Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM rèn luyện kỹ năng nói trong chương trình ngữ văn THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.08 KB, 14 trang )

A. Đặt vấn đề
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là một trong những t tởng quan trọng của
chiến lợc dạy học các môn ngôn ngữ ở trờng phổ thông. Hiện nay các nớc trên
thế giới rất coi trọng quan điểm này, lấy hoạt động giao tiếp là một trong những
căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực
nghe - nói - đọc - viết cho ngời học.
Trong thực tiễn dạy học môn Tiếng Việt và Văn học trớc đây, môn Ngữ
văn hiện nay, không phải khi nào cả 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết đều đợc chú
trọng rèn luyện và phát triển đồng thời. Thông thờng ngời biên soạn sách và ngời dạy lại quá chú trọng vào việc dạy các tri thức Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn
mà bỏ qua việc phát triển cho học sinh những kỹ năng, nghe, nói, đọc, viết trong
những tình huống giao tiếp sinh động và gần gũi với cuộc sống sinh hoạt của
các em. Hoặc cũng có nhiều giáo viên quá chú trọng đến đọc diễn cảm, đọc
hiểu, hay quá chú trọng đến viết mà bỏ qua kỹ năng nghe, nói. Có một thực tế là
nhiều thế hệ học sinh khi ra trờng không biết lắng nghe và thấu hiểu, không biết
nói ra những điều mình nghĩ, không truyền đạt đợc chính xác một thông tin
hoặc không nói đúng theo những nguyên tắc giao tiếp, không biết viết những
văn bản tối thiểu phục vụ cho cuộc sống hàng ngày, không biết cách đọc, hiểu
chính xác về một văn bản
Từ thực tiễn giảng dạy theo chơng trình SGK cũ và chơng trình SGK mới
cải cách, tôi nhận thấy rằng một trong những điểm mới của SGK ngữ văn hiện
nay là đã chú trọng hơn đến việc hình thành và phát triển kỹ năng nói. Qua ba
năm giảng dạy và thực nghiệm với chơng trình giáo khoa mới, tôi đã thực hiện
đợc việc Rèn luyện kỹ năng nói trong chơng trình Ngữ văn THCS và kết
quả bớc đầu khá thành công. Vì vậy tôi mạnh dạn đa ra kinh nghiệm Cách tổ
chức cho học sinh hoạt động để phát triển kỹ năng nói qua môn Ngữ văn ở
THCS. Đây có thể cũng là vấn đề mà nhiều giáo viên dạy môn Văn đang quan
tâm, trăn trở, nhất là trong khi chúng ta thực hiện đổi mới phơng pháp dạy học.

1



B. Giải quyết vấn đề
I. Điều tra thực trạng :
Để tăng tính thực hành ứng dụng cho chơng trình Ngữ văn đối với học sinh
THCS và khắc phục hạn chế quá chú trọng đến đọc - viết hơn nghe - nói của ch ơng trình và SGK cải cách giáo dục, SGK Ngữ văn THCS mới đã bố trí mỗi học
kỳ 2 tiết luyện nói gắn với từng kiểu bài văn bản tạo lập trong ch ơng trình. Mục
đích của các giờ học này là tiếp tục rèn luyện cho học sinh kỹ năng nói tr ớc tập
thể về kiểu bài văn vừa đợc học và thể hiện suy nghĩ cá nhân về những vấn đề
gần gũi, thiết thực với cuộc sống hàng ngày. Cụ thể là :
* Lớp 6 :
- Luyện nói kể chuyện (bài 7, bài 10)
- Luyện nói về quan sát, tởng tợng, so sánh và nhận xét trong văn bản miêu
tả (bài 20).
- Luyện nói về văn miêu tả (bài 23)
* Lớp 7 :
- Luyện nói về văn biểu cảm (bài 10, bài 13)
- Luyện nói bài văn giải thích một vấn đề (bài 26)
* Lớp 8 :
- Luyện nói về kể chuyện theo ngôi kể kết hợp với miêu tả biểu cảm (bài 10)
- Luyện nói về văn thuyết minh (bài 14)
* Lớp 9 :
- Luyện nói tự sự kết hợp với nghị luận và miêu tả nội tâm (bài 14)
- Luyện nói văn nghị luận : nghị luận về một đoạn thơ (bài 27)
Thực tế qua trao đổi, tôi thấy rằng tâm lý chung của các giáo viên Ngữ văn
là ngại dạy các giờ luyện nói. Nguyên nhân cơ bản có lẽ do mâu thuẫn giữa thời
gian luyện nói có hạn (45 phút) mà yêu cầu luyện tập thì không đơn giản. Bên
cạnh đó còn có những nguyên nhân tơng đối quan trọng nh : Học sinh cha có kỹ
năng nói trớc tập thể, lớp học cha đợc thiết kế cho những giờ học kiểu

