Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Công bằng xã hội đối với phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (777.66 KB, 91 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





TRỊNH VĂN TOÀN








CÔNG BẰNG XÃ HỘI
ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC




CHUYÊN NGÀNH : TRIẾT HỌC
MÃ SỐ : 60.22.80








GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : TS. HOÀNG VĂN LUÂN





HÀ NỘI - 2007

2
MỤC LỤC

Mởđầu………………………………………………………………… ….1
Chƣơng I: Công bằng xã hội và phát triển bền vững………………… 7
1.1.Công bằng xã hội……………………………………………………….7
1.2.Phát triển bền vững.………………………………………… …21
1.3. Vai trò của công bằng xã hội đối với phát triển xã hội bền vững… 31
Kết luận chƣơng I …………………………………………… … 40
Chƣơng II: Thực trạng và giải pháp thực hiện công bằng xã hội
đảm bảo phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam hiện nay………….….41
2.1. Thực trạng thực hiện công bằng xã hội tác động đến phát triển
xã hội bền vữngở Việt Nam……………………………………………….41
2.2. Quan điểm và giải pháp thực hiện công bằng xã hội đáp ứng với
yêu cầu phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam hiện nay.…………… 66
2.2.1. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về thực hiện công

bằng xã hội……………………………………………………………… 66
2.2.2 Một số giải pháp thực hiện công bằng xã hội đáp ứng với yêu
cầu phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam hiện nay…………………… 74
Kết luận chƣơng II……………………………………………… …… 81
Kết luận… …………………………………………………………… 82
Danh mục tài liệu tham khảo……………………………………… ….85



3
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua nhiều giai đoạn thăng
trầm và đã ghi lại những dấu ấn đậm nét tương ứng với từng hình thái kinh tế -
xã hội khác nhau. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi xã hội đều có những bước phát
triển tích cực, đồng thời cũng có những tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc
sống của con người. Đến cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, khi cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ đã đạt được những bước tiến vượt bậc, những sản
phẩm mà nhân loại tạo ra đã phần nào thoả mãn được nhu cầu vật chất và tinh
thần của con người. Những thành tựu đó đã góp phần đưa đến sự phát triển
nhanh của nền văn minh nhân loại.
Song cũng chính sự phát triển đó đã làm nảy sinh một số vấn đề ngày
càng nổi cộm như tăng trưởng dân số quá nhanh, tiêu dùng một cách quá mức
của cải, tài nguyên, năng lượng và đặc biệt là sự bất bình đẳng xã hội. Những
vấn đề này đã gây trở ngại lớn đối với phát triển kinh tế và làm giảm sút chất
lượng cuộc sống, đe doạ cuộc sống của con người cả ở hiện tại và tương lai.
Tăng trưởng kinh tế nhanh làm xuất hiện các vấn đề môi trường, tệ nạn
xã hội, phân hóa giầu nghèo, bất bình đẳng xã hội, xung đột xã hội trong các
xã hội phát triển dẫn đến cản trở sự phát triển xã hội. Chính vì vậy, vấn đề
phát triển xã hội được đặt ra và là một trong những vấn đề được ưu tiên trong

hoạch định chiến lược, chính sách phát triển của các quốc gia. Điều này có
nghĩa là con người phải tìm ra một con đường phát triển mà trong đó các vấn
đề về dân số, công bằng xã hội, kinh tế, môi trường phải được phát triển một
cách hài hoà. Đó chính là con đường phát triển bền vững. Vậy vấn đề là Phát
triển bền vững là gì? Nó có những nội dung nào? Việc thực hiện công bằng xã
hội có vai trò gì đối với phát triển bêng vững?

4
Đối với Việt Nam hiện nay, chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội, chế độ xã hội mà nhân dân ta xây dựng mang bản chất công
bằng và tính bình đẳng, nó thể hiện qua mục tiêu mà Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta đang phấn đấu thực hiện là: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
dân chủ văn minh”. Do đó, việc đảm bảo công bằng xã hội, đảm bảo sự bình
đẳng giữa người và người trong mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ,
trước hết nhằm thực hiện mục tiêu, đồng thời cũng tạo động lực của quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. Việt Nam đang phát triển nhưng với phương châm
đi tắt, đón đầu nhằm phát triển nhanh nhưng không thể không rút ra những bài
học kinh nghiệm của các quốc gia đi trước. Thực tiễn thực hiện các chính sách
xã hội ở Việt Nam những năm qua trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, ưu đãi,
cứu trợ xã hội, giáo dục, văn hóa, đã đạt được những thành tựu quan trọng góp
phần đảm bảo công bằng xã hội qua đó, tạo điều kiện bền vững thúc đẩy xã
hội phát triển. Bên cạnh đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường cũng
đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc ảnh hưởng trực tiếp đến tính bền vững của
quá trình phát triển xã hội, tác động tiêu cực đến phát triển của Việt Nam. Câu
hỏi đặt ra là: Công bằng xã hội là gì? Nó có vai trò và vị trí như thế nào đối
với phát triển bền vững? Những vấn đề lý luận và thực tiễn đó mà việc làm
sáng tỏ chúng sẽ là những đóng góp bổ ích cho việc hoạch định các chính sách
góp phần thực hiện thành công mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”
Do đó, việc nghiên cứu làm rõ sự tác động của công bằng xã hội đối với

phát triển xã hội bền vững, từ đó có biện pháp thực hiện công bằng xã hội
nhằm thúc đẩy sự phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam hiện nay là một việc
làm rất cần thiết.
Chính vì vậy, chúng tôi chọn vấn đề: “Công bằng xã hội đối với phát
triển xã hội bền vững ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn và hướng
nghiên cứu của mình.

