Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Về chế định bảo hộ quyền tác giả theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi bổ sung 2009)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.17 KB, 20 trang )

BÀI TẬP TIỂU LUẬN MÔN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
CHỦ ĐỀ 5: ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ THEO
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ NĂM 2005 (SỬA
ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2009) – NHỮNG BẤT CẬP VÀ ĐỊNH
HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thời đại hiện nay, quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả
nói riêng đang được coi là những biện pháp hữu hiệu nhất giúp bảo vệ quyền lợi
chính đáng cho các tác giả, chủ sở hữu tác phẩm khỏi các hành vi xâm phạm của
kẻ xấu; tác động mạnh mẽ để phát huy sự sáng tạo của mỗi cá nhân, tổ chức,
doanh nghiệp cho ra đời nhiều tác phẩm trí tuệ mới; góp phần không nhỏ trong
công cuộc phát triển kinh tế và phát huy các giá trị văn hóa, tinh thần của đất
nước. Trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta, cùng với công
cuộc hội nhập không ngừng với các nước trên thế giới, ngày càng xuất hiện
nhiều các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả với thủ đoạn hết
sức tinh vi và xảo quyệt. Chính vì vậy, hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ,
bảo vệ quyền tác giả luôn được đánh giá cao và quan tâm thực hiện. Điều đó làm
động lực thúc đẩy em đi vào tìm hiểu đề tài: “Điều kiện bảo hộ quyền tác giả
theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009) –
những bất cập và định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật”

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận về quyền tác giả
1. Khái niệm và đặc điểm của quyền tác giả
1.1 Khái niệm quyền tác giả


Ở Việt Nam, quyền tác giả là phạm vi những quyền mà pháp luật thừa
nhận và bảo hộ đối với tác giả có tác phẩm. Theo điều 18, Luật SHTT 2005 (sửa
đổi, bổ sung 2009) quy định quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền
tài sản đối với tác phẩm. Từ đây, có thể hiểu quyền tác giả theo hai hướng:


Thứ nhất, về phương diện khách quan: quyền tác giả là tổng hợp các quy
phạm pháp luật về quyền tác giả nhằm xác nhận và bảo vệ quyền của tác giả,
của chủ sở hữu quyền tác giả, xác định nghĩa vụ của các chủ thể trong việc sáng
tạo và sử dụng các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Quy định trình tự
thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi có hành vi xâm phạm.
Thứ hai,về phương diện chủ quan: quyền tác giả là quyền dân sự cụ thể
của chủ thể với tư cách là tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác
phẩm văn học, nghệ thuật, công trình khoa học và quyền khởi kiện hay không
khi quyền của mình bị xâm phạm.
Ngoài ra, ở một phương diện khác, quyền tác giả còn được hiểu là quan
hệ pháp luật dân sự. Đó là quan hệ xã hội giữa tác giả cũng như chủ sở hữu
quyền tác giả với các chủ thể khác thông qua tác phẩm, dưới sự tác động của
quy phạm pháp luật, quan hệ đó được xác định. Quan hệ pháp luật về quyền tác
giả là quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối với các chủ thể của quyền được xác
định và các chủ thể khác có nghĩa vụ tôn trọng quyền đó.
1.2. Đặc điểm quyền tác giả
Quyền tác giả là một quyền bộ phận trong quyền sở hữu trí tuệ nên nó
mang những đặc điểm chung của quyền sở hữu trí tuệ như: tính vô hình của đối
tượng; được bảo hộ trong thời hạn nhất định. Ngoài những đặc điểm chung đó,
quyền tác giả còn có những đặc điểm riêng biệt.
Thứ nhất, đối tượng của quyền tác giả luôn mang tính sáng tạo, được bảo
hộ không phụ thuộc vào giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật


Đối tượng của quyền tác giả là các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa
học. Tác phẩm là thành quả lao động sáng tạo của tác giả được thể hiện dưới
hình thức nhất định. Mọi cá nhân đều có quyền sáng tạo văn học, nghệ thuật,
khoa học và khi cá nhân tạo ra tác phẩm trí tuệ, không phụ thuộc vào giá trị nội
dung và nghệ thuật đều có quyền tác giả đối với tác phẩm. Tác phẩm phải do tác
giả trực tiếp thực hiện lao động trí tuệ của mình mà không phải sao chép từ tác

