Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận mẫu Đề tài: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN HỖ TRỢ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ GẶP PHẢI CỦA TRẺ EM CÓ ẢNH HƯỞNG BỞI HIVAIDS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.76 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA CÔNG TÁC XÃ HỘI

BÀI TẬP ĐIỀU KIỆN
TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC CÔNG TÁC XÃ HỘI
Đề tài:
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN HỖ TRỢ GIẢI QUYẾT
VẤN ĐỀ GẶP PHẢI CỦA TRẺ EM CÓ ẢNH HƯỞNG BỞI HIV/AIDS
TẠI XÃ ...........
Học viên thực hiện:
Lớp Đại học CTXH khóa ...........
Hệ đào tạo: Vừa học vừa làm

............. - 2015


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
HIV/AIDS là một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay trong đó Việt Nam. Tỷ lệ người
nhiễm HIV/AIDS không ngừng tăng lên. Công tác chăm sóc trợ giúp những cá nhân gia đình
trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS vượt qua mặc cảm và hòa nhập với cộng đồng là một
trong những nhiệm vụ quan trọng của cán bộ xã hội. Tuy nhiên hiện nay công tác xã hội
chuyên nghiệp chưa được phát triển ở Việt Nam nên những nhân viên xã hội còn hạn chế về
kiến thức và kỹ năng. Điều này đã làm ảnh hưởng phần nào chất lượng chăm sóc trợ giúp trẻ
em nói riêng và người nhiễm HIV và ảnh hưởng bởi HIV/AIDS nói chung. Nhằm cung cấp
nguồn lực, nhân viên xã hội cần có năng lực chuyên môn chăm sóc trợ giúp trẻ có HIV. Đây
là điều quan trọng để tôi làm đề tài này.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
-


Đi sâu tìm hiểu về đời sống nội tâm , đặc điểm tâm lý, nguyện vọng mong muốn của

các trẻ em có HIV tại xã Hồng Đức qua đó có các cách thức tác động, biện pháp trợ giúp
các em.
- Thông qua đề tài này mong muốn của tôi muốn giúp cho mọi người dân trong cộng
đồng có thái độ, cách nhìn nhận đúng đắn hơn về căn bệnh HIV, tránh thái độ xa lánh kì thị
với các em nhiễm HIV, tạo điều kiện cho các em được học tập vui chơi giải trí, hòa nhập xã
hội.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Chỉ ra cái nhìn tổng quan về HIV/AIDS
- Chỉ ra đặc điểm tâm lý chung của trẻ có HIV/AIDS
- Đưa ra các chương trình HIV/AIDS hiện nay
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu: Trẻ có HIV/AIDS

-

Phạm vi nghiên cứu: Tại xã …………………
I. KHÁI QUÁT CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
1.1. Khái niệm, đặc trưng của Công tác xã hội cá nhân
Khái niệm

2


Việc hoàn thiện, phátt triển lý luận và thực tiễn của Công tác xã hội cá nhân đã trải
qua một quá trình lâu dài từ nửa sau thế kỷ XIX. Cho đến nay đã có nhiều các định nghĩa,
nhiều quan điểm về Công tác xã hội với cá nhân.

Theo Ms Helene Mathew: Công tác xã hội cá nhân là phương pháp giúp đỡ cá nhân
thong qua mối quan hệ một – một. Phương pháp này được nhân viên xã hội ở các cơ sở xã
hội sử dụng để giúp đỡ cá nhân có vấn đề về chức năng xã hội cũng như việc thực hiện chức
năng xã hội của họ.
Theo Ms. Derlman: Công tác xã hội cá nhân là một tiến trình được các cơ quan lo
lắng về an sinh cho con người sử dụng để cá nhân đối phó hữu hiệu hơn với các vấn đề
thuộc chức năng của họ.
Theo Lê Chí An: Công tác xã hội cá nhân là phương pháp giải quyết các trường hợp
cá nhân và gia đình có vấn đề khó khăn trên cơ sở giúp họ thoat khỏi hoàn cảnh bằng chính
năng lực, sức lực của họ.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển, chúng ta có thể đưa ra một định nghĩa cề Công tác
xã hội cá nhân như sau:
Công tác xã hội cá nhân là quá trình và là một phương pháp tác động đến cá nhân có
vấn đề xã hội (bị mất hoặc yếu về chức năng xã hội), giúp cá nhân tự nhận ra vấn đề của bản
than, củng cố, khôi phục và phát huy năng lực của bản thân để có thể tự giải quyết được vấn
đề gặp phải của mình trong tình huống, nghĩa là giải quyết vấn đề cá nhân trong mối quan hệ
tương tác với môi trường xã hội của cá nhân đó.
Đặc trưng của công tác xã hội cá nhân
+ Công tác xã hội với cá nhân không phải là một hoạt động , một tác động nhất thời
mà phải là một quá trình. Quá trình này bắt đầu từ việc tiếp cận đối tượng (thân chủ), nhận
diện vấn đề cho đến việc thu thập thông tin, chuẩn đoán, lên kế hoạch trị liệu, lượng giá và
cuối cùng kết thúc khi đã đạt được mục đích đặt ra.
+ Công tác xã hội với cá nhân là một phương pháp công tác xã hội bao gồm nhiều
phương pháp, kỹ năng cụ thể, có sự kết hợp linh hoạt, rộng rãi với các lĩnh vực khác nhau
(hệ thống tri thức của các khoa học khác, hệ thống chính sách, các kinh nghiệm của nhân
viên xã hội và của đối tượng…)
+ Khi tiến hành công tác xã hội với cá nhân cần phải đặt cá nhân trong mối quan hệ
tương tác với các cá nhân khác, với điều kiện kinh tế - xã hội, môi trường xã hội mà cá nhân
đang sinh sống. Phương pháp công tác xã hội với cá nhân tác động tập trung vào các mối