5
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề công bằng xã hội và phát triển bền vững luôn là một đề tài hấp
dẫn, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Đến nay, trên bình diện lý
luận, đã có nhiều công trình, bài viết về công bằng xã hội và phát triển xã hội
bền vững được công bố. Trong đó, chúng ta có thể điểm đến một số tác giả và
công trình sau:
Lương Xuân Quỳ, trong cuốn: “Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng
xã hội chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam”, (Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002), đã đề cập đến khái niệm, thực
trạng, hệ quan điểm, phương hướng, giải pháp xây dựng quan hệ sản xuất
(quan hệ sở hữu, quan hệ phân phối, quan hệ quản lý) định hướng xã hội chủ
nghĩa và việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam.
Trong tác phẩm “Về động lực của phát triển kinh tế- xã hội” của tập thể
tác giả do giáo sư Lê Hữu Tầng chủ biên, vấn đề công bằng xã hội đã được
nghiên cứu từ góc độ triết học. Các tác giả đã cố gắng làm rõ khái niệm công
bằng xã hội và đặt nó trong quan hệ với bình đẳng xã hội. Trong tác phẩm này
các tác giả đã luận chứng được công bằng xã hội là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
“Lợi ích, động lực của sự phát triển xã hội bền vững”, Luận án tiến sĩ
(Hoàng Văn Luân, 2000), tác giả đã trình bầy rõ quan niệm khoa học về phát
triển xã hội nói chung và phát triển xã hội bền vững nói riêng. Tiếp đó, tác giả
trình bầy và phân tích quan niệm về lợi ích và vai trò động lực của lợi ích đối

với sự phát triển xã hội bền vững. Cũng trong công trình này, tác giả đưa ra
một số nguyên tắc, biện pháp và công cụ điều chỉnh các quan hệ lợi ích nhằm
phát huy vai trò động lực của lợi ích cho sự phát triển xã hội bền vững.
“Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội”, Luận án tiến sĩ (Nguyễn Minh

6
Hoàn, 2005), tác giả luận án đã làm rõ vai trò và vị trí của công bằng xã hội
trong tiến bộ xã hội, trên cơ sở đó tác giả đã làm sáng tỏ một số vấn đề cấp
bách cần được giải quyết nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho việc thực hiện
công bằng xã hội ở nước ta hiện nay.
Cuốn “Phát triển bền vững ở Việt Nam: thành tựu, cơ hội, thách thức và
triển vọng”, (Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, 2007), của Nguyễn Quang Thái
và Ngô Thắng Lợi đã làm rõ được khái niệm về phát triển bền vững và tình
hình phát triển bền vững ở Việt Nam và đưa ra một số giải pháp để đảm bảo
cho sự phát triển bền vững tại Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu trên đã có những cách tiếp cận khá phong
phú về vấn đề công bằng xã hội và phát triển xã hội bền vững. Qua đó, các nhà
nghiên cứu, ít nhiều đã góp phần làm sâu sắc và phát triển nhiều vấn đề của
công bằng xã hội và phát triển xã hội bền vững. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa
công bằng xã hội và phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam cũng như việc đề
xuất giải pháp phát triển xã hội bền vững từ góc độ thực hiện công bằng xã hội
chưa đặt ra và nghiên cứu thỏa đáng. Đó là vấn đề còn bỏ ngỏ và với luận văn
này chúng tôi hy vọng sẽ góp một phần nhỏ bé về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là trên cơ sở phân tích và khái quát khái niệm và
quan hệ giữa công bằng xã hội với phát triển xã hội bền vững, khảo sát thực
trạng vấn đề thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam trong những năm vừa
qua và tác động của nó đến sự phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam để đề
xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa việc thực hiện công bằng xã
hội nhằm phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam trong thời gian tới.

Để đạt mục đích này, luận văn tập trung giải quyết một số nhiệm vụ sau:
- Phân tích và làm rõ khái niệm công bằng xã hội và quan hệ giữa công

7
bằng xã hội đối với phát triển xã hội bền vững.
- Khảo sát, đánh giá việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam trong
thời gian qua và tác động của nó đến sự phát triển xã hội bền vững.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện công bằng xã hội đảm
bảo phát triển xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Công bằng xã hội và việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt
Nam trong quan hệ với phát triển xã hội bền vững.
- Phạm vi nghiên cứu: Đối tượng được khảo sát trên bình diện quan điểm chủ
trương của Đảng và chính sách vĩ mô của Nhà nước từ 1986 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được xây dựng trên cơ sở quan điểm của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội, các chủ
trương, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về chiến lược và mục tiêu
phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam, các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
của thế giới mà trong đó Việt Nam là một thành viên tham gia tích cực. Ngoài
ra luận văn còn dựa vào sự nghiên cứu tham khảo các công trình nghiên cứu
có liên quan đến vấn đề này.
Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng kết hợp với các phương pháp phân tích- tổng hợp, lôgíc -
lịch sử, …
6. Đóng góp của luận văn
Nghiên cứu đề tài này, luận văn đã góp phần làm rõ vai trò của công bằng
xã hội đối với phát triển xã hội bền vững, thực trạng của việc thực hiện công

8

bằng xã hội đối với sự phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam. Từ đó, đề ra
một số giải pháp thực hiện công bằng xã hội đáp ứng với yêu cầu phát triển xã
hội bền vững ở Việt Nam.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những giải pháp phát triển xã hội
bền vững từ góc nhìn của công bằng xã hội. Kết quả của luận văn có thể sử
dụng làm tài liêu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
2 chương, 5 tiết.
Chương I: Công bằng xã hội và phát triển bền vững
Chương II: Thực trạng và giải pháp thực hiện công bằng xã hội đảm bảo
phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam hiện nay.










9
CHƢƠNG I
CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

1.1. Công bằng xã hội
Công bằng xã hội là một phạm trù lịch sử. Trong mỗi giai đoạn phát triển
của lịch sử nhân loại, con người có quan niệm và đánh giá khác nhau về công

bằng xã hội.
Vấn đề công bằng được đặt ra trong lịch sử xã hội loài người ngay từ khi
con người ý thức được những bất công trong xã hội, nhận thức được bất công
ở mức độ nào sẽ hướng con người vươn tới sự công bằng xã hội. Như vậy, về
mặt nhận thức luận, bất công và công bằng là những khái niệm luôn nằm trong
quá trình sinh thành và phát triển trên cơ sở của thực tiễn phát triển xã hội. Có
thể thấy rằng, khái niệm công bằng xã hội là một khái niệm mở và đang từng
bước hoàn thiện cả về nội hàm lẫn ngoại diên của nó gắn với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội.
Theo từ điển tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học biên soạn xuất bản năm
2004, “Công bằng: theo đúng lẽ phải, không thiên vị”. Trong ngôn ngữ Anh và
Pháp công bằng (justice) thường được hiểu là sự đúng đắn, chính đáng, lẽ
phải, công lý.
Theo từ điển bách khoa triết học, (Matxcơva 1983), định nghĩa: “Công
bằng là khái niệm đạo đức - pháp quyền, đồng thời cũng là khái niệm chính trị -
xã hội. Khái niệm công bằng bao hàm trong nó yêu cầu về sự phù hợp giữa vai
trò thực tiễn của cá nhân (nhóm xã hội) với địa vị của họ trong đời sống xã hội,
giữa những quyền và nghĩa vụ của họ, giữa làm và hưởng, giữa lao động và sự
trả công, giữa tội phạm và sự trừng phạt, giữa công lao và sự thừa nhận của xã
hội. Sự không phù hợp trong những quan hệ đó được đánh giá là sự bất công”.