phẩm của người khác. Tác phẩm sẽ được nhiều người biết đến, sử dụng nếu có
nội dung phong phú, hình thức thể hiện sáng tạo được kết hợp bởi giá trị nghệ
thuật, khoa học và kinh nghiệm nghề nghiệp của tác giả.
Thứ hai, quyền tác giả thiên về việc bảo hộ hình thức thể hiện tác phẩm
Pháp luật về quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức chứa đựng tác phẩm khi
nó được tạo ra và thể hiện dưới hình thức nhất định mà không bảo hộ nội dung
sáng tạo tác phẩm. Quyền tác giả chỉ được giới hạn trong phạm vi thể hiện cụ
thể của tác phẩm. Những ý tưởng chỉ có trong suy nghĩ của tác giả mà chưa
được thể hiện ra bên ngoài thì sẽ không được công nhận và bảo hộ.
Thứ ba, hình thức xác lập quyền theo cơ chế bảo hộ tự động.
Quyền tác giả được xác lập dựa vào chính hành vi tạo ra tác phẩm của tác
giả, không phụ thuộc vào thể thức, thủ tục nào.Từ thời điểm tạo ra tác phẩm, tác
giả được bảo hộ về mặt pháp lý và có các quyền của người sáng tạo mà không
phụ thuộc thủ tục đăng ký. Quyền tác giả được phát sinh mặc nhiên và nó thể
hiện dưới hình thức khách quan mà người khác có thể nhận biết được. Như vậy,
việc đăng ký quyền tác giả không phải căn cứ phát sinh quyền tác giả mà chỉ là
chứng cứ chứng minh khi có tranh chấp.
Thứ tư, quyền tác giả không được bảo hộ một cách tuyệt đối
Đối với tác phẩm đã được công bố, phổ biến và tác phẩm không bị cấm
sao chụp thì cá nhân, tổ chức được phép sử dụng tác phẩm của người khác nếu
việc sử dụng đó không nhằm mục đích kinh doanh, ảnh hưởng đến việc sử dụng,


khai thác bình thường của tác phẩm, không xâm hại đến các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả.
1.3. Ý nghĩa quyền tác giả
Thứ nhất, bảo hộ quyền lợi của người sáng tạo tri thức, ngăn cấm người
khác thương mại hóa tri thức của mình, chống lại sự lạm dụng, khai thác và sưu
tầm làm tổn hại đến giá trị đích thực của tác phẩm.
Thứ hai, ngoài việc công nhận về nguồn gốc sáng tạo ra tác phẩm, đây

còn là sự bù đắp xứng đáng cho tác giả vì những công sức sáng tạo họ đã bỏ ra.
Việc bảo hộ này làm tăng sự chắc chắn và ổn định về mặt pháp lí và mang lại lợi
ích không chỉ cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả mà cho cả những người sử
dụng tác phẩm đó.
Thứ ba,cho phép văn hóa các dân tộc tham gia một cách hiệu quả hơn vào
thị trường toàn cầu và từng bước thoát khỏi cảnh nghèo và lệ thuộc, do đó được
coi là một công cụ tiềm năng trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới.
2. Các nguyên tắc bảo hộ quyền tác giả
Nguyên tắc bảo hộ quyền tác giả là tư tưởng chỉ đạo cho các chủ thể khi
vận dụng các quy phạm pháp luật về quyền tác giả, đặc biệt là đối với việc áp
dụng các quy định về quyền tác giả của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi
giải quyết tranh chấp.
2.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền tự do sáng tạo của cá nhân
Đây là nguyên tắc dựa trên tinh thần của khoản 2, điều 62, Hiến Pháp
2013: “Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên
cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công
nghệ; bảo đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ”. Nhà nước đã tạo thế chủ động và tự do sáng tạo của cá nhân, điều này
được ghi nhận trong Hiến pháp, đồng thời cũng phải tuân thủ những nguyên tắc
chung của luật dân sự đặc biệt là nguyên tắc “tự do, tự nguyện cam kết thỏa


thuận”. Với quy định trên đây thì quyền tự do sáng tạo của cá nhân luôn được
tôn trọng và bảo dảm thực hiện, khuyến khích tự do sáng tạo, cấm cản trở, hạn
chế quyền tự do sáng tạo của cá nhân. Pháp luật bảo đảm cho người sáng tạo tự
do chọn đề tài, hình thức, đặt tên tác phẩm, đứng tên tác giả...
2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng, tự định đọat của các chủ thể
Nguyên tắc này được công nhận tại khoản 1, điều 16, Hiến Pháp 2013:
“Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Và nội dung của nó tiếp tục được
thể hiện trong Bộ luật dân sự 2015: “Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng,

không được lấy bất kì lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như
nhau về các quyền nhân thân và tài sản” (khoản 1, điều 3). Nguyên tắc này là
kim chỉ nam định hướng cho tất cả các ngành luật quy định về quyền tác giả nói
chung và quyền của người sáng tác văn học, nghệ thuật nói riêng không phân
biệt độ tuổi, trình độ văn hóa, giới tính... Tác giả hoàn toàn có quyền định đoạt
các quyền của mình có được từ tác phẩm. Pháp luật về quyền tác giả luôn bảo
đảm cho các chủ thể sử dụng, khai thác tác phẩm một cách hiệu quả nhất. Bất kể
hành vi nào xâm phạm đến quyền tác giả đều sẽ bị đưa ra trước pháp luật xử lý
một cách nghiêm minh, nhằm bảo vệ lợi ích cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác
giả cũng như đảm bảo chất lượng sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
2.3. Nguyên tắc bảo đảm không trùng lặp tác phẩm
Do đặc tính vô hình của các đối tượng sở hữu trí tuệ nên quyền chiếm hữu
đối tượng này là không có ý nghĩa và nó luôn bị đe dọa đặt trong tình trạng có
thể bị đánh cắp, sao chép bất cứ lúc nào. Khi tác phẩm hay công trình khoa học
đã hoàn thành và được công chúng biết đến thì việc sao chép sử dụng thành quả
lao động một cách bất hợp pháp lại rất dễ dàng. Do vậy, nguy cơ bị xâm phạm
rất lớn kéo theo việc xác định thiệt hại rất khó khăn, phức tạp. Điều này làm ảnh
hưởng đến quyền lợi của người sáng tạo, thậm chí kìm hãm sự phát triển. Nội
dung của nguyên tắc thể hiện qua các ý sau:


