Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Tư tưởng phật giáo nguyên thủy về con người và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

NGUYỄN THỊ AN

TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
VỀ CON NGƯỜI VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG VIỆC
XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

NGUYỄN THỊ AN

TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
VỀ CON NGƯỜI VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG VIỆC
XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Triết học
Mã số

: 60.22.03.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHẠM VĂN CHÍN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, luận văn “Tư tưởng Phật giáo nguyên thủy về con
người và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Phạm Văn Chín.
Tôi đã nghiên cứu, tìm hiểu và hoàn thiện luận văn trong đó có sự kế
thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước với những trích dẫn có nguồn
gốc rõ ràng, được sử dụng trong phạm vi cho phép.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của luận văn. Luận văn này
không trùng với bất kì luận văn nào ở thời điểm hiện tại.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị An


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn đầu tiên, chân thành và sâu sắc nhất tới PGS.TS
Phạm Văn Chín - Thầy đã tận tình quan tâm và hướng dẫn tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn. Thầy đã giúp cho tôi tiếp cận được
nhiều kiến thức về Phật giáo đặc biệt là những tư tưởng Phật giáo nguyên
thủy. Thầy còn chỉ bảo tôi, giúp tôi rèn luyện kỹ năng, phương pháp nghiên
cứu khoa học.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo trường Đại học Sư phạm Hà
Nội, Phòng đào tạo Sau Đại học cùng các thầy, cô giáo khoa Triết học đã
quan tâm, tạo mọi điều kiện tốt nhất giúp tôi hoàn thành khóa học.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới những người thân trong
gia đình, bạn bè đã luôn động viên, giúp đỡ tôi có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ
học tập và nghiên cứu trong suốt thời gian qua.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị An


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn ....................................................... 4
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu của luận văn ................................. 5
5. Giả thuyết khoa học .............................................................................. 5
6. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 5
7. Phạm vi nghiên cứu............................................................................... 5
8. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 5
9. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn ..................... 6
10. Kết cấu của luận văn ........................................................................... 6
Chương 1: TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VỀ CON NGƯỜI ........... 7
1.1 . Khái quát về Phật giáo............................................................................ 7

1.1.1. Nguồn gốc ra đời của Phật giáo nguyên thủy ................................. 7
1.1.2. Sự phát triển của triết học Phật giáo ............................................... 8
1.1.3. Phật giáo du nhập vào Việt Nam .................................................. 14
1.2 . Quan niệm về con người trong triết học Phật giáo nguyên thủy ...... 21
1.2.1. Quan niệm của Phật giáo nguyên thủy về nguồn gốc của
con người ................................................................................................ 21
1.2.2. Nguyên nhân gây ra nỗi đau khổ cho con người .......................... 26
1.2.3. Tư tưởng giải thoát con người của Phật giáo nguyên thủy........... 30
Chương 2: Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VỀ
CON NGƯỜI TRONG VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................... 39

2.1. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa .......................................................................................... 39


2.1.1. Xuất phát từ mục đích, yêu cầu của cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam .................................................................. 39
2.1.2. Xuất phát từ nội dung của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam ...................................................................................... 46
2.2. Nội dung xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa theo quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam ..................................................... 51
2.2.1. Nội dung xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ................... 51
2.2.2. Những phẩm chất của con người mới xã hội chủ nghĩa cần
được xây dựng .............................................................................. 55
2.3. Ý nghĩa của tư tưởng Phật giáo với việc xây dựng con người mới
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ................................................ 57
2.3.1. Phật giáo định hướng giá trị đạo đức cho con người .................... 57
2.3.2. Phật giáo hướng con người tới cái chân - thiện - mỹ.................... 61
2.3.3. Phật giáo khuyến khích con người sống phải có nghị lực và ý

chí vươn lên .................................................................................. 63
2.4. Một số giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế
ảnh hưởng tiêu cực của đạo Phật trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay ....................................................... 66
2.4.1. Nâng cao nhận thức về ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo
nguyên thủy với con người Việt Nam hiện nay .......................... 66
2.4.2. Phát huy vai trò của Phật tử trong công tác xây dựng và phát
triển đất nước ............................................................................... 69
2.4.3. Kết hợp giữa phát huy giá trị của tư tưởng Phật giáo nguyên thủy
với học học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ....... 71
2.4.4. Đấu tranh chống những biểu hiện xấu lợi dụng tôn giáo để
chống phá Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ............... 74
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 79


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phật giáo là một học thuyết triết học - tôn giáo lớn nhất trên thế giới, tồn
tại rất lâu đời cùng hệ thống giáo lý đồ sộ. Phật giáo được du nhập vào nước
ta khoảng thế kỉ thứ II SCN từ Trung Quốc và Ấn Độ.
Lý tưởng của đạo Phật là cứu giúp cho con người thoát khổ, giáo dục
tình yêu thương giữa con người với con người và giữa con người với muôn
vật. Tư tưởng nhân văn đó đã làm cho Phật giáo dễ chinh phục lòng người.
Từ khi du nhập vào Việt Nam, đạo Phật được các thế hệ người kế tiếp nhau,
cải biến trên cơ sở truyền thống văn hóa của dân tộc. Đạo đức Phật giáo đã
hòa quyện vào đạo đức truyền thống Việt Nam, làm phong phú và bền vững
thêm truyền thống đó. Trong tâm thức mỗi người con đất Việt, tư tưởng Phật

giáo đã ăn sâu vào tư tưởng dân tộc, tạo ra một hệ giá trị đạo đức vô cùng ý
nghĩa đối với sự phát triển của đất nước. Bên cạnh hình ảnh “cây đa, giếng
nước, sân đình” thì hình ảnh “mái chùa” cũng là biểu tượng thân thương, gần
gũi, thấm sâu vào tiềm thức mỗi người, trở thành một trong những giá trị văn
hóa của người Việt Nam.
Sau khi đất nước được hoàn toàn độc lập, Bắc - Nam sum họp một nhà,
kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
toàn Đảng, toàn dân ta một lòng quyết tâm lao động sản xuất để xây dựng một
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trải qua hơn 30 năm kể
từ khi tiến hành đổi mới tới nay, bộ mặt đất nước đã được thay đổi một cách
toàn diện, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Tuy nhiên,
bên cạnh đó còn tồn tại không ít mặt trái trong đó có hệ giá trị đạo đức, tư
tưởng trong bộ phận giới trẻ bị lệch lạc. Lối sống chạy theo đồng tiền, vị kỉ cá
nhân đã không còn xa lạ với mỗi người. Vấn đề đặt ra đó là phát huy điểm