10
Có thể thấy, bản chất của công bằng xã hội chính là sự tương xứng (sự
phù hợp) giữa đóng góp và hưởng thụ (theo nghĩa tích cực) và giữa phá hoại
và trừng phạt của cá nhân (nhóm xã hội) đối với sự phát triển của cộng đồng,
xã hội. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn triết học với cái nhìn lạc quan
hướng tới tương lai, luận văn chủ yếu đề cập đến công bằng xã hội theo nghĩa
tích cực: sự công bằng giữa đóng góp và hưởng thụ.
Ngày nay, công bằng xã hội không chỉ được giới hạn ở công bằng về kinh
tế - mặc dù đây vẫn là yếu tố nền tảng- mà còn được mở rộng trong những lĩnh

vực chính trị, pháp lý, văn hoá, xã hội… Công bằng xã hội là một giá trị cơ
bản định hướng cho việc giải quyết mối quan hệ giữa người với người trong
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội theo nguyên tắc: cống hiến về vật chất
và tinh thần cho xã hội ngang nhau thì được hưởng thụ những giá trị vật chất
và tinh thần ngang nhau do xã hội tạo ra. Song, vì hoàn cảnh của mỗi người
khác nhau, nên tạo điều kiện cho mọi người, nhất là những người khó khăn
đều có cơ hội tiếp cận công bằng các cơ hội phát triển, các nguồn lực phát
triển, tiếp cận các nguồn lực xã hội cơ bản như giáo dục, y tế, việc làm… luôn
là một vấn đề cơ bản trong thực hiện công bằng xã hội. Tất nhiên, sự cống
hiến phải được xem xét suốt cả chiều dài của quá trình phát triển bao gồm
những đóng góp công hiến trong quá khứ, hiện tại, và cả sự đầu tư tập trung
phát triển cho tương lai. Sự hưởng thụ chỉ thực sự công bằng khi nó tương ứng
với sự cống hiến.
Trong tư duy hiện đại, nội hàm của công bằng xã hội được bổ sung, mở
rộng và phát triển đáng kể. Những thay đổi đó trước hết thể hiện ở chỗ nội
dung quan trọng nhất của công bằng xã hội là công bằng về cơ hội phát triển.
Đây là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá sự công bằng. Nếu trong xã hội còn tình
trạng tạo cơ hội cho người này mà không tạo cơ hội cho người kia thì chưa thể
có công bằng. Công bằng về cơ hội là yếu tố chi phối nhất trong tất cả những
thứ công bằng khác. Khi mỗi chủ thể có cơ hội phát triển bình đẳng với các

11
chủ thể khác thì có nghĩa là anh ta có điều kiện để đạt được và duy trì một
cách vững chắc sự công bằng trong thu nhập và hưởng thụ ở tất cả các lĩnh
vực của đời sống. Anh ta càng có năng lực để tiếp cận, lựa chọn và hiện thực
hoá cơ hội đó thì tương quan công bằng xã hội của anh ta càng bền vững.
Nội dung tiếp theo của công bằng xã hội đó là được hưởng như nhau cho
những người đóng góp bằng nhau. Đây là tiêu chuẩn đảm bảo những người
đóng góp nhiều nhất vào nền kinh tế sẽ được hưởng nhiều nhất. Sự phân biệt
đối xử không tồn tại giữa các cá nhân cùng làm việc như nhau. Nói cách khác

đây là tiêu chuẩn đảm bảo sự công bằng giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa
quyền lợi và nghĩa vụ, giữa năng lực và vị trí xã hội.
Một nội dung khác của công bằng xã hội đó là phải gắn công bằng xã hội
với trách nhiệm công dân và điều kiện phát triển công dân. Tức là phải xác lập
được chuẩn tối thiểu về công bằng do luật pháp quốc gia quy định trong từng
lĩnh vực xã hội cụ thể. Chuẩn tối thiểu này cần được đảm bảo bằng những
chính sách cụ thể của Nhà nước đối với mọi người dân thuộc mọi tầng lớp,
nhóm xã hội; không phân biệt người giàu hay nghèo, nam hay nữ, miền núi
hay miền xuôi… Trên cơ sở xác định chuẩn tối thiểu, việc thực hiện công bằng
xã hội phải gắn với trách nhiệm của mỗi công dân. Tuy nhiên, do điều kiện địa
lý, điều kiện lịch sử, nguồn gốc giống nòi, giới tính, tôn giáo, vị trí xã hôi
vv…thì việc tiếp nhận những cơ hội, hưởng những phúc lợi xã hội khác nhau
nên ngoài trách nhiệm chung đối với xã hội thì mỗi cá nhân đều phải có những
trách nhiệm riêng tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh, vị trí xã hội của mình.
Khái niệm công bằng xã hội không tách rời khái niệm bình đẳng xã hội,
do đó khi nghiên cứu về khái niệm công bằng cần phải xem xét cả khái niệm
bình đẳng.
Bình đẳng với tính cách là phạm trù chính trị - xã hội, có nghĩa là sự bằng
nhau, sự ngang nhau giữa các cá nhân hay các nhóm xã hội về một hay một số