2



đối thoại, đàm thoại, thảo luận. Số lợng học sinh trong một lớp quá nhiều, giáo
viên lúng túng khi tổ chức một giờ luyện nói, những vấn đề lý thuyết cũng nh
đúc kết thực tiễn về dạy kỹ năng nói trong nhà trờng phổ thông cha đợc nghiên
cứu và phổ biến tới giáo viên đứng lớp, vì vậy việc luyện nói trong nhà trờng
hiện nay có những thuận lợi và khó khăn sau:
1) Thuận lợi :
- Học sinh THCS đã có vốn từ vựng phong phú, năng lực giao tiếp tốt.
- Học sinh THCS đã đợc học tập và rèn luyện nhiều về các kiến thức và kỹ
năng nói qua chơng trình Tiếng Việt tiểu học và chính trong chơng trình Ngữ
văm THCS.
2) Khó khăn :
- Kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh cha nhiều so với việc
rèn luyện kỹ năng viết.
- Học sinh cha chủ động và tự tin khi nói trớc đông ngời.
- Lớp học quá đông, thời gian một tiết học quá ngắn, khó tạo điều kiện cho
tất cả các học sinh đều đợc nói.
- Hệ thống bài tập rèn luyện và phát triển kỹ năng nói trong chơng trình cha
phong phú, đa dạng.
- Số tiết luyện nói so với tổng thời lợng dạy học môn Ngữ văn cha nhiều.
- Sách giáo viên cha có định hớng giúp giáo viên chú trọng rèn luyện và
phát triển kỹ năng nói qua từng giờ học.
II. Phơng pháp nghiên cứu :
1) Phơng pháp khảo sát :
- Khảo sát thực trạng dạy học.
2) Phơng pháp phân tích, tổng hợp :
- Đọc, nghiên cứu sách giáo khoa và một số tài liệu, khái quát thành một số
nhận định và luận điểm chung.

3



3) Phơng pháp thực nghiệm :
- Hớng dẫn, thực nghiệm với các đối tợng học sinh lớp 7 tại trờng nơi công
tác.
III. Những công việc đã làm:
1) Những yêu cầu mang tính bắt buộc để phát triển kỹ năng nói trong
môn Ngữ văn:
Để làm tốt việc rèn luyện và phát triển kỹ năng nói, ngoài những yêu cầu
cụ thể về nội dung của mỗi giờ luyện nói trong chơng trình vẫn là rèn cho học
sinh có kỹ năng nói tiếng Việt tự tin, thành thạo, chính vì thế khi tiến hành các
giờ luyện nói, giáo viên cần hớng học sinh tuân thủ theo những yêu cầu sau:
- Phải nói theo dàn bài đã đợc chuẩn bị trớc.(dàn bài ngắn gọn, bám sát yêu
cầu của đề bài, nêu đợc các ý chính).
- Tránh nói vo, tránh đọc lại hoặc học thuộc lòng để đọc lại bài văn chi tiết
đã có trớc (bài mẫu).
- Giọng nói rõ ràng, cao độ vừa phải, đúng chuẩn ngữ âm, truyền cảm và
thuyết phục ngời nghe (biết lên bổng xuống trầm hoặc thể hiện cảm xúc chân
thành, tự nhiên, không gò bó, áp đặt).
- Tác phong tự nhiên, tự chủ, phản xạ ngôn ngữ nhanh nhạy.
- Không nói ra ngoài những gì mà đề bài yêu cầu.
2) Cách tổ chức cho học sinh hoạt động để phát triển kỹ năng nói qua
môn Ngữ văn ở THCS.
2.1) Rèn luyện qua các tiết luyện nói trong chơng trình:
Để nâng cao chất lợng các giờ luyện nói, giáo viên cần linh hoạt vận dụng
các hình thức đổi mới phơng pháp dạy học theo hớng tích cực hoá hoạt động
học tập của ngời học, vận dụng sáng tạo lý thuyết giao tiếp vào dạy các giờ
luyện nói.