2
tích cực của giáo lý nhà Phật mà đặc biệt là tư tưởng Phật giáo nguyên thủy
về con người từ đó khắc phục hạn chế và xây dựng con người mới giai đoạn
hội nhập và phát triển hiện nay có ý nghĩa thực tiễn hơn bao giờ hết. Vì vậy
em xin lựa chọn đề tài: “Tư tưởng Phật giáo nguyên thủy về con người và ý
nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống con người Việt Nam đã
được nghiên cứu rất lâu trong lịch sử.
Ngay từ đầu công nguyên, những nghiên cứu trên đã có những kết quả
nhất định. Có thể thấy rõ nhất là những nghiên cứu của Mâu Tử về Phật học ở
Việt Nam. Trong tác phẩm “Lý hoặc Luận”, Mâu Tử đã trình bày 37 câu hỏi
và trả lời, chủ yếu là những người theo Khổng giáo và Lão giáo, đồng thời

giới thiệu và giảng dạy Phật giáo. Những tư tưởng cơ bản về vấn đề Phật học
then chốt như Phật, Pháp, Tăng, Niết bàn, Luân hồi nghiệp báo, vô ngã… đã
được tác giả trình bày với tinh thần hòa đồng tôn giáo. Mâu Tử đã phân tích
ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt
một cách tự nhiên mà không bị rào cản.
Sang thế kỉ XIII vào giai đoạn hưng thịnh của triều đại phong kiến Việt
Nam, việc nghiên cứu đã bước đầu đáp ứng yêu cầu của thời đại. Trần Thái
Tông (1218 - 1277) là nhà nghiên cứu phật học, người khởi đầu cho nền Phật
học Việt Nam phát triển theo hướng nhập thế tích cực. Tác phẩm của ông còn
lưu truyền đến nay chỉ có bộ “Khóa Hư Lục” và hai bài thơ sót lại của Trần
Thái Tông ngự tập đã thất lạc.
Đặc biệt phải kể đến những nghiên cứu Phật học của Trần Nhân Tông
(1258-1308). Ông là một triết gia, một phật tử có nhãn quan chính trị, ảnh
hưởng lớn lao đến triều đình và toàn xã hội. Trong các tác phẩm của mình,


3
Trần Nhân Tông đã khẳng định ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống tinh
thần con người Việt Nam, ông muốn phát huy hơn nữa vai trò của tôn giáo
này trong việc liên kết toàn xã hội trên lĩnh vực tư tưởng. Trong phần cuối bài
“Cư Trần Lạc Đạo”, Trần Nhân Tông dùng chữ nôm để trình bày tư tưởng
của mình. Ở đây ông đã thể hiện rõ ý thức tách ra khỏi văn hóa Trung hoa để
xây dựng một hệ tư tưởng và tôn giáo độc lập riêng tương xứng với một quốc
gia độc lập, có chủ quyền.
Bước sang thế kỉ XX, việc nghiên cứu vấn đề khá sâu rộng. Trong đó
phải kể đến các cuốn sách như: “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim,
Trung tâm học liệu Sài Gòn, 1971; “Đại Việt sử ký toàn thư”, Dịch theo bản
in năm 1697, Ngô Đức Thọ dịch, Viện sử học và nhà xuất bản khoa học xã
hội, Hà Nội ấn bản 1972; “Phật giáo Việt Nam” của Nguyễn Đăng Thục, Sài
Gòn xuất bản năm 1974; “Khương Tăng hội toàn tập” của Lê Mạnh Thát;

“Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỉ VIII” của Hà Văn
Tấn và Phạm Thị Tâm, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội 1975; “Sự phát
triển của tư tưởng ở Việt Nam” của Trần Văn Giàu, Nhà xuất bản khoa học xã
hội, Hà Nội 1975; “Thơ văn Lý - Trần”, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà
Nội 1977; :Toàn nhật thiền sư toàn tập” của Lê Mạnh Thát, Viện Phật học
Vạn Hạnh, Thành phố Hồ Chí Minh 1979; “Mấy vần đề về Phật giáo và lịch
sử tư tưởng Việt Nam”, Viện triết học, Hà Nội 1986; “Lịch sử Phật giáo Việt
Nam”, Nguyễn Tài Thư chủ biên, Viện triết học, Hà Nội 1991; “Việt Nam
phật giáo sử luận”, Nguyễn Lang, Nhà xuất bản văn học, Hà Nội 1992; “Vài
nét về phật giáo dân gian Việt Nam”, Trần Quốc Vượng, Hà Tây 1992; “Lịch
sử phật giáo thế giới”, Thánh Nghiêm, Nhà xuất bản Hà Nội 1995; “Mấy vấn
đề về phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam”, Viện triết học, Hà Nội 1986…
Gần đây đã có một số công trình của các tác giả nghiên cứu tiếp cận vấn
đề Phật giáo với đạo đức con người như cuốn: “Thiền học Trần Thái Tông”
của Nguyễn Đăng Thục, Nhà xuất bản văn hóa thông tin 1996; “Tôn giáo tín


4
ngưỡng hiện nay, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết”, Trung tâm thông
tin tư liệu Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh 1996; “Cơ sở văn hóa
Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm, Nhà xuất bản giáo dục 1997; “Văn hóa Phật
giáo và lối sống người Việt ở Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ”, Nguyễn Thị Bảy,
Nhà xuất bản văn hóa thông tin 1997; “Thiền học Việt Nam” của Nguyễn
Đăng Thục, Nhà xuất bản Thuận Hóa 1977; “Chùa Hà Nội” của Nguyễn Thế
Long và Phạm Mai Hùng, Nhà xuất bản văn hóa thông tin 1977; “Tín ngưỡng
dân dã Việt Nam” của Nguyễn Minh San, Nhà xuất bản văn hóa dân tộc 1998;
“Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần” của Trương Văn
Chung, Nhà xuất bản chính trị quốc gia 1998; “Đạo đức học Phật giáo của
Hòa thượng TS Thích Minh Châu, 1995; “Đại cương triết học Phật giáo” của
PGS.TS Nguyễn Hùng Hậu (2002)…