Thứ nhất, tác phẩm được bảo hộ phải có tính sáng tạo, không phải là cách
sắp xếp diễn đạt đơn thuần, bắt trước cách diễn đạt thể hiện ngôn từ, màu sắc
khuôn mẫu của tác phẩm khác.
Thứ hai, tác phẩm được bảo hộ phải là bản gốc (bản đầu tiên của tác phẩm
do tác giả sáng tạo ra).
Thứ ba, bảo đảm tính toàn vẹn của tác phẩm. Trong các quyền nhân thân
của tác giả có quyền bảo vệ tính toàn vẹn của tác phẩm. Xâm phạm đến sự toàn
vẹn của tác phẩm là xâm phạm đến quyền nhân thân của tác giả. Không ai có
quyền thay đổi tác phẩm với bất cứ lý do hay mục đích nào mà không có sự

đồng ý của tác giả.
3. Khái quát về tác phẩm
3.1. Khái niệm tác phẩm
Theo quy định tại khoản 7, điều 4 Luật SHTT 2005 (sửa đổi, bổ sung
2009) thì:“Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học nghệ thuật và
khoa học thể hiện bằng bất kì phương tiện hay hình thức nào”. Như vậy, sản
phẩm lao động trí tuệ để được công nhận là tác phẩm và được bảo hộ thì phải
đáp ứng đủ ba điều kiện: là kết quả của hoạt động sáng tạo; phải được ấn định
trên hình thức vật chất hoặc thể hiện thông qua hình thức nhất định và thuộc lĩnh
vực văn học, nghệ thuật, khoa học.
Ngoài ra, để tránh những cách hiểu sai về khái niệm tác phẩm, pháp luật
đã quy định cụ thể các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả tại điều 14,
Luật SHTT 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009) kết hợp với Công ước Berne về tác
phẩm và Nghị định số 100/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền
liên quan. Theo đó loại hình được bảo hộ gồm: Tác phẩm văn học, khoa học,
sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác; Các bài giảng, bài phát biểu và bài
nói khác; Tác phẩm sân khấu; Tác phẩm điện ảnh và tương tự; Tác phẩm nhiếp
ảnh; Tác phẩm báo chí; Tác phẩm âm nhạc; Tác phẩm kiến trúc; Tác phẩm tạo


hình, mỹ thuật, ứng dụng; Các bức họa đồ, bản vẽ, sơ đồ, bản đồ; Chương trình
máy tính, sưu tập dữ liệu; Tác phẩm phái sinh.
3.2. Phân loại tác phẩm
Dựa vào lĩnh vực sáng tạo có: tác phẩm văn học, tác phẩm nghệ thuật, tác
phẩm khoa học
Dựa vào nguồn gốc hình thành có: tác phẩm gốc, tác phẩm phái sinh
(trong đó có: tác phẩm dịch thuật, tác phẩm phóng tác, tác phẩm cải biên, tác
phẩm chuyển thể), tác phẩm tuyển tập, tác phẩm hợp tuyển.
4. Chủ thể của quyền tác giả

Chủ thể của quyền tác giả được hiểu là các cá nhân, tổ chức có các quyền
nhất định đối với một tác phẩm, bao gồm tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả.
4.1. Tác giả của tác phẩm
Chỉ có thể là con người, bằng lao động trí tuệ sáng tạo của mình trực tiếp
tạo ra tác phẩm văn học, nghệ thuật, các công trình khoa học mới có thể được
coi là tác giả. Trước đây, trong Bộ luật dân sự 2005, tại điều 736 có đề cập đến
khái niệm tác giả bao gồm:
“1. Người sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học (sau đây gọi
chung là tác phẩm) là tác giả của tác phẩm đó. Trong trường hợp có hai người
hoặc nhiều người cùng sáng tạo ra tác phẩm thì những người đó là các đồng
tác giả.
2. Người sáng tạo ra tác phẩm phái sinh từ tác phẩm của người khác, bao
gồm tác phẩm được dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng
tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn là tác giả của tác
phẩm phái sinh đó.”
Cho đến thời điểm hiện tại, khi Bộ luật dân sự 2005 đã hết hiệu lực, Bộ
luật dân sự 2015 hiện hành đã rút gọn, không còn đi sâu vào các luật chuyên