12
phương diện xã hội nhất định. Chẳng hạn, sự ngang bằng nhau giữa các cá
nhân hay các nhóm xã hội nào đó về những quyền và nghĩa vụ công dân, về
chính trị - xã hội, về cơ hội xã hội, về mức độ thoả mãn những nhu cầu nhất
định trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội…
Công bằng xã hội là sự ngang nhau giữa người và người không phải về
mọi phương diện hay một phương diện bất kỳ mà chính là về một phương diện
hoàn toàn xác định: quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và
hưởng thụ theo nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau.
Còn thực hiện công bằng xã hội là đặt mọi người vào những cơ hội như nhau

nhằm làm cho nó tự do phát triển và tạo ra cho mỗi người những điều kiện
thực tế để phát triển. Sự phát triển trong công bằng là sự phát triển chứa đựng
sự vượt trội, chênh lệch, phân hoá…
Bình đẳng có khía cạnh công bằng (như sự bình đẳng về quyền và nghĩa
vụ của công dân, bình đẳng trong hưởng thụ ở những người có lao động, đóng
góp ngang nhau), nhưng cũng có khía cạnh không công bằng (như sự phân
phối bình quân bất chấp chất lượng và hiệu quả công việc dẫn đến sự trì trệ xã
hội); ngược lại, trong công bằng vừa có bình đẳng, vừa có bất bình đẳng
không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với sự bất công (sự vượt trội, phân hoá
giầu nghèo…). Do đó, nhiều khi người ta nói về sự bất công bằng nhưng thực
ra, đó không phải là sự công bằng mà là bình đẳng và ngược lại, không ít khi
sự bất công được đề cập đến lại không phải là sự bất công mà chỉ là sự bất
bình đẳng. Hai mặt bình đẳng và bất bình đẳng có địa vị không ngang nhau.
Bất bình đẳng, dù được xã hội thừa nhận là công bằng cũng chỉ là cái bắt buộc
phải duy trì nhằm đảm bảo cho sự phát triển xã hội. Mục đích lâu dài của xã
hội là phấn đấu cho sự bình đẳng xã hội. Trong chủ nghĩa xã hội, bình đẳng xã
hội là mặt chủ đạo của sự phát triển. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện
nay, chỉ có thể thực hiện sự bình đẳng từng mặt, chứ chưa thể thực hiện được
sự bình đẳng hoàn toàn. Trước hết chúng ta cần phấn đấu từng bước thực hiện

13
bình đẳng về cơ hội, tức là tạo điều kiện cho mọi người ai cũng có thể có
những điều kiện nhất định về phía cá nhân cũng như về phía xã hội, để mọi
người đều có thể tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh và các hoạt động
xã hội khác, trên cơ sở đó có được mức hưởng thụ tương xứng với năng lực
của mình. Còn về mặt hưởng thụ, trước mắt chúng ta chỉ có thể phấn đấu thực
hiện bình đẳng ở sự thỏa mãn một số nhu cầu cơ bản nhất rồi dần dần phát
triển lên.
Để đánh giá thế nào là công bằng không phải là vấn đề đơn giản. Nó đòi
hỏi phải so sánh phần hưởng thụ của các cá nhân, các nhóm xã hội với phần

đóng góp, cống hiến của họ. Ở đây, phần hưởng thụ về cơ bản là có thể lượng
hoá được một cách tương đối dễ dàng hơn, còn phần đóng góp, cống hiến, nhất
là sự đóng góp, cống hiến về tài năng và trí tuệ thì rất khó có thể lượng hoá
một cách chính xác được. Thêm vào đó, sự đóng góp của cá nhân không
những cần được xem xét không phải chỉ trong hiện tại, mà còn phải tính đến
cả sự đóng góp trong quá khứ và tương lai. Bất kỳ sự đánh giá đơn giản nào
vấn đề này đều có thể dẫn đến việc ngộ nhận công bằng thành bất công và
ngược lại.
Công bằng xã hội có tính khách quan vì công bằng xã hội xuất phát từ
nhu cầu khách quan của sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội. Thực
hiện tốt công bằng xã hội sẽ khuyến khích mọi người hăng hái tạo ra càng
nhiều của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Công bằng xã hội không chỉ phụ
thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của phân công lao động
xã hội, vào mối tương quan giữa lao động phức tạp và lao động đơn giản, vào
tính chất của quan hệ sản xuất, mà còn phụ thuộc vào trình độ văn hoá, văn
minh của xã hội và chế độ xã hội.
Công bằng xã hội là khái niệm mang tính lịch sử. Nó xuất hiện và tồn tại
từ thời cổ đại và khi nào xã hội còn tồn tại bất công xã hội thì công bằng còn

14
tồn tại và luôn là mơ ước và là mục tiêu phấn đấu của loài người. Từ điển bách
khoa Việt Nam viết: “Công bằng xã hội là phương thức đúng đắn nhất để thoả
mãn một cách hợp lý những nhu cầu của các tầng lớp xã hội, các nhóm xã hội,
các cá nhân, xuất phát từ khả năng hiện thực của những điều kiện kinh tế - xã
hội nhất định. Về nguyên tắc, chưa thể có sự công bằng nào được coi là tuyệt
đối trong chừng mực mà mâu thuẫn giữa nhu cầu con người và khả năng hiện
thực còn chưa được giải quyết. Bởi vậy, mỗi thời đại lại có những đòi hỏi
riêng về công bằng xã hội [65, tr.580].
Mỗi xã hội đều có những chuẩn mực riêng về công bằng xã hội do hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của xã hội đó quy định. Ph.Ăngghen từng nhận xét: “Công

bằng của những người Hi Lạp và La Mã là sự công bằng của chế độ nô lệ.
Công bằng của giai cấp tư sản những năm 1878 là những đòi hỏi cần xoá bỏ
chế độ phong kiến mà nó coi là bất công” [42, tr.273]. Việc đặt ra và giải
quyết vấn đề công bằng không chỉ phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể mà
còn phụ thuộc trình độ nhận thức, đặc biệt là sự chi phối lợi ích của các giai
cấp, các nhóm chủ thể xã hội.
Trong chế độ công xã nguyên thuỷ, công bằng xã hội chỉ có nghĩa là mọi
người đều phải tuân theo trật tự đã được cộng đồng thừa nhận, ai vi phạm sẽ bị
trừng phạt.
Khi sở hữu tư nhân xuất hiện nội dung công bằng cũng thay đổi: sự công
bằng được xem xét trong mối quan hệ với địa vị xã hội. Platon (427-347
Tr.CN) cho rằng, không thể có sự bình đẳng giữa những tầng lớp người khác
nhau trong xã hội, bởi vì theo Platon, bản thân nhà nước xuất hiện từ chính sự
đa dạng của nhu cầu con người. Xã hội không có sự bình đẳng, đó là điều tất
yếu và nếu ông đối xử với một người nô lệ như một người tự do là điều vượt ra
khỏi lẽ phải thông thường.