4



a) Giúp học sinh chuẩn bị tốt nội dung bài nói để các em hình dung đợc
mình sẽ nói cái gì (xác định đề tài), nói với ai (xác định đối tợng giao tiếp), nói
trong hoàn cảnh nào (xác định hoàn cảnh giao tiếp), nói để làm gì (xác định
mục đích giao tiếp), nói nh thế nào (cách thức giao tiếp để thuyết phục ngời
nghe).
b) Tạo cho học sinh các nhu cầu muốn nói, muốn đợc bộc lộ. Điều này tởng chừng đơn giản nhng tơng đối khó thực hiện trong nhà trờng hiện nay bởi
đa số học sinh rất ngại nói hoặc không tự tin khi nói trớc đông ngời mặc dù
trong giờ chơi, trong cuộc sống các em nói năng lu loát. Vì thế trong quá trình
luyện nói, ngời giáo viên phải tạo ra đợc những tình huống giả định tơng đối gần
gũi với cuộc sống thờng ngày của học sinh để học sinh có thể nói đợc và có nhu
cầu muốn nói về vấn đề mà các em đã quen thuộc.
c) Tạo cho học sinh hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi trong giờ luyện nói nh:
không khí hào hứng của lớp học, thái độ dễ hợp tác của những ngời cùng tham
gia giao tiếp, sự động viên khuyến khích kịp thời của giáo viên.
* Minh hoạ ở tiết luyện nói số 1
(SGK ngữ văn 7 - tập I)
Tuần 10. Bài 10
Tiết 40 . Tập làm văn

Luyện nói văn biểu cảm về sự vật, con ngời

A. Kết quả cần đạt
- Học sinh nói đợc theo chủ đề biểu cảm.
- Rèn kỹ năng tìm ý, lập dàn ý.
B. Các bớc tiến hành tổ chức để phát triển kỹ năng nói qua tiết luyện nói số 1
(Chỉ nêu các bớc chính)
Bớc 1 : Hớng dẫn học sinh chuẩn bị
+ Phân nhóm : Chia học sinh thành 4 nhóm (có thể ứng với 4 tổ trong lớp).

+ Yêu cầu, nhiệm vụ : Mỗi nhóm chuẩn bị một đề bài, trao đổi, thảo luận,
hình thành dàn ý bài nói (trên cơ sở chuẩn bị bài ở nhà- Giáo viên đã hớng dẫn ở
cuối tiết học trớc). Học sinh tập nói từng phần, đoạn trong nhóm, cử đại diện nói
trớc lớp.

5


- Nhóm 1 : Thực hiện đề số 1
Cảm nghĩ về thày, cô giáo, những ngời lái đò đa thế hệ trẻ cập bến
tơng lai.
- Nhóm 2 : Thực hiện đề số 2
Cảm nghĩ về tình bạn
- Nhóm 3 : Thực hiện đề số 3
Cảm nghĩ về sách vở mình đọc và học hàng ngày
- Nhóm 4 : Thực hiện đề số 4
Cảm nghĩ về món quà mà em đã đợc nhận thời thơ ấu
* Học sinh có thể dễ dàng viết và nói nếu nh giáo viên có thể mở rộng
phạm vi đề bài hơn hoặc thu gọn phạm vi đề bài lại ở một đối tợng cụ thể. Vì
vậy ở tiết luyện nói này, ứng với 4 đề bài trên, giáo viên có thể cho học sinh lựa
chọn thêm 4 đề bài tơng ứng sau để các em lựa chọn và thực hiện:
- Đề 1b : Cảm nghĩ về một ngời thày(cô) giáo đã để lại cho em một kỷ
niệm sâu sắc nhất trong những ngày đi học.
- Đề 2b : Cảm nghĩ về một tấm gơng ngời bạn học giỏi, vợt khó.
- Đề 3b : Cảm nghĩ về một cuốn sách hay em đợc đọc và khiến em nhớ mãi
(hoặc một lần em tập viết bài gửi báo).
- Đề 4b : Cảm nghĩ của em về một món quà, bánh tuổi thơ.
* Giáo viên gợi ý, bài mẫu :
A. Mẫu chung của bài nói :