3


quan hệ về tâm lý xã hội, bối cảnh xã hội mà ở đó vấn đề của thân chủ đang diễn ra và bị
ảnh hưởng, chi phối.
+ Điều cốt lõi và mục đích cao nhất của phương pháp công tác xã hội cá nhân là giúp
cá nhân tự nhận ra, mong muốn và tự giải quyết được vấn đề của mình. Quan điểm hành
động trong công tác xã hội với cá nhân là “đối tượng là chuyên gia trong việc giải quyết
những vấn đề của chính mình”. Để làm được điều này phụ thuộc rất lớn vào vai trò của nhân
viên xã hội vì thân chủ là người trong tình huống thường không sang suốt, thiếu bản lĩnh,
thiếu tự tin hoặc hành động liều lĩnh, vội vàng.
1.2. Đối tượng tác nghiệp của CTXH cá nhân
Đối tượng tác động của phương pháp CTXH cá nhân là những cá nhân hoặc gia đình
có vấn đề xã hội. Đây là những người có hoàn cảnh khó khăn, gặp phải rủi ro, bất hạnh trong
cuộc sống, bị yếu thế trước xã hội; những người nghèo đói, thất nghiệp; người bị khuyết tật;
NCT, người cô đơn; trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa, sống lang thang, bị ngược đãi, bị
lạm dụng tình dục, lạm dụng sức khoẻ, bóc lột sức lao động; phụ nữ bị bạo hành, bất bình
đẳng trong gia đình và xã hội; người bị nhiễm các dịch bệnh hiểm nghèo; người nghiện ma
tuý, hành nghề mại dâm, tội phạm xã hội,… Các cá nhân có vấn đề trở thành thân chủ của
tham vấn khi họ luôn cảm thấy không hài lòng trong một mối quan hệ, một sự kiện nào đó,
luôn gây bất bình cho những người xung quanh, ở họ xuất hiện những cá tính hiếm thấy, có
những hành động không xảy ra trong tiền lệ, cảm thấy buồn chán, lo âu, căng thẳng, đau
khổ, sợ hãi,… lặp đi lặp lại, nói nhiều, nói lảm nhảm, biểu hiện phi lý trong nhận thức cá
nhân, thể hiện trong hoạt động mà người khác thấy không bình thường, khó thích nghi hoặc
không thích nghi, hay luôn luôn hành động theo cách có ảnh hưởng đến mục tiêu hoạt động
của mình, hoạt động của những người xung quanh.
Trong CTXH cá nhân, đó là mối quan hệ một - một (NVXH – thân chủ), được thể
hiện trong cả tiến trình làm việc, trợ giúp thân chủ. Phát huy nội lực, kết hợp nguồn lực bên
ngoài trợ giúp cá nhân hòa nhập cộng đồng vươn lên phát triển - sự thành công của CTXH
cá nhân.

Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng CTXH cá nhân là phương pháp tác động hai
chiều, trong đó NVXH đóng vai trò định hướng, giúp phát huy năng lực của thân chủ, còn
thân chủ là đối tượng, là trung tâm của quá trình tác động, chuyển biến thay đổi tình trạng

4


yếu kém năng lực xã hội trở thành chủ thể tích cực của việc giải quyết vấn đề của bản thân
mình.
1.3. Nguyên tắc cơ bản trong CTXH cá nhân
-

Nguyên tắc cá biệt hóa đối tượng
Mỗi thân chủ phải được hiểu như một cá nhân độc nhất, với cá tính riêng biệt và

không phải là cá nhân của một đám đông. Con người không phải được sinh ra trong một
đám đông cũng không chết trong một đám đông trừ khi có tai họa.
-

Nguyên tắc chấp nhận thân chủ
NVXH chấp nhận thân chủ với mọi phẩm chất tốt, xấu của người ấy, những điểm

mạnh và những điểm yếu, không xem xét đến hành vi của anh ta. Nền tảng của nguyên tắc
này là giả định triết học cho rằng mỗi cá nhân có giá trị bẩm sinh, không kể đến địa vị xã hội
hoặc hành vi của họ. Thân chủ được quyền lưu ý và thừa nhận là một con người dù anh ta có
phạm tội. Chấp nhận không có nghĩa là tha thứ cho hành vi mà xã hội không thể chấp nhận,
mà có nghĩa là sự quan tâm và thiện chí hướng về con người ẩn sau hành vi.
-

Không phê phán và không kết án

Điều này có nghĩa là không tỏ vẻ bất bình với thân chủ, không đổ lỗi bằng cách tranh

luận về nguyên nhân – kết quả hoặc đưa ra lời phê phán cho rằng người đó đáng bị trừng
phạt vì hành vi của họ. Thuật ngữ kết án một cá nhân và thái độ xem thường người khác là
không được chấp nhận trong CTXH. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là NVXH biện hộ,
chạy tội cho phạm nhân. Khi NVXH nói chuyện và đối xử với cung cách như thế thì thân chỉ
thấy họ được chấp nhận hoàn toàn và thân chủ sẽ bộc lộ vấn đề của họ.
-

Tôn trọng quyền tự quyết của thân chủ
Nguyên tác này cho rằng cá nhân có quyền tự quyết định những vấn đề thuộc về cuộc

đời họ và người khác không có quyền áp đặt quyết định lên họ. Trong CTXH cá nhân,
NVXH không ra quyết định, lựa chọn hay vạch kế hoạch cho thân chủ. Tuy nhiên, thân chủ
có thể được hướng dẫn và giúp đỡ để đưa ra quyết định riêng.
Sự tự quyết, cũng như sự tự do, có những giới hạn riêng của nó. Đó không phải là
một quyền tuyệt đối. Quyết định mà thân chủ đưa ra phải nằm trong phạm vi quy định của
xã hội, kết quả của quyết định đó không gây tổn hại đến bản thân và người khác. Hơn nữa,
hành vi tự quyết định phải thuộc những chuẩn mực hành vi mà xã hội có thể chấp nhận
được. Điều này cũng có ý nghĩa thân chủ phải tự chịu trách nhiệm thực hiện quyết định cũng
như những hậu quả của việc thực hiện quyết định đó.

5


Giá trị của nguyên tắc này thừa nhận thân chủ như họ vốn có. Chấp nhận hay từ chối
một dịch vụ nào đó là do thân chủ quyets định. Trong tiến trình CTXH cá nhân, NVXH thảo
luận và xem xét các phương án, thảo luận kỹ lưởng giúp cân nhắc những khó khăn và thuận
lợi. Quyền tự quyết được xác nhận, được giải thích ở giai đoạn đầu, vào giai đoạn giữa, và
giai đoạn cuối của tiến trình.

NVXH ứng dụng kiến thức, sự hiểu biết và kĩ năng với giả định cơ bản là cá nhân co
nhu cầu, quyền lựa chọn và quyền ra quyết định.
-

Nguyên tắc cùng tham gia giải quyết vấn đề
Tiến trình giúp đỡ và được giúp đỡ không dừng lại ở thời điểm thân chủ ra quyết định

mà nó còn tiến xa hơn hơn nữa nhờ những kế hoạch được theo đuổi và những hành động
được thực hiện. Vì vậy theo nguyên tắc này, thân chủ trở thành diễn viên chính trong việc
theo đuổi kế hoạch và thực hiện hành động, NVXH là người tạo thuận lợi.
-

Giữ bí mật
NVXH phải có nhiệm vụ giữ bí mật những thông tin thu nhận được từ thân chủ, chỉ

trong những trường hợp thân chủ cho phép thì NVXH mới tiết lộ thông tin với người thứ ba
(thành viên trong gia đình hoặc chuyên gia khác…)
-

Sự can dự có kiểm soát
NVXH khởi đầu mối quan hệ với thân chủ, biểu thị bằng sự chấp nhận và sự khẳng

định, mối quan hệ được xây dựng thông qua xúc cảm của nhân viên xã hội. Sự xúc cảm
được cần đến mức mà NVXH cảm nhận được mức độ xúc cảm của thân chủ và nhìn tình thế
như người ấy nhìn nó. Tuy nhiên, NVXH phải có cái nhìn khách quan để khỏi mù quáng bởi
cảm xúc quá độ về tình huống của thân chủ. NVXH có thể giúp thân chủ nhìn vấn đề của
người ấy một cách khách quan, tích cực và vạch kế hoạch một cách thực tế.
1.4. Tiến trình CTXH cá nhân
a.Khái niệm tiến trình CTXH cá nhân
Tiến trình là những bước công việc cần làm trong một khoảng thời gian nhất định.

