứng im chỉ là hiện tượng tương đối và tạm thời.
Đứng im là tương đối vì trước hết hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một mối quan hệ
nhất định chứ không phải trong mọi quan hệ cùng một lúc. Thứ hai, đứng im chỉ xảy ra với một
hình thái vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải với mọi hình thức vận động trong cùng

1


một lúc. Thứ ba, đứng im chỉ biệu hiện một trạng thái vận động, đó là vận động trong thăng
bằng, trong sự ổn định tương đối, biểu hiện thành một sự vật nhất định. Không có đứng im
tương đối thì không có sự vật nàocả. Do đó, đứng im còn biểu hiện được biểu hiện như một quá
trình vận động trong phạm vi chất của sự vật còn ổn định, chưa thay đổi.
Đứng im là tạm thời vì vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật, hiện tượng, ổn
định nào đó, còn vận động nói chung, tức là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa sự vật, hiện tượng

làm cho tất cả không ngừng biến đổi.
Phần vận dụng:
Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế, đỏi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải phát huy cao
độ tinh thần cách mạng tiến công, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc, đưa đất nước tiến nhanh và vững chắc theo định hướng XHCN.
Quan điểm phát triển:
Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội và bảo và bảo vệ môi trường.
Phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm, ngành, lĩnh
vực mà nước ta có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu, không ngừng
nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước. Tăng nhanh năng suất lao
động xã hội và nâng cao chất tăng trưởng. Triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, tăng tích lũy cho
đầu tư phát triền.
Các vùng kinh tế trọng điểm có nhịp độ tăng trưởng tăng theo mức bình quân chung,
đóng góp lớn vào tăng trưởng của cả nước và lôi kéo, hổ trợ các vùng khác, nhất là các vùng có
nhiều khó khăn, cùng phát triển.
Tăng nhanh năng lực nội sinh về khoa học và khoa học và công nghệ, nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục và đạo tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đẩy
mạnh việc ứng dụng các công nghệ nhập khẩu. Đi nhanh vào công nghệ hiện đại và ở những
ngành và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế tạo tốc độ tăng
trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa
ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển. nân cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố
phát triển kinh tế-xã hội, từng bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta.
Nâng cao năng lực và tạo cơ hội cho mọi người đều có thể phát huy hết tài năng, tham
gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả phát triển, đồng thời năng cao trách nhiệm
của mỗi người góp sức thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
giữ gìn và phàt triển nền văn hóa dân tộc, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân về ăn, mặc, ở, đi lại, phòng và chữa bệnh, học tập, làm việc, tiếp nhận thông
tin, sinh hoạt văn hóa. Khuyến khích làm giàu hợp pháp, đồng thời ra sức xóa đói giảm nghèo,
tạo điều kiện về hạ tầng và năng lực sản xuất để các vùng, các cộng đồng có thể tự phát triển,

tiến tới thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Thiết thực chăm lo
sự bình đẳng về giới, sự tiến bộ của phụ nữ; đặc biệt chăm lo sự tiến bộ và phát triển của trẻ
em.
Phát triển KT-XH gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, đảm bảo sự hài hòa giữa
môi trường nhân tạo và môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học. Chủ động phòng tránh
và hạn chế tác động xấu của thiên tai, của sự biến động bất lợi của chiến tranh và tiếp tục giải
quyết hậu quả chiến tranh còn lại đối với môi trường. Bảo vệ và cải tạo môi trường là trách
nhiệm của toàn XH, tăng cường quản lý nhà nước đi đôi với nâng cao ý thức và trách nhiệm của
mọi người dân. Chủ động gắn kết yêu cầu cải thiện môi trường trong mỗi quy hoạch, kế hoạch,
chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội, coi yêu cầu về môi trường là một tiêu chí quan
trọng đánh giá các giải pháp phát triển.
Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng cho một nước
công nghiệp là yêu cầu cấp thiết.
Bằng sức mạnh tổng hợp của đất nước, kết hợp các nguồn lực trong nước và ngoài nước,
tập trung sức phát triển kinh tế để xây dựng đồng bộ nền tản cho một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại với những nội dung chủ yếu sau:
- Xây dựng tiềm lực kinh tế và cơ sở vật chất-kỹ thuật đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa bao gồm: kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; nền công nghiệp, trong đó công nghiệp
sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng, công nghiệp, công nghệ cao, công nghiệp quốc phòng; nền

2


nông nghiệp hàng hóa lớn; các dịch vụ cơ bản; tiềm lực khoa học và công nghệ. Trên cơ sở tổng
hợp hiệu quả về kinh tế-xã hội, trước mắt va lâu dài, triển khai xây dừng các công trình kết cấu
hạ tầng thiết yếu và xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp năng quan trọng, cấp thiết,
có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy nhanh tác dụng, đáp ứng yêu cầu phát triển
của các ngành kinh tế và quốc phòng, an ninh.
- Phát triển mạnh nguồn lực con người Việt Nam với yêu cầu ngày càng cao.
- Hình thành về cơ bản và vận hành thông suốt, có hiệu quả thể chế kinh tế thị trường,

định hướng XHCN với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực giải phóng và phát huy mọi nguồn lực.
Tiếp tục đổi mới sâu rộng, đồng bộ về kinh tế, xã hội và bộ máy nhà nước hướng vào
hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm giải phóng và phát
triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân
tộc, tạo động lực và nguồn lực phát triển nhanh, bền vững.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp tòan dân, của mọi thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Tập trung tháo gỡ mọi vướng mắc, xóa bỏ mọi trở lực để khơi
dậy nguồn lực to lớn trong dân, cồ vũ các nhà kinh doanh và mọi người dân ra sức làm giàu cho
mình và đất nước. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thu hút tốt hơn và sử dụng các nguồn
lực có hiệu quả bên ngoài. Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau tạo
thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước.
Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Hội nhập
kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây dựng kinh tế độc lập tự chủ.
Xây dựng kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối phát triển theo
định hướng XHCN; đẩy mạnh CNH, HĐH, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở
vật chất-kỹ thuật đủ mạnh; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh; có thể chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; đảm bảo nền kinh tế đủ
sức đứng vững và ứng phó được với các tình huống phức tạp, tạo điều kiện thực hiện có hiệu
quả các cam kết hội nhập quốc tế.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển trên nguyên tắc
giữ vững độc lập tự chủ và định hướng XHCN, chủ quyền quốc gia và bản sắc văn hóa dân tộc;
bình đẳng cùng có lợi, vừa hợp tác vừa đấu tranh; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh
tế đối ngoại; đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.
Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao
chất lượng, hiệu quả, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ. Nâng
cao hiệu quả hợp tác với bên ngoài; tăng cường vai trò ảnh hưởng của nước ta đối với kinh tế
khu vực và thế giới.
Kết hợp chặc chẽ phát triển kinh tế-xã hội với quốc phong-an ninh.

Kết hợp chặc chẽ phát triển KT-XH với xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn
dân, thế trận an ninh nhân dân, được thể hiện trong chiến lược, quy họach, kế hoạch phát triển
KT-XH của cả nước, của các ngành, các địa phương và trong các dự án đầu tư lớn. Phân bố hợp
lý việc xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật trên các vùng của đất nước, vừa phát huy hiệu quả kinh
tế-xã hội, vừa sử dụng được cho quốc phòng, an ninh khi cần thiết. Đầu tư phát triển KT-XH,
ổn định dân cư các vùng xung yếu, vùng biên giới, cửa khẩu, hải đảo phù hợp với chiến lược
quốc phòng và chiến lược an ninh quốc gia. Hoàn chỉnh chiến lược quốc phòng và chiến lược an
ninh quốc gia phù hợp với tình hình mới, phục vụ phát triển KT-XH, mở rộng kinh tế đối ngoại.
Phát triển công nghiệp quốc phòng và kết hợp sử dụng năng lực đó để tham gia phát triển KTXH. Coi trọng sản xuất một số mặt hàng vừa phục vụ kinh tế, vừa phục vụ quốc phòng, an nin
Tác giả
Câu 2 : Bằng sự hiểu biết quan điểm quyết định luận duy vật trong quan hệ vật chất với ý thức của
CNDVBC, chứng minh rằng việc Đảng Cộng Sản Việt Nam trong đại hội lần thứ VII đã rút ra bài học :”
Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan” có ý nghĩa
quan trọng nhât trong công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay
Bài làm

3


Vật chất theo quan điểm triết học Mác Lênin “là một phạm trù triết học đúng để chỉ thực
tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Ý thức của con người theo triết học duy vật biện chứng không phải là một hiện tượng
thần bí, tách rời khỏi vật chất mà là đặc tính của một dạng vật chất có tổ chức đặc biệt là bộ óc
của con người, là sự phản ánh sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài vào bộ óc của con
người trên nền tảng của hoạt động lao động sáng tạo và được hiện thực hóa bằng ngôn ngữ. Ý
thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng , thể hiện qua vai trò quyết định của
vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất.
Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, vật chất là cơ sở, cội nguồn sản sinh ra

ý thức. Vật chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức, quyết định nội dung và xu hướng phát triển
của ý thức. Không có vật chất thì không thể có ý thức bởi vì nguồn gốc của ý thức chính là vật
chất trong đó bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức, cơ quan phản ánh thế giới xung quanh,
sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Lao động trong hoạt động thực tiễn, hoạt động sản xuất của cải vật chất và ngôn ngữ (tiếng nói,
chữ viết), cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành tồn tại và phát triển của ý thức.
Ngoài ra, ý thức chỉ có thể trở thành sức mạnh vật chất, sức mạnh cải tạo hiện thực thông qua
hoạt động thực tiễn, bằng việc khai thác, sử dụng hợp lý các điều kiện phương tiện vật chất cần
thiết cho hành động.
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định nhưng nó lại có tính độc lập tương, sự phản ánh
của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh sáng tạo chủ động, là quá trình con người không
ngừng tìm kiếm tích lũy những hiểu biết mới ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về mặt bản
chất, quy luật vận động và phát triển sự vật . Vì vậy, sau khi đã hình thành, ý thức có vai trò
định hướng cho con người trong việc xác định mục tiêu, phương hướng tìm ra biện pháp lựa
chọn các phương án, hành động tối ưu nhất và sử dụng các điều kiện vật chất cần thiết để làm
biến đổi chúng đạt đến mục tiêu đã đặt ra. Mặt khác sự tác động của ý thức đến vật chất có thể
theo hai khuynh hướng : Một là ý thức sẽ thúc đẩy cùng chiều đối với sự phát triển của sự vật
nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực, khách quan nếu con người nhận thức đúng quy luật khách
quan, có ý chí động cơ hành động đúng và thông qua cơ chế tổ chức hoạt động phù hợp trong
thực tiễn. Hai là ý thức kìm hảm, cản trở, thậm chí phá hoại sự phát triển bình thường của sự
vật nếu ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan, ý thức lạc hậu, phản khoa học, phản
động, nếu con người không có ý chí, không nhiệt tình, động cơ sai …Tuy vậy, sự tác động của ý
thức đối với vật chất cũng chỉ với mức độ nhất định, nó không thể sinh ra hay tiêu diệt các quy
luật vận động của vật chất.
Từ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức một nguyên tắc
được rút ra, đó là nguyên tắc, khách quan. Nguyên tắc khách quan trước nhất thừa nhận vai trò
quyết định của vật chất đối với ý thức, nó đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan,
“phải lấy thực thể khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình”. Như vậy, vật chất và ý
thức có mối quan hệ biện chứng với nhau và mối liên hệ đó tuân theo các quy luật khách quan

vốn có của nó.
Phần vận dụng
Sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước, nước ta bước đầu vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm rất thấp, nền kinh tế ở tình trạng nông nghiệp lạc hậu,
còn nặng tính chất tự cấp, tự túc. Trang bị kỹ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội thấp kém.
Cơ cấu kinh tế mất cân đối nặng. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp để lại nhiều hậu
quả nặng nề. Nền kinh tế rất kém hiệu quả, năng suất lao động thấp, tích luỹ trong nước chưa
đáng kể, còn lệ thuộc nhiều vào bên ngoài.
Khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm nay: lạm phát nghiêm trọng; sản xuất bấp
bênh; thất nghiệp tăng; tiền lương không đủ sống; trật tự an toàn xã hội không được bảo đảm;