15
Tuy nhiên, Platon lại cho rằng dù xã hội không có sự bình đẳng nhưng
vẫn có công bằng, bởi lẽ công bằng là ở chỗ mỗi hạng người dù ở địa vị xã hội
nào cũng phải làm hết trách nhiệm của mình, biết sống đúng với tầng lớp của
mình và phải biết được thân phận mình. Nói một cách khác, theo Platon, công
bằng ở đây không phải là sự ngang bằng nhau giữa người với người trong
cống hiến và hưởng thụ, mà là sự phân định đẳng cấp. Và theo ông, công bằng
ở đây là công bằng giữa những người trong cùng đẳng cấp chứ không phải là
công bằng cho toàn xã hội.
Bước vào thời kỳ của xã hội phong kiến, đây là thời kỳ mà hệ tư tưởng
chiếm địa vị thống trị trong xã hội là tôn giáo. Bọn phong kiến, quý tộc muốn
củng cố chế độ tập quyền thống trị và muốn thôn tính các dân tộc khác nên đã
ra sức đề cao các quan điểm tôn giáo và thần học. Chẳng hạn ở Phương Đông

đó là các quan điểm của Phật giáo, Nho giáo…, Phương Tây là các quan điểm
của Ki tô giáo, tiếp đến là các nhà triết học Tomát Đacanh, Ôguýtstanh …Các
quan điểm về công bằng xã hội thời kỳ này cũng thể hiện sự phân biệt đẳng
cấp giữa giai cấp thống trị và bị trị. Chẳng hạn Đổng Trọng Thư là một nhà tư
tưởng thời Lưỡng Hán (Trung Quốc). Ông ta lợi dụng quan điểm định mệnh
trong lý luận âm dương để nói rằng “dương thiện, âm ác”. Theo Đổng Trọng
Thư thì kẻ thống trị là một phần thế lực tính dương, người bị trị là một phần
của thế lực tính âm. Ông ta cho rằng trật tự âm dương là không thể thay đổi do
đó, trật tự phong kiến được ông chứng minh là trật tự thống trị hợp pháp, vĩnh
viễn.
Trong chủ nghĩa tư bản, cùng với quá trình xác lập địa vị thống trị của
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản đã sử dụng nguyên tắc trao đổi
ngang giá để chống lại sự bất công và bất bình đẳng đang tồn tại trong xã hội
phong kiến. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản đã tỏ ra bất lực trước vấn đề xây
dựng một xã hội công bằng và bình đẳng thực sự giữa người với người. Theo
Mác, mỗi thời đại kinh tế có một phương thức phân phối riêng đặc trưng cho

16
nó. Phương thức ấy do những quan hệ sản xuất quyết định. Không có phương
thức phân phối chung cho mọi thời đại. Và điều đó cũng có nghĩa là không có
một khái niệm công bằng chung chung. Trong chủ nghĩa tư bản, cũng giống
như các phương thức phân phối trước đây, công bằng xã hội không phải là
vĩnh cửu, nó cũng mang tính lịch sử. Trong chủ nghĩa tư bản phân phối căn cứ
vào tài sản và vốn. Theo phương thức này, giai cấp nào nắm giữ tư liệu sản
xuất đương nhiên sẽ chi phối quan hệ phân phối trong xã hội. Đều đó đưa đến
hệ quả là nhà tư bản ngày càng giàu lên trong khi đó giai cấp vô sản, người lao
động ngày càng bị tha hoá và bất bình đẳng xã hội ngày càng lớn. Đó là sự
công bằng chỉ dành riêng cho giai cấp tư sản, “Bọn tư sản há chẳng khẳng định
rằng sự phân phối hiện nay là “công bằng” đó sao? Và quả vậy, trên cơ sở
phương thức sản xuất hiện nay thì đó chẳng phải là sự phân phối duy nhất

“công bằng” hay sao? Phải chăng do những quan hệ kinh tế, do những khái
niệm pháp lý điều tiết hay ngược lại, những quan hệ pháp lý lại phát sinh từ
những quan hệ kinh tế? Những môn phái xã hội chủ nghĩa há cũng chẳng đặt
ra những quan niệm hết sức khác nhau về sự “phân phối công bằng” hay sao?”
[43, tr.30-31].
Đứng trên lập trường bảo vệ lợi ích của giai cấp vô sản, C.Mác đã đưa ra
quan niệm về nguyên tắc phân phối đảm bảo công bằng xã hội. Và trong các
tác phẩm liên quan, bao giờ Mác cũng đề cập tới lĩnh vực phân phối sản phẩm
theo lao động. Đây là lĩnh vực đặc biệt có ý nghĩa để xem xét vấn đề công
bằng. Nhưng theo Mác, phân phối sản phẩm, đến lượt nó lại bị phụ thuộc vào
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Giai cấp nắm quyền sở hữu những tư liệu
sản xuất chủ yếu trong xã hội thì đồng thời là giai cấp thống trị xã hội. Quan
niệm duy vật về lịch sử của Mác bắt nguồn từ luận điểm cho rằng sản xuất vật
chất, phân phối sản phẩm là cơ sở, nền tảng của mọi tồn tại xã hội. Trong tác
phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô – ta,” Mác cho rằng công bằng xã hội không

17
phải là một ý tưởng, một mong muốn mà là kết quả tất yếu của sự vận động
trong bản thân phương thức sản xuất mới để xác lập công bằng xã hội.
Mác cũng chỉ rõ rằng trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sau khi đã khấu trừ
đi những khoản cần thiết để duy trì sản xuất, tái sản xuất cũng như để duy trì
đời sống của cộng đồng, toàn bộ số sản phẩm xã hội còn lại sẽ được phân phối
theo nguyên tắc: “mỗi người sản xuất sẽ được nhận lại từ xã hội một số lượng
vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lượng lao động mà anh ta đã cung cấp
cho xã hội (sau khi đã khấu trừ số lao động của anh ta cho quỹ xã hội)” [43,
tr.31]. Theo Mác, đây là một nguyên tắc phân phối công bằng, vì nó đảm bảo
cho tất cả những người sản xuất đều có quyền hưởng thụ ngang nhau khi làm
một công việc ngang nhau trong xã hội. Nhưng C.Mác cũng chỉ rõ, trong điều
kiện của chủ nghĩa xã hội, không phải mọi người đều bình đẳng với nhau về
cơ hội phát triển mà còn tồn tại rất nhiều sự khác biệt. Vì vậy sự phân phối đó

chưa loại trừ được mà vẫn còn hàm chứa trong nó sự chấp nhận một tình trạng
bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã hội vì những người lao
động không phải ai cũng như ai, người này khác người kia về thể chất và tinh
thần, về năng lực lao động và tay nghề, về hoàn cảnh gia đình…Vì theo Mác
“Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ
nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội
cộng sản vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi
phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu ấn của xã hội
cũ mà nó đã lọt lòng ra” [43, tr.33]. Vì vậy, “với một công việc ngang nhau và
do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội, thì trên
thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giầu hơn
người kia…” [43, tr.35]. Đó vừa là ưu việt vừa là thiếu sót của nguyên tắc
phân phối theo nhu cầu. Theo C.Mác, điều khó nói có thể tránh khỏi trong giai
đoạn đầu trong xã hội cộng sản chủ nghĩa. Thiếu sót đó chỉ có thể được khắc
phục trong chủ nghĩa cộng sản, khi có thể thực hiện được nguyên tắc phân