Khi giúp đỡ một cá nhân, NVXHthực hiện những bước đi trong một tiến trình gọi là tiến
trình giải quyết vấn đề hay tiến trình giúp đỡ.
b. Các giai đoạn của tiến trình CTXH cá nhân
Gồm có 7 giai đoạn:
(1) Tiếp nhận thân chủ
(2) Nhận diện vấn đề

6


(3) Thu thập thông tin
(4) Đánh giá chuẩn đoán
(5) Lên kế hoạch giải quyết vấn đề
(6) Thực hiện kế hoạch
(7) Lượng giá
Giai đoạn 1: Tiếp nhận thân chủ
Đây là bước đầu tiên, quan trọng, tạo tiền đề và có ý nghĩa rất lớn đến sự thành công
của CTXH với cá nhân đối với từng trường hợp cụ thể. Ngay từ bước thứ nhất - tiếp cận
thân chủ, NVXH phải cố gắng thiết lập được mối quan hệ dựa trên sự tin tưởng và hợp tác
với thân chủ.
Giai đoạn 2: Nhận diện vấn đề
Việc nhận diện vấn đề của thân chủ là một việc không hề đơn giản. Việc nhận diện
vấn đề đúng vấn đề gặp phải của thân chủ, xác định chính xác nguồn gốc làm nảy sinh vấn
đề là cơ sở để NVXH thực hiện các bước tiếp theo, nó liên quan đến khả năng đáp ứng nhu
cầu cũng như huy động sự tham gia của thân chủ vào giải quyết vấn đề. Nhận diện vấn đề
cần trả lời hai câu hỏi:1. Vấn đề hiện tại của thân chủ là gì?2. Ai là thân chủ trọng tâm?
Giai đoạn 3: Thu thập thông tin
Thu thập thông tin và xử lý số liệu là một tập hợp các thao tác kỹ thuật mà NVXH
thực hiện nhằm kiểm chứng tính chính xác rình trạng hiện tại, nguyên nhân, các yếu tố yếu
tố tác động đến thân chủ và vấn đề của thân chủ, từ đó đưa ra sự đánh giá toàn diện về thân

chủ làm cơ sở trực tiếp cho bước tiếp theo trong tiến trình CTXH cá nhân.
Giai đoạn 4: Đánh giá chuẩn đoán
Về cơ bản, việc xác định vấn đề ưu tiên và trọng tâm giải quyết vấn đề là một bước
được thực hiện sau các bước tiếp cận thân chủ, nhận diện vấn đề, thu thập và xử lý thông tin.
Nó là điểm mấu chốt kiểm định lại tính phù hợp, đúng đắn của các bước đồng thời là cơ sở
quyết định đến bước tiếp theo - xây dựng kế hoạch giải quyết vấn đề. Nó cũng chỉ ra cho cả
NVXH và thân chủ thấy rõ được kết quả của sự tương tác, trong việc đánh giá nhu cầu,
nguồn lực, thuận lợi, khó khăn khi giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, trong những trường hợp cụ
thể, bước này có thể được thực hiện sớm hơn, thậm chí là bước đầu tiên, khi gặp và quyết
định giải quyết tình trạng khẩn cấp.
Giai đoạn 5: Lên kế hoạch giải quyết vấn đề

7


Kế hoạch chính là những công việc cụ thể cần thực hiện nhằm đạt các mục tiêu trong
tương lai nhờ việc sử dụng các nguồn lực hiện có và sẵn có một cách hợp lý, hiệu quả.
Giai đoạn 6: Thực hiện kế hoạch
Đây là bước thực hiện hoá các hoạt động cụ thể theo các mục tiêu, giải pháp nhằm
được hỗ trợ cá nhân giải quyết vấn đề dựa trên kế hoạch đã xây dựng. Trong quá trình này,
khi cần thiết NVXH có thể cung cấp một số dịch vụ cụ thể, tham vấn, hỗ trợ, biện hộ… giúp
thân chủ để việc giải quyết vấn đề có hiệu quả cao hơn, kịp thời hơn. NVXH là ngườ định
hướng, trợ giúp cho thân chủ về huy động nguồn lực, cải thiện mối quan hệ xã hội, giúp thân
chủ thay đổi tâm trạng thái độ, hành vi và năng lực giải quyết vấn đề.
Giai đoạn 7: Lượng giá
Đây là sự đo lường, thẩm định đánh giá toàn bộ các quá trình đã thực hiện trong tiến
trình trợ giúp, giải quyết vấn đề đối với thân chủ. Sự lượng giá cuối cùng phải dựa trên sự
lượng giá của từng quá trình đã triển khai những mục tiêu cụ thể. Lượng giá cần có sự tham
gia của cả NVXH và thân chủ nhằm đo lường và thẩm định một cách trung thực, khách quan
các tiến bộ của thân chủ, kết quả của sự tác động, đối chiếu giữa cái đạt được với mục tiêu

đề ra.
1.5. Kỹ năng tác nghiệp cơ bản của Công tác xã hội cá nhân
Khái niệm kỹ năng trong Công tác xã hội cá nhân
Kỹ năng trong Công tác xã hội cá nhân là sức mạnh, sự tiềm ẩn và năng lực. Kỹ năng
trong công tác xã hội cá nhân không phải là một vật hữu hình, có thể cầm nắm mà là hình
ảnh tinh thần và được sử dụng như một thực thể vô hình, phi vật chất.
Không phải tự nhiên mà có kỹ năng, đó là một quá trình tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu
và tích luỹ.
Kỹ năng trong Công tác xã hội cá nhân là sự can dự linh hoạt của nhân viên xã hội
trong tiến trình trợ giúp thân chủ. Thiếu các kỹ năng hay không thành thục các kỹ năng là
một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự thất bại trong mối quan hệ giúp đỡ.
Một số kỹ năng trong Công tác xã hội cá nhân
Kỹ năng quan sát
- Quan sát là gì? Quan sát là chú ý đến những đặc điểm của con người, vật hay tình
huống. Trong tiến trình trợ giúp của công tác xã hội cá nhân, mục đích là sử dụng những dữ
kiện quan sát được thân chủ và hoàn cảnh của thân chủ.