I/ Mở đầu :
Kính tha thày (cô) giáo và các bạn!
Tất cả những ai đã từng cắp sách tới trờng đều có những kỷ niệm sâu sắc về
mái trờng, thày cô, bạn bèMột trong những kỷ niệm sâu sắc nhất để lại cho
em nhiều suy nghĩ và tình cảm là
II/ Nội dung cụ thể của câu chuyện, kỷ niệm
III/ Kết thúc :
Em xin đợc ngừng lời ở đây. Cảm ơn thày (cô) và các bạn đã chú ý lắng nghe!

6


B. Mẫu riêng của phần II cho từng đề :

- Giáo viên minh hoạ trên máy chiếu hoặc bảng phụ để học sinh tham khảo.
(Chỉ đa ra ý chính của một bài nói).
* Đề 1 (hoặc 1b) :
- ý 1 : Ngạn ngữ phơng Tây có câu : Mọi thiên tài đều bắt đầu từ chữ A.
Có nghĩa là ai cũng bắt đầu tự sự học tập của mình từ việc đánh vần các chữ cái
A,B,C Nghĩa rộng hơn : Bắt đầu từ những kiến thức sơ đẳng nhất để rồi sau
đó mới học lên thành tài. Trong những ngày đầu bỡ ngỡ ấy em đã đợc thày cô
giúp đỡ tận tình, em không bao giờ quên lời nhắc nhở của cô giáo từ ngày ấy:
Nét chữ, nét ngời.
- ý 2 : Trong những năm qua em đã đợc học rất nhiều thày cô giáo. Mỗi
thày, cô có một vẻ nhng đều giống nhau nơi phẩm chất tận tuỵ với công việc
dạy chữ, dạy ngời. Vì vậy mà em luôn kính trọng và biết ơn các thày cô giáo.
- ý 3 : Kỷ niệm sâu sắc nhất của em là một lần em không thuộc bài, bị cô
giáo Liên cho điểm kém. Hết buổi học, em lo lắng không dám về nhà, phần vì
buồn bã, phần vì xấu hổ. Thế nhng khi về đến nhà thì đã thấy cô giáo đang ngồi
nói chuyện với bố, mẹ em. Cô gọi em lại gần, vuốt nhẹ mái tóc em, nói khẽ:

Cô không thể tin nổi là em lại bị điểm kém nh vậy! Nhng bây giờ thì cô hiểu
rồi! Cô xin lỗi em nhé!. Em đã khóc và gục đầu vào ngực cô. Chả là hôm ấy
mẹ em ốm phải nằm viện. Bố phải vào viện chăm sóc mẹ. Suốt đêm hôm ấy một
mình em trông đứa em nhỏ cha đầy hai tuổi.
- ý 4 : Cứ mỗi lần nhớ lại kỷ niệm ấy, em lại bồi hồi nghĩ rằng cô Liên
không chỉ là ngời lái đò thầm lặng mà còn là một ngời mẹ nhân hậu, không chỉ
của riêng em, mà còn của nhiều bạn học sinh khác.
* Đề 2 (hoặc 2b) :
- ý 1 : Em may mắn đợc sinh ra trong một gia đình hoà thuận, hạnh phúc.
Nhng ban đầu em cha hiểu hết đợc giá trị của sự may mắn đó. Em thờng vòi
vĩnh bố mẹ mua cho nhiều thứ đồ chơi đắt tiền. Nhng vốn tính cả thèm