ngành cho nên khái niệm này không còn được sử dụng ở Bộ luật dân sự 2015
nữa. Tuy vậy, một văn bản khác đang có hiệu lực là Nghị định 100/2006/ NĐCP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật
Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan ở khoản 1 điều 8 vẫn có quy
định về khái niệm tác giả. Theo đó: Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra một
phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học bao gồm:
a) Cá nhân Việt Nam có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả;
b) Cá nhân nước ngoài có tác phẩm được sáng tạo và thể hiện dưới hình thức vật
chất nhất định tại Việt Nam;
c) Cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam;
d) Cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo Điều ước
quốc tế về quyền tác giả mà Việt Nam là thành viên.

Nhìn chung, một chủ thể muốn được công nhân là tác giả cần phải đáp
ứng được ba điều kiện:
Thứ nhất, phải là người trực tiếp thực hiện hoạt động sáng tạo để tạo ra
tác phẩm. Hoạt động sáng tạo là sự lao động trí tuệ để tạo ra các tác phẩm hay
nói cách khác, các tác phẩm phải là kết quả của hoạt động sáng tạo được thể
hiện trên hình thái vật chất, hoặc thể hiện thông qua hình thức nhất định, có tính
độc lập tương đối, mang tính mới về nội dung, ý tưởng hoặc sự thể hiện tác
phẩm. Chủ thể làm công việc hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người
khác sáng tạo ra tác phẩm không được công nhận là tác giả.
Thứ hai, người tạo ra tác phẩm phải ghi tên thật hoặc bút danh của mình
lên tác phẩm được công bố, sử dụng. Đây là một trong các quyền nhân thân của
tác giả được quy định tại khoản 2, Điều 19, Luật SHTT 2005 (sửa đổi, bổ sung
2009). Cá biệt hóa tác phẩm là một phương thức đơn giản và thường gặp để ấn
định quyền tác giả đối với tác phẩm.


Thứ ba, tác giả chỉ được thừa nhận nếu tác phẩm được tạo ra là kết quả
của lao động sáng tạo trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học.
Thuật ngữ tác giả có thể hiểu theo hai phương diện tổng quan và phương
diện hẹp. Tuy nhiên, tổng quát lại, có thể định nghĩa tác giả như sau: Tác giả là
người trực tiếp lao động sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học
để tạo ra toàn bộ hoặc một phần tác phẩm thuộc một trong các lĩnh vực đó.
4.2. Chủ sở hữu quyền tác giả
Chủ sở hữu quyền tác giả là cá nhân, tổ chức nắm giữ một, một số hoặc
toàn bộ các quyền tài sản liên quan đến tác phẩm được thừa nhận dù họ là người
trực tiếp hoặc không trực tiếp tạo ra tác phẩm đó. Điều này đã được quy định tại
điều 36, Luật SHTT 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009). Theo các điều từ điều 37 đến
điều 42, thì các tổ chức, cá nhân sau đây được thừa nhận là chủ sở hữu quyền tác
giả: tác giả; các đồng tác giả; tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc
giao kết hợp đồng với tác giả; người thừa kế; người được chuyển giao quyền và

Nhà nước.

II. Điều kiện bảo hộ quyền tác giả theo quy định của Luật Sở hữu
trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009)
1. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có tác phẩm được bảo hộ quyền
tác giả
Theo quy định tại điều 13, Luật SHTT 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009) thì
điều kiện về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có tác phẩm được bảo hộ là:
“1. Tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người
trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại các điều
từ Điều 37 đến Điều 42 của Luật này.
2. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại khoản 1 Điều này gồm
tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công


bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc
được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày
tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác; tổ chức, cá nhân nước
ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác
giả mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”
Như vậy, theo Luật SHTT, để tác phẩm của mình được bảo hộ, tác giả,
chủ sở hữu quyền tác giả phải có những điều kiện:
Thứ nhất, là người trực tiếp lao động sáng tạo ra tác phẩm và các chủ sở
hữu quyền tác giả đã nêu trên.
Thứ hai, phải là tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc tổ chức, cá nhân nước
ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam hoặc được công bố
đồng thời ở Việt Nam trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được
công bố lần đầu ở nước khác hoặc tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm
được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Có thể thấy rằng, nhưng quy định này của các nhà làm luật đặt ra đã được
nghiên cứu hết sức kỹ lưỡng và cặn kẽ; chi tiết và chặt chẽ, để giới hạn những
chủ thể được bảo hộ về phạm vi lãnh thổ, giới hạn tác phẩm được công bố ở
nước ta, cũng như để phù hợp với thông lệ, điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên.
2. Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả
Khoản 7, điều 4, Luật SHTT 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009) quy định về
khái niệm tác phẩm như sau: “Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực
văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kì phương tiện hay hình thức
nào”. Tuy vậy để được bảo hộ quyền tác giả thì tác phẩm phải thuộc một trong
các trường hợp được quy định tại điều 14, Luật SHTT 2005 (sửa đổi, bổ sung
2009) và được quy định chi tiết bởi Nghị định của Chính phủ số 100/2006/ NĐCP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 85/2011/NĐ-CP):


Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm
khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác. Tác phẩm thể hiện dưới
dạng ký tự khác là tác phẩm được thể hiện bằng các ký hiệu thay cho chữ viết
như chữ nổi cho người khiếm thị, ký hiệu tốc ký và các ký hiệu tương tự khác
mà các đối tượng tiếp cận có thể sao chép được bằng nhiều hình thức khác nhau.
Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác. Đây là các tác phẩm được thể
hiện bằng ngôn ngữ nói và phải được định hình dưới một hình thức vật chất nhất
định ví dụ như băng ghi âm hoặc văn bản. Trong trường hợp tác giả tự thực hiện
việc định hình bài giảng, bài phát biểu, bài nói khác dưới hình thức bản ghi âm,
ghi hình, thì tác giả được hưởng quyền tác giả đối với bài giảng, bài phát biểu,
bài nói khác, đồng thời là chủ sở hữu quyền đối với bản ghi âm, ghi hình theo
quy định tại khoản 2 Điều 44 của Luật SHTT.
Tác phẩm báo chí, bao gồm các thể loại: phóng sự, ghi nhanh, tường
thuật, phỏng vấn, phản ánh, điều tra, bình luận, xã luận, chuyên luận, ký báo chí
và các thể loại báo chí khác nhằm đăng, phát trên báo in, báo nói, báo hình, báo
điện tử hoặc các phương tiện khác bằng ngôn ngữ khác nhau.

Tác phẩm âm nhạc là tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong
bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác có hoặc không có lời, không phụ thuộc
vào việc trình diễn hay không trình diễn.
Tác phẩm sân khấu là tác phẩm thuộc các loại hình nghệ thuật biểu diễn,
bao gồm kịch (kịch nói, nhạc vũ kịch, ca kịch, kịch câm), xiếc, múa, múa rối và
các loại hình tác phẩm sân khấu khác.
Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự
là những tác phẩm được hợp thành bằng hàng loạt hình ảnh liên tiếp tạo nên
hiệu ứng chuyển động kèm theo hoặc không kèm theo âm thanh, được thể hiện
trên một chất liệu nhất định và có thể phân phối, truyền đạt tới công chúng bằng
các thiết bị kỹ thuật, công nghệ, bao gồm loại hình phim truyện, phim tài liệu,
phim khoa học, phim hoạt hình và các loại hình tương tự khác.


Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng. Tác phẩm tạo hình là tác phẩm
được thể hiện bởi đường nét, màu sắc, hình khối, bố cục như: hội hoạ, đồ hoạ,
điêu khắc, nghệ thuật sắp đặt và các hình thức thể hiện tương tự, tồn tại dưới
dạng độc bản. Riêng đối với loại hình đồ hoạ, có thể được thể hiện tới phiên bản
thứ 50, được đánh số thứ tự có chữ ký của tác giả. Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng
là tác phẩm được thể hiện bởi đường nét, màu sắc, hình khối, bố cục với tính
năng hữu ích có thể gắn liền với một đồ vật hữu ích, được sản xuất hàng loạt
bằng tay hoặc bằng máy như: biểu trưng; hàng thủ công mỹ nghệ; hình thức thể
hiện trên sản phẩm, bao bì sản phẩm.
Tác phẩm nhiếp ảnh là tác phẩm thể hiện hình ảnh của thế giới khách
quan trên vật liệu bắt sáng hoặc trên phương tiện mà hình ảnh được tạo ra hay có
thể được tạo ra bằng bất cứ phương pháp kỹ thuật nào (hoá học, điện tử hoặc
phương pháp khác). Hình ảnh tĩnh được lấy ra từ một tác phẩm điện ảnh hay
tương tự như điện ảnh không được coi là tác phẩm nhiếp ảnh mà là một phần
của tác phẩm điện ảnh đó.
Tác phẩm kiến trúc là các bản vẽ thiết kế dưới bất kỳ hình thức nào thể

hiện ý tưởng sáng tạo về ngôi nhà, công trình xây dựng, quy hoạch không gian
(quy hoạch xây dựng) đã hoặc chưa xây dựng. Tác phẩm kiến trúc bao gồm các
bản vẽ thiết kế về mặt bằng, mặt đứng, mặt cắt, phối cảnh, thể hiện ý tưởng sáng
tạo về ngôi nhà, công trình, tổ hợp công trình kiến trúc, tổ chức không gian, kiến
trúc cảnh quan của một vùng, một đô thị, hệ thống đô thị, khu chức năng đô thị,
khu dân cư nông thôn. Mô hình, sa bàn về ngôi nhà, công trình xây dựng hoặc
quy hoạch không gian được coi là tác phẩm kiến trúc độc lập.
Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, công trình
khoa học bao gồm họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, các loại
công trình khoa học và kiến trúc.
Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là sáng tạo tập thể trên nền tảng
truyền thống của một nhóm hoặc các cá nhân nhằm phản ánh khát vọng của