Bên cạnh những công trình nghiên cứu có tính chất chuyên đề, tư tưởng
Phật giáo nguyên thủy về con người còn được bàn đến ở một số tác phẩm triết
học, lịch sử triết học và tôn giáo.
Các công trình nghiên cứu đều khẳng định giá trị của tư tưởng Phật giáo
nguyên thủy nói chung và tư tưởng về con người nói riêng. Các nghiên cứu đã
chứng minh tư tưởng Phật giáo được truyền bá rất sớm vào Việt Nam và có ảnh
hưởng mạnh mẽ tới đời sống tinh thần nước ta đặc biệt có những thời kì Phật
giáo trở thành quốc giáo của Việt Nam. Những tư tưởng và giáo lý nhà Phật đã
hòa quyện với nét truyền thống tạo nên sự phong phú của đời sống tinh thần của
nhân dân. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có công trình chuyên sâu nghiên cứu
làm sáng tỏ đặc điểm của tư tưởng phật giáo về con người và ý nghĩa của vấn đề
đó với việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Từ góc độ triết học để thâm nhập vào hệ thống tư tưởng Phật giáo
nguyên thủy về con người để tìm ra giá trị của tư tưởng đó với quá trình xây
dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.


5
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu của luận văn
Khách thể nghiên cứu: Phật giáo nguyên thủy
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tư tưởng của Phật giáo nguyên thủy
về con người
5. Giả thuyết khoa học
Khi được nghiên cứu luận văn sẽ giúp mỗi người trẻ Việt Nam định
hướng suy nghĩ và hành động đúng đắn, trở thành những con người mới
đáp ứng công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề sau:

- Tư tưởng Phật giáo nguyên thủy về con người
- Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo tới con người Việt Nam từ xưa tới nay
- Quan niệm về con người mới xã hội chủ nghĩa theo qua điểm của
Đảng ta
- Ý nghĩa của tư tưởng Phật giáo nguyên thủy với quá trình xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
7. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo nguyên
thủy về con người trong lĩnh vực đạo đức tinh thần ở Việt Nam kể từ khi du
nhập tới nay.
8. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa vào quan điểm về tôn giáo của Đảng, phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và
một số phương pháp khác để nghiên cứu như: Phương pháp logic và lịch sử,
phương pháp so sánh và đối chiếu, phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp thống kê,…


6
9. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
Những luận điểm cơ bản:
- Tư tưởng Phật giáo nguyên thủy về con người
- Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay
- Phát huy tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo
nguyên thủy trong quá trình xây dựng con người mới ở Việt Nam
Những đóng góp mới:
- Lý luận: Trên góc độ triết học Mác - Lênin để nghiên cứu hệ thống
giáo lý của một trường phái tôn giáo - triết học cụ thể với sự du nhập, ảnh
hưởng đến đạo đức dân tộc Việt Nam

- Thực tiễn: Đề tài giúp làm sáng tỏ ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo
nguyên thủy trong lĩnh vực tinh thần của dân tộc ta từ xưa tới nay từ đó đặt ra
một số yêu cầu mới với con người trong điều kiện cụ thể hiện nay.
10. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 2 chương 6 tiết.


7
Chương 1
TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VỀ CON NGƯỜI

1.1 . Khái quát về Phật giáo
1.1.1. Nguồn gốc ra đời của Phật giáo nguyên thủy
Theo sự xác định niên đại truyền thống, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
(Shakya thub-pa), còn được gọi là Đức Phật Cồ Đàm (Gau-ta-ma), sinh
khoảng năm 623, trước CN, tại thành Ca - tì - la - vệ, thuộc vương tộc Thích ca, con đầu lòng của quốc vương Tịnh Phạn, cai trị thành này, sống trong
khoảng thời gian từ năm 566 đến 485 trước Công Nguyên.
Đức Phật được thụ thai một cách thần kỳ trong giấc mơ, bà Ma Gia
thấy con voi trắng sáu ngà đi vào bên hông bà và lời tiên tri của nhà hiền
triết A Tư Đà (Asita), rằng đứa bé sẽ trở thành một ông vua vĩ đại, hoặc
một nhà hiền triết cao quý. Về sau, cũng có việc mô tả sự đản sinh thanh
tịnh của Đức Phật từ bên hông của mẹ ngài ở một nơi xa thành Ca Tỳ La
Vệ, trong vườn Lâm Tyni (Lumbini Grove, Lumbi - na’I tshal), việc Ngài
bước đi bảy bước lúc đản sinh và nói “ta đã đến nơi”, cùng với cái chết của
mẹ Ngài sau khi sinh ra Ngài.
Thời niên thiếu, Đức Phật sống một cuộc đời hoan lạc. Ngài lập gia đình
và có một người con trai là La Hầu La (Rahula, sgrac- gcan ‘dzin). Trong
những bản văn về sau có ghi tên người vợ của Ngài là Da Du Đà La
(Yashodhara, Grags ‘dzin - ma). Tuy nhiên, lúc hai mươi chín tuổi, Đức Phật

từ bỏ cuộc sống gia đình và di sản hoàng tộc của mình, trở thành một người
tầm đạo, lang thang hành khất.
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ bi vô
lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo
giải thoát. Và cũng với đại tâm nguyện ấy, sau khi chứng được đạo quả Vô
thượng Bồ đề, Ngài đã dâng hiến thời gian cho cuộc hằng hóa độ sanh.