18
phối theo lao động: “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Bởi vậy, Mác
kết luận về những hạn chế tất yếu của công bằng xã hội trong chế độ xã hội
chủ nghĩa “Đó là những thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của
xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra,
sau những cơn đau đẻ kéo dài. Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao
hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế đó
quyết định” [49, tr. 35-36].
Như vậy xét trên lĩnh vực phân phối, công bằng được hiểu là quyền
hưởng thụ ngang nhau khi cống hiến ngang nhau. Mác khẳng định “Quyền
ngang nhau ấy là một quyền không ngang nhau đối với một lao động không
ngang nhau. Nó không thừa nhận một sự phân biệt giai cấp nào cả, vì bất cứ
người nào cũng chỉ là một người lao động như người khác; nhưng nó lại mặc
nhiên thừa nhận sự không ngang nhau về năng khiếu cá nhân và do đó, về

năng lực lao động, coi đó là những đặc quyền tự nhiên” [43, tr.33-34]. Từ đây,
theo Mác, công bằng không phải là sự cào bằng, bình quân chủ nghĩa. Công
bằng thực chất là sự ngang bằng nhau giữa người với người về quan hệ giữa
cống hiến và hưởng thụ. Theo đó cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang
nhau. Mác còn chỉ rõ: “Bất kỳ một sự phân phối nào về tư liệu tiêu dùng cũng
chỉ là hậu quả của sự phân phối chính ngay những điều kiện sản xuất; nhưng
sự phân phối những điều kiện sản xuất lại là một tính chất của chính ngay
phương thức sản xuất. Ví dụ, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên
tình hình là những điều kiện vật chất của sản xuất lại nằm ngay trong tay
những kẻ không lao động” [43, tr.36-37].
Trên cơ sở đó, Mác đã đưa ra một tư tưởng mới về công bằng xã hội: công
bằng xã hội là sự điều hoà các quan hệ phân phối, quan hệ lợi ích của các cá
nhân, các nhóm dân cư, các tầng lớp xã hội…, theo nguyên tắc phân phối theo
lao động. Mặt khác, công bằng xã hội còn thể hiện ở việc xã hội phải tạo ra
những cơ hội và điều kiện như nhau cho sự phát triển năng lực của mọi thành

19
viên trong cộng đồng. Công bằng xã hội vì vậy còn gắn liền với một chế độ
chính trị, thái độ của giai cấp cầm quyền trong xã hội, và chỉ có xã hội xã hội
chủ nghĩa mới có thể đảm bảo được các tiêu chí về công bằng nói trên.
Theo Mác, sự công bằng tuyệt đối sẽ đạt được trong chủ nghĩa cộng sản.
Khi đó người ta “Mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp
quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: làm theo năng lực,
hưởng theo nhu cầu!” [43, tr.36]. Lúc đó con người không còn phụ thuộc vào
sự phân công lao động. Khoảng cách giữa lao động trí óc và lao động chân tay
được rút ngắn tối đa; lao động không còn là phương tiện để sinh sống mà là
một nhu cầu hoạt động và phát triển của mỗi cá nhân.
Khi bàn đến công bằng xã hội, Mác và Ăng ghen thường gắn vấn đề này
với bình đẳng xã hội. Ăngghen chỉ rõ “Cái quan niệm cho rằng tất cả mọi
người, với tư cách là con người, đều có một cái gì chung, rằng trong phạm vi

cái chung đó mọi người đều bình đẳng, dĩ nhiên là một quan niệm đã cũ rồi.
Nhưng yêu sách hiện đại về bình đẳng lại hoàn toàn khác với quan niệm đó;
nói cho đúng ra yêu sách đó đòi hỏi phải từ cái thuộc tính chung là con người,
từ sự bình đẳng của mọi người với tư cách là con người, rút ra cái quyền có
một giá trị ngang nhau về chính trị và xã hội cho tất cả mọi người, hay ít ra
cho mọi công dân trong một nước, hay cho mọi thành viên trong một xã hội”
[44, tr.149]. Ở đây, công bằng xã hội thực chất là biểu hiện cụ thể của bình
đẳng xã hội, thực hiện công bằng xã hội là góp phần thực hiện bình đẳng xã
hội. Vì nói tới bình đẳng xã hội là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với
người về mọi phương diện. Trong khi đó nói tới công bằng xã hội là nói tới sự
ngang bằng nhau giữa người với người về phương diện quan hệ giữa cống hiến
và hưởng thụ, nghĩa vụ và quyền lợi theo nguyên tắc: cống hiến ngang nhau
thì sẽ được hưởng thụ ngang nhau. Theo cách hiểu này, thực hiện công bằng
xã hội là đã đạt được một phần quan trọng trong việc thực hiện bình đẳng xã
hội hoàn toàn.