4


tham nhũng và nhiều tệ nạn xã hội khác lan rộng, công bằng xã hội bị vi phạm; nếp sống văn
hoá, tinh thần và đạo đức bị xói mòn; lòng tin vào Đảng và Nhà nước giảm sút.
Thực trạng nêu trên có nguồn gốc sâu xa do lịch sử để lại và hậu quả nhiều năm chiến tranh,
song chủ yếu là do chúng ta đã phạm sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan
trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong tiến trình công nghiệp hoá và trong cơ chế quản lý kinh
tế. Những sai lầm đó cùng với sự trì trệ trong công tác tổ chức, cán bộ đã kìm hãm lực lượng
sản xuất và triệt tiêu nhiều động lực phát triển.
Không phát huy được mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực con người
Nước ta có nguồn nhân lực dồi dào. Người Việt Nam đang có những hạn chế về thể lực, kiến
thức, tay nghề, còn mang thói quen sản xuất lạc hậu và dấu ấn của cơ chế cũ. Khắc phục được
những nhược điểm đó thì nguồn nhân lực và nhân tố con người mới thật sự trở thành thế mạnh
của đất nước
Về vị trí địa lý: Nước ta nằm ở khu vực đang phát triển kinh tế năng động nhất thế giới, lại
nằm trên các tuyến giao thông quốc tế quan trọng
Tài nguyên thiên nhiên nước ta tương đối phong phú, đa dạng. Điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu,
tài nguyên sinh vật cho phép phát triển nông- lâm- ngư nghiệp nuôi được số dân đông và có

nhiều loại sản phẩm xuất khẩu. Song thiên tai thường xảy ra cũng gây nhiều thiệt hại
Vùng biển và thềm lục địa rộng lớn có nhiều tiềm năng về thuỷ sản, dầu khí và sa khoáng, dịch
vụ hàng hải và du lịch...
Tài nguyên nước đáp ứng được nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống. Nguồn thuỷ năng có
thể khai thác trên nhiều vùng, cung cấp một phần năng lượng đáng kể
Cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có tuy thiếu đồng bộ và phần lớn lạc hậu về công nghệ, song là
vốn ban đầu để đi lên, trong đó có một số cơ sở quan trọng.
Các nguồn lực ngoài nước.
Trong thập kỷ 90, tình hình thế giới còn diễn biến phức tạp, đặt nước ta trước nhiều khó khăn
gay gắt, đặc biệt là trong những năm đầu. Mặt khác, quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới,
quan hệ giao lưu kinh tế và khoa học, kỹ thuật, xu thế hoà bình và hợp tác ở khu vực và trên
thế giới ngày càng phát triển. Với đường lối đổi mới và cởi mở, nước ta có thể tận dụng được
những khả năng to lớn về vốn, thị trường, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của bên ngoài để
bổ sung và phát huy sức mạnh trong nước.
Các nguồn lực và lợi thế nêu trên phần lớn còn ở dạng tiềm năng mà việc khai thác phải vượt
qua nhiều trở ngại. Xác định đúng các quan điểm, mục tiêu và giải pháp chiến lược là điều
kiện tiên quyết để biến tiềm năng thành hiện thực . Đổi mới là dựa trên những quan điểm nói
trên.
Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Chiến lược kinh tế
- xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng
của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cả cộng đồng dân tộc, động viên và tạo điều kiện
cho mọi người Việt Nam phát huy ý chí tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước. Lợi ích của mỗi người, của từng tập thể và
của toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp.
Nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế
hoạch, chính sách và các công cụ khác. Khuyến khích tính năng động, sáng tạo đi đôi với thiết
lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế
Mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế, các công ty và tư nhân nước
ngoài trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
Hiệu quả kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn quan trọng nhất của sự phát triển. Các đơn vị kinh tế

kinh doanh có hiệu quả, có lãi và thực hiện các trách nhiệm xã hội theo luật pháp. Nhà nước có
chính sách khuyến khích và hỗ trợ cho các đơn vị kinh tế bị thua thiệt khi phục vụ lợi ích
chung.
Phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, không ngừng nâng cao năng lực khoa học và công nghệ,
chú trọng nghiên cứu ứng dụng và triển khai để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Kết
hợp nhiều trình độ công nghệ khác nhau, tranh thủ tối đa công nghệ tiên tiến, tận dụng lợi thế
của nước đi sau. Khai thác các yếu tố phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, ngày càng
hướng mạnh vào chiều sâu. Tận dụng lợi thế của loại hình xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ.

5


Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ
môi trường.
Dân chủ hoá đời sống xã hội; quyền công dân, quyền con người và tự do cá nhân được bảo
đảm bằng pháp luật, được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật và chỉ bị ràng buộc bởi pháp
luật.
Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với ổn định và đổi mới về chính trị, tăng cường
củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
CÂU 3: Theo V.I Lênin, để có tri thức đúng về sự vật, “bản thân sự vật phải được xem
xét trong những quan hệ của nó và trong sự phát triển của nó” (V.I Lênin toàn tập t.42, tr.238).
Bằng sự hiểu biết về nguyên lý phát triển của phép biện chứng duy vật, chứng minh rằng việc
Đảng cộng sản Việt Nam thừa nhận phải tồn tại nhiều thành phần kinh tế là sự lựa chọn hoàn
toàn phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử thế giới và những mục tiêu mà xã hội đặt ra
trong giai đoạn hiện nay của nước ta.
Trả lời:
1. Phần nội dung cơ bản (3 điểm)
a. Các quan điểm về phát triển:
Xem xét về sự phát triển cũng có những quan điểm khác nhau, đối lập với nhau: quan
điểm siêu hình và quan điểm biện chứng:

Quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay sự giảm đi đơn thuần về
mặt lượng, không có sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật; hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về
chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín, chứ không có sự sinh thành ra
cái mới với những chất mới. Những người theo quan điểm siêu hình xem sự phát triển như là
một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co, thăng trầm, phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một quá
trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời
của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư duy, sự phát triển diễn
ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng, mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có
những bước lùi tạm thời.
b. Quan điểm của CNDVBC (định nghĩa, nguồn gốc, tính chất)
Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và tôn giáo về nguồn gốc
của sự phát triển. Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định nguồn gốc của sự phát triển nằm
trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định. Quá trình giải quyết liên
tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, do đó, cũng là quá trình tự thân phát triển của mọi sự vật.
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực,
quan điểm duy vật biện chứng khẳng định, phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá
trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn của sự vật.
Theo quan điểm này, phát triển không bao quát toàn bộ sự vận động nói chung. Nó chỉ
khái quát xu hướng chung của sự vận động – xu hướng vận động đi lên của sự vật, sự vật mới ra
đời thay thế cho sự vật cũ. Sự phát triển chỉ là một trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong
quá trình phát triển của mình trong sự vật sẽ hình thành dần dần những quy định mới cao hơn về
chất, sẽ làm thay đổi mối liên hệ, cơ cấu, phương thức tồn tại và vận động, chức năng vốn có
theo chiều hướng ngày càng hoàn thiện hơn.
Tính chất của sự phát triển: Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng phát triển
cũng có ba tính chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
- Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì, như trên đã phân tích theo
quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân
sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuần nảy sinh trong sự tồn tại

và vận động của sự vật. Nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển. Vì thế sự phát triển là tiến
trình khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người.

6


-

Sự phát triển mang tính phổ biến: tính phổ biến của sự phát triển được hiểu là nó diễn
ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế
giới khách quan. Ngay các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm
trong quá trình vận động và phát triển; chỉ trên cơ sở của sự phát triển, mọi hình thức
của tư duy, nhất là các khái niệm và các phạm trù, mới có thể phản ánh đúng đắn hiện
thực luôn vận động và phát triển.
- Sự phát triển còn mang tính đa dạng, phong phú. Phát triển là khuynh hướng chung
của mọi sự vật hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình phát triển
không giống nhau. Tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau, sự vật phát
triển sẽ khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự
tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động
đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi
chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.
Những điều kiện nêu ra ở trên cho thấy, dù sự vật; hiện tượng có thể có những giai đoạn
vận động đi lên như thế này hoặc như thế khác, nhưng xem xét toàn bộ quá trình thì chúng vẫn
tuân theo khuynh hướng chung.
2. Phần vận dụng (2 điểm) – Văn kiện đại hội X, tr.83
a. Nêu tên các hình thức sở hữu (3) và thành phần kinh tế (5)
Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh:
Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở
hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu
thủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển
lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật
chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện
thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan
trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế.
Doanh nghiệp cổ phần ngày càng càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ
biến, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo
hình thức sở hữu; nhà nước chỉ thực hiện sự ưu đãi hoặc hỗ trợ phát triển đối với một số ngành,
lĩnh vực, sản phẩm; một số mục tiêu như xuất khẩu, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, khắc
phục rủi ro; một số địa bàn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp. Xây dựng một hệ thống doanh
nghiệp Việt Nam nhiều về số lượng, có sức cạnh tranh cao, có thương hiệu uy tín, trong đó chủ
lực là một số tập đoàn kinh tế lớn dựa trên hình thức cổ phần. Nhà nước định hướng tạo môi
trường để phát triển có hiệu quả các doanh nghiệp theo cơ chế thị trường; bồi dưỡng, đào tạo và
tôn vinh các doanh nhân có tài, có đức và thành đạt.
b. Mục đích





Giải phóng mọi nguồn lực
Tăng trưởng kinh tế cơ bản
Tạo động lực cạnh tranh, cơ chế thị trường
Mở được nhiều ngành nghề, tạo công ăn việc làm cho xã hội

Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước: hoàn thiện cơ
chế, chính sách để các doanh nghiệp nhà nước thực sự hoạt động trong môi trường cạnh tranh,

công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả. Xoá bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước có quyền tài sản, thực sự tự chủ, tư chịu
trách nhiệm trên thị trường và trước pháp luật. Gắn trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của người
quản lý doanh nghiệp với kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Chăm lo đào tạo đội ngũ quản trị
giỏi đáp ứng tốt yêu cầu quản lý công ty theo chế độ hiện đại. Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới
và nâng cao hiệu quản doanh nghiệp nhà nước trọng tâm là cổ phần hoá. Cơ cấu lại doanh
nghiệp nhà nước, tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản

7


xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích. Đẩy mạnh và mởi
rộng diện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, kể cả các công ty nhà nước. Việc xác định giá trị
doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, kể cả giá trị quyền sử dụng đất, phải theo cơ chế thị
trường. Đề phòng và khắc phục những lệch lạc, tiêu cực trong quá trình cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước.
Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực, có sự tham gia
cổ phần của nhà nước, của tư nhân trong và ngoài nước, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu
tư…, trong đó nhà nước giữ cổ phần chi phối.
Tiếp tục đổi mới và phát triển các loại hình kinh tế tập thể : tổng kết thực tiễn, sớm có
chính sách, cơ chế cụ thể . Khuyến khích phát triển mạnh hơn các loại hình kinh tế tập thể đa
dạng về hình thức sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh, bao gồm các tổ hợp tác, hợp tác xã
kiểu mới. Chú trọng phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, lien hiệp hợp
tác xã cổ phần.
Khuyến khích việc tăng vốn góp vào các nguồn vốn huy động từ thành viên để tăng
nguồn vốn hoạt động của hợp tác xã, tăng vốn đầu tư phát triển, tăng tài sản và quỹ không chia
trong hợp tác xã. Hợp tác xã và các loại hình kinh tế hợp tác hoạt động theo nguyên tắc: hợp tác
tự nguyện, dân chủ, bình đẳng và công khai; tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; hợp tác
và phát triển cộng đồng.
Phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân :

mọi công dân có quyền tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh với quyền sở hữu tài sản và
quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo hộ; có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh,
tiếp cận các cơ hội, nguồn lực kinh doanh, thong tin và nhận thông tin. Xoá bỏ mọi rào cản, tạo
tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân
phát triển không hạn chế quy mô trong ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh
doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm.
Thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài : cải thiện môi trường pháp lý và
kinh tế, đa dạng hoá các hình thức và cơ chế để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư
nước ngoài vào những ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh quan trọng.
Câu 5 : Theo V.I. Lênin: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và
cơ bản của lý luận về nhận thức” (V.I. Lênin, Tòan tập, t.18, tr. 167). Bằng sự hiểu biết về vai
trò của các hình thức họat động thực tiễn để khẳng định rằng, Đảng Cộng Sản Việt Nam lựa
chọn đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế là hòan tòan đúng quy luật của sự phát triển
đất nước ta.
Trả lời :
- Các quan điểm về thực tiễn:
Các nhà triết học trước Mác đã đề cập đến vấn đề thực tiễn với các quan niệm khác
nhau:
Theo nhà triết học Becơn: Nhận thức phải xuất phát từ giới tự nhiên và thực nghiệm để
tìm ra mối quan hệ nhân quả, phát hiện và kiểm tra chân lý. Becơn là nhà triết học đầu tiên
thấy được vai trò của thực tiễn, của thực nghiệm khoa học trong quá trình nhận thức, trong
quá trình hình thành tri thức.
Theo nhà triết học Phoiơbắc: Ông đã đề cập đến thực tiễn, nhưng đối với ông, chỉ có lý
luận mới thực sự là họat động chân chính của con người, còn thực tiễn mang tính chất con
buôn bẩn thỉu (duy vật mà không biện chứng).
Theo nhà triết học Hêghen: Bằng thực tiễn, chủ thể tự “nhân đôi” mình, đối tượng hóa
bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngòai, nhưng ông chỉ giới hạn thực tiễn ở ý
niệm, ở họat động tư tưởng. Đối với ông, thực tiễn là một “suy lý lôgíc” (biện chứng mà
không duy vật).
Theo triết học Mác - Lênin, thực tiễn là tòan bộ họat động vật chất có mục đích mang

tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
- Tính chất của thực tiễn:

8


Kết quả của quá trình họat động thực tiễn là những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu vật chất
và nhu cầu tinh thần của cá nhân và cộng đồng.
Mỗi một họat động của con người đều mang tính lịch sử, cụ thể.
- Các hình thức thực tiễn:
Họat động thực tiễn rất phong phú đa dạng, song có thể chia ra ba hình thức cơ bản:
Họat động sản xuất vật chất là họat động trực tiếp tác động vào tự nhiên nhằm tạo ra
của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Họat động chính trị - xã hội là họat động của con người trực tiếp tác động vào xã hội,
cải biến các quan hệ xã hội theo hướng tiến bộ. Họat động chính trị - xã hội đấu tranh giai cấp
dân tộc, điều này thúc đẩy phát triển văn minh của nhân lọai.
Họat động thực nghiệm khoa học là họat động của các nhà khoa học tác động làm cải
biến những đối tượng nhất định, trong một điều kiện nhất định theo một mục đích nghiên cứu
nhất định. Họat động thực nghiệm khoa học góp phần thúc đẩy nhận thức của con người qua
sự vật hiện tượng nâng cao đời sống của con người.
- Phạm trù lý luận:
(theo hướng dẫn trả lời của Thầy thì chỉ nêu các quan điểm về thực tiễn thôi, tôi bổ sung
thêm phạm trù lý luận và những nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tùy các
bạn chọn lựa nhé)
Lý luận là kinh nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con người, là tòan bộ tri
thức về thế giới khách quan, là hệ thống tương đối độc lập của các tri thức có tác dụng tái
hiện trong lôgíc của các khái niệm cái lôgíc khách quan của các sự vật. Bởi vậy, lý luận là hệ
thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những
quy luật của các sự vật, hiện tượng.
Để hình thành lý luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh nghiệm. Kết

quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm bao gồm tri thức
kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.
L ý luận có những cấp độ khác nhau tùy phạm vi phản ánh và vai trò phương pháp luận
của nó. Có thể phân chia lý luận thành lý luận ngành và lý luận triết học.
- Ta có những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
+ Thực tiễn là cơ sở của lý luận: Thế giới quan là đối tượng của nhan thuc nhưng nó
không tự bộc lộ các thuộc tính, mà nó chỉ bộc lộ khi con người tác động vào nó. Cho nên thực
tiễn là cơ sở cần thiết nhất hình thành nên lý luận.
+ Thực tiễn là động lực của lý luận: Hiện thực khách quan luôn luôn vận động biến đổi.
Bởi vậy, để bổ sung tri thức mới không còn cách nào khác là phải thông qua thực tiễn. Cho
nên nhận thức hoặc lý luận đòi hỏi thực tiễn như là một nhu cầu trong động lực.
+ Thực tiễn là mục đích của lý luận: Nhận thức đầy đủ về sự vật, hiện tượng là để áp
dụng vào hiện thực, tức là vật chất hóa những quy luật có tính tất yếu đã nhận thức được và
chính là họat động thực tiễn.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận: Thực tiễn luôn vận động và phát triển,
thực tiễn phong phú và đa dạng, ngòai tiêu chuẩn thực tiễn còn có thể có những tiêu chuẩn
khác như tiêu chuẩn lôgíc, tiêu chuẩn giá trị… Nhưng các tiêu chuẩn đó phải trên nền tảng của
thực tiễn. Do đó thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận.
- Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại, lý luận phải được vận dụng vào
thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn:
+ L ý luận đóng vai trò soi đường cho thực tiễn, vì lý luận có khả năng định hướng mục
tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo được khả
năng chỉ đạo họat động của con người.
+ L ý luận chỉ ra được giới hạn họat động thực tiễn của con người.
+ L ý luận là sự phản ánh lôgíc thực tiễn, cho nên lý luận có thể lạc hậu so với thực
tiễn, lý luận cần được bổ sung thông qua thực tiễn cụ thể.
- Nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
Thứ nhất, đó là các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật đã được giải thích một cách biện
chứng. Theo các nguyên lý đó, "trong thế giới không có gì khác ngoài vật chất đang vận động,
và vật chất đang vận động không thể vận động cách nào khác ngoài vận động trong không gian

và thời gian" (Lênin). Còn ý thức là sản phẩm của vật chất có tổ chức cao (bộ óc con người)

9


và là sự phản ánh tự giác, tích cực các sự vật và quá trình của thế giới vật chất, là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan. Tuy nhiên, khác với chủ nghĩa duy vật cũ, chủ nghĩa duy
vật biện chứng không chỉ khẳng định sự phụ thuộc của ý thức vào vật chất mà còn thừa nhận
tác dụng tích cực trở lại của ý thức đối với vật chất thông qua hoạt động của con người.
Thứ hai, các nguyên lý của phép biện chứng được giải thích trên lập trường duy vật.
Theo các nguyên lý đó ta có:
+ Mỗi kết cấu vật chất có muôn vàn mối liên hệ qua lại với các sự vật và hiện tượng,
quá trình khác của hiện thực;
+ Tất cả các sự vật cũng như sự phản ánh của chúng vào trong đầu óc con người đều ở
trạng thái biến đổi, phát triển không ngừng. Nguồn gốc của sự vận động và phát triển là sự
đấu tranh giữa các mặt đối lập ở ngay trong lòng sự vật. Phương thức của sự phát triển là sự
chuyển hoá từ những biến đổi về lượng thành những biến đổi về chất và ngược lại, theo kiểu
nhảy vọt. Chiều hướng của sự phát triển là sự vận động tiến lên theo đường xoáy trôn ốc. Nội
dung của hai nguyên lý trên được thể hiện trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng
(thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập; chuyển hoá những biến đổi về lượng thành
những biến đổi về chất và ngược lại; phủ định cái phủ định) và trong hàng loạt cặp phạm trù
có mối quan hệ biện chứng với nhau như cái chung và cái riêng, nguyên nhân và kết quả, tất
nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, ...
Thứ ba, phép biện chứng duy vật còn bao gồm lý luận nhận thức. Nhận thức là sự phản
ánh giới tự nhiên bởi con người, nhưng đó không phải là sự phản ánh đơn giản, trực tiếp, hoàn
toàn, mà là quá trình tư duy không ngừng tiến gần đến khách thể. Cơ sở, động lực và mục đích
của toàn bộ quá trình này là thực tiễn. Thực tiễn cũng chính là tiêu chuẩn của chân lý. chủ
nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở phương pháp luận đúng đắn chỉ đạo mọi hoạt động nhận
thức và cải tạo thực tiễn. Tuy vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng vẫn là khoa học đang phát
triển. Cùng với mỗi phát minh lớn của khoa học tự nhiên, với sự biến đổi của xã hội, các

nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng được cụ thể hoá, được phát triển, trên cơ sở tiếp
thu những tri thức mới của khoa học và kinh nghiệm lịch sử của loài người.
Câu 6: Theo V.I. Lênin “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì nó có ưu điểm không
những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp” (V.I. Lênin toàn tập, t.29,
tr.230). Bằng sự hiểu biết về vai trò của hoạt động thự tiễn đối với nhận thức để khẳng định
rằng Đảng cộng sản Việt Nam lựa chọn giáo dục, đào tạo và phát triển khoa học công nghệ
là một trong những động lực phát triển của thế giới trước đây và của nước ta hiện nay.
Hướng dẫn trả lời:
Phần nội dung cơ bản (3 điểm)
- Quan điểm của CNDVBC về thực tiễn: (Định nghĩa, các hình thức, tính chất, vai trò
của thực tiễn đối với nhận thức)
Phần vận dụng (2 điểm); (Văn kiện Đại hội IX, tr.108)
- Muốn công nghiệp hoá phải có tri thức khoa học
- Giáo dục phải có khuynh hướng xã hội hoá
- Công nghiệp hoá khôngchỉ là động lực trong kinh tế, mà còn cả với nhiều mặt trong xã
hội (mở rộng ngành nghề, đối tượng khai thác, dịch vụ…)
Trả lời:
Định nghĩa:
Theo triết học Mác - Lênin, thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính
lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người
Tính chất:
1) Hoạt động thực tiễn mang tính cộng đồng: Hoạt động thực tiễn mặc dù phải thông qua
từng cá nhân, từng nhóm người nhưng hoạt động của từng các nhân, từng nhóm người lại
không thể tách rời khỏi các quan hệ xã hội. Xã hội quy định mục đích, đối tượng, phương
tiện và lực lượng trong hoạt động thực tiễn. Do đó hoạt động thực tiễn của con người mang
tính xã hội sâu sắc, được thực hiện trong cộng đồng, vì cộng ồng và do cộng đồng.
2) Mỗi hoạt động thực tiễn đều mang tính lịch sử, cụ thể. Nó chỉ diễn ra trong một giai đoạn
nhất định nào đó. Nó có quả trình hình thành, phát triển và kết thúc hoặc chuyển háo sang

10



giai đoạn khác, không có hoạt động thực tiễn nào tồn tại vĩnh viễn. Mặt khác hoạt động
thực tiễn chịu sự chi phối của mỗi giai đoạn lịch sử cả về đối tượng, phương tiện cũng như
mục đích hoạt động.
3) Hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên và hoàn thiện con người: Hoạt động của con người
bao gồm hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần. Thực tiễn là hoạt động vật chất (những
hoạt động mà chủ thể sử dụng phương tiện vật chất tác động vào đối tượng vật chất nhất
định nhằm cải tạo chúng theo nhu cầu của con người. Con người sử dụng các phương tiện
để tác động vào đối tượng theo những hình thức và mức độ khác nhau tuỳ thuộc mục đích
của con người. Kết quả của hoạt động thực tiễn là những sản phẩm thoả mãn nhu cầu vật
chất, nhu cầu tinh thần của cá nhân và cộng đồng)
Các hình thức:
Hoạt động thực tiễn được chia làm ba hình thức cơ bản:
1) Hoạt động sản xuất vật chất: Là hoạt động trực tiếp tác động vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên
nhằm tạo ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
2) Hoạt động chính trị - xã hội: Là hoạt động của con người trực tiếp tác động vào xã hội, cải
biến các quan hệ xã hội theo hướng tiến bộ.
3) Hoạt dộng thực nghiệm khoa học: Là hoạt động của các nhà khoa học tác động làm cải
biến những đối tượng nhất định, trong một điều kiện nhất định, theo một mục đích nghiên
cứu nhất định.
Các hình thức hoạt động thực tiễn tuy có sự khác nhau tương đối nhưng chúng thống nhất,
có chung chủ thể hoạt động, có cùng mục đích; chúng hỗ trợ, ảnh hưởng lẫn nhau. Do đó sự phân
biệt giữa các hình thức hoạt động thực tiễn chỉ mang tính tương đối. Hoạt động sản xuất vật chất
không thể không hoạt động trong cộng đồng xã hội, không thể không có vai trò của thực nghiệm
khoa học. Mặc dù hoạt động chính trị - xã hội trực tiếp tác động đến những vấn đề của đời sống
chính trị - tinh thần, nhưng kết quả hoạt động của lĩnh vực này lại tác động tích cực đến phát triển
sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, cũng như những vấn đề có tính quy luật mà hoạt động thực
nghiệm khoa học đang quan tâm. Cũng như vậy hoạt động thực nghiệm khoa học không thể lấy
mục đích phục vụ kinh tế - xã hội.