8


Kỹ năng lắng nghe:
Kỹ năng lắng nghe trong Công tác xã hội cá nhân không chỉ đơn thuần là tiếp thu âm
thanh bằng tai mà còn hiểu được ý nghĩa của điều được nói nhất là tiếp nhận được cảm xúc
của con người đang nói. Không chỉ nghe bằng tai mà bằng mắt để nắm bắt cảm xúc của con
người nói qua ngôn ngữ không lời, bằng tim để thấu cảm nghĩa là đặt mình vào vị trí của
người kia và cảm nhận được cảm xúc của họ.
Kỹ năng vấn đàm:
Vấn đàm trong công tác xã hội cá nhân nói đến cuộc gặp gỡ giữa nhân viên xã hội và
thân chủ trong một cuộc nói chuyện mặt đối mặt. Đó không phải là một cuộc nói chuyện tình
cờ ngẫu nhiên mà là một hoạt động nghề nghiệp của nhân viên xã hội, bởi vì cuộc nói

chuyện được hướng tới những mục đích cụ thể hay những mục đích tổng quát. Mục có thể là
một hay nhiều mục đích sau đây:
Phúc trình trường hợp
Phúc trình là sự ghi chép lại của nhân viên xã hội về các diễn biến, hiện tượng, sự
việc, tình huống, kết quả hoạt động tương tác giữa nhân viên xã hội vớit thân chủ và sư
chuyển biến của thân chủ trong quá trình giải quyết vấn đề. Phúc trình được khái quát trên
cơ sở những ghi chép, nhật ký hay nhật trình của quá trình can thiệp, rợ giúp của thân chủ
đối với thân chủ từ khi tiếp nhận ca cho đến khi kết thúc nhưng không phải là ghi chép trực
tiếp qua các cuộc làm việc với thân chủ và các mối quan hệ khác.
Và Một số kỹ năng khác:
Chấp nhận thân chủ, Sự bảo đảm, Kỹ năng tăng cường tài nguyên, Kỹ năng tham vấn
giúp đỡ thân chủ trong Công tác xã hội cá nhân.
II. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ TRẺ EM, TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT
KHÓ KHĂN, TRẺ CÓ HIV/AIDS VÀ CÔNG TÁC CAN THIỆP, GIẢI QUYẾT VẤN
ĐỀ GẶP PHẢI CỦA TRẺ CÓ HIV/AIDS Ở NƯỚC TA
2.1. Khái niệm trẻ em, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nhu cầu của trẻ có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn
Khái niệm trẻ em:
Theo Công ước Quốc tế quyền trẻ em đưa ra khái niệm về trẻ em: trong phạm vi của Công
ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dân dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng
với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hay muộn.

9


Theo Luật của nước Cộng hào Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam số 25/2004/QH11 ngày
15/06/2004 về Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, trẻ em được hiểu là: công dân Việt
Nam dưới 16 tuổi.
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn:
Theo Luật Báo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, thì trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là trẻ em

có hoàn cảnh không bình thường về thể chất hay tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện
quyền cơ bản và hòa nhập với gia đình, cộng đồng.
Nhu cầu của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn:
Nhu cầu về thực hiện các quyền cơ bản của mình, đó là quyền được học tập, vui chơi,
phát tiển bản thân.
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn có nhu cầu hòa nhập gia đình, cộng đồng xã
hội, không có sự phân biệt đối xử.
Các em có nhu cầu về vật chất, đó là nhu cầu thiết yếu hàng ngày. Các em là những
đứa trẻ cần có sự yêu thương quan tâm của gia đình, cộng đồng xã hội. Các em có nhu cầu
tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe: phượng tiện hỗ trợ, thuốc men, khám chữa bệnh…
Như vậy trẻ em nói chung và đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nói
riêng rất cần sự quan tâm giúp đỡ của gia đình, cộng đồng xã hội. Nhân viên xã hội có vai
trò là kết nối nguồn lực trọng việc hỗ trợ, giải quyết vấn đề gặp phải một cách bền vững.
2.2. Trẻ có HIV/AIDS:
2.2.1. Khái niệm và đặc điểm tâm lý của trẻ có HIV/AIDS:
Khái niệm trẻ có HIV/AIDS:
Để hiểu một cách chính xác về trẻ có HIV/AIDS trước tiên chúng ta cấn hiểu
HIV/AIDS là gì?
HIV là gì?
Là viết tắt của cụm từ tiếng anh Human Immunodeficiency virus - virus gây suy giảm
miễn dịch ở người. HIV có 2 tuýp là HIV - 1 và HIV - 2.
AIDS là gì?
Là viết tắt của cụm từ tiếng Anh Acquired Imnume Deficency Syndrome - hội chứng
suy giảm miễn dịch mắc phải hay bệnh liệt kháng là một hội chứng của nhiều bệnh nhiễm
trùng (ví dụ: lao, viêm phổi, nấm) mà người nhiễm HIV mắc phải do hệ miễn dịch của cơ
thể bị tổn thương hoặc bị phá hủy nặng nề. Các bệnh này được gọi là các bệnh nhiễm trùng
cơ hội. AIDS được coi là giai đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV. Tuy nhiên, mỗi người khi