cộng đồng, thể hiện tương xứng đặc điểm văn hoá và xã hội của họ, các tiêu
chuẩn và giá trị được lưu truyền bằng cách mô phỏng hoặc bằng cách khác.
(khoản 1, điều 23)
Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu. Chương trình máy tính là tập hợp
các chỉ dẫn được thể hiện dưới dạng các lệnh, các mã, lược đồ hoặc bất kỳ dạng
nào khác, khi gắn vào một phương tiện mà máy tính đọc được, có khả năng làm
cho máy tính thực hiện được một công việc hoặc đạt được một kết quả cụ thể.
Chương trình máy tính được bảo hộ như tác phẩm văn học, dù được thể hiện
dưới dạng mã nguồn hay mã máy. Sưu tập dữ liệu là tập hợp có tính sáng tạo thể
hiện ở sự tuyển chọn, sắp xếp các tư liệu dưới dạng điện tử hoặc dạng khác.
Việc bảo hộ quyền tác giả đối với sưu tập dữ liệu không bao hàm chính các tư
liệu đó, không gây phương hại đến quyền tác giả của chính tư liệu đó.
Tác phẩm phái sinh bao gồm tác phẩm dịch, phóng tác, cải biên, biên
soạn, chú giải, tuyển tập, hợp tuyển chỉ được bảo hộ nếu không gây phương hại
đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng làm tác phẩm phái sinh.
3. Các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả

Quyền tác giả là quyền của cá nhân tổ chức đối với tác phẩm do mình
sáng tạo ra hoặc sở hữu. Tuy nhiên, không phải bất cứ tác phẩm nào cũng được
coi là đối tượng bảo hộ của quyền tác giả. Các đối tượng không được bảo hộ
quyền tác giả được quy định tại Điều 15 Luật SHTT 2005 (sửa đổi, bổ sung
2009).
3.1.Tin tức thời sự thuần túy đưa tin.
Theo khoản 1 Điều 21 Nghị định 100/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật dân sự, luật sở hữu trí tuệ về quyền
tác giả và quyền liên quan: “Tin tức thời sự thuần tuý đưa tin quy định tại khoản
1 Điều 15 của Luật Sở hữu trí tuệ là các thông tin báo chí ngắn hàng ngày, chỉ
mang tính chất đưa tin không có tính sáng tạo”. Tin tức thời sự đưa tin sẽ được


bảo hộ nếu có thêm sự đánh giá, nhận xét, bình luận thể hiện quan điểm của cá
nhân, sự sáng tạo của tác giả và được thể hiện dưới dạng vật chất nhất định thì
được pháp luật bảo hộ.
Có thể hiểu đó là những tin tức mang tính chất “thời sự”, cần được
chuyển đến công chúng nhanh nhất, chỉ là những bản tin, những số liệu, phản
ánh các thông tin sự thật khách quan như: dịch bệnh, tai nạn, sự kiện diễn ra
trong và ngoài nước… Những tin tức này được thu thập, tổng hợp và phản ánh
một cách chân thực những sự vật sự việc khách quan, mà không phải là sự thể
hiện sự sáng tạo, hay những nét riêng khác biệt nào đó của cá nhân, hay chủ thể
nào đó. Do vậy, chúng không phải là những đối tượng được bảo hộ quyền tác
giả.
Trong trường hợp đăng tải lại tin tức thời sự không cần phải xin phép
bằng văn bản. Tuy nhiên, cần có sự trích dẫn nguồn cụ thể, vừa đảm bảo tính
chính xác của thông tin, vừa thể hiện sự tôn trọng đối với tác giả. Song nếu việc
đăng tải lại thông tin gây thiệt hại cho tác giả thì phải bồi thường cho tác giả
theo quy định về dân sự.
Mặc dù vậy, những tin tức thời sự đưa tin này có thể được bảo hộ nếu như

như trong phần thông tin, tin tức đưa ra có thêm sự đánh giá, nhận xét, bình luận
thể hiện những quan điểm cá nhân, cách nhìn nhận riêng, thể hiện sự sáng tạo
của tác giả, và được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định hoặc dưới bất kỳ
phương tiện nào.
3.2. Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác
thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó.
Ở đây, “văn bản quy phạm pháp luật” có thể được hiểu là “văn bản do cơ
quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức,
trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này hoặc trong Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân trong đó có
quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực


hiện để điều chỉnh”( Khoản 1 Điều 1 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật số 17/2008/QH 12). Đó có thể là các Luật, Hiến pháp, Nghị quyết của Quốc
hội, Nghị định của Chính phủ…Sở dĩ những dạng văn bản này không được bảo
hộ quyền tác giả là vì những văn bản này là những văn bản mang tính quyền lực
nhà nước có phạm vi tác động rất rộng trên toàn bộ lãnh thổ, đồng thời nó chứa
đựng những quy tắc xử sự chung, có tính bắt buộc tất cả mọi người nghiêm
chỉnh chấp hành, tuân thủ; do vậy, nếu được bảo hộ thì nó sẽ làm mất đi tính
phổ biến của những quy tắc này, đồng thời không mang lại hiệu quả như mục
đích ban đầu của nó là điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hơn nữa, những văn bản
này mặc dù có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như văn bản
giấy, bản mềm…nhưng đều không thể hiện tính sáng tạo hay quan điểm cá
nhân.
Văn bản hành chính bao gồm văn bản của cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp, tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân
dân và các tổ chức khác theo quy định của pháp luật (khoản 2, điều 21, Nghị
định 100/2006/NĐ-CP). Cũng giống như các văn bản quy phạm pháp luật,

những văn bản hành chính cũng chứa đựng những quy tắc xử sự chung, có tính
bắt buộc, nhưng với phạm vi nhỏ hơn, có thể là áp dụng trong các cơ quan nhà
nước, trong các tổ chức, hay đơn vị vũ trang… hoặc áp dụng cho một số đối
tượng như những người vi phạm hành chính…Bởi vậy, các văn bản hành chính,
các văn bản thuộc lĩnh vực tư pháp đều không thuộc đối tượng được bảo hộ
quyền tác giả.
Tương tự như vậy, bản dịch chính thức của các văn bản đó cũng không
được bảo hộ quyền tác giả, bởi nó chỉ là bản dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn
ngữ khác, mặc dù được thể hiện dưới hình thức nhất định nhưng nó không thể
hiện được tính sáng tạo của tác giả, đồng thời nếu được bảo hộ, thì nó sẽ làm
cho khả năng tiếp cận của mọi người đến với các văn bản này bị thu hẹp đi,
không đảm bảo được mục đích ban đầu của các văn bản này.


Đây là những dạng văn bản được cơ quan nhà nước dùng để truyền tải
những thông tin, chính sách, quy định của nhà nước đến đông đảo quần chúng
nhân dân cũng như việc phổ biến rộng rãi để dân biết mà làm theo. Nếu được
bảo hộ, các văn bản pháp luật, văn bản hành chính không thể phổ biến một cách
dễ dàng. Hơn nữa, các văn bản này không thể hiện tính sáng tạo cũng như quan
điểm cá nhân.
3.3. Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý,
số liệu.
Cũng giống như hai đối tượng trên, quy trình hệ thống, phương pháp hoạt
động, khái niệm, nguyên lý, số liệu không được bảo hộ dưới dạng quyền tác giả.
Bởi nó chỉ mang ý nghĩa cung cấp thông tin đúng sự thật và cần thiết phải có sự
phổ biến rộng rãi mà không phải gặp bất cứ cản trở nào.
Tóm lại, tác phẩm chỉ được bảo hộ khi đảm bảo đầy đủ hai yếu tố: tính
sáng tạo và được thể hiện dưới dạng vật chất nhất định. Thiếu một trong hai yếu
tố này, tác phẩm sẽ không được bảo hộ.


III. Những bất cập và định hướng hoàn thiện các quy định của
pháp luật
1. Về thuật ngữ “tác giả” và “đồng tác giả”
Luật SHTT 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009) không định nghĩa thuật ngữ “tác
giả”, nhưng Điều 8 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP đã quy định: “Tác giả là
người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật
và khoa học”, đồng thời Nghị định này không quy định tác giả là pháp nhân, do
đó có thể nói rằng tác giả chỉ có thể là cá nhân.
Luật SHTT cũng không định nghĩa thuật ngữ “đồng tác giả” mà mặc
nhiên quan niệm trong trường hợp có từ hai tác giả trở lên cùng sáng tạo nên
một tác phẩm thì họ là các đồng tác giả của tác phẩm đó. Quan niệm này chỉ
điều chỉnh được mối quan hệ về quyền tài sản đối với tác phẩm giữa các đồng


tác giả đối với các trường hợp: tác phẩm được coi là đồng sở hữu chung duy
nhất hoặc tác phẩm được coi là đồng sở hữu chung theo phần được quy định tại
điều 38. Quan niệm như trên là không phổ quát, bởi lẽ nó không thể điều chỉnh
được quyền nhân thân đối với tác phẩm mà các ví dụ sau đây là minh chứng:
Thứ nhất, một bài thơ được công bố, sau đó một nhạc sĩ phổ nhạc cho bài
thơ thành bài hát, giả định rằng tác giả bài thơ chỉ biết đến bài hát khi nó được
công bố. Nếu coi bài hát (bao gồm phần nhạc và phần lời) là một tác phẩm đồng
tác giả thì pháp luật không thể điều chỉnh được khi xảy ra tranh chấp về quyền
nhân thân giữa các đồng tác giả, bởi lẽ ngoài việc mỗi đồng tác giả có các quyền
nhân thân đối với phần riêng biệt của mình thì họ còn có quyền nhân thân chung
đối với toàn bộ tác phẩm đồng tác giả.
Thứ hai, tác giả của một bản nhạc không lời đã chết, một người viết thêm
lời vào bản nhạc thành bài hát có lời, nếu quan niệm như trên thì phải coi bài hát
là một tác phẩm đồng tác giả vì đã có hai tác giả cùng sáng tạo nên một tác
phẩm.
Để khắc phục, em cho rằng nên cân nhắc quy định khái niệm thuật ngữ