7


chóng chán nên chỉ sau một thời gian ngắn là em quẳng lăn lóc mỗi thứ một nơi.
Đến khi lên lớp 6, nhờ có bạn Hiền, em mới dần dần tiến bộ.
- ý 2: Bạn Hiền phải chịu rất nhiều thiệt thòi. Bố bạn không may mất sớm
do mắc bệnh hiểm nghèo. Mẹ Hiền do phải vất vả, lo nghĩ nhiền nên cũng yếu,
ốm đau liên miên. Hiền là chị lớn của hai đứa em nhỏ. Bạn gầy gò, mảnh khảnh,
nhng học rất giỏi và đều ở các môn. Bạn cũng rất chạn hoà với mọi ngời.
- ý 3 : Có một lần, bố em chiêu đãi cả nhà một chầu phở đêm, sau khi đi
xem biểu diễn ca nhạc ở rạp, Lúc ấy khoảng gần 23 giờ. Khi vừa bớc vào quán
phở, em bỗng giật mình thẫn thờ nh ngời mất hồn. Hiền đang tất tởi thu dọn bát
đĩa...
- ý 4 : Sau lần tận mắt chứng kiến Hiền phải lao động vất vả để kiếm sống
mà vẫn cố gắng học giỏi, em tự thấy mình có lỗi với bố mẹ, với thày cô và với
cả bạn Hiền. Giờ đây, bạn ấy không chỉ là một tấm gơng cho em noi theo mà
còn là một trong những ngời bạn thân nhất của em.
* Đề 3 (hoặc 3b)

- ý 1 : Em rất thích đọc báo Thiếu niên Tiền phong. Bởi vì ở đó có những
mẩu chuyện giống nh nhiều chuyện thờng xảy ra ở lớp em. Vì yêu thích tờ báo
nên em cứ ao ớc giá mình viết đợc một mẩu chuyện đăng báo thì thú vị biết
mấy! Thế là em hì hục tập viết.
- ý 2 : Mẩu chuyện đầu tiên em kể về bạn Hoàng nhặt đợc của rơi nhng
đem trả ngời đánh mất. Gửi bài đi rồi, em thấp thỏm chờ đợi. Lâu quá không
thấy báo đăng, em lại viết tiếp mẩu chuyện thứ hai kể về tấm gơng bạn Hiền vợt
khó, học giỏi. Chờ mãi báo cũng không đăng
- ý 3 : Rất lâu sau, em lại cầm bút, lại tiếp tục viết. Lần này em viết về tình
cảm của mình đối với bạn Hải. Mẹ bạn Hải chẳng may mất sớm. Có lẽ vì thế
nên đôi mắt bạn Hải lúc nào cũng ngơ ngác buồn. Kết quả học tập của Hải cũng
thất thờng. Có những buổi chiều em sang chơi thì thấy bạn cứ ngồi im lặng ở
cửa nh đang ngóng đợi một ai đó. Em hỏi, bạn khẽ trả lời. Tớ đợi bố tớ. Bố
bạn Hải thờng về muộn và ngày càng về muộn. Có khi đến đêm mới về. Em

8


hỏi mẹ: Sao bố bạn Hải hay về muộn thế mẹ nhỉ?. Mẹ ôm em vào lòng, thở
dài : Bạn ấy có lẽ sắp có mẹ kế, con ạ!. Em ôm chặt cổ mẹ, thì thào trong nỗi
lo lắng, mơ hồ không hiểu từ đâu dấy lên :
- Mẹ ơi! Mẹ đừng ốm, mẹ nhé!
Hình nh mẹ cũng khóc.
- ý 4 : Ba tuần sau, em đợc tin có bài đăng báo. Tiết sinh hoạt, cô giáo đọc
mẩu chuyện của em đợc đăng trên báo Thiếu niên Tiền phong cho các bạn cùng
nghe. Cả lớp hớng ánh mắt về phía Hải. Tất cả đều có chung một ý nghĩ : Phải
giúp đỡ bạn Hải học tập tốt hơn.
- ý 5 : Thế là em đã đạt đợc ớc mơ. Nhng lớn hơn cả ớc mơ là em cảm thấy
mình đã lớn, làm đợc một việc có ích để bài tỏ tình cảm chân thành đối với bạn
Hải.