10



mắc AIDS sẽ có những triệu chứng khác nhau, tùy theo loại nhiễm trùng cơ hội mà người đó
mắc phải, và khả năng chống đỡ của hệ miễn dịch mỗi người.
Khái niệm trẻ em có HIV/AIDS được hiểu như thế nào?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm
2004 thì trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được hiểu là trẻ em có hoàn cảnh không bình thường
về thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện quyền cơ bản và hoà nhập với
gia đình, cộng đồng
Trẻ em nhiễm HIV/AIDS: Là trẻ em đã được cơ quan y tế có thẩm quyền kết luận bị
nhiễm HIV/AIDS.
Trẻ em có HIV là những trẻ em bản thân nhiễm HIV/AIDS. Mọi trẻ em dù trong hoàn
cảnh nào đều có quyền được sống và phát triển trong môi trường mà ở đó các em được chăm
sóc, được bảo đảm an toàn và được bảo vệ.
2.2.2. Đặc điểm tâm lý của trẻ có HIV:
Trẻ em có HIV có nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhiều trẻ có HIV đã bị mất cha mẹ do
AIDS hoặc đang phải chăm sóc cha me có HIV/AIDS. Có trẻ vừa sinh ra phát hiện nhiễm
HIV đã bị gia đình bỏ mặc tại các bệnh viện hoặc tại các trung tam xã hội, cổng chùa. Một
số trẻ em có HIV không được quan tâm do gia đình quá nghèo, bản thân cha mẹ cũng mắc
bệnh nặng. Nhìn chung trẻ em có HIV đều có nguy cơ mất cha mẹ, gia đình mất, lai lịch.
Nguồn đảm bảo cuộc sống như: chế độ dinh dưỡng, an toàn trong chăm sóc, hỗ trợ y tế,
giáo dục và chăm sóc tinh thàn cho trẻ rất hạn chế hoặc không có.
Ngay từ khi mới sinh ra, trẻ có HIV thiếu mối quan hệ gắn bó mẹ-con, trẻ không
được ôm ấp, âu yếm, vỗ về nũng nịu tình yêu thương của cha mẹ nên trẻ dễ có cảm giác
không tin tưởng, hẫng hụt, sợ hãi. Người chăm sóc thay thế cha mẹ trẻ do sợ bị lây nhiễm,
thiếu tình yêu thương thực sự với trẻ cũng dễ có những hành động né tránh, chỉ tiếp xúc khi
cần thiết...điều này cũng ảnh hưởng không tốt đến tâm lý của trẻ. Trẻ cảm thấy cô độc, sợ
hãi mặc cảm, một số trẻ rơi vào trạng thái trầm uất, thạm chí đã tự tử.
Trong thực tế, tại các trung tâm nuôi dưỡng Bảo trợ Xã hội đã có rất nhiều nhân viên xã hội
thự lòng yêu thương và chăm sóc trẻ em có HIV/AIDS như con mình. Nhân viên xã hội đã
ôm ấp, vỗ về, âu yếm trẻ ... bằng cả tình thương yêu của người mẹ mặc dù nguy cơ lây

nhiễm rất cao.
Ở lứa tuổi trẻ vị thành niên cố gắng tách rời cha mẹ về mặt tâm lý. Xu hướng vươn
lên muốn làm người lớn, chúng sẵn sàng hành động như người lớn có trách nhiệm, tự suy

11


nghĩ và quyết định cho bản thân và muốn được mọi người tôn trọng. Nhưng khó khăn về
mặt sinh lý, tâm lý xã hội có thể dẫn đến sự khủng hoảng, trẻ trở nên bướng bỉnh khó bảo.
Trẻ nhiễm HIV ở độ tuổi vị thành niên do nhiều nguyên nhân: do thiếu hiểu biết, do dùng
bơm kim tiêm chung khi mắc nghiện ma túy, quan hệ tình dục không an toàn... Theo khảo
sát gần đây số lượng trẻ nhiễm HIV khá lớn, trong đó phần lớn là trẻ lang thang bụi đời
(Theo thống kê của Bộ Y tế, cả nước hiện có khoảng 8500 trẻ em nhiễm HIV, nhiều em là
trẻ lang thang)
Cảm giác sợ hãi bao trùm cuộc sống của các em. Các em sợ không có cơ hội học tập,
học nghề để có việc làm. Các em sợ bị người thân ghét bỏ, xa lánh, xua đuổi. Các em sợ ảnh
hưởng đến cha mẹ và người thân. Các em có cảm giác mặc cảm. Tất cả những cảm xúc đó
khiến cho người có HIV rơi vào trạng thái cô đơn, buồn bã, thu mình lại và không muốn
giao tiếp.
Nếu được sự quan tâm trợ giúp, người có HIV sẽ dần lấy lại cân bằng về tâm trạng.
Họ chấp nhận bệnh và muốn tìm cảnh sống tích cực. Họ bắt đàu tìm kiếm thông tin để chữa
bệnh, tăng cường sức khỏe. Họ muốn làm điều làm điều gì đó có ích cho gia đình, xã hội và
hy vọng về việc kéo dài sự sống, về thuốc điều trị khỏi bệnh.
2.2.3. Nhu cầu của trẻ có HIV:
Một nghiên cứư năm 2004 cho thấy có những dạng trẻ ó HIV: khoảng 20% các em
sẽ bị bệnh nặng trong những năm đầu tiên, các em mất vào 4 tuổi, số 80% còn lại có sự phát
triển HIV chậm hơn.
Trẻ em có HIV/AIDS có nhu cầu tham vấn tâm lý. Các nhà tham vấn cần tham vấn
cho các trẻ có HIV về các vấn đề tâm lý mà trẻ em gặp phải đó là tâm trạng sợ hãi, lo lắng,
sợ chết, khủng hoảng tâmlý...

Trẻ em có HIV/AIDS có nhu cầu cần được ăn uống đầy đủ, được chăm sóc sức khoẻ và y
tế. Chế độ dinh dưỡng và chăm sóc y tế đầy đủ giúp cho có HIV cvhóng lại các căn bệnh
nhiễm khuẩn, làm chậm lại quá trình chuyển sang giai đoạn AIDS.
Trẻ em có HIV phải được sống cùng bố, mẹ, anh, chị, em, người thân... cần được cha
mẹ, người thân chăm sóc, yêu thương quý mến.
Trẻ em HIV không còn người thân cần được đưa vào các cơ sở để nuôi dạy, tổ chức các
hoạt động để giúp trẻ, tạo điều kiện để trẻ hoà nhập cộng đồng.
Trẻ nhiễm HIV cần được tham gia các hoạt động chung, hoà nhập vui chơi với bạn
bẻ, không bị tẩy chay, xa lánh.

12


Trẻ có HIV cần được đến trường để học, phát triển năng lực, trí tuyển. Trẻ cần được học tập
chung với trẻ bình thường khác theo độ tuổi phù hợp.
Với trẻ lớn hơn cần được đào tạo nghề để trẻ có thể tự kiếm sống cho mình.
Trẻ có HIV cần phải được can thiệp để kéo dài cuộc sống của các em bằng các chương trình
dự án.
Ở lứa tuổi vị thành niên, trẻ cần được khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe. Trẻ cần
có chế độ chăm sóc dinh dưỡng phù hợp để chống lại bệnh tật. Trẻ cần trang bị kiến thức
hiểu biết về HIV để biết cách điều trị, giữ gìn sức khỏe và tránh lây nhiễm bệnh cho người
khác. Trẻ cần được yêu thương, đùm bọc, cảm thông chia sẻ của gia đình, người thân và
cộng đồng. Trẻ em cũng cấn được điều giao lưu với nhóm bạn cùng trang lứa để khẳng định
vị trí, giá tị của mình trong nhóm, trong xã hội. Trẻ cần được hoạt động trong môi trường
chung với trẻ bình thường kkhacs, không bị hắt hủi, bị xa lánh, bị kỳ thị. Ở lứa tuổi này , trẻ
cũng cần được học nghề.
Trẻ có HIV/AIDS ở nước ta:
Ở Việt Nam, mặc dù Bộ Y tế chưa có số liệu thống kê đầy đủ về tình hình trẻ em có
HIV/AIDS và trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS nhưng theo bác sĩ Võ Minh Quang – Phụ
trách điều trị HIV/AIDS tại Bệnh viện Nhiệt đới TP. Hồ Chí Minh, mỗi năm Việt Nam có