tác giả có thể là pháp nhân và tác phẩm đồng tác giả một cách chặt chẽ và cụ thể
hơn.
2. Về thuật ngữ “chủ sở hữu quyền tác giả”
Trong điều 36, Luật SHTT 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009) đã định nghĩa:
“Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ
các quyền tài sản quy định tại Điều 20”.
Định nghĩa trên đây là chưa chính xác, bởi lẽ nội dung của quyền tác giả
được quy định tại Điều 18 bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản, như vậy
về mặt hình thức chủ sở hữu quyền tác giả phải nắm toàn bộ nội dung quyền tác
giả (bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản). Nhưng như Điều 36 đã định
nghĩa thì cho thấy chủ sở hữu quyền tác giả chỉ nắm quyền tài sản chứ không có
quyền nhân thân.


Vì vậy, em cho rằng các nhà làm luật cần hoàn thiện vấn đề này theo
hướng sửa đổi thuật ngữ “chủ sở hữu quyền tác giả” thành thuật ngữ “chủ sở
hữu tác phẩm” sẽ phù hợp hơn về mặt hình thức và ngữ nghĩa.
3. Về thuật ngữ “bản sao tác phẩm”
Khoản 4, Điều 4, Nghị định số 100/2006/NĐ-CP quy định chi tiết: “Bản
sao tác phẩm là bản sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp một phần hoặc toàn bộ tác
phẩm”. Tuy nhiên, không thể coi bản sao một phần tác phẩm là bản sao tác
phẩm được, chỉ có bản sao toàn bộ tác phẩm mới là bản sao tác phẩm. Bởi lẽ,
nếu quan niệm như vậy thì phần trích dẫn tác phẩm cũng bị coi là bản sao tác
phẩm. Pháp luật điều chỉnh phần trích dẫn tác phẩm và bản sao tác phẩm rất
khác nhau. Quyền trích dẫn tác phẩm không bị pháp luật ngăn cấm như đã quy
định tại Điều 25 của Luật SHTT.
Từ căn cứ trên, thiết nghĩ về vấn đề bản sao cần có quy định rõ hơn về
mức độ, giới hạn khi sao chép một tác phẩm đến bao nhiêu phần trăm? hoặc một
dấu hiệu pháp lý khác để chỉ ra bản sao một cách chính xác.


C. KẾT LUẬN
Hiện nay, ở nhiều quốc gia phát triển, cơ sở pháp lý cho quyền sở hữu trí
tuệ nói chung, quyền tác giả nói riêng đã ở mức độ hoàn thiện. Còn ở Việt Nam,
cơ sở pháp lý cho Luật Sở hữu trí tuệ và đồng thời là chế định bảo hộ quyền tác
giả đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Tuy vậy, để có thể áp dụng
Luật Sở hữu trí tuệ thật hiệu quả trong cuộc sống, cần phải xác định và nâng cao
tầm quan trọng của cả hai vấn đề: hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ và thực thi
pháp luật sở hữu trí tuệ. Những phân tích trong bài chỉ ra rằng: các quy định của
pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả chưa ở mức độ hoàn thiện, vẫn bộc
lộ nhiều hạn chế dẫn đến quá trình áp dụng thể hiện hiệu quả chưa cao, cơ chế
bảo đảm thực thi chưa tốt. Thực tế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau như: cơ sở pháp lý về quyền tác giả chưa hoàn thiện, nhận thức chưa đầy
đủ về tầm quan trọng của vấn đề bảo hộ quyền tác giả; trình độ và kinh nghiệm


của những người làm công tác chưa tốt. Em mong rằng, qua những nghiên cứu
nho nhỏ của mình có thể đóng góp một phần nào đó vào công cuộc cải cách
pháp luật, phục vụ Nhà nước và Nhân dân.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân, 2013.
2. Bộ Luật Dân sự 2005.
3. Bộ Luật Dân sự 2015, Nxb Lao Động, 2016.
4. Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009), Nxb Lao Động, 2016.
5. Chính Phủ, Nghị định số 100/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và
quyền liên quan, ngày 21 tháng 9 năm 2006.
6. Chính Phủ, Nghị định số 85/2011/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về
quyền tác giả và quyền liên quan, ngày 20 tháng 9 năm 2011.
7. />8. />9. />THUẬT NGỮ VIẾT TẮT TRONG BÀI
SHTT: Sở hữu trí tuệ




×