20
Lênin đã phát triển vấn đề công bằng và bình đẳng xã hội trong điều kiện
lịch sử mới: thực tế nước Nga sau cách mạng tháng Mười. Lênin cho rằng,
việc giải phóng khỏi ách tư bản, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc
của tất cả những người vô sản, của tất cả nhân dân lao động trên thế giới. Chủ
nghĩa xã hội thể hiện tính chất chung của những quyền lợi cơ bản, của những ý
nguyện tiến bộ và công bằng cho tất cả mọi người. Lênin viết “Chế độ dân chủ
tư sản, do bản chất của nó, vốn có cái lối nói trừu tượng hoặc hình thức về
quyền bình đẳng nói chung… Nấp dưới hình thức quyền bình đẳng của cá
nhân nói chung, chế độ dân chủ tư sản tuyên bố quyền bình đẳng hình thức
hoặc quyền bình đẳng trên pháp luật giữa kẻ bóc lột và người bị bóc lột, do đó,
đã làm cho những giai cấp bị áp bức bị lừa dối một cách ghê gớm. Ý niệm
bình đẳng, bản thân nó chỉ là sự phản ánh những quan hệ sản xuất hàng hoá,
đã bị giai cấp tư sản biến thành một vũ khí đấu tranh chống lại việc thủ tiêu

giai cấp dưới chiêu bài của quyền bình đẳng tuyệt đối cá nhân”(71, tr.198).
Như vậy theo Lênin, công bằng bình đẳng xã hội trong chủ nghĩa tư bản chỉ là
giả tạo, hình thức và không triệt để bởi sự bình đẳng đó xây dựng trên quan hệ
áp bức, bóc lột giai cấp. Từ đây, Lênin khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội mà
cụ thể là chế độ Xôviết là chế độ có thể thật sự đảm bảo công bằng xã hội cho
mọi người bằng cách thực hiện trước hết sự đoàn kết tất cả những người vô
sản, rồi đến toàn thể quần chúng lao động. Theo Lênin “không có gì kìm hãm
sự phát triển và sự đoàn kết giai cấp của giai cấp vô sản hơn là sự bất công dân
tộc” [71, tr.411].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp tục bổ sung và phát triển quan điểm của
Chủ nghĩa Mác - Lênin về công bằng và bình đẳng xã hội và vận dụng nó vào
thực tiễn Việt Nam. Người khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội là gì? Là mọi người
được ăn no mặc ấm, sung sướng tự do. Nhưng nếu muốn tách riêng một mình
mà ngồi ăn no, mặc ấm, người khác mặc kệ thế là không tốt. Mình muốn ăn no
mặc ấm cũng làm sao cho tất cả mọi người được ăn no mặc ấm. [26, tr.682].

21
Theo Hồ Chí Minh, thực hiện một chế độ phân phối công bằng chính là thực
hiện nguyên tắc phân phối trong đó phần hưởng thụ ngang bằng với mức độ
đóng góp, cống hiến của từng cá nhân, chứ hoàn toàn không phải là sự ngang
bằng về hưởng thụ giữa các cá nhân mà không tính đến cống hiến của từng
người. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “Chủ nghĩa xã hội là công bằng, hợp lý, làm
nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, những người già
yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ, chăm nom” [30, tr.175]. Công
bằng xã hội đã được Hồ Chí Minh phát triển thêm một bước. Công bằng
không chỉ dừng lại ở công bằng trong phân phối theo lao động mà còn được
thể hiện ở việc trợ giúp cho những nhóm người, tầng lớp yếu thế trong xã hội:
người già yếu và tàn tật không còn và không có khả năng lao động và cống
hiến.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã bảo vệ và phát triển quan điểm về phân phối

của Mác khi Người cũng khẳng định cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ
ngang nhau. Quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ. Hồ Chí Minh kiên quyết
chống lại chủ nghĩa bình quân, Người viết: “Bình quân chủ nghĩa là gì? Là ai
cũng như nhau, bằng hết… Bình quân chủ nghĩa là trái với chủ nghĩa xã hội,
thế là không đúng” [29, tr.386]. Theo Người, chủ nghĩa xã hội là phấn đấu
không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân: “Làm cho
người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm”
[29, tr.65].
Trên cơ sở kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về công bằng xã hội, Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra mục tiêu xây
dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay. Đó là: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh.” Mục tiêu này đang dần được hiện thực hoá
trong quá trình định hướng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng,

22
bình đẳng luôn được đề cập trong các kì đại hội Đảng đặc biệt là từ Đại hội
Đảng VI (1986) đến nay.
Từ những phân tích trên, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng, công
bằng xã hội là một giá trị định hướng để con người thoả mãn một cách hợp lý
những nhu cầu cơ bản về đời sống vật chất và tinh thần trong quan hệ phân
phối sản phẩm xã hội và khả năng tiếp cận các cơ hội phát triển giữa các cá
nhân, nhóm xã hội dựa trên sự tương xứng giữa cống hiến và hưởng thụ, xuất
phát từ khả năng hiện thực của những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
Công bằng xã hội, như chúng tôi đã chỉ rõ, là một khái niệm mà nội hàm
của nó gắn liền với trình độ phát triển nhất định của xã hội và một kiểu hay
một mô hình phát triển xã hội cụ thể. Do đó, những luận giải, phân tích công
bằng xã hội một cách biện chứng duy vật, chúng ta phải dựa trên những trình
độ phát triển và đặc điểm, tính chất của xã hội trong những điều kiện hiện
thực, cụ thể.

Với quan điểm đó, trong luận văn này, chúng tôi tiếp cận công bằng xã
hội từ góc độ của phát triển bền vững và đặt công bằng xã hội trong mối quan
hệ với phát triển bền vững - một mô hình phát triển mà hầu hết các quốc gia,
dân tộc trên thế giới đã và đang đặt thành chương trình nghị sự của mình.
1.2. Phát triển bền vững
Từ thuở ban đầu, đặc trưng của con đường đi của loài người trên trái đất
là quá trình tự giải phóng mình và làm chủ các điều kiện tự nhiên. Quá trình
nhân tạo hoá này một mặt nó đưa con người ngày một phát triển toàn diện
hơn mà theo Ăng-Ghen “Con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp
của từ này bao nhiêu thì con người ngày càng tự mình làm ra lịch sử của mình
một cách có ý thức bấy nhiêu” [44, tr.476]. Nhưng mặt khác quá trình tác
động vào tự nhiên của con người cũng tạo ra những mất cân đối lớn. Những

23
mất cân đối này ảnh hưởng đến cả chính môi trường cũng như xã hội, làm cho
ta tự hỏi về khả năng bền vững của sự phát triển.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người là sự thay thế các hình thái kinh
tế - xã hội từ thấp lên cao. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội đó đều có
những bước phát triển cao hơn về chất lượng cuộc sống của con người. Nhưng
chúng ta cũng thấy rằng, trong mỗi bước phát triển, xã hội cũng thường đặt ra
những yêu cầu mới cho việc nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Thời
kỳ đồ đá, các nhóm người sống đắm chìm trong thiên nhiên và phụ thuộc hoàn
toàn vào tự nhiên. Những cuộc săn bắn và hái lượm nhọc nhằn và đầy hiểm
nguy rình rập chính là nguồn duy nhất nuôi sống họ. Tuy nhiên, những nhọc
nhằn và hiểm nguy đó ngày càng giảm đi nhờ những phát minh ra công cụ lao
động. Qua đó, con người ngày càng nâng cao khả năng chinh phục tự nhiên
của mình.
Từ nửa cuối thế kỷ XX, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ đã lên đến đỉnh điểm, chất lượng cuộc sống của con người đã được nâng
lên rõ rệt. Những thành tựu của khoa học công nghệ, của năng suất lao động