* Đề 4 (hoặc 4b)
- ý 1 : Có một nhà văn đã viết : Một mảng kỷ niệm lớn của đứa trẻ là
món ăn - đặc biệt là cái thứ mà ngời dân Bắc gọi là quà bánhGọi là món
ăn, nhng thực chất là món ăn tinh thần. Bởi ngời ta ăn ngon chủ yếu là do kỷ
niệm. Những món ăn thủa nhỏ là những thứ ngon nhất còn lại cả đời ngời.
Điều đó quả thật rất đúng với tôi.
- ý 2 : Các bạn tôi ai cũng thích ăn quà, mỗi đứa thích một kiểu. Riêng tôi
rất thích ô mai gừng. ôi những quả ô mai nâu, mềm nằm cùng những miếng
gừng đã đợc nghiền nhỏ mới hấp dẫn làm sau. Vai đeo cặp, đi bộ trên đờng tới
trờng hay tan học trở về nhà có ô mai gừng làm bạn, đờng đi nh ngắn lại.
- ý 3 : Cảm giác khi quả ô mai vào miệng rồi, không thể diễn tả hết cái
ngon của nó: Vừa chua, vừa ngọt, vừa cay, vừa thơm. Thích nữa là khi nhìn bọn
bạn tôi, mắt chúng sáng rực lên khi tôi xoè gói ô mai . Mỗi đứa nhón một quả,
có đứa lại chỉ thích tí gừng, vừa ăn vừa chèm chẹp miệng ngon ngon, thơm
thơm
- ý 4 : Tôi thờng tiết kiệm tiền quà sáng để dành mua ô mai gừng. Năm
trăm, một nghìn, chỉ thế thôi là chúng tôi lại có ô mai. Kỷ niệm và tình bạn gắn

9


liền với món quà học sinh giản dị mà cảm giác ngon của nó lu lại cả đời ngời
Bớc 2 : Hớng dẫn tập nói trên lớp :
- Giáo viên dựa vào gợi ý A, B trong bớc 1, yêu cầu 4 đại diện của 4 nhóm
lên trình bày bài nói của mình, các bạn bổ sung, góp ý. (ớc lợng thời gian để gọi
số học sinh khác tham gia nói).
- Giáo viên chốt :
1) Muốn ngời nghe hiểu thì ngời nói phải lập ý và trình bày theo thứ tự ý1,
ý2, ý 3. ý 4, ý 5
2) Muốn truyền đợc cảm xúc cho ngời nghe thì :

- Tình cảm phải chân thành.
- Từ ngữ phải chính xác, trong sáng.
- Bài nói phải mạch lạc và đảm bảo tính liên kết chặt chẽ.
Bớc 3 : Hớng dẫn luyện tập ở nhà:
- Học sinh chọn 1 trong 4 đề viết thành bài văn hoàn chỉnh.
* Lu ý khi thực hiện (đối với giáo viên).
- Tiết luỵên nói thực chất là tiết luyện tập về tạo lập văn bản với mục tiêu
chính là rèn luyện kỹ năng nói theo chủ đề. Vì vậy, giáo viên cần có bớc luyện
tập bằng văn bản mẫu. Từ văn bản mẫu (nói hoặc viết) học sinh sẽ đợc truyền
hứng thú và có định hớng để thực hiện bài văn nói hoặc viết. Đó cũng là mục
đích cuối cùng của dạy học Tập làm văn. Quá trình này đợc thể hiện trên sơ đồ
sau :
Đề bài
Văn bản mẫu
Cách thức luyện tập

Dàn bài
Dàn bài
Bớc bắt buộc

10

Văn bản sáng tạo
Văn bản sáng tạo
Mục đích dạy học tập làm văn


* Chú thích : Mũi tên hai chiều biểu thị mối quan hệ tơng tác giữa quá
trình luyện tập và kết quả luyện tập.
2.2 Rèn qua các tiết học ngữ văn (không phải tiết luyện nói) trong chơng trình