Trong các hình thức hoạt động thực tiễn thì hoạt động sản xuất vật chất là cơ bản nhất.
Mặc dù hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học vẫn diễn ra thường xuyên,
quan trọng như hoạt động sản xuất vật chất tác động sâu sắc, toàn diện đến các hoạt động khác,
nó là hoạt động trung tâm, chủ yếu của con người.
Trên cơ sở của những hình thức thực tiễn cơ bản trên, một số lĩnh vực của thực tiễn như
hoạt động giáo dục, hoạt động nghệ thuật,… cũng được hình thành. Nó cũng tác động vào quá
trình tồn tại và phát triển của xã hội. Đó là những hình thức thực tiễn phát sinh, hình thức đặc thù
của thực tiễn.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức thể hiện: “Thực tiễn là cơ sở của nhận thức, là
động lực của nhận thức, là mục đích của nhận thức và tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý”
Bởi vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức. Nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ,
cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính con người có nhu cầu tất
yếu khách quan là giải thích và cải tạo thế giới mà buộc con người phải trực tiếp tác động vào sự
vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho các sự vật, hiện tượng
bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng, đem lại những tài
liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các quy luật vận động và phát
triển của thế giới. Trên cơ sở đó mà hình thành nên các lý thuyết khoa học. Có thể nói, suy cho
cùng không có một lĩnh vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào
việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. Do đó nếu thoát ly thực tiễn, không dựa vào thực tiễn thì nhận
thức sẽ xa rời cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình. Vì vậy, chủ
thể nhận thức không thể có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới.
Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức. Vì nhờ có hoạt động thực tiễn mà
các giác quan của con người ngày càng được hoàn thiện, năng lực tư duy lôgíc không ngừng được
củng cố và phát triển, các phương tiện nhận thức ngày càng hiện đại có tác dụng nối dài các giác
quan của con người trong việc nhận thức thế giới.
Sở dĩ nói thực tiễn còn đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Điều này có nghĩa là

11



thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời thực tiễn
không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. Các Mác đã viết:
“Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn
không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải
chứng minh chân lý”.
Như vậy thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò
quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải luôn
luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Nhấn mạnh vai trò của thực tiễn, V.I.
Lênin đã viết: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý
luận về nhận thức”
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan
điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở
thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên
hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan,
duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại nếu tuyệt đối hoá vai trò của thực tiễn thì sẽ
rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa. Lý luận hình thành và phát triển phải xuất
phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Văn kiện đại hội IX của đảng đã chỉ rõ:
Muốn công nghiệp hoá phải có tri thức khoa học: Trước hết muốn có tri thức khoa học cần
phải chú trọng công tác đào tạo, giáo dục vì vậy việc phát triển giáo dục và đào tạo là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá và là điều kiện để
phát huy nguồn lực con người - đây là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh mạnh và bền vững. Do vậy Đảng ta đã chỉ rõ phải tiếp tục phải nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản
lý giáo dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá và xã hội hoá. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ
và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề,
đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không
chính quy, thực hiện giáo dục cho mọi người và cả nước trở thành nột xã hội học tập. Thực hiện
phương châm học đi đôi với hành, gíao dục kết hợp với lao động sản xuất và nhà trường gắn với

xã hội. Coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh trung học, chuẩn bị cho thanh
niên, thiếu niên hướng nghiệp đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong cả nước và từng địa phương. Xây dựng quy hoạch đào tạo nhân lực theo phương
thức kết hợp học tập trung, học từ xa và học qua máy vi tính. Chăm lo phát triển giáo dục mầm
non, mở rộng hệ thống nhà trẻ và trường lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt là ở nông
tôn và những vùng có khó khăn.
Củng cố thành tựu, xoá mù chữ và phổ cấp giáo dục tiểu học và phấn đấu ngày càng có
nhiều trường tiểu học đủ điều kiện học 2 buổi mỗi ngày tại trường, được học ngoại ngữ và tin
học. Đẩy nhanh tiến độ phổ cấp gíao dục trung học cơ sở, tạo điều kiện cho những địa phương có
khả năng hoàn thành sớm việc phổ cập giáo dục bậc trung học thông qua việc mở rộng quy mô
đào tạo và phát triển đa dạng các loại hình trường phổ thông trung học, trung học chuyên nghiệp
và dạy nghề.
Tăng ngân sách.
Câu 7: Bằng tri thức hiểu biết về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất để khảng định rằng: việc Đảng Cộng Sản Việt Nam lựa chọn con đường tiến
lên Chủ Nghĩa Xã Hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta như một quá trình lịch sử tự
nhiên.
Trả lời
I.NỘI DUNG CƠ BẢN:
a. Lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất: là lực lượng tác động vào thế giới tự nhiên tạo ra của cải vật chất thể hiện năng lực
hoạt động thực tiễn của con người.
Xét về mặt cấu trúc của lực lượng sản xuất có thể nói tới các nhân tố cơ bản sau:

12


+ Tư liệu sản xuất :Trong đó bao gồm các đối tượng của lao động có thể là các đối tượng tự nhiên
hay nhân tạo trong quá trình lao động.
Tư liệu sản xuất bao gồm : - Đối tượng lao động

- Tư liệu lao động : + Công cụ lao động
+ NhữngTLLĐ khác
+ Đối tượng lao động: là tất cả những vật, giới tự nhiên mà con người tác động vào tạo ra của cải vật
chất.
+ Tư liệu lao động: Tất cả những vật mà con người đặt giữa mình và đối tượng lao động nhằm chuyển tải
lao động vào trong sản xuất.
Đối tượng lao động và tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của qúa trình lao động sản xuất hợp
thành tư liệu sản xuất. Đối với mỗi thế hệ mới, những tư liệu lao động do thế hệ trước để lại trở thành
điểm xuất phát cho thế hệ tương lai. Vì vậy, những tư liệu lao động đó là cơ sở sự kế tục của lịch sử. Tư
liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao động, khi chúng kết hợp với lao động
sống. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến đâu, nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng không
thể phát huy được tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội.
+ Sức lao động: là năng lực trí tuệ của con người thông qua tư liệu sản xuất mà kết tinh vào sản phẩm sản
xuất ra nên nó phụ thuộc vào kinh nghiệm, kỹ năng, kĩ xảo của người lao động, kết hợp với các yếu tố như
đạo đức, khoa học, tâm lý.
b. Quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất xã hội là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã
hội : sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ kinh tế - xã hội và
quan hệ kinh tế tổ chức. Quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội, nó tồn tại khách
quan, độc lập với ý thức của con người. Vì vậy có thể hiểu là quan hệ sản xuất chính là tổng thể các mối
quan hệ giữa con người với nhau trong một trình độ sản xuất nhất định.
Nội dung.
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau :
Quan hệ giữa người với người đối việc sở hữu về tư liệu sản xuất.
Quan hệ giữa người với người đối việc tổ chức quản lý.
Quan hệ giữa người với người đối việc phân phối sản phẩm lao động.
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ thứ nhất có ý nghĩa quyết định
đối với tất cả những mối quan hệ khác. Bản chất của bất kì quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào
vấn đề những tư liệu sản xuấtchủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.
Có hai hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất :

+ Sở hữu tư nhân.
+ Sở hữu xã hội.
*Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất .
a. Những tác động của lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi và phát triển đều do biến đổi của lực lượng sản xuất.
Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người luôn luôn tìm
cách cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động mới tinh xảo hơn. Cùng với sự biến đổi và phát triển của công
cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kĩ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con
người cũng tiến bộ. Lực lượng sản xuất là yếu tố thường xuyên biến đổi nhất là trong điều kiện tác động
của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ngày nay. Còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, có
khuynh hướng lạc hậu hơn là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của
phương thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung
và hình thức thì hình thức phụ thuộc vào nội dung, nội dung quyết định hình thức, nội dung thay đổi
trước, sau đó hình thức mới biến đổi theo. Tính chất và trình độ phát triển của lưc lượng sản xuất quyết
định đến sự biến đổi và hình thành quan hệ sản xuất, nó quy định mức độ chặt chẽ giữa người lao động
chứ không phải là do sự phong phú của đối tượng lao động hoặc tư liệu lao động.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó là động lực làm cho lực lượng sản xuất
phát triển mạnh mẽ. Khi lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới, quan hệ sản xuất cũ không
còn phù hợp với nó nữa nên buộc phải thay thế bằng quan hệ mới, phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
b. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.

13


Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương
đối và tác độc trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất qui định mục đích của sản
xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất đến tổ chức phân công lao động xã hội,
đến phát triển và ứng dụng khoa học vào sản xuất… và do đó, tác động đến sự phát triển của lượng sản

xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy sản
xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu, hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo so với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ
sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất thì theo qui luật chung, quan hệ sản xuất mớiõ sẽ
thay thế quan hệ sản xuất cũ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng
sản xuất tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lựơng sản xuất với quan hệ sản
xuất không phải là đơn giản. Nó phải thông qua nhận thức và họat động cải tạo xã hội của con người.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng khi quan hệ sản xuất cũ kìm hãm lại sự phát triển của nó thì CMXH là
bước cuối cùng để thay đổi quan hệ sản xuất cũ sang QHSX mới.
II.VẬN DỤNG:
Ở nước ta, sau hoà bình lập lại ở Miền Bắc 1954, và cả nước thống nhất 1975 chúng ta đã tiến lên
CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Trong thời gian đầu, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà
chủ yếu là do nhận thức không đầy đủ chủ nghĩa Marx-Lenin, sao chép dập khuôn mô hình phát triển
kinh tế-xã hội của các nước XHCN khác, không dựa trên trình độ và đặc điểm phát triển của lực lượng
sản xuất ở nước ta. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, chúng ta đã thiết lập một quan hệ sản xuất
không phù hợp, tiến hành quốc hữu hóa, tập thể hóa nhanh chóng không theo qui luật, phủ nhận sự tồn tại
của đa hình thức sở hữu, đa thành phần kinh tế, chú trọng phát triển công nghiệp nặng không dựa vào nhu
cầu phát triển kinh tế xã hội. Hệ quả là chúng ta đã trói buộc và kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất trong một thời gian dài. Chính vì không coi trọng vai trò của lực lượng sản xuất như là một động
lực, đã dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế -xã hội ở nước ta trong thời gian này.
Từ thực tiễn đó, Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc lần VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đưa ra
đường lối đổi mới đất nước. Đảng đã khẳng định giữ vững mục tiêu XHCN, nhưng cần phải nhận thức
cho đúng mục tiêu và con đường tiến lên CNXH ở nước ta. Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính
sách kinh tế là : “giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất
nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế, để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây
dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN-Văn Kiện Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc lần VI”. Đảng đã xác
định chúng ta tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, không có nghĩa là bỏ qua những bước đi tất yếu hợp
quy luật. Do đó Đảng đã định ra đường lối chuyển từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang xây dựng nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN.

Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần chính là sự quan tâm đến sự phát triển lực lượng
sản xuất, đồng thời phù hợp với đặc điểm đa dạng của lực lượng sản xuất ở nước ta trong điều kiện hiện
nay. Tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất ở mọi thành phần kinh tế, mọi lĩnh vực được phát huy tác
dụng. Nó cho phép khai thác nhanh, có hiệu quả mọi khả năng hiện có và tiềm tàng của nền kinh tế, thúc
đẩy quá trình phân công lao động trong nước, gắn phân công lao động trong nước với quốc tế và khu vực;
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng về số lượng và chất lượng.
Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới đất nước, vai trò của lực lượng sản xuất cũng như quy luật về
sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ngày càng được coi trọng trong sự phát triển kinh
tế-xã hội. Vì thế, hơn 10 năm qua Nước ta đã vượt qua khủng hoảng và đạt được những thành tựu to lớn
về mặt kinh tế. tiếp tục đường lối, tại Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc Lần VIII, Đảng ta đã nhận
định :”Nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH. Nền CNH-HĐH tạo
nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới, thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp…”.
Đối với nước ta, con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa vẫn là tất yếu và có khả năng thực
hiện.
Đến Đại hội IX, xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới,
đường lối kinh tế của Đảng ta được xác định là: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá , xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp ; ưu tiên phát triển lực lượng
sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao
độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phất triển

14


nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện
đời sống vật chất và tinhh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện
môi trường ; kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng – an ninh”
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa,nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa,

đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.Xây
dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các
lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế , xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ.Nhưng Đảng và nhân dân ta vẫn quyết
tâm và đồng lòng đi theo con đường mà mình đã chọn.
Câu 8:Bằng tri thức hiểu biết về đặc điểm sự phát triển các hình thái KT-XH, để khẳng định luận
điểm “ Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao
hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển” của
ĐCSVN là hoàn toàn phù hợp với qui luật phát triển XH của lịch sử TG.
Sự phát triển của 1 quốc gia nói riêng hay sự phát triển của 1 chế độ XH nào đó nói chung chính là sự
phát triển của các hình thái KTXH trong quốc gia, trong chế độ của XH đó. Vậy hình thái KTXH là gì?
Nó là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ một XH cụ thể ở trong một giai đoạn phát
triển lịch sử nhất định, với những quan hệ sản xuất đặc trưng của nó phù hợp với lực lượng sản xuất ở
một trình độ phát triển nhất định và một kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên những quan hệ sản
xuất đó.
Nó có kết cấu phức tạp nhưng gồm các yếu tố cơ bản là : LLSX, QHSX và kiến trúc thượng tầng. Các
yếu tố này có tác động qua lại lẫn nhau.
Trong các yếu tố trên thì quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt hình thái kinh tế xã hội
này với hình thái kinh tế xã hội khác, quan hệ sản xuất chi phối và quyết định các quan hệ xã hội khác của
xã hội .
VD: Yếu tố kinh tế quyết định chi phối việc đi lại học hành nghề nghiệp….
Còn LLSX là nền tảng vật chất – kỹ thuật cuả mỗi hình thái kinh tế xã hội và nó quyết định đến sự phát
triển của các hình thái kinh tế xã hội.
Từ tổng thể các quan hệ sản xuất của một xã hội cụ thể sẽ hợp thành cơ sở hạ tầng của XH đó và một kiểu
kiến trúc thượng tầng tương ứng của XH đó được hình thành.
Sự ra đời và phát triển của các hình thái KTXH là một quá trình lịch sử tự nhiên, nó đi từ thấp đến
cao, do các qui luật khách quan chi phối, nó vận động và phát triển trong chính bản thân nó bởi mâu
thuẫn giữa LLSX và QHSX bởi cơ sở hạ tầng và kiến trúc thựơng tầng, giữa các g/c trong cá XH có g/c.
Khác với các quan hệ tự nhiên diễn ra một cách tự phát, các qui luật XH diễn ra thông qua các hoạt

động có ý thức của con người. Trong cùng một giai đoạn lịch sử như nhau nhưng các dân tộc có thể
không ở cùng một hình thái KTXH, thậm chí trong cùng một hình thái kinh tế xã hội nhưng ở mỗi dân
tộc, mỗi nước cũng có thể có sự phát triển không như nhau.
Vd:Ở Mỹ có hình thái kinh tế –xã hội tư bản chủ nghĩa còn ở Việt nam lại có hình thái kinh tế – xã
hội xã hội chủ nghĩa và ở Việt Nam và Trung Quốc tuy có cùng hình thái kinh tế –xã hội, xã hội chủ
nghĩa nhưng kinh tế lại phát triển khác nhau.
Hiểu rõ được bản chất đặc điểm, đặt điểm và quy luật về sự phát triển của các hình thái kinh tế xã
hội và chúng ta. Sẽ có những cơ sở lý luận và các phương pháp khoa học để nghiên cứu xã hội, giúp
chúng ta có cơ sở vững chắc để xây dựng đường lối cách mạng trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ
qúa độ lên chủ nghĩa xã hội. Minh chứng cho vấn đề này là sự đổi mới trong tư duy lý luận của đảng ta
qua các văn kiện đại hội đảng qua các thời kỳ, qua mỗi kỳ đại hội tư duy đó được sáng lên một tầm cao
mới và cụ thể là từ đại hội 6 cho đến nay. Nếu như trước kia ta không thừa nhận sự tồn của nhiều thành
phần kinh tế, đặc biệt là sự tồn tại của thành phần kinh tế tư nhân thì nay chúng ta phải thừa nhận nước ta
trong thời kỳ qúa độ và vẫn phải có đầy đủ các đặc điểm của các chế độ xã hội đang tồn tại trên TG.
Đảng ta thừa nhận thành phần kinh tế tư bản tư nhân vì nó là vô tội, khách quan, là bản chất của con
người, cái nhu cầu được huởng, được sở hữu cái mình bỏ sức ra là đúng đắn và nó là động lực để người ta
phấn đấu lao động hết tâm huyết của mình. Kinh tế của mỗi người mạnh thì kinh tế của đất nuớc mới
mạnh và xã hội không phải lo cho người đó nữa, trước đây ta cào bằng trong quan điểm xã hội tư bản với

15


chế độ tư bản. Nhưng nay ta nhận ra XHTB không có gì xấu chỉ có chế độ tư bản mới là xấu nó lỗi thời
và không tốt bằng chế độ của ta và theo quy luật nó phải tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhận ra đặc
điểm, tính chất này là một tư duy sáng suốt của Đảng ta. Vì vậy ngày nay ai cũng có thể làm kinh doanh
theo quy định của pháp luật và nước ta cũng quan hệ rộng rãi hơn với các nước để phát triển kinh tế mà
không phải sợ đi lệch hướng mà nước ta vẫn đảm bảo phát triển kinh tế theo định hướng XHCN và nền
tảng là chủ nghĩa mác Lênin, tư tưởng HCM.
Ngày nay trên con đường phát triển đất nước, Đảng ta đã có bình minh ở phía trước và con đường đi cũng
rộng rãi hơn, chúng ta mạnh dạn bắt tay với các nước trên thế giới, sẵng sàng làm bạn gác lại qúa khứ

hướng tới tương lai. Tuy nhiên Đảng cũng nhận định “không thể bỏ qua những điều kiện hiện tại, nóng
vội mà phải tuần tự”. Trên con đường giao lưu và học hỏi Đảng ta nhận ra một số nước như Nhật Bản,
Thái Lan, Hàn Quốc, cách đây mấy chục năm họ có cùng hòan cảnh như ta, có điểm xuất phát gần như ta
nhưng tới nay họ gần như đã trở thành những cường quốc và chí ít là họ có nền kinh tế công nghiệp phát
triển. Tuy rằng mỗi nước đó có cách làm không giống nhau nhưng có điều chung nhất là họ đều bắt đầu
vào hoàn cảnh hiện tại của nước mình và không nóng vội trong chính sách phát triển kinh tế.
Nhìn lại hoàn cảnh phát triển của nước ta ngay từ sau khi giành độc lập. Ta cứ nghĩ mọi đường lối,
tư duy lý luận của Liên xô là đúng. Ta áp dụng một cách máy móc, không phân tích kỹ, hơn nữa đặc điểm
địa lý, kinh tế, văn hóa và con người lại khác ta.
Chúng ta nóng vội trong việc phát triển kinh tế bằng công nghiệp nặng. Trong khi sau chiến tranh
nước ta bị tàn phá nặng nề, cái ăn còn chưa đủ vậy mà ta bắt tay ngay vào phát triển kinh tế bằng công
nghiệp nặng thì thật ra là sai lầm. Nhưng sau Đại hội VI Đảng ta đã kịp thời chấn chỉnh, đổi mới trong tư
duy lý luận và đã có nhiều biến chuyển từ một nước không đủ ăn, ngày nay nước ta đã có thể xuất khẩu
gạo ra thế giới. Khi đã no, đã có tích lũy thì ta mới có điều kiện đã làm những việc cao hơn, lớn hơn và
phải từng bước, từng bước.
Xã hội mới ra đời không phải là bỏ hết xóa bỏ mọi cái cũ mà là kế thừa những cái tích cực của xã
hội cũ, việc tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong đó có kinh tế tư bản tư nhân là hoàn toàn hợp lý vì đó
là thực tiễn khách quan, là những gì đang tồn tại trên thế giới, ta không thể tức thì tách ngay ra được. Vì
như thế là lập dị và chủ quan, là nóng vội. sự qúa độ làm chủ nghĩa xã hội không phải ngày một ngày hai
mà là một thời kỳ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất qúa
độ .
Vui mừng với đường lối đổi mới của đảng, nhà nước, mọi người, mọi nhà đều có thể phát huy hết
khả năng của mình để cống hiến, để phát triển kinh tế. trải qua một chặng đường 20 năm đổi mới Đảng ta
đã nhận thấy phải phát huy hết mọi tiềm lực để đưa đất nước đi lên bằng viềc tận dụng những nguồn lực
bên trong và bên ngoài. Với nhiều chính sách thuận lợi cho mọi người trong nước được tự do làm giàu
cho mình, nhà nước còn có chính sách với việt kiều ở nước ngoài để đóng góp xây dựng cho quê hương.
Đặc biệt hiện nay Đảng và nhà nước ta đang tăng cường quan hệ với nhiều nước trên thế giới và khu vực
trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, giáo dục ,y tế ,văn hóa và trọng tâm nhất là phát triển quan hệ kinh tế thu
hút vốn đầu tư nước ngoài, giải quyết việc làm, ổn định đời sống của người dân.
Thật là vui mừng trước sự đổi thay của đất nước về mọi mặt:kinh tế,chính tri, văn hóa, du lịch ……

và cũng rất tự hào khi bạn bè trên thế giới ngày càng đánh giá cao về môi trường, con người Việt nam và
đất nước ta ngày càng có tầm ảnh hưởng trên thế giới.
Câu 9: Bằng những nhận thức về quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội để khẳng định rằng:
"Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng tư tưởng
chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh" của ĐCSVN là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu
của cả dân tộc ta.
Trả lời
Định nghĩa ý thức xã hội
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm toàn bộ những quan điểm tư tưởng lý
luận cùng những tình cảm, tâm trạng, mong muốn, truyền thống … phản ánh tồn tại xã hội trong những
giai đoạn phát triển lịch sử xã hội nhất định.
Căn cứ vào trình độ nhận thức, có thể phân ý thức xã hội thành ý thức xã hội thông thường và ý thức lý
luận (ý thức lý luận làm gia tăng yếu tố khoa học, trí tuệ của ý thức thông thường). Nói cách khác, ý thức
xã hội biểu hiện qua tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội

16






Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Nhìn chung tồn tại xã hội nào thì ý thức xã hội ấy
Khi tồn tại xã hội thay đổi (nhất là phương thức sản xuất) thì những tư tưởng tình cảm tâm trạng .. ( ý
thức xã hội ) sớm muộn cũng thay đổi theo
• Tồn tại xã hội quyết định nội dung tính chất đặc điểm , xu hướng phát triển của các hình thái ý thức
xã hội
• Nếu tồn tại xã hội còn phân chia giai cấp thì ý thức xã hội cũng mang tính giai cấp.

Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
• Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội do nó không phản ánh kịp thời tính chất của tồn tại
xã hội, do sự lạc hậu của một số hình thái, ý thức xã hội như hình thái ý thức tôn giáo, do sức ỳ của
tâm lý, của thói quen; do một số lực lượng bảo thủ trong xã hội muốn duy trì những ý thức xã hội lạc
hậu.
• Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội. Nếu ý thức xã hội phản ánh đúng quy luật khách quan
của tồn tại xã hội thì nó có thể dự báo được xu thế vận động và phát triển của tồn tại xã hội(khi vượt
trước nó vẫn bị qui định bởi tồn tại xã hội).
• Tính kế thừa của ý thức xã hội trong sự phát triển của mình
• Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội (có thể tác động tích cực tiêu cực ). Mức độ
và hiệu quả tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội phụ thuộc vào các yếu tố:
− Tính đứng đắn,khách quan, khoa học mà ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội.
− Mức độ thâm nhập của ý thức xã hội vào quần chúng nhân dân.
− Mức độ vận dụng đúng đắn sáng tạo ý thức xã hội của chủ thể lãnh đạo quản lý.
. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù
quáng”, “Lý luận mà không có thực tiễn là lý luận suông” .Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường và do tư
tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội muốn bỏ qua những bước đi cần thiết .... trên thực tế, chúng ta đẩy
mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế đã lỗi thời”. Văn kiện còn nhận định trong công tác tổ chức thời kỳ này “khuyết điểm lớn nhất là
sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý
các cấp còn theo quan niệm cũ kỹ và tiêu chuẩn không đúng đắn, mang nặng tính hình thức..” Chính
những sai lầm này là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng ở
nước ta trước thời kỳ đổi mới.
“Trong những năm 1976-1980, trên thực tế chúng ta chủ trương đẩy mạnh CNH trong khi chưa có
đủ các tiêu đề cần thiết. Mặt khác chậm đổi mới cơ chế kinh tế đã lỗi thời ”, trong bố trí cơ cấu kinh tế,
cải tạo XHCN, quản lý kinh tế và lĩnh vực phân phối lưu thông đã có những sai lầm “ duy trì quá lâu cơ
chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp” - một cơ chế "gắn liền với tư duy kinh tế dựa trên những
quan niệm giản đơn về chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất chủ quan, duy ý chí", “có nhiều chủ trương
sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ “, ”, “chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự

phù hợp giữa quan hệ SX với tính chất và trình độ SX” nên “có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng
công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ”, bỏ qua không thừa nhận và vận dụng
những quy luật khách quan của phương thức sản xuất, của nền kinh tế hàng hóa .. Bên cạnh đó, việc
buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lý KT-XH, trong đấu tranh tư tưởng văn hóa, trong việc
chống lại những âm mưu thủ đoạn phá hoại thâm độc của kẻ thù…cũng là nguyên nhân chủ quan dẫn đến
sự khủng hoảng trên.
Một trong những sai lầm trong đường lối chính sách của Đảng trong thời kỳ trước đổi mới cũng
xuất phát từ căn bệnh giáo điều. Trong thời kỳ này, đã có lúc ta bắt chước rập khuôn mô hình CNXH ở
Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ máy nhà nước (ở Liên Xô có bao nhiêu Bộ, Ngành ta
cũng có bấy nhiêu Bộ ngành), hoặc về công nghiệp hóa cũng vậy, ta chỉ chú ý tập trung phát triển công
nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ. Hoặc theo học thuyết của Mác thì phải xóa bỏ tư
hữu, do đó khi áp dụng vào nước ta, Đảng đã có biểu hiện nóng vội trong việc tiến hành cải tạo XHCN
nhằm xóa tất cả các thành phần kinh tế mà không thấy được rằng "Nền kinh tế nhiều thành phần là một
đặc trưng của thời kỳ quá độ", sự có mặt của nhiều thành phần kinh tế với các mối quan hệ tác động qua
lại của nó sẽ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế trong giai đoạn này. Chính những sai lầm này là một
trong những nguyên nhân gây ra tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng trong thời kỳ trước đổi mới.

17


Trong giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, những tàn dư của tư tưởng cũ vẫn còn, mặt
tích cực và tiêu cực trong tình hình tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân hiện nay vẫn còn đan xen
nhau, trong đó mặt tích cực là cơ bản, đã và đang quyết định chiều hướng phát triển của xã hội, là nguyên
tố quan trọng tạo nên thắng lợi của cuộc đổi mới đất nước.
Thực tế cho thấy, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở đảm
bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Không giành được độc lập dân tộc thì không có điều kiện để xây dựng
CNXH. Độc lập dân tộc thật sự đòi hỏi xóa bỏ áp bức, nô dịch của dân tộc này với dân tộc khác, gắn liền
độc lập dân tộc với tự do, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân, do đó chỉ có thể gắn liền với sự phát triển
xã hội XHCN. Chính nhờ sự kiên định nội dung tư tưởng đó mà Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác, viết nên một lịch sử Việt Nam anh hùng với những mốc son chói lọi: Cách

mạng Tháng 8 năm 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước và đi lên xây dựng CNXH. Tư tưởng đúng đắn, hợp quy luật, hợp lòng dân đó đã được Đảng quán
triệt xuyên suốt trong cả tiến trình cách mạng, đặc biệt là trong quá trình đổi mới.Chính nhờ sự kiên định
đầy quyết tâm đó cùng với sự lãnh đạo tài tình của Đảng mà nhân dân ta đã đứng vững và tiếp tục kiên trì
mục tiêu CNXH trong khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã lâm vào thoái trào, tan rã; tạo cơ sở
khẳng định vị thế và sức mạnh của cách mạng Việt Nam trên trường quốc tế. Niềm tin đối với Đảng trong
lòng nhân dân ngày càng được củng cố, tăng cường, tạo đà cho sự phát triển mạnh hơn, cao hơn, triệt để
hơn của thời kỳ CNH-HĐH.
Mặc dù, sau cơn biến động lớn về chính trị trên thế giới, các Đảng CS cầm quyền ở Trung Quốc,
Cuba... tiếp tục lãnh đạo cải cách, đổi mới CNXH, song mỗi nước lại có hoàn cảnh rất khác nhau, những
bước đi và cách làm khác nhau. Việc học tập và vận dụng kinh nghiệm tốt, những mô hình hiệu quả trong
công cuộc xây dựng đất nước của các nước XHCN trên thế giới giúp chúng ta đỡ mò mẫm, đỡ phạm
những sai lầm của người đi trước. Trong giai đoạn hiện nay, trước tình trạng nhiều vấn đề xã hội bức xúc
và gay gắt chưa được giải quyết tốt như nạn thiếu việc làm, sự phát triển của tệ nạn xã hội, sự khó khăn
về đời sống của một bộ phận nhân dân, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã cảnh báo là nguy cơ chệch hướng
XHCN, tụt hậu xa hơn về kinh tế, "diễn biến hòa bình" và tệ quan liêu tham nhũng của một bộ phận cán
bộ, đảng viên, công chức vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp thì việc giữ vững định hướng, mục tiêu XHCN
càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết..
Việc tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến việc gia tăng hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế gắn liền với
hiệu quả xã hội. Việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế tạo cơ hội cho mọi tầng lớp nhân dân tự do làm ăn
theo pháp luật sẽ là một tiến bộ về mặt xã hội, là thực hiện dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế, từ đó giải
quyết tốt hơn việc làm thu nhập và đời sống tạo tiền đề vật chất cho việc xử lý các vấn đề xã hội. Tuy
nhiên tăng trưởng kinh tế tự nó không thể giải quyết được tất cả các vấn đề xã hội trong đó có sự phân
hóa giàu nghèo là không tránh khỏi. Do đó, trong đường lối phát triển kinh tế xã hội, một mặt Đảng và
Nhà nước ta chủ trương bảo vệ và khuyến khích công dân làm giàu hợp pháp, được hưởng thụ văn hóa,
giáo dục đào tạo, chăm lo y tế, được hưởng thụ xứng đáng với công sức, tiền của bỏ vào sản xuất, chống
tư tưởng bình quân, ỷ lại, đãi ngộ xứng đáng tài năng; một mặt Đảng và Nhà nước phải chăm lo việc thực
hiện phân phối công bằng theo lao động, mở rộng phúc lợi xã hội, đổi mới tốt chính sách bảo hiểm xã hội,
bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể lực cho nhân dân, bảo đảm nhu cầu thuốc chữa bệnh. Thực hiện tốt chính
sách đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, tạo phong trào đoàn kết giúp đỡ trong nhân dân theo truyền

thống “lá lành đùm lá rách” tương thân tương ái đùm bọc lẫn nhau. Đẩy mạnh hơn nữa chống tham
nhũng, bất công xã hội nghiêm trọng hiện nay. Cải cách chế độ tiền lương để người lao động hăng hái
làm việc đủ sống và nâng cao mức sống, mức đóng góp cho xã hội.
Ngược lại chính việc giải quyết tốt những vấn đề xã hội là điều kiện quyết định để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Chúng ta không thể sớm có ngay một xã hội tốt đẹp trong khi kinh tế nước ta còn kém
phát triển, năng suất lao động thấp, kinh tế kỹ thuật còn lạc hậu nhưng ta phải kết hợp ngay từ đầu tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội.
Tóm lại, vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, Đảng ta đã xác định
đúng đắn đường lối phát triển kinh tế gắn chặt với công bằng xã hội và phát triển mạnh mẽ văn hóa giàu
bản sắc dân tộc ở nước ta, đó là điều kiện đảm bảo sự thành công và bền vững cho tiến trình đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.

18


Câu 10 : Bằng tri thức hiểu biết về vai trò quân chúng nhân dân trong lịch sử của CNDVBC maxit, khẳng
định về rút ra bài học” lấy dân làm gốc” của Đảng cộng sản Việt Nam không chỉ có ý nghĩa trong lịch sử
cách mạng, mà còn là bài học quí giá nhất trong cuộc đổi mới của nước ta hiện nay.
I . NỘI DUNG CƠ BẢN
1. Khái niệm quần chúng nhân dân
2. Khái niệm quần chúng nhân dân:
 Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản liên kết lại thành tập thể dưới
sự lãnh đạo của một tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của
thời đại họ.
 Khái niệm quần chúng nhân dân thay đổi gắn liền với những hình thái kinh tế - xã hội nhất
định. Những khái niệm quần chúng nhân dân luôn được xác định bởi:
- Những người lao động sản xuất ra của cải vật chất - hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân.
- Những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị, phản động, cản trở sự tiến bộ xã hội.
- Những giai cấp, tầng lớp thúc đẩy sự tiến bộ xã hội..
3. Vai trò của quần chúng nhân dân.

 Trước những bước ngoặt của dân tộc, quốc tế và thời đại, sự xuất hiện quần chúng nhân dân là
tất yếu. Không có quần chúng nhân dân, không có phong trào cách mạng. Tuy vậy, vai trò quần chúng
nhân dân là khác nhau.
 Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ thể của lịch sử.
- Họ là người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần.
- Họ là chủ thể của hoạt động cải tạo các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội.
- Lợi ích của quần chúng nhân dân vừa là động lực, vừa là mục đích của các hành động cách mang.
 Trong bất kỳ thời đại nào, quần chúng nhân dân cũng là người sáng tạo ra lịch sử, nhưng trình
độ sáng tạo của quần chúng nhân dân đến mức nào là tuỳ thuộc vào tính tích cực, vào sự hiểu biết của
quần chúng về tự nhiên và xã hội, vào trình độ tổ chức của quần chúng…
 Quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như quá trình dựng nước,
giữ nước của dân tộc ta trước đây đã làm sáng tỏ hơn chân lý quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra
lịch sử. Nhờ nhân dân giàu lòng yêu nước, một lòng theo Đảng, dân tộc Việt Nam đã đánh thắng các cuộc
chiến tranh xâm lược bảo vệ nền độc lập dân tộc. Lịch sử đã ghi nhận vai trò to lớn của quần chúng nhân
dân trong sự nghiệp đấu tranh, xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc.
I I . VẬN DỤNG :
 Văn kiện đại hội đảng IX trang 81 nêu rõ :” Đổi mới phải dựa vào nhân dân,vì lợi ích của
nhân dân,phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo..”
Trong suốt chiều dài lịch sử nước ta, quan điểm lấy dân làm gốc luôn được các triều đại phong
kiến trước đây và Nhà nước ta hiện nay coi là nền tảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Triều đại nhà Trần với kế sách “khoan sức dân” - như Trần Quốc Tuấn từng nói là kế “ Sâu rễ bền gốc”
đã góp phần chiến thắng quân xâm lược Nguyên Mông hùng mạnh. Đến thời kỳ chống giặc Minh,
Nguyễn Trãi với quan điểm “Dân vi quý” đã giành độc lập, xây dựng lên một triều đại phong kiến Đại
Việt hưng thịnh. Thời đại Hồ Chí Minh, trên cơ sở Chủ nghĩa Mác-Lê Nin “ Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng” và quan điểm của Bác “ Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”.Ngày nay Đảng và
Nhà nước ta đã đoàn kết toàn dân phát huy sức mạnh của toàn Dân tộc làm nên những chiến thắng diệu
kỳ trong các cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc và công cuộc xây dựng đất nước hiện nay. Điều này
cho thấy ở thời đại nào thì vai trò của quần chúng nhân dân cũng mang tính quyết định đối với vận mệnh
của dân tộc.
Bản chất nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân

dân, vì nhân dân; bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hành đều ở nơi dân, mọi quyền lực nhà
nước có được đều do nhân dân uỷ quyền. Bản chất này được quy định một cách khách quan từ cơ sở kinh
tế và chế độ chính trị của CNXH. Sự khác biệt về bản chất ấy so với các nhà nước bóc lột biểu hiện bản
chất giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân của nhà nước, chúng hoà quyện vào nhau.
Xuất phát từ lý luận duy vật lịch sử và thực tiễn, ai cũng có thể nhận thấy rằng bất kỳ nhà nước
nào cũng là nền chuyên chính của giai cấp thống trị. Giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế sẽ nắm
quyền thống trị về chính trị thông qua bộ máy nhà nước của mình. Trong chế độ ta, giai cấp công nhân
giữ vai trò lãnh đạo xã hội. Vì vậy, nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, được thể hiện ở toàn
bộ hoạt động của nhà nước từ pháp luật, cơ chế, chính sách, đến nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà

19


nước, nhằm từng bước thực hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phục vụ lợi ích giai cấp, nhân dân
lao động và cả dân tộc.
Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc là thống nhất. Sự thống
nhất ấy bắt nguồn từ bản chất của cách mạng XHCN do giai cấp công nhân lãnh đạo. Vì vậy, nhà nước
ta mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời cũng gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc, tính nhân
dân. Bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc và tính nhân dân hoà quyện vào nhau, được quán triệt, cụ
thể hoá, thể chế hoá trên mọi lĩnh vực, mọi tổ chức, mọi hoạt động của nhà nước. Và cũng chỉ có nhà
nước mang bản chất giai cấp công nhân do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo mới đại biểu cho lợi ích
chung của nhân dân lao động, của dân tộc. Tính nhân dân thể hiện ở chỗ nhà nước là của dân, quyền lực
thực sự ở nơi dân, chính quyền do dân lập nên và tham gia quản lý; nhà nước thể hiện ý chí, lợi ích và
nguyện vọng của nhân dân; cán bộ công chức nhà nước là công bộc của dân. Tính dân tộc của nhà nước
được thể hiện ở chỗ, tổ chức và hoạt động của nhà nước ta kế thừa và phát huy những truyền thống, bản
sắc tốt đẹp của dân tộc và con người Việt Nam. Nhà nước có chính sách dân tộc đúng đắn, chăm lo lợi ích
mọi mặt cho các dân tộc trong cộng đồng người Việt Nam và thực hiện đoàn kết dân tộc, coi “đoàn kết
dân tộc, đoàn kết toàn dân là đường lối chiến lược và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ tổ quốc; giữ
vững quan điểm của Đảng về độc lập, tự chủ trong quan hệ đối ngoại; kết hợp đúng đắn chủ nghĩa yêu
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân”.

Sự ra đời của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gắn liền với công
cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề
lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ và phức tạp. Nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa việc nhận thức
sâu sắc tính quy luật khách quan với phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của chủ thể là Đảng, Nhà nước
xã hội chủ nghĩa và nhân dân lao động trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đây là sự lựa chọn con
đường và mô hình phát triển của Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế đáp ứng yêu cầu "đi tắt,
đón đầu" đang đặt ra như một yếu tố sống còn. Sự hình thành tư duy của Đảng ta về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cả một quá trình tìm tòi thể nghiệm, phát triển từ thấp lên cao, từ
chưa đầy đủ, hoàn thiện tới ngày càng đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện.
Nếu như trong văn kiện Đại hội VI và Hội nghị Trung ương 6 khoá VI, Đảng ta mới đề ra quan
điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi đây
là vấn đề "có ý nghĩa chiến lược và mang tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội", thì đến
Đại hội VII, Đảng đã khẳng định: "phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Tới Đại hội Đảng IX, kinh
tế thị trường lại được khẳng định một cách sâu sắc, đầy đủ hơn như là mô hình kinh tế tổng quát hay mô
hình mới của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc, bắt nguồn từ bối cảnh thời đại và điều
kiện lịch sử – cụ thể của đất nước. Sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là một tất yếu nếu đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá; thế giới đang bước vào giai đoạn quá độ
sang trình độ xã hội hậu công nghiệp, hậu thị trường và kinh tế tri thức; yêu cầu phát triển rút ngắn và hội
nhập. Đây không phải là sự gán ghép khiên cưỡng, chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội,
mà là trên cơ sở nhận thức sâu sắc tính quy luật tất yếu của thời đại, sự khái quát hoá, đúc rút từ kinh
nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, và đặc biệt, từ tổng kết thực tiễn mấy chục năm xây dựng
chủ nghĩa xã hội và gần hai thập kỷ đổi mới của Việt Nam. Việc Việt Nam lựa chọn con đường phát triển
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn vừa phù hợp với xu hướng phát triển
khách quan của thời đại, vừa là sự tiếp thu các giá trị truyền thống của đất nước và những yếu tố tích cực
trong giai đoạn phát triển đã qua của chủ nghĩa xã hội kiểu cũ. Đây cũng là sự trùng hợp giữa quy luật
khách quan với mong muốn chủ quan, giữa tính tất yếu thời đại với lôgic tiến hoá nội sinh của dân tộc,
khi chúng ta chủ trương sử dụng hình thái kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu phát triển, từng bước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nó cũng là con đường để thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn, để thu hẹp

khoảng cách tụt hậu và nhanh chóng hội nhập, phát triển.
Tổng kết từ hoạt động thực tiễn của nhân dân qua phong trào toàn dân thi đua phát triển kinh tế,
làm giàu hợp pháp và xoá đói giảm nghèo đã phát triển rộng khắp trong các thành phần kinh tế và trong
các tầng lớp nhân dân, góp phần to lớn vào sự tăng trưởng kinh tế, số hộ giàu có và khá giả tăng nhanh,
số hộ nghèo giảm đi rõ rệt từ 2,8 triệu hộ (17,2%) năm 2001 đã giảm còn 1,4 triệu hộ (8,3%) vào năm
2004, và về cơ bản đã xoá được các hộ thiếu đói. Phong trào thi đua làm kinh tế phát triển rộng khắp và
đạt kết quả rõ nét là nhờ có chủ trương - chính sách - pháp luật ngày càng đổi mới, đã khuyến khích và
giải phóng từng cá nhân, từng tập thể lao động, từng đơn vị kinh tế tự vươn lên, phát huy tính chủ động

20


sáng tạo, học tập lẫn nhau làm kinh tế hướng tới mục tiêu năng suất, chất lượng, hiệu quả. Phong trào
toàn dân đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau làm kinh tế ở các khu dân cư diễn ra sôi nổi, liên tục rộng khắp "nhà
nhà làm kinh tế" và đem lại kết quả rất cụ thể: những người làm kinh tế giỏi, những hộ giàu và khá giả
tăng nhanh, những cách làm ăn mới, những sáng kiến hay đều có thể đo đếm được và được nhân dân ghi
nhận ở từng khu dân cư. (tự liên hệ một số cá nhân điển hình tiên tiến …)
Câu 11: Bằng sự hiểu biết về vai trò các nguyên tắc nhận thức luận của CNDVBC, để khẳng định
luận điểm của Đảng CSVN về nhiệm vụ chủ yếu: “Giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, sớm đa nước ta ra khỏi tình trạng của các nước đang phát triển có thu nhập
thấp”
Bài làm
*Các quan niệm về nhận thức trong lịch sử triết học
Xuất phát từ chỗ phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất, chủ nghĩa duy tâm chủ
quan cho rằng nhận thức chỉ là sự phức hợp những cảm giác của con người; chủ nghĩa duy tâm khách
quan lại coi nhận thức là sự “hồi tưởng lại” của linh hồn bất tử về “thế giới các ý niệm” mà nó đã từng
chiêm ngưỡng được như đã bị lãng quên, hoặc cho rằng nhận thức là sự “tự ý thức về mình của ý niệm
tuyệt đối”.
Khác với chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan, những người theo thuyết

hoàI nghi coi nhận thức là trạng thái hoài nghi về sự vật và biến sự nghi ngờ về tính xác thực của tri thức
thành một nguyên tắc của nhận thức. Đến thời kỳ cận đại, khuynh hướng này phủ nhận khả năng nhận
thức được thế giới của con người hoặc hạn chế ở cảm giác bề ngoài của sự vật.
Đối lập với nhũng quan niệm đó, chủ nghĩa duy vật thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới
của con người và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người. Tuy
nhiên, do sự hạn chế bởi tính trực quan, siêu hình, máy móc mà chủ nghĩa duy vật trước Mác đã coi nhận
thức là sự phản ánh trực quan, đơn giản, là bản sao chép nguyên xi trạng tháI bất động của sự vật. Họ
chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Chính vì thế mà C. Mác đã nhận xét rằng:”Khuyết
điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước tới nay kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiobac là sự
vật, hiện thực, cáI cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan,
chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn; không nhận thức về mặt chủ
quan”.
Như vậy có thể nói, tất cả các trào lưu triết học trước Mác đếu quan niệm sai lầm hoặc phiến diện
về nhận thức, những vấn đề về lý luận nhận thức chưa được giảI quyết một cách khoa học, đặc biệt là
chưa thấy được đầy đủ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
*Nội dung 4 nguyên tắc nhận thức của CNDVBC:
- Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập đối với ý thức của con người.
- Thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người. Coi nhận thức là sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong bộ óc của con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể. Không có
cáI gì là không thể nhận thức được mà chỉ có cáI con người chưa nhận thức được nhưng sẽ nhận thức
được.
- Khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình
phản ánh ấy diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, đI từ hiện tượng đến bản
chất và từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
Coi thưc tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực, mục đích của nhận
thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Vậy CNDVBC khẳng định:
Về bản chất, nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào
bộ óc người trên cơ sở thực tiễn.


21


+Vậy thực tiễn là gì?
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử – xã hội của con
người nhằm cảI biến tự nhiên và xã hội.
Có ba hình thức cơ bản của thực tiễn là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và
hoạt động thực nghiệm khoa học.
Sự tác động qua lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ bản đó làm cho thực tiễn vận động,
phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng đối với nhận thức,
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi chúng ta luôn phảI quán triệt quan điểm thực tiễn.
Việc nghiên cứu lý luận phảI liên hệ với thực tiễn, học đI đôI với hành. Nừu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến
sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò
của thực tiễn sẽ rơI vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa.
*Quan hệ giữa các nguyên tắc?
*Khuynh hướng, bài học về sự phát triển của các nước trên thế giới?
- Trong quá trình đổi mới phảI kiên định, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền
tảng chủ nghĩa Mác- Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
- Đổi mới phảI vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của
nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cáI mới.
- Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong điều kiện mới.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo
quyền lực thuộc về nhân dân.
*Thực trạng về mọi mặt của đất nước: (2001-2005)
Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm
trước bình quân đạt 7,51% và phát triển tương đối toàn diện. Văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ trên nhiều
mặt; việc gắn phát triển kinh tế với giảI quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, nhất là trong công

cuộc xóa đói giảm nghèo; đời sống các tầng lớp nhân dân được cảI thiện. Chính trị – xã hội ổn định, quốc
phòng và an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới. Việc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại doàn
kết dân tộc được phát huy. Công tác xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực.
Bên cạnh đó vẫn còn những khuyết điểm và yếu kém :
Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng ; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền
kinh tế còn kém ; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ chế, chính sách về văn hóa – xã hội chậm đổi
mới ; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại
còn một số mặt hạn chế. Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
còn một số khâu chậm đổi mới. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu.
*Các chủ trương, đường lối về phát triển kinh tế qua các kỳ đại hội. (Xem lại)
(Tăng trưởng kinh tế đi lên gắn liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi xã hội.) (Xem
lại)
Sau 20 năm đổi mới chúng ta đã có được những thành tựu to lớn nhưng cũng còn nhiều yếu kém,
đặc biệt là nền kinh tế đang ở trình đọ phát triển thấp, quy mô nhỏ, sức cạnh tranh yếu, còn tụt hậu khá xa
so với nhiều nước trong khu vực, chưa vượt ra khỏi nhóm các nước đang phát triển có thu nhập thấp ;
trong khi yêu cầu về phát triển nhanh và bền vững rất cấp bách, yêu cầu về hội nhập với nền kinh tế khu
vực và thế giới ngày càng khẩn trương và sâu rộng hơn.
Do đó sự lựa chọn nhiệm vụ chủ yếu của đại hội X nhằm nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu
vực và trên trường quốc tế là sự kế thừa hoàn toàn đúng đắn với tiến trình phát triển của đất nước.