gần 1.000 ca nhiễm mới là trẻ em. Ở khu vực phía Nam đã có 76.003 trẻ em bị nhiễm, trong
đó TP. Hồ Chí Minh dẫn đầu với hơn 37.500 trẻ.
Đến năm 2012, số người nhiễm HIV ước tính tăng lên khoảng 280.000 người trong
đó có khoảng 5.500 trẻ em (xấp xỉ 2%). [1] Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2008)
Báo cáo lần thứ ba của Việt Nam về theo dõi tình hình thực hiện Tuyên bố Cam kết phòng
chống HIV/AIDS.
Một số ý kiến cho rằng, sở dĩ số trẻ bị nhiễm mới đang có chiều hướng gia tăng và trẻ
hoá bởi thiếu sự quan tâm hoặc các hoạt động phòng chống HIV/AIDS còn mang tính đối
phó. Nguyên Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Michael W.Marine cho rằng: “Đến hôm nay, vấn
đề trẻ mồ côi và trẻ bị tổn thương bởi HIV/AIDS vẫn chưa trở thành một phần chính trong
các cuộc bàn luận về HIV/AIDS ở châu Á. Tôi tin rằng, đây là thời điểm để thay đổi điều đó.
Số trẻ mồ côi và trẻ có thể bị tổn thương sẽ tăng lên, và chúng ta cần triển khai các chương
trình ngay bây giờ để làm giảm mức độ tổn thương của các em đối với HIV/AIDS, cũng như
để đảm bảo rằng trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS được tiếp cận các dịch vụ điều trị, chăm
sóc và hỗ trợ có chất lượng”.

13


2.3. Chăm sóc, can thiệp, hỗ trợ giải quyết vấn đề gặp phải của trẻ có HIV/AIDS là
trách nhiệm của toàn xã hội
2.3.1. Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với trẻ có
HIV/AIDS ở nước ta
Có thể thấy rằng Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm vấn đề về trẻ em. Là nước
đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ
em, việc đưa tinh thần và nội dung của Công ước vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
và luật pháp quốc gia ở nước ta cũng đã được thực hiện có kết quả.
Chúng ta đã ban hành và sửa đổi, bổ sung các đạo luật như Luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em, Luật phổ cập giáo dục tiểu học, Bộ luật lao động, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố
tụng hình sự… trong đó đều quan tâm thích đáng đến xác lập và bảo vệ quyền lợi của trẻ

em. Mặc dù vậy, thực tiễn vẫn xảy ra nhiều vụ việc vi phạm xâm hại đến trẻ em như sử dụng
lao động trẻ em, đối xử tàn bạo và hành hạ trẻ em…. Những sự việc xảy ra phần nhiều là do
hoàn cảnh gia đình, nhận thức của người dân, và có cả lý do từ hạn chế, bất cập trong quản
lý nhà nước ở các địa phương.
Chỉ thị số 54-CT/TW được Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành
ngày 30.11.2005, về tăng cường lãnh đạo trong công tác phòng, chống

/AIDS trong tình hình mới. Chị thị nêu rõ: “Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức
và ý thức trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể xã hội
và của mọi người dân đối với nhiệm vụ lãnh đạo và tham gia công tác phòng, chống
HIV/AIDS”.
Năm 2007, Việt Nam ban hành luật phòng chống HIV AIDS. Theo đánh giá của các
chuyên gia quốc tế tại Việt Nam thì xét về mặt chính sách, trẻ em có HIV đã có được sự đảm
bảo về mặt pháp luật. Ông Scott Damder, chuyên gia về HIV của tổ chức UNICEF ở Việt
Nam nhận xét:
“Liên quan đến vấn đề chính sách thì chính phủ Việt Nam đã phê duyệt một kế hoạch hành
động cho trẻ em bị ảnh hưởng của HIV AIDS. Điều này có nghĩa là hiện đã có một chương
trình hành động mạnh mẽ để đảm bảo cho các em có thể tiếp cận với các hỗ trợ và dịch vụ
điều trị quan trọng cũng như ngăn ngừa việc lây lan của HIV sang trẻ em. Ví dụ như việc
lây truyền từ mẹ sang con. Đồng thời luật cũng đảm bảo trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV AIDS

14


có các quyền được đến trường và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Vì vậy, nếu nói về mặt
pháp luật thì trẻ em Việt Nam đang được đảm bảo tốt.”
Đồng thời luật cũng đảm bảo trẻ em có HIV/AIDS có các quyền được đến trường và các
dịch vụ chăm sóc sức khỏ. Vì vậy, nếu nói về mặt pháp luật thì trẻ em có HIV/AIDS ở Việt
Nam đang được đảm bảo tốt
2.3.2. Chương trình hành động can thiệp, trợ giúp trẻ có HIV/AIDS

Việt Nam có nhiều chương trinhg hành động can thiệp trợ giúp trẻ có HIV/AIDS.
Được sự hỗ trợ của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), từ năm 1993 Việt Nam đã triển khai
Chương trình giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS tại một số quận của Thành phố Hồ
Chí Minh và Hà Nội, và đến nay tình hình lây nhiễm HIV ở các địa bàn được can thiệp đã có
những chuyển biến tích cực.
Giáo sư Chung Á, Tổng biên tập Tạp chí AIDS và cộng đồng, cho biết tại những nơi
thực hiện chương trình, người nghiện ma tuý đã có thêm hiểu biết về nguy cơ lan truyền
HIV do việc sử dụng bơm kim tiêm chung và hiểu hơn về cách phòng tránh lây nhiễm HIV
cho bản thân mình và cho cộng đồng. Những nhóm giáo dục đồng đẳng đầu tiên của Việt
Nam cũng ra đời từ chương trình này.
Ngoài chương trình trên, được sự hỗ trợ của Chính phủ Đức, Việt Nam đã thực hiện dự án
can thiệp tại những điểm nóng về HIV/AIDS như Ninh Bình, Lào Cai, Bình Định, sau đó
mở rộng ra Hà Nội và Quảng Ninh. Nhờ đó, số lượng người nhiễm HIV ở các địa phương
này đã tăng chậm lại.
Cơ quan phòng chống ma tuý của Liên Hợp Quốc cũng đã giúp Việt Nam thực hiện dự án
Can thiệp giảm tác hại của HIV/AIDS tại 5 tỉnh, thành là Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hải
Phòng, Nghệ An và Hà Nội.
Nhận thức rõ mối nguy hiểm của việc lây nhiễm HIV/AIDS, năm 2004 Chính phủ đã
thông qua Chiến lược quốc gia phòng chống AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, trong
đó xác định rõ can thiệp giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm là một trong 9 chương trình hành
động quốc gia.
Hiện nay, Chương trình phòng lây nhiễm từ mẹ sang con đang được thực hiện rất tích
cực trên khắp các tuyến từ trung ương đến quận huyện. Theo đó, tất cả các trường hợp phụ
nữ mang thai bị nhiễm hay phơi nhiễm HIV đều có chế độ chăm sóc, theo dõi và dùng thuốc
theo chỉ định của bác sĩ. Thai phụ bị nhiễm HIV ngoài việc kiểm tra tình hình thai nghén