8

Với ba lần thỉnh cầu và phát thiện nguyện hộ trì giáo pháp của Phạm
Thiên, Đức Phật quyết định gióng lên tiếng trống Pháp và bắt đầu thực hiện
sứ mệnh của mình. Ngài tuyên bố với thế gian, với loài người, với cõi trời và
với tất cả, con đường cứu đạo cứu khổ và diệt khổ, con đường dẫn đến cõi bất
sinh bất diệt, cõi Niết bàn đã được khai mở: “Cửa bất tử rộng mở, cho những
ai chịu nghe…” (Trung Bộ I). Và bánh xe Pháp bắt đầu chuyển vận.
Từ đây, Phật giáo bắt đầu ra đời và phát triển mạnh mẽ cho tới ngày nay.
Mặc dù đạo Phật chưa bao giờ phát triển phong trào truyền giáo, tuy nhiên
các giáo huấn của Đức Phật lại lan xa và rộng trên tiểu lục địa Ấn Độ và từ
đây, xuyên suốt cả châu Á. Khi đến với mỗi nền văn hóa mới, các phương
tiện và phong cách của Phật giáo nguyên thủy lại được thay đổi để phù hợp
với tâm lý người dân địa phương, nhưng không ảnh hưởng đến những điểm
tinh túy về trí tuệ và lòng bi mẫn.
1.1.2. Sự phát triển của triết học Phật giáo
Ra đời vào khoảng thế kỉ VI trước CN ở miền Bắc Ấn Độ, với những tư
tưởng tiến bộ và tích cực, Phật giáo đã nhanh chóng chiếm được tình cảm và
niềm tin của đông đảo quần chúng, trở thành ngọn cờ đầu của phong trào cách
tân tư tưởng và xã hội ở Ấn Độ cổ đại. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển,
do cuộc đấu tranh tư tưởng giữa các trường phái triết học tôn giáo khác nhau,
cũng như từ sự thay đổi của cuộc sống, Phật giáo cũng có sự thay đổi, được

hoàn chỉnh dần để thích nghi. Qua quá trình này, đặc biệt là qua các cuộc tập
kết kinh điển, Phật giáo phân ra thành nhiều phái khác nhau, với sự khác nhau
về giới luật, triết học, giáo lý, nghi thức mà điển hình là hai phái Tiểu thừa và
Đại thừa.
Lịch sử phát triển triết lý tôn giáo Ấn Độ gắn liền với những cuộc đấu
tranh tư tưởng rất sôi động và gay gắt giữa các trường phái triết học tôn giáo
khác nhau. Quá trình phát triển, phân phái của Phật giáo cũng không nằm


9
ngoài sự ảnh hưởng của những cuộc tranh luận ấy, nhất là khi Bà la môn giáo
bắt đầu phục hồi, Hồi giáo tràn vào Ấn Độ. Qua sự phê phán, công kích của
các trường phái triết học tôn giáo truyền thống hoặc ngoại lai, Phật giáo đã
bộc lộ những điểm cần khắc phục trong quan điểm triết học, hay phạm vi giáo
lý, nghi thức, giới luật…
Để khắc phục những hạn chế ấy, các tăng sỹ, phật tử với những cách tiếp
cận khác nhau, đi đến giải quyết vấn đề khác nhau, nảy sinh những hệ luận tư
tưởng không giống nhau. Từ đó, sự phân phái là điều khó tránh khỏi. Phật tổ
không quan tâm nhiều đến vấn đề bản thể luận triết học. Nhưng sau khi Phật
diệt độ, trước sự phê bình của các trường phái triết học tôn giáo khác, Phật
giáo nhận ra hạn chế này và bắt đầu khắc phục. Và khi giải quyết vấn đề bản
thể luận, Phật giáo đã phân chia thành hai phái với hai quan điểm “Hữu luận”
và “Không luận”.
Quá trình phân phái của Phật giáo có mầm mống ngay sau khi Đức Phật
diệt độ và gắn liền với bốn cuộc tập kết kinh điển.
Cuộc tập kết lần thứ nhất: Theo lịch sử Phật giáo, không bao lâu sau khi
Phật tổ nhập diệt, một số tăng sỹ bắt đầu có những biểu hiện sống tự do vượt
ra ngoài những giới luật ràng buộc. Trước tình hình đó, Ca Diếp, đệ tử tối cao
của Đức Phật đã triệu tập một đại hội kết tập lại giáo pháp Phật tổ dạy một
cách thống nhất để mọi người tuân theo. Hội nghị tập kết lần này diễn ra ở

thành Vương Xá, kinh đô nước Ma Kiệt Đà, kéo dài bảy tháng. Thành phần
của hội nghị gồm 500 vị đã chính quả A La Hán, do Ca Diếp chủ tọa. Vì thế,
hội nghị này được gọi là cuộc “Kết tập trăm năm” hay “Vương Xá kết tập”.
Trong hội nghị, A Nan được cử tụng lại pháp, Ưu Ba Ly được cử tụng lại giới
luật Phật tổ. Sau khi tụng xong được sự thảo luận và thừa nhận của đại chúng
cho là đúng với lời Phật nói, người ta bắt đầu ghi lại. Tạng Kinh, Tạng Luật
có bắt đầu từ đó. Riêng Tạng Luận do Ca Diếp phụ trách biên soạn, gồm bảy


10
đoạn, nói về triết lý, đạo lý, siêu hình, phong hóa và nghiêm luật. Cuộc tập kết
lần này có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong lịch sử Phật giáo. Bước đầu nó
đã hình thành nên cơ sở tổ chức giáo hội, Luật và Pháp được phân chia rõ
ràng. Tuy nhiên, cũng như cuộc tập kết lần này, sự phân chia bộ phái đã bắt
đầu nhen nhóm với hai quan điểm bảo thủ và cách tân.
Cuộc tập kết kinh điển lần thứ hai: 100 năm sau kỳ tập kết lần thứ nhất,
12000 tăng sỹ thành Tỳ Xá Lỵ không sống theo tất cả giới luật. Theo họ,
trong giới luật có 10 điều được châm chế và họ đã không giữ những giới luật
này, vốn là những điều cấm kỵ: để dành muối trong một cái sừng đề dùng
trong những ngày sau, ăn khi mặt trời xế, bóng dài quá hai ngón tay, đã ăn rồi
lại ăn nữa khi sắp đi xa, hành lễ Bồ Tát tập trung, tự quyền hành lễ, tự tiện bắt
chước các bậc tôn sư làm việc, ăn bơ sữa sau khi đã ăn chính bữa, được uống
rượu pha loãng với nước, được dùng tấm thảm trải giường không viền.
Để xét lại 10 điều luật trên, cũng là để một lần nữa xác định lại giới pháp
nhằm ngăn ngừa mọi điều phi pháp có thể xảy ra, hội nghị tập kết lần thứ hai
được triệu tập. Hội nghị quy tụ 700 vị trưởng lão tại thành Phệ Xá Lỵ kéo dài
khoảng 8 tháng, nên cũng được gọi là “Đại hội các vị trưởng lão” hay “Kỳ kết
tập bảy trăm”. Sau nhiều lần thảo luận với nhiều ý kiến khác nhau, cuối cùng
hội nghị tuyên bố 10 điều trên vẫn là giới luật cần tuân giữ, nếu không sẽ
phạm giới.