đã phần nào thoả mãn được nhu cầu vật chất và tinh thần cho loài người và
mang tới một bước tiến mới cho văn minh nhân loại. Công nghiệp hoá nền sản
xuất, việc mở rộng các thành phố, sự phát triển của kiến thức khoa học và các
ứng dụng của nó, trong đó có việc sử dụng các nguồn năng lượng mới và
thông tin liên lạc viễn thông, sẽ làm tăng quá trình nhân tạo hoá trong thời kỳ
đương đại. Nhưng cũng chính sự phát triển đó đã làm nảy sinh một số vấn đề
ngày càng nổi cộm. Đó là: cuộc khủng hoảng môi trường đánh dấu các giới
hạn của khoa học và tiến bộ công nghệ và dường như thiên nhiên đang có biểu
hiện hạn chế và thậm chí chống lại sự phát triển xã hội. Và cùng với sự suy
giảm của môi trường sinh thái, tăng trưởng dân số quá nhanh, tiêu dùng một
cách quá mức, phân hoá giàu nghèo đã gây trở ngại đối với phát triển kinh tế
và làm giảm sút chất lượng cuộc sống, đe doạ cuộc sống hiện tại của con

24
người và ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai. Hiện tượng tăng trưởng liên tục
của kinh tế, khoa học công nghệ dẫn tới một tải trọng khổng lồ đè nặng lên cỗ
máy thiên nhiên cũng như các hiện tượng mất cân đối quá mức và các điều
kiện sống, sự phân bố của cải trên thế giới. Theo báo cáo của Liên Hợp Quốc
năm 1950, thế giới có 2,5 tỷ người, năm 2000 trái đất có 6 tỷ dân, theo các dự
báo thì đến năm 2050 dân số thế giới sẽ là 9,3 tỷ. Các nước đang phát triển
chiếm 80% dân số vào năm 2000 và có thể sẽ tăng lên 87% vào năm 2050.
Theo báo cáo của tổ chức ngân hàng thế giới, khoảng gần 1/4 (24,3%) dân số
thế giới sống dưới ngưỡng nghèo. Một nửa dân số thế giới hiện sống trong các
thành phố gần như không được bảo đảm đầy đủ các chức năng đô thị (nhà ở,
công trình đô thị, nơi làm việc, mạng giao thông vận tải…). Ngoài các bất
bình đẳng lớn về điều kiện sống này, hiện tượng ô nhiễm môi trường dưới
nhiều dạng khác nhau ngày càng tăng: khí quyển nóng lên, thiên tai tăng về số
lượng và cường độ và sự xuất hiện của nhiều dịch bệnh đang đe doạ trầm
trọng tới chất lượng cuộc sống.
Cơ sở tham chiếu này làm sáng tỏ ba nguyên nhân cơ bản của cuộc

khủng hoảng kinh tế, xã hội, môi trường mà chúng ta đang phải đối mặt đó là:
Sự bành trướng liên tục của một phương thức sản xuất và sự tiêu dùng các tài
nguyên thiên nhiên không tiết kiệm; hoạt động của một guồng máy kinh tế mà
yếu tố chinh phục duy nhất là các quy luật thị trường đã làm ngăn cách giữa
các nước giàu và các nước nghèo.
Đứng trước áp lực của thực tế khắc nghiệt này, con người không còn
cách lựa chọn nào khác là phải xem xét lại những hành vi ứng xử của mình
với thiên nhiên, phương sách phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình phát triển
của mình. Điều cốt yếu là trong sự phát triển đó, tất cả những vấn đề, các lĩnh
vực phải được xem xét một cách tổng thể, nhằm hạn chế những tác động cản
trở đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Điều đó có nghĩa là con đường phát

25
triển phải có sự kết hợp hài hoà cả về kinh tế, văn hoá, xã hội và bảo vệ môi
trường. Đó chính là con đường phát triển bền vững.
Phát triển bền vững (Sustainable development) là khái niệm xuất hiện
trong phong trào bảo vệ môi trường từ những năm đầu của thập kỷ 70 thế kỷ
XX. Đó là thời kỳ thế giới đối mặt với tình trạng khan hiếm năng lượng và ô
nhiễm môi trường nặng nề. Trước thực tế đó, Liên hợp quốc đã tổ chức một
hội nghị quốc tế về môi trường ở Stockholm (Thuỵ Điển). Hội nghị ra tuyên
bố xác nhận hiện trạng môi trường toàn thế giới đang xấu đi nghiêm trọng và
kêu gọi nhân loại hãy cứu lấy trái đất.
Tuy nhiên, thực tiễn phát triển cho thấy phát triển bền vững không chỉ
được giải quyết từ khía cạnh môi trường tự nhiên mà còn cần phải giải quyết
từ góc độ của các vấn đề xã hội.
Trên phạm vi toàn cầu, nhằm tìm cách đối phó với tình trạng cuộc sống
ngày càng xấu đi do sự gia tăng của nghèo đói, bệnh tật, thất học, do sự cách
biệt ngày càng sâu sắc giữa giàu và nghèo, và đặc biệt do sự xuống cấp
nghiêm trọng của môi trường. Trước tình hình đó, Liên hợp quốc đã thành lập
Uỷ ban thế giới về môi trường và phát triển vào năm 1983.

Năm 1987, Uỷ ban thế giới về môi trường và phát triển đã công bố báo
cáo “Tương lai chung của chúng ta” - Báo cáo BrundtLand. Trong báo cáo
này, thuật ngữ “Phát triển bền vững” lần đầu được phổ biến. Sự phát triển bền
vững được định nghĩa là “Sự phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu của thế hệ
hiện tại mà không tổn hại đến khả năng thoả mãn nhu cầu của các thế hệ mai
sau”.
Phát triển bền vững thể hiện một sự thừa nhận rõ ràng rằng những nhu
cầu về xã hội, môi trường và kinh tế phải được lồng ghép với nhau và đáp ứng

×