15


theo định kỳ thì song song đó tình trạng lâm sàng của HIV cũng được kiểm tra chặt chẽ và

tuỳ theo thời điểm sẽ có những phác đồ điều trị khác nhau.
Các bà mẹ đang được điều trị tại các trung tâm HIV về HIV/AIDS sẽ tiếp tục phác đồ
điều trị đó, dùng uống thuốc kháng virut (ARV) cho đến lúc sinh. Còn nếu bà mẹ phát hiện
sớm, sẽ được các bác sĩ chỉ định phác đồ điều trị cho mẹ bắt đầu từ tuần thứ 28, tức là từ
tháng thứ 7. Đến lúc sinh, cũng sẽ được chỉ định thêm thuốc để phòng tránh. Tùy thuộc vào
thời điểm xác định HIV dương tính vào giai đoạn mấy của thai kỳ mà có các chỉ định dự
phòng khác.
Đại diện của Chương trinh phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS (UNAIDS) và Tổ
chức Y tế Thế giới (WHO) trong cuộc họp báo ngày 30/11 nhận định: Sự cam kết chính trị
mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam trong 20 năm ứng phó với HIV vừa qua là một tấm
gương cho các quốc gia khác và là động lực cho những thành tựu đáng kể trong việc mở
rộng các dịch vụ dự phòng, điều trị cho những người sống với HIV.
Như vậy Việt Nam đã có nhiều chương trình hành động can thiệp,trợ giúp người có
HIV/AIDS nói chung và trẻ em có HIV/AIDS nói riêng. Điều này khẳng định một lần nữa
quan điểm của Đảng trong việc trợ giúp các đối tượng yếu thế trong xã hội.
2.3.3. Sự thể hiện và phát huy vai trò của Công tác xã hội – phương pháp can thiệp, hỗ
trợ giải quyết vấn đề chuyên nghiệp đối với nhóm trẻ có HIV/AIDS
Theo Hiệp hội Công tác xã hội thế giới, nhề công tác xã hội chuyên nghiệp là những hoạt
động nhằm tạo ra sự phát triển của xã hội thong qua việc tham gia vào quá trình giải quyết
các vấn đề xã hội, tăng cường năng lực và giải phóng tiềm năng của mỗi cá nhân, gia đình
và cộn đồng. Công tác xã hội giúp cho con người phát triển đầy đủ, hài hòa và đem lại cuộc
sống tốt đẹp hơn cho mọi người dân. Công tác xã hội có vai trò quan trọng trong đời sống xã
hội, bảo vệ quyền con người, nhân phảm, giá trị con người.
Công tác xã hội có vai trò rất lớn trọng trong hỗ trợ giải quyết vấn đề gặp phải của trẻ có
HIV/AIDS. Vai trò này thể hiện ở chỗ: Công tác xã hội đánh giá tình hình của trẻ có
HIV/AIDS, bao gồm cả chính bản thân trẻ có HIV/AIDS và tiềm năng của các mối quan hệ
gia đình của trẻ có HIV/AIDS.
Với phương châm vì sự an toàn của trẻ có HIV/AIDS là điều quan trọng nhất nên trong
một số trường hợp người nhân viên công tác xã hội sẽ thu xếp dịch vụ chăm sóc y tế cho trẻ
có HIV/AIDS. Trẻ có HIV/AIDS là đối tượng khác với trẻ bình thường các em cần có sự hỗ


16


trợ y tế và thuốc ARV theo phác đồ điều trị, có chế độ dinh dưỡng tốt. vì vậy nhân viên xã
hội là người hỗ trợ các dịch vụ y tế cho trẻ có HIV/AIDS bằng cách kết nối nguồn lực.
Nhân viên công tác xã hội có thể can thiệp vào đời sống gia đình, cộng đồng, sử dụng
các phương pháp tham vấn, liệu pháp gai đình và giáo dục về mặt xã hội để họ hiểu được
nhu cầu của trẻ có HIV/AIDS và nâng cao kỹ năng làm cha mẹ và tăng cường khả năng ưng
phó. Nhân viê xã hội có vai trò trong việc tổ chức tuyên truyền, giáo dục xã hội giảm sự
phân biệt kỳ thị với trẻ có HIV/AIDS.
Lĩnh vực tư pháp người chưa thành niên: nhân viên Công tác xã hội được quyề hạn
trong việc cung cấp cho trẻ có HIV/AIDS hỗ trợ tâm lý xã hội trước tòa án, luật pháp.
Nhân viên công tác xã hội có vai trò trong việc nghiên cứu và hoạch định các chính
sách xã hội đối với trẻ có HIV/AIDS cũng như là người điều phối các chương trình hỗ trợ
người có HIV/AIDS nói chung và trẻ em có HIV/AIDS nói riêng.
Một vai trò nữa của công tác xã hội là cung cấp các dịch vụ công tác xã hội nhằm hỗ
trợ các trung tâm chăm sóc và hỗ trợ những người có HIV/ AIDS nói chung và trẻ em có
HIV/AIDS nói riêng.
Đó là tất cả các lĩnh vực mà nhân viên xã hội phối hợp với các ngành và các tổ chức
chính quyền để có thể đáp ứng được các nhu cầu của cá nhân hay tạo sự tạo sự thay đổi sự
kỳ thị của xã hội đối với trẻ có HIV/AIDS.
III. THỰC TRẠNG TRE EM HIV/AIDS VÀ VIỆC HỖ TRỢ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
GẶP PHẢI CỦA TRẺ HIV/AIDS TRÊN ĐỊA BÀN XÃ …………….
3.1 Khái quát chung về địa bàn …
3.2 Điều kiện nâng cao hiệu quả chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ có HIV/AIDS tại
xã…..
Về cơ chế chính sách đối với trẻ có HIV/AIDS và đối với hoạt động chăm sóc, can
thiệp, hỗ trợ giải quyết vấn đề gặp phải của trẻ có HIV/AIDS.
- Thực hiện theo chủ trương đường lối của Đảng và chính sách của nhà nước, xã đã

thực hiện các chương trình dự án dành cho trẻ có HIV/AIDS, quan tâm tới trẻ, tạo điều kiện
cho trẻ học tập vui chơi, thực hiện các quyền cơ bản của trẻ.
- Có sự kêu goi các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân, cộng đồng cùng chung tay hỗ trọ
các trẻ để cho trẻ có HIV/AIDS tại xã được bảm bảo sự chăm sóc về y tế, được điều trị,
được tham thực hiện các quyền một cách tốt nhất.
Chăm sóc y tế, hỗ trợ tâm lý đối với trẻ có HIV/AIDS