Cuộc tập kết kinh điển lần thứ ba: vào khoảng thế kỉ III TCN, dưới thời
vua A Dục - một người sùng đạo. Thời kì này Phật giáo phát triển mạnh mẽ.
Chùa chiền, tháp Phật được xây dựng khắp nơi. Số người theo đạo đông đảo,
thuộc đủ mọi tầng lớp phú gia, cơ hàn, quý chức, thương gia, kỹ nghệ, …
nhưng với nhiều mục đích khác nhau.Vì thế, trong số đó, nhiều người không
thành tâm với đạo, vẫn giữ những tập tục ngoài đời, không thi hành trọn vẹn
giới pháp Phật giáo, gây nhiều nỗi bất hòa, phân tranh phức tạp.


11
Lo lắng cho tiền đồ của Phật giáo, cùng với ý muốn truyền bá đạo ra
nước ngoài, vua A Dục quyết chí tổ chức kì đại hội nhằm xác định, thống nhất
lại giáo pháp, và chuẩn bị truyền bá ra ngoài. Do đó, cuộc tập kết kinh điển
lần thứ ba diễn ra ở thành Hoa Thị vào năm 18 dưới chiều vua A Dục (136
năm sau cuộc tập kết kinh điển lần thứ hai). Có 1000 tăng sĩ thuộc nhiều bộ
phái khác nhau tham dự, dưới sự chủ tọa của đại đức Tích Ha (Tysya), kéo
dài chín tháng. Ngoài việc nhuận sắc hai tạng Kinh, tạng Luật và chép thêm
tạng Luận cho hoàn chỉnh, thành công nhất trong kỳ tết tập này là việc truyền
đạo ra nước ngoài. Sau kì đại hội, có 10 nhà truyền giáo đi đến chín nước
khác nhau. Do vậy, số tín đồ Phật giáo nước ngoài gia tăng nhanh chóng
nhưng các bộ phái vẫn tiếp tục phân liệt.
Cuộc tập kết kinh điển lần thứ tư: đầu thế kỉ II, lúc này Phật giáo đã phân
chia thành nhiều bộ phái khác nhau, vua Ca Nhi Sắc Ca (Kaniska) là người
sung mộ đạo Phật, mỗi ngày thỉnh một vị tăng để nghe thuyết pháp và đọc lại
các tạng Kinh, tạng Luận. Vua thấy giáo nghĩa không thống nhất, nên quyết
định mở đại hội kết tập nhằm thống nhất các giáo nghĩa các bộ phái. Đại hội
kết tập lần này diễn ra tại Tịnh xá Hoàn Lâm nước Kasimitra, quy tụ 500 vị,
toàn những người trí thức thông hiểu Tam tạng, do đại đức Thế Hữu chủ tọa.
Ngoài ra, còn có các vị đại đức nổi tiếng khác như Pháp Cứu, Diệu Âm, Giác
Thiên, Hiếp Tôn Giả. Đại hội kỳ này không thêm kinh sách mới mà thực chất

là duyệt lại, chú thích các Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng khắc vào bản
đồng. Từ sau cuộc kết tập lần thứ tư, hai bộ phái Thượng tọa bộ (Tiểu thừa),
và Đại chúng bộ (Đại thừa) bước vào giai đoạn xung đột gay gắt.
Quá trình phân phái của Phật giáo bắt đầu từ khi Phật tổ diệt độ, kéo dài
qua nhiều thế kỉ, đã hình thành nên các bộ phái cơ bản sau:
Từ sau cuộc kết tập lần thứ tư, tức vào khoảng thế kỉ II, lịch sử Phật giáo
Ấn Độ không có gì khác hơn là cuộc xung đột giữa hai phái Tiểu thừa và Đại
thừa. Trước kia có nhiều phái nhưng về sau các phái đều theo Đại thừa hoặc


12
Tiểu thừa. Khi Đại thừa chưa ra đời, danh từ Tiểu thừa Phật giáo cũng chưa
xuất hiện, và chỉ gọi là “Phật giáo nguyên thủy”. Nhưng sau khi Đại thừa xuất
hiện các học giả Đại thừa muốn phân liệt, so bì cao thấp về mặt tư tưởng, giáo
lý, nên gọi giáo lý “Phật giáo nguyên thủy” là “Tiểu thừa Phật giáo”.
Tiểu thừa tiếng Phạn gọi là Hinayana, ví như cỗ xe nhỏ chở được ít người.
Đại thừa là Mahayana ví như cỗ xe lớn chở được nhiều người. Giữa Tiểu thừa và
Đại thừa có nhiều điểm khác nhau về mặt tư tưởng, giáo lý. Nếu Tiểu thừa chủ
trương “Ngã không pháp hữu”, thì Đại thừa chủ trương “Ngã pháp câu không”.
Tiểu thừa cho rằng, con người phải tự tu luyện để đạt chính quả, không ai có thể
làm thay hoặc trợ giúp được, Đại thừa lại cho rằng, mỗi người giác ngộ cho
mình và tất cả những người khác “giác giả giác tha”. Tiểu thừa quan niệm, cứu
cánh của giải thoát là đạt đến bậc A La Hán, Đại thừa quan niệm, cứu cánh ấy là
thành Phật. Tiểu thừa thờ Đức Phật Thích Ca duy nhất, Đại thừa ngoài Đức
Thích Ca còn thờ thêm Bồ Tát, La Hán và các vị thần khác. Tiểu thừa muốn bảo
tồn giữ gìn giáo lý, giới pháp nguyên thủy. Đại thừa theo khuynh hướng tiến bộ,
cách tân cho phù hợp với thời đại, nhằm mở rộng Phật giáo.
Phái Trung luận do Long Thọ Bồ Tát sáng lập vào khoảng thế kỉ II (có
quan điểm cho rằng vào đầu thế kỉ thứ III). Nội dung chủ đạo cũng là điểm
đáng chú ý nhất của phái này là tư tưởng “Trung đạo”, được thể hiện trong hai

tác phẩm nổi tiếng là “Thập nhị môn luận” và “Trung quán luận”. Theo Long
Thọ, bản chất của thế giới là “Không” đối lập với “Có”, nhưng “Không”
không phải là hư vô mà là cái tên vượt ra ngoài vòng “Có và Không” gọi là
“Trung đạo”. Cho nên thế giới này:
“Không sinh cũng không diệt
Không thường cũng không đoạn
Không một cũng không khác
Không lại cũng không đi” [44, tr.12].