22


Câu 12: Bằng luận điểm phủ định của phủ định, theo Ăngghen: “ Chủ nghĩa cộng sản (CNCS)
không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm của xã hội cả. CNCS không tước
bỏ của cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm của xã hội cả. CNCS chỉ tước bỏ quyền dùng sự
chiếm hữu ấy để nô dịch lao dộng của người khác” (C.Mác: Ph.Ăngghen toàn tập, t.4, tr.618) để
chứng minh rằng việc lựa chọn nhiệm vụ chủ yếu của nước ta hiện nay: “ Giải phóng và phát

triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo bước đột phá về
xây dựng kết cấu hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh,
tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng của nước đang phát triển có
thu nhập thấp”( văn kiện đại hội X tr 186) là sự vận dụng đúng đắn nguyên lý của chủ nghĩa
Mác vào hoàn cảnh lịch sử Việt Nam.
Trả lời:
I. Phần nội dung cơ bản:
1. Vai trò của phủ định biện chứng
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, là mắt khâu trong
quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới tiến bộ hơn sự vật cũ. Phủ định biện chứng có tính
khách quan và tính kế thừa.
* Tính khách quan: Phủ định biện chứng có nguyên nhân nằm ngay trong bản thân sự vật,
là kết quả giải quyết những mâu thuẫn bên trong làm cho sự vật phát triển. Vì vậy phủ định
biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động và phát triển của sự vật.
* Tính kế thừa : Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật nên
không thủ tiêu hoàn toàn cái cũ, mà cái mới ra đời trên sự gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi
thời lạc hậu của cái cũ và giữ lại, cải tạo những mặt tích cực để gia nhập vào cái mới. Vì vậy
phủ định biện chứng mang tính kế thừa. Với ý nghĩa như vậy phủ định cũng đồng thời là sự
khẳng định.
2. Sự khác nhau giữa phủ định và phủ định biện chứng:
a. Phủ định : Sự phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận
động và phát triển.
Có nhiều quan điểm khác nhau về sự phủ định, nhưng quan điểm biện chứng cho rằng phủ
định là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ,
đó là phủ định biện chứng.
b. Phủ định biện chứng: Qua phân tích phủ định biện chứng ở trên cho thấy, phủ định biện
chứng không chỉ là sự khắc phục cái cũ, sự vật cũ, mà còn là sự liên kết giữa cái cũ với cái
mới, sự vật cũ với sự vật mới, giữa sự khẳng định với sự phủ định, quá khứ với hiện thực.
Phủ định biện chứng là mắt khâu tất yếu của mối liên hệ và sự phát triển.
3. Nội dung quy luật phủ định của phủ định, đặc điểm, nhất là phủ định trong xã hội:

a. Quá trình phủ định biện chứng:
Sự vật ra đời và tồn tại đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự vật ấy,
những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng diễn ra sự vật đó không còn nữa mà bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó có những nhân tố tích cực
được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự vật mới khác. Sự vật mớI ấy
dường như đã tồn tại song không phải là sự trùng lặp hoàn toàn , mà nó được bổ sung những
nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực thích hợp với sự phát triển tiếp tục của
nó. Sau khi sự phủ định hai lần phủ định của phủ định được thực hiện, sự vật mới hoàn
thành một chu kì phát triển.
b. Số lượng các lần phủ định:
Trong hiện thực, một chu kỳ phát triển của sự vật cụ thể có thể bao gồm số lượng các lần
phủ định nhiều hơn hai. Có sự vật trải qua 2 lần phủ định, có sự vật phải trải qua ba, bốn,
năm lần phủ đinh…mới hoàn thành một chu kì phát triển. Nói cách khác, sự vật phải trải qua
từ hai lần phủ định trở lên mới hoàn thành một chu kì phát triển. Điều đó phụ thuộc vào từng
sự vật cụ thể.
c. Đặc điểm quan trọng
Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật – xu hướng
phát triển. Song sự phát triển đó không phải diễn ra theo đường thẳng mà theo đường “xoáy
ốc”.

23


sự phát triển theo đường “xoáy ốc” là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá
trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của
đường xoáy ốc dường như thể hiện sự lặp lại, nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của
sự phát triển. Tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp nhau
từ dưới lên của các vòng trong đường “xoáy ốc”.
Từ sự phân tích đã được nêu ra ở trên, chúng ta khái quát về nội dung cơ bản quy luật phủ
định của phủ định như sau:
Quy luật phủ định của phủ định nêu lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái khẳng định

và cái phủ định, nhờ đó phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển, nó bảo tồn nội
dung tích cực của giai đoạn trước và bổ sung thêm những thuộc tính mới làm cho sự phát
triển đi theo đường “xoáy ốc”.
II. Phần vận dụng:
1. Những bài học kinh nghiệm qua thời kì đổi mới:
a. Từ thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng và nhà nước ta càng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm
lãnh đạo và quản lý. Có thể rút ra một số bài học lớn ( trên mọi lĩnh vực) sau đây:
Một là, trong quá trình đổi mới , phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền
tảng CN Mác- Lênin và tư tưởng HCM . Cần nắm các nội dung sau:
- Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu CNXH mà là làm cho CNXH được nhận thức đúng
đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn.
- Đổi mới không phải là xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển CN
Mác- Lênin , tư tưởng HCM , lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động của Đàng và nhân dân ta.
Hai là, đổi mới toàn diện đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Nội dung của bài học này là:
- phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn, từ kinh tế, chính trị, đối ngoại
đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị.
- Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có
những bước đi thích hợp, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa phát triển kinh tế
là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa- nền tảng tinh thần của xã
hội.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động
sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. nội dung là:
- Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân, do nhân dân. Những ý kiến, nguyện
vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi
mới của Đảng.
- Chìa khóa của thành công là biết dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn là thường
xuyên tổng kết thực tiễn, phát triển nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển.

Bốn là, phát huy cao độ nội lực đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Nội dung là:
- Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển; coi trọng huy động
các nguồn ngoại lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên
ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất
nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo vả sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực
thuộc về nhân dân. Các thành tố bảo đảm cho sự thắng lợi của sự nghiệp đổi mới:
- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi
của sự nghiệp đổi mới.
- Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân , vì nhân dân là yêu
cầu bức thiết của dân chủ hóa xã hội.
- Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng
lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc.

24


b.
Từ thực tiễn 5 năm qua 2001 - 2005, có thể rút ra mấy bài học kinh nghiệm lớn ( chủ yếu
về phát triển kinh tế ) và cũng là tư tưởng chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm tới
2006 - 2010 là:
* Bài học về phát triển nhanh và bền vững
Phát triển nhanh phải đi đôi với phát triển bền vững, hai mặt tác động lẫn nhau, được thể hiện
ở cả tầm vĩ mô và vi mô, ở cả tầm ngắn hạn và dài hạn. Tăng trưởng về số lượng phải đi liền
với nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong khi khai thác các
yếu tố phát triển theo chiều rộng, phải đặc biệt coi trọng các yếu tố phát triển theo chiều sâu.
Phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển toàn diện con người, thực hiện

dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm
giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo. Từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa
các vùng. Phải rất coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển,
không gây ô nhiễm và huỷ hoại môi trường.
Phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo đảm ổn định chính trị -xã hội; ổn định chính trị - xã
hội là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững.
* Bài học về huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, nhất là nội lực
Nội lực có vai trò quyết định đối với sự phát triển. Có phát huy được nội lực thì mới thu hút và
sử dụng có hiệu quả ngoại lực. Nội lực được tăng cường thì mới bảo đảm được độc lập tự chủ
về kinh tế và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Phát huy nội lực trước hết là phát
huy nguồn lực con người, nguồn lực của toàn dân tộc, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên
thiên nhiên và sử dụng tốt nhất nguồn lực của Nhà nước. Điều có ý nghĩa quyết định là phải có
chính sách phù hợp để phát huy tối đa khả năng về vật chất, trí tuệ và tinh thần của mọi người
dân, của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân - một nguồn lực giàu tiềm năng của
dân tộc ta - để góp phần quan trọng giải quyết việc làm, đẩy nhanh và nâng cao hiệu quả phát
triển kinh tế - xã hội.
Ngoại lực có vai trò quan trọng cho sự phát triển. Kết hợp tốt nội lực và ngoại lực sẽ tạo thành
sức mạnh tổng hợp xây dựng đất nước. Ngoại lực, bao gồm cả vốn đầu tư, công nghệ, kỹ năng
quản lý và thị trường... bổ sung cho nội lực, tạo thêm điều kiện để huy động và sử dụng nội lực
có hiệu quả cao hơn. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, ngoại lực càng
trở nên quan trọng; một nước đang phát triển ở trình độ thấp như nước ta, muốn vươn lên để
theo kịp các nước, không thể coi nhẹ việc thu hút và sử dụng tốt nhất ngoại lực. Muốn phát
huy tốt ngoại lực, phải có một chiến lược tổng thể, nhất quán và môi trường đầu tư, kinh doanh
lành mạnh, trước hết là có một hệ thống thể chế, chính sách đồng bộ, một nền hành chính minh
bạch, hiệu lực, hiệu quả.
* Bài học về hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
Hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan; phải chủ động, có lộ trình phù hợp với bước
đi tích cực, vững chắc, không do dự chần chừ; nhưng cũng không được nóng vội, giản đơn.
Phải tích cực mở rộng thị trường bên ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời phải chủ động
mở cửa thị trường trong nước, kể cả thị trường dịch vụ, để thu hút mạnh vốn đầu tư, công nghệ

và kỹ năng quản lý tiên tiến... từ bên ngoài, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong tiến trình mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới, phải biết phát huy lợi thế so sánh,
tạo môi trường cạnh tranh để phát triển. Đồng thời, để phát triển bền vững, bảo đảm sự ổn
định, tăng khả năng độc lập tự chủ của đất nước, nhất thiết phải tăng cường tiềm lực và bảo
đảm an ninh kinh tế, đi đôi với củng cố quốc phòng, an ninh. Về an ninh kinh tế, phải giữ
vững các cân đối vĩ mô; ngoài an ninh lương thực và an ninh năng lượng, cần tăng nhanh dự
trữ ngoại tệ, kiểm soát chặt chẽ nợ nước ngoài; phát huy cao nhất các nguồn lực để xây dựng
kết cấu hạ tầng và phát triển có hiệu quả một số ngành và sản phẩm quan trọng, thiết yếu đối
với nền kinh tế và đời sống xã hội.
* Bài học về phát triển kinh tế thị trường đồng thời với chăm lo ngày càng tốt hơn phúc lợi
xã hội
Giai đoạn mới của sự phát triển đất nước đòi hỏi công cuộc đổi mới phải đi vào chiều sâu và
toàn diện hơn, phải dứt khoát hình thành nhanh và đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường và
hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đầy đủ những
nguyên tắc của kinh tế thị trường. Đồng thời, càng đi vào kinh tế thị trường, càng phải chăm lo
tốt hơn phúc lợi xã hội, giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, phát triển giáo dục, văn hoá,

25


×