:
Với mục đích nâng cao tính ứng dụng trong quá trình học tập môn Ngữ văn
trong nhà trờng, nhằm giúp học sinh có thể nói và giao tiếp tốt, việc luyện nói
cho học sinh cần đợc tiến hành thờng xuyên trong các giờ học Ngữ văn và phải
đợc rèn luyện kết hợp với các kỹ năng khác. Hiệu quả của việc luyện nói sẽ cao
hơn nếu giáo viên quan tâm hơn tới việc luyện nói cho học sinh mỗi khi các em
có điều kiện phát biểu miệng trong các giờ học.
a) Rèn cho các em phải suy nghĩ kỹ trớc khi nói, nói đúng vấn đề cần trao
đổi, khi nói cần bình tĩnh, tự tin, nói theo đúng nghi thức và tuân thủ các nguyên
tắc hội thoại, biết vận dụng các yếu tố phi ngôn ngữ để lời nói thêm thuyết
phục
b) Giáo viên chú trọng tạo điều kiện cho học sinh đợc bộc lộ những suy
nghĩ cá nhân, biết chấp nhận có phê phán ý kiến của cá nhân học sinh đồng thời
với việc rèn luyện năng lực nói và trình bày lu loát, diễn cảm những suy nghĩ,
tình cảm của các em. Các câu hỏi đặt ra có ngữ cảnh giao tiếp cụ thể, đợc đặt
trong những tình huống có vấn đề để kích thích đợc t duy và sự phản xạ
nhanh chóng của học sinh, giúp học sinh có thể trả lời ngắn gọn và sử dụng
những biện pháp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ thích hợp.
c) Cần tạo cho học sinh tự tin, khuyến khích cho học sinh bộc lộ những suy
nghĩ của mình trong việc phát biểu, thảo luận ngay cả khi ý kiến đó là sai hoặc
cha hoàn toàn chính xác. Khi đánh giá việc trình bày miệng của học sinh, bên
cạnh việc cho điểm cần lu ý sử cho học sinh những lỗi cần tránh trong nói tiếng
Việt về chính âm và hớng dẫn các em nói diễn cảm, ngắn gọn, súc tích, hấp dẫn
ngời nghe

11


* Lu ý khi thực hiện :
- Hình thức tổ chức cho học sinh hoạt động để phát triển kỹ năng nói trong

các giờ học Ngữ văn có thể kết hợp rất hiệu quả với việc tổ chức học sinh thảo
luận nhóm. Bởi vì mục đích cuối cùng của hai hoạt động này là học sinh có thể
trình bày miệng (cũng có thể là trình bày vào phiếu học tập ở các hoạt động thảo
luận) những yêu cầu tìm hiểu bài học, kiến thức mà giáo viên đa ra.
- Để thực hiện có hiệu quả việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trong
các giờ học Ngữ văn, giáo viên phải có hệ thống câu hỏi đa dạng kích thích học
sinh muốn nói và tham gia nói. (phát biểu miệng). Ví dụ :
Đa dạng hoá các câu hỏi bằng các câu hỏi đóng và câu hỏi mở :
- Câu hỏi đóng chỉ có một câu trả lời đúng và thờng rất ngắn.
VD : Em nào phát hiện từ ngữ có tác dụng liên kết đoạn văn trong đoạn
trích sau:
Hai bên đánh nhau ròng rã mấy tháng trời, cuối cùng thì Sơn Tinh
vững vàng mà sức Thuỷ Tinh thì đã kiệt. Thần nớc đành phảI rút quân. Từ
đó oán nặng, thù sâu, hàng năm, Thuỷ Tinh làm ma gió, bão lụt dâng nớc
lên đánh Sơn Tinh.
- Câu hỏi mở khiến học sinh phải suy nghĩ nhiều và câu trả lời thờng dài,
nó thể hiện rõ hơn mức độ hiểu bài của học sinh.
VD. Câu in đậm trong phần trích sau có tác dụng liên kết đoạn văn nh thế
nào?
Chị tính xem em nên đi học hay đi bộ đội?- Nó nhìn tôi không chớp mắt.
Thật khó trả lời. Lâu nay tôi vẫn là ngời chị khuyên bảo lời hay lẽ phải.
Bây giờ phải nói với nói ra sao? Đi bộ đội hay đi học
Câu hỏi này yêu cầu học sinh suy nghĩ nhiều hơn và có câu trả lời diễn giải
sự hiểu biết của mình.
* Một số cấp độ của câu hỏi (Kích thích học sinh nói)
1. Câu hỏi gợi nhớ kiến thức
2. Câu hỏi yêu cầu quan sát