13
Đưa ra quan điểm “bát bất” trên, một mặt, Long Thọ muốn chống lại
quan niệm thông thường cho rằng thế giới có sinh có diệt, có một có khác, có
thường có đoạn, có lại có đi; mặt khác để thuyết minh cho ý nghĩa “Trung
đạo” của mình. Đây cũng là quan niệm đánh dấu bước phát triển mới của triết
học Phật giáo về bản thể luận. Phái “Trung luận” phát triển đến thế kỉ VI thì
phân thành hai phái: Ứng thành và Tự tục.
Phái Du già (Yoga), do anh em Vô Trước và Thế Thân Bồ Tát sáng lập
vào khoảng thế kỉ V. Nội dung tư tưởng chính yếu của phái này được thể hiện
trong tác phẩm “Duy thức luận” của Thế Thân. Theo Thế Thân, chỉ có cái thức
- cái tư tưởng là thật. Nó bao hàm vạn vật trong đó. Các sự vật hiện tượng đều
do thức mà ra: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Có thức là có sự phân
biệt giữa chủ thể và khách thể, có sự sai biệt giữa các hiện tượng trong thế giới.
Bản chất thực sự của con người là cái tâm thường tịnh, vắng lặng và vô trụ. Cái
tâm này hoàn toàn đồng nhất với bản thể tuyệt đối. Trong cái tâm tĩnh lặng hàm
chứa mầm mống của tám loại thức: nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, mạt na thức, alaya
thức và tàng thức. Chính alaya thức chứa đựng vạn pháp và hàm chứa những
tác động (duyên khởi) chuyển từ khả năng thành hiện thực.
Mật tông là sự kết hợp giữa Phật giáo Đại thừa, Ấn Độ giáo và tín
ngưỡng dân gian, mang tính chất huyền bí, bùa chú … trong phép tu luyện

giải thoát. Sau thời kỳ Mật tông, Phật giáo mất chỗ đứng ở Ấn Độ (khoảng
thế kỉ IX - X). Nhưng lúc này, Phật giáo đã lan rộng ra nước ngoài đặc biệt là
các nước châu Á, trở thành tôn giáo lớn của thế giới, mang tính quốc tế.
Từ một tôn giáo thống nhất, trong quá trình phát triển, Phật giáo đã phân
chia thành nhiều bộ phái khác nhau. Đó cũng là điều tất yếu phù hợp lôgíc
phát triển nội tại của nó. Nếu chỉ xét về mặt hình thức, Phật giáo từ một tôn
giáo thống nhất, phân liệt thành nhiều bộ phái, rồi đi đến mất chỗ đứng tại quê
hương Ấn Độ thì người ta có thể coi là bước lùi của tôn giáo này trong lịch


14
sử. Nhưng nếu xét một cách toàn diện, nhất là về mặt nội dung, phải thừa
nhận rằng, quá trình phân phái của Phật giáo cũng là quá trình phát triển và là
sự thích ứng không ngừng của nó với điều kiện lịch sử mới.
Về kinh điển, lúc đầu khi Phật tổ còn tại thế, giáo pháp và giới luật Phật
giáo thường được giảng dạy theo lối truyền miệng, chưa phân biệt giáo pháp
và giới luật. Sau khi Đức Phật nhập diệt, kinh điển được tác thành văn, phân
biệt rõ ràng giáo lý và giới luật, thêm phần bình luận của các nhà thông thái
nhằm chú giải và phát triển sâu hơn ý nghĩa kinh điển. Kết quả là một bộ kinh
điển đồ sộ được hình thành với nội dung phong phú và sâu sắc, bao gồm Kinh
tạng, Luật tạng và Luận tạng gọi là Tam tạng.
Quá trình phân phái của Phật giáo cũng là quá trình đi lên của tôn giáo
này. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là trong quá trình phát triển và
phân phái, Phật giáo đã không có những hạn chế. Ví dụ một trong những hạn
chế đó là với quan niệm “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”, triết học Phật
giáo từ một học thuyết tư tưởng duy vật vô thần nguyên thủy chuyển sang
thành hệ thống triết học duy tâm mang tính chủ quan - duy ngã. Mặt khác, với
khuynh hướng tôn thờ Phật tổ, Bồ Tát và các vị thánh thần … của các bộ phái,
phần nào làm lu mờ đi vẻ trong sáng, tính nhân văn, nhân bản của hệ thống triết
học Phật giáo vốn là học thuyết đạo đức nhân sinh, xuất phát từ con người và

hướng đến phục vụ con người, dù đó là con người mang tính tự nhiên.
1.1.3. Phật giáo du nhập vào Việt Nam
Suối nguồn phát sinh của Phật giáo là một sự giác ngộ về sự thật của
cuộc đời (Tứ diệu đế), vì vậy đạo Phật có tính cách vượt lên trên cuộc đời. Sự
vượt lên trên ở đây là kết quả tất nhiên của giác ngộ, vì mọi giác ngộ đều đưa
tới sự thức tỉnh và giải thoát. Con người giác ngộ không còn là con người bi
sai sử và chìm đắm trong cuộc đời nữa. Con người giác ngộ là con người tự
do, vượt ra khỏi những tối tăm, quên lãng và phó mặc của cuộc đời.


15
Phật giáo đã thích ứng với hoàn cảnh lịch sử, địa lý và văn hóa của dân
tộc, hòa nhập với dân tộc ta như nước với sữa, đã biến thành một cái gì đó rất
gần gũi, thân thương với dân tộc Việt Nam, với con người Việt Nam.
Thời kì trước Công nguyên đến Công nguyên
Những phân tích mới cho thấy vết tích của Phật giáo đã có từ cuối thời
Hùng Vương qua hiện tượng Chử Đồng Tử theo học vị sư có tên là Phật
Quang. Đây là điểm khá nhạy cảm trong nhận định về lịch sử Phật giáo nói
chung cũng như ở Việt Nam, bởi vì cho đến khoảng đầu Công nguyên, Phật
giáo Ấn Độ đã đạt đến đỉnh cao bởi các nhà nước trong tiểu lục Ấn sùng tín
Phật giáo, có tham vọng và nhu cầu truyền bá ra bên ngoài, và thực tế đã được
truyền bá. Học giả Lê Mạnh Thát đã chứng minh ngay từ cuối thời Hùng
Vương: Phật giáo đã du nhập vào người Việt ở phía Bắc. Còn ở phía Nam,
với việc phát hiện các nền văn hóa khảo cổ học cùng thời như Sa Huỳnh, Óc
Eo chưa thể nói gì nhiều hơn những gì đã công bố.
Thời kì từ thế kỉ I đến thế kỉ IV
Đặc trưng nổi bật là Phật giáo ở lãnh thổ Việt Nam như ngày nay đã có
được sự bám rễ vững chắc và có những nhân vật Phật giáo (gốc Khương Cư,
Ấn Độ đã Việt hóa) truyền đạo lên phương Bắc. Đây là thời kì các bộ kinh
đầu tiên của Phật giáo được dịch tại Giao Chỉ. Đã xuất hiện những nhân vật

Phật giáo xuất chúng như Mâu Tử, Khương Tăng Hội, Ma Ha Kỳ Vực.
Vấn đề nổi bật ở thời kì này là Phật giáo du nhập trong tình trạng Đạo
giáo với phương pháp tu tiên và phép dưỡng sinh bất tử đã khá phổ biến ở
trong tầng lớp trên (cả người Trung Hoa cai trị ở Việt Nam, cả người Việt),
dẫn đến sự đối phó của Phật giáo với những biểu hiện của Đạo giáo trong thời
kì này bằng một khuynh hướng “Phật giáo quyền năng”. Sự hội nhập với tôn
giáo bản địa của Phật giáo Việt ở châu thổ Bắc Bộ đã sản sinh ra các hiện
tượng tự nhiên được nữ hóa và Phật trở thành hiện tượng “Phật Tứ pháp” khá
độc đáo so với các nước đương thời.


16
Thời kì từ thế kỉ thứ IV đến thế kỉ X
Đặc trưng nổi bật ở Phật giáo Việt là sự pha trộn và ảnh hưởng của các
vị tăng người Việt trong học thuật, tư tưởng. Các cuộc đấu tranh gay gắt trong
nội bộ Phật giáo về những vấn đề cơ bản của tôn giáo này vừa là khủng
hoảng, song lại vừa cho thấy sự trưởng thành của Phật giáo Việt Nam.
Thời kì này Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo
Trung Quốc. Sự hình thành và mở rộng các tông phái ở Trung Quốc đã có ảnh
hưởng trực tiếp đối với Việt Nam, qua sự thâm nhập của các tông phái này
như Tì Ni Đa Lưu Chi thế kỉ VI, Vô Ngôn Thông thế kỉ IX. Đối với người
Việt, Phật giáo không phải là tôn giáo duy nhất có được vị thế tâm linh độc
tôn. Qua sử liệu cho thấy, Phật giáo song hành tồn tại cùng Đạo giáo, có quan
hệ qua lại giữa tăng sĩ và đạo sĩ, có sự tín nhiệm của cả hai tôn giáo này từ
phía nhà nước, có sự thể chế hóa chức vụ tôn giáo trong bộ máy nhà nước,
đặc biệt rõ nhất ở thời Đinh, Tiền Lê và còn tiếp tục khá lâu ở các thời kì sau
với hai triều đại Lý, Trần.
Cùng lúc này, ở người Khmer và Chăm, Phật giáo và Bà la môn giáo
đã khẳng định trong đời sống xã hội, có những thành tựu nghệ thuật tôn
giáo vượt trội so với người Việt theo mô hình Ấn Độ. Quy mô cũng như

tính diễn biến liên tục của những ngôi đền - tháp, tháp - núi cùng với
những nghệ thuật kiến trúc, trang trí điêu khắc đạt đến đỉnh cao, đã nói lên
Phật giáo và Bà la môn giáo ở hai dân tộc này rất rõ ràng. Các bản kinh
bằng tiếng Sanskrits, Pali của cả Tiểu thừa và Đại thừa đều lưu hành ở thời
kì này. Những thành tựu nghệ thuật, sự điêu luyện của các nghệ nhân
Chăm, Khmer không chỉ dừng lại ở phạm vi quốc gia của họ. Họ đã chứng
tỏ khả năng tuyệt diệu của mình trong cả nghệ thuật Phật giáo Việt, khi họ
trở thành tù binh trong các cuộc chiến tranh Đại Việt - Chămpa từ thế kỉ X
trở đi như chính sử Việt đã từng chép.


17
Thời kỳ từ thế kỉ XI đến thế kỷ XIV
Đây là thời kỳ Phật giáo hưng thịnh nhất trong cả tiến trình của Phật giáo
Việt và Việt Nam trước thế kỉ XX. Phật giáo ở người Việt thời kỳ này đóng
vai trò hết sức quan trọng trong xã hội. Có hẳn một triều đại được “chính trị”
Phật giáo hỗ trợ ra đời là triều đại nhà Lý (1009 - 1225). Nói chính trị Phật
giáo là bởi vai trò của các nhà sư vào thế kỉ XI không còn đóng khung trong
tôn giáo mình, mà còn với tay sang lãnh địa của chính trị thế tục bằng truyền
bá tư tưởng, lễ nghi, uốn nắn dư luận xã hội với những thủ pháp tâm linh (sấm
ký, cầu đảo, … ). Tính chất “nhập thế” vốn đã xuất hiện ở thế kỷ X, nhất là
trong hai triều đại Đinh, Tiền Lê đã trở thành một xu thế được coi là chủ đạo
trong hoạt động của các nhà sư thế kỉ XI, XII, XIII, XIV, đặc biệt khi nhà
nước quân chủ với những cá nhân đứng đầu quốc gia và thân vương quý tộc
đồng thời là các vị cao tăng hay cư sĩ trí thức có ảnh hưởng tôn giáo và xã hội
lớn nhập cuộc. Điển hình là Trần Nhân Tông - người khai sáng truyền dòng
Thiền tông Trúc Lâm, một dòng thiền tông đã được Việt hóa ở mức cao.
Thời kỳ này các kinh tạng chữ Hán ngự trị trong Phật giáo Việt bằng
những chuyến công du ngoại kèm theo việc xin Đại tạng tiếng Hán bắt đầu từ
triều Tiền Lê, đến thời Lý, Trần thở thành thông lệ. Phật giáo Trung Quốc có