12



3. Câu hỏi gợi mở.
4. Câu hỏi suy đoán.
5. Câu hỏi đánh giá.
6. Câu hỏi giải quyết vấn đề.
IV. kết quả thể nghiệm :
Luyện nói trong dạy học Ngữ văn là giúp học sinh có thói quen nói trong
những môi trờng giao tiếp khác nhau. Nói đợc thực hiện một cách hệ thống,
theo những chủ đề nhất định, gắn với những vấn đề quen thuộc trong cuộc sống
hàng ngày, đảm bảo những yêu cầu cơ bản về ngôn ngữ và phi ngôn ngữ (lời,
mạch lạc, liên kết, các nghi thức nói, các quy tắc hội thoại, cử chỉ, nét mặt, âm
lợng, sức hấp dẫn). Luyện nói tốt sẽ giúp ngời học có đợc một công cụ giao
tiếp hiệu quả trong cuộc sống - xã hội.
Qua hoạt động rèn luyện kỹ năng nói còn giáo dục cho học sinh những
phẩm chất nh : hoạt động có chủ đích trong các giờ học, sự đòi hỏi ở bản thân
mình.
Tôi đã thể nghiệm cách làm này với loạt học sinh lớp 6 mới vào năm học
2004 - 2005, đến nay khoá HS này đã lên lớp 7. Kết quả so với loạt học sinh tr ớc (năm nay là lớp 8, 9) có cải thiện hơn hẳn. Mặc dù kém các anh chị lớp 8, 9
từ 1-2 tuổi, nhng các em học sinh lớp 6, 7 đã có kỹ năng nói tốt, nhất là khi trình
bày trớc tập thể khi đa ra ý kiến của cá nhân hoặc nói theo đề cơng đã chuẩn bị.
Khi dự giờ các buổi học tiết luyện nói thì kết quả này thể hiện rõ nhất.
KQ
Lớp, sĩ số

Mức độ tích cực tham

Mức độ không tích cực tham

gia nói và nói tốt


gia nói và nói cha tốt

SL

%

SL

%

7A (45)

35

78%

10

22%

8A (45)

20

44,4%

25

55,6%


13


C. Kết luận
Kỹ năng nói liên quan mật thiết với việc hình thành và phát triển các kỹ
năng nghe, nói, đọc, viết. Nói tốt không chỉ góp phần rèn luyện t duy mà còn
giúp viết tốt. Muốn nói và viết tốt, ngời nói phải có kỹ năng tiếp nhận thông tin
(nghe, đọc và quan sát tốt). Những kỹ năng này luôn đi cùng nhau, hỗ trợ cho
nhau, không thể tách rời. Nếu yếu một trong bốn kỹ năng thì cũng sẽ hạn chế sự
phát triển các kỹ năng còn lại. Vì vậy ngời giáo viên dạy ngữ văn phải điều
chỉnh để cả bốn kỹ năng đồng thời đợc rèn luyện nhất là kỹ năng nói, xa nay
vẫn đợc xem nhẹ trong quá trình giảng dạy cho học sinh.
Chơng trình Ngữ văn THCS theo nội dung mới chú trọng đến cả hai mặt lý
thuyết và thực hành ứng dụng. Vậy làm thế nào để giáo viên có phơng pháp
giảng dạy hiệu quả đáp ứng đợc yêu cầu của SGK và của ngành, tôi kính mong
Phòng Giáo dục và Nhà trờng tổ chức thờng xuyên các chuyên đề về phơng
pháp giảng dạy để giáo viên có dịp dự giờ, rút kinh nghiệm.
Với mục đích nâng cao tính ứng dụng của môn học Ngữ văn vào việc giao
tiếp, tôi rất mong muốn và biết ơn những ý kiến đóng góp, xây dựng của các
thày, cô, bạn bè đồng nghiệp để đề tài đợc hoàn thiện và có hiệu quả thiết thực,
góp phần nâng cao chất lợng giảng dạy trong những năm học tới.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!

14



×