ảnh hưởng sâu sắc tới Phật giáo Việt Nam,
Thời kỳ từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX
Về mặt triều đại, đây là thời kì tồn tại của nhà Lê Sơ, Mạc, Lê Trung
hưng, Tây Sơn và cuối cùng là nhà Nguyễn. Sự thay đổi triều chính liên tục
trong vòng bốn trăm năm đã nói lên sự bất ổn của nền độc lập tự chủ khi vào
gần ba thập kỷ đầu thế kỉ XIV nhà Minh xâm lược và để lại hậu họa to lớn
cho văn hóa nước ta.
Ở thời kỳ này, Phật giáo ở đô thị cũng như Phật giáo ở nông thôn, Phật
giáo ở người quý tộc cũng như ở bình dân. Phật giáo tưởng chừng đã mất đi


18
sự thịnh vượng cao độ song thực chất không phải như vậy. Chân đứng của tôn
giáo này ăn sâu và mở rộng cả ở đô thị và nông thôn, và có sự thịnh vượng
không thể chối cãi. Tuy nhiên cũng có sự khác nhau giữa Phật giáo Đàng
trong và Đàng Ngoài. Đàng Ngoài thiên về bảo lưu những cơ sở và truyền
thừa Phật giáo có từ thời Lý - Trần, Đàng Trong các tông phái và hệ phái
phân biệt rạch ròi hơn.
Như vậy, trong bốn trăm năm đó, trong đời sống tôn giáo đã xuất hiện
hai sự kiện không thể không nhắc tới: một là sự xuất hiện của Công giáo vào
thế kỉ XVI, hai là giữa thế kỉ XIX khi chủ nghĩa thực dân phương Tây chính
thức gây hấn và xâm lược nước ta. Chính điều đó đã cho thấy bi kịch lịch sử
và tôn giáo ở Việt Nam đó là truyền bá và xâm lược.
Trong khi nhà nước quân chủ cho đến đại đa số bình dân vẫn theo đuổi
Tam giáo thì lại có bộ phận người dân quy thuận tôn giáo mới: trước hết là
những ngư nghiệp, dân cư của vùng mới khai phá gần biển. Thân phận thấp
kém của số cư dân này trong bảng giá trị truyền thống của xã hội quân chủ và
nông nghiệp đã là một trong những nguyên nhân khiến họ quy thuận. Nhưng
cũng có thể thấy trong số những tín đồ tôn giáo mới này cả các tầng lớp khác,
thậm chí cả nhà nho ở Quảng Trạch, Quảng Bình cũng vậy. Điều đó đã nói

lên sự xáo động chính trị đã khiến xã hội không còn ổn định, các thang giá trị
cũ trong đó có tôn giáo cũ đã lâm vào tình trạng rối ren, chia cắt. Tôn giáo
mới vì thế đã có chân đứng bất chấp sự cấm đoán, trục xuất tu sĩ. Đến khi
thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, khá nhiều làng đi theo công giáo, ở sâu
trong các vùng châu thổ và đồng bằng của cả ba miền Bắc, Trung, Nam.
Đương nhiên Phật giáo phải đối mặt với tôn giáo này. Chưa có những bằng
chứng trực tiếp để khẳng định thái độ cụ thể và phản ứng của Phật giáo ra sao,
song bằng những gì mà các bộ sử đã ghi chép, có thể thấy rõ tôn giáo mới
không hề được Phật giáo hoan nghênh.


19
Bước sang cuối thế kỉ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, Phật
giáo rơi vào tình trạng bị áp chế, xâm tổn: nhiều chùa chiền bị phá dỡ ở các
vùng đô thị lớn như Sài Gòn và Hà Nội để xây nhà thờ và trị sở trên đó.
Phật giáo Việt Nam từ thế kỉ XX đến nay
Thế kỉ XX đã có những biến chuyển căn bản để Phật giáo không còn như
cũ, nhưng cũng không hoàn toàn cắt đứt với truyền thống của mình. Đó chính
là bước ngoặt với lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Từ năm 1920 - 1951 đã diễn ra phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt
Nam. Công cuộc chấn hưng Phật giáo là hệ quả tất yếu từ sự khủng hoảng của
tôn giáo này, được bộc lộ rõ vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Lúc này, xã
hội Việt Nam đã bị biến thành xã hội thuộc địa. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở sự
mất nước thì sẽ không thể hiểu được vì sao lại có sự chấn hưng.
Chấn hưng của Phật giáo ở Việt Nam có nhiều nguồn gốc khác nhau hợp
lại. Trước hết, đó là do vận mệnh của Phật giáo đi liền với vận mệnh của dân
tộc. Dân tộc bị nô lệ thì Phật giáo cũng không nằm ngoài. Nói như thế vì khác
với các cuộc xâm lược phương bắc trước đây, lần này là một thế lực thực dân
phương tây là Pháp. Vì vậy, nếu như trước đây là xâm lược của kẻ thù đồng
chủng đồng văn thì giờ đây là dị chủng dị diệt. Hơn nữa kẻ thù lại có một tôn

giáo là Công giáo thì rõ ràng lại càng xa với dân tộc trong đó có Phật giáo.
Cho nên, nếu trước thế kỉ XX, Phật giáo dù coi quân thù xâm lược phương
Bắc là kẻ thù nhưng lại không cắt mạch sinh tồn với Phật giáo Trung Quốc,
thì đến thời điểm này không còn như vậy nữa.
Tuy nhiên, khác với thế kỉ XX, đến thời kì này, Phật giáo cũng có những
điều kiện mới để nhìn nhận lại mình một cách rõ nét hơn. Trong suốt gần một
thế kỉ khi thực dân xâm chiếm đô hộ, bên cạnh sự bóc lột, trấn áp đó là những
thành tựu văn minh nhân loại được du nhập vào Việt Nam. Chính trong môi
trường đó, Phật giáo vừa bị bức hại bởi chính sách của nhà cầm quyền (phá


×