17


- Trung tâm không ngừng nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế, hỗ trọ tâm lý cho trẻ.
- Các trẻ có HIV/AIDS tại xã được khám định kỳ, có sự điều chỉnh cho phù hợp với
tình trạng bệnh của các em.
- Nguồn thuốc được các tổ chức tài trợ góp phần quan trọng trong việc duy trì cuộc
sống cho các trẻ.
Cơ sở vật chất và các nguồn lực hỗ trợ, can thiệp giải quyết vấn đề gặp phải của
trẻ có HIV/AIDS.
- Trong những năm qua được sự quan tâm của các cấp các ban ngành, tổ chức, doanh
nghiệp, cá nhân từ thiện, xã đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ của rất nhiều cá nhân, tổ
chức.
- Xã không ngừng nâng cao cơ cở hạ tầng, y tế chăm sóc trẻ một cách tốt nhất. Đồng
thời xã quan tâm tới công tác giáo dục, dạy dỗ các trẻ, có nhà văn hóa. Đây là thuận lợi rất
lớn trong công tác can thiệp trợ giúp giải quyết vân đề cho trẻ có HIV/AIDS.
Sự cần thiết và phát huy vai trò của nhân viên xã hội trong việc tác nghiệp trợ
giúp giải quyết vấn đề gặp phải của trẻ có HIV/AIDS.
- Công tác xã hội đã và đang có vai trò lớn trong việc giải quyết các vấn đề của trẻ có
HIV/AIDS.
- Với đặc thù là trung tâm chăm sóc trẻ có HIV/AIDS, với đối tượng yếu thế nhất
trong xã hội thì sự hiện diện của công tác xã hội là vô cùng quan trọng. Các nhân viên xã hội
là những người trực tiếp tham gia quản lý, hỗ trợ các dịch vụ chăm sóc trẻ, tham vấn cho trẻ

khi trẻ gặp phải vấn đề tâm lý, tìm kiếm và liên kết các nguồn lực trợ giúp trẻ có HIV/AIDS.
- Các cán bộ nhân viên xã hội phải là người tuyên truyền cho cộng đồng xã hội các
kiến thức về HIV/AIDS, con đường lây nhiễm, biện pháp phòng chống lây nhiễm
HIV/AIDS. Đặc biệt các nhân viên xã hội phải làm cho xã hội: cá nhân , cộng đồng thay đổi
thái độ với trẻ có HIV/AIDS, giảm sự phân biệt, kỳ thị với các trẻ.
- Nhân viên xã hội là nhừng người giúp cho các nhà chính sách đưa ra các chính sách
phù hợp với điều kiện đất nước và tình hình thực tế của trẻ em có HIV/AIDS.
- Nhân viên xã hội là người trực tiếp tham gia các chương trình, dự án hỗ trợ người
có HIV/AIDS làm giảm tỷ lệ lây nhiễm HIV, phát huy tính cộng đồng trong việc giải quyết
vấn đề của người có HIV/AIDS.
IV. Vận dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân xây dựng mô hình can thiệp, trợ
giúp chuyên nghiệp giải quyết vấn đề gặp phải của trẻ có HIV/AIDS tại xã

18


4.1. Bối cảnh và lý do lựa chọn thân chủ:
Có thể nói, trong quá trình khảo sát tại xã …………..tôi nhận thấy sự can thiệp và trợ
giúp cho nhóm đối tượng này là việc làm cấp bách nhưng cần phải đảm bảo tính lâu dài và
hiệu quả. Đây cũng chính là điểm yếu hiện nay trong công tác can thiệp trợ giúp trẻ có
HIV/AIDS trên địa bàn xã.
Các em đang sống tại cộng đồng thường rơi vào tình trạng xấu hổ, tự ti về hoàn cảnh
của mình.
Trong quá trình tiến hành nghiên cứu làm cơ sở cho báo cáo này, người nghiên cứu
đã có dịp được làm việc với trẻ có HIV/AIDS.
4.2. Hồ sơ xã hội của thân chủ
Họ và Tên: P.T.T
Tuổi: 12
Giới tính: Nữ
Ngày sinh:12.03.2001

Quê quán:
Nơi ở hiện tại:
Tình trạng sức khỏe thể chất hiện nay: Có virut HIV trong cơ thể - bắt đầu chuyển
sang giai đoạn phát bệnh.
4.3. Những khó khăn (vấn đề mà thân chủ đang gặp phải)
Qua tìm hiểu, thông qua sự chia sẻ của Bà chăm sóc em T thì nhận thấy em T hiện
nay đang bị nhiễm HIV và đang trong thời kì phát bệnh.
Tình trạng sức khỏe của em yếu. Về trí tuệ thì em hoàn toàn bình thường, em đã đến
tuổi được đi học nhưng không có cơ hội tới trường. Cô bé T luôn khép kín, ít giao tiếp với
người lạ, thường chỉ có ông bà và anh chị em trong gia đình với em mới giao tiếp và nói
chuyện với em.
4.4. Tiến trình làm việc với thân chủ
* Tiếp cận và khám phá
Trong quá trình làm việc tại nhà và đã có dịp tiếp xúc thân chủ T. Qua việc tìm hiểu
thông tin ông bà của thân chủ T đã giúp tôi có những thông tin làm cơ sở ban đầu về thân
chủ T. Em T ít cởi mở với những người xung quanh, em chỉ nói chuyện hoặc chơi cùng với
mọi người trong gia đình. Cũng nhờ quá trình này mà bản thân tôi nhận thấy ở thân chủ T có
những điểm mạnh và điểm yếu song song tồn tại như sau:

19


Điểm mạnh
Thân chủ đang được sống trong

Điểm yếu
Bên cạnh những điểm mạnh

điều kiện chăm sóc và điều trị thuốc của thân chủ T thì những điểm yếu
tại nhà.


luôn song song tồn tại bên cạnh em.

Nhận được sự yêu thương

Về sức khỏe: T còn nhỏ tuổi

chăm sóc của ông bà và gia đình và nhưng em đang mang trong mình
sự đùm bọc yêu thương,

virut HIV, sẽ khiến cho sức khỏe của
em ngày một giảm sút nếu em không
có được sự chăm sóc và điều trị cẩn
thận.
Sự thiếu thốn về tình yêu
thương đã khiến em trở nên khép kín,
ít có sự giao lưu với những người lạ.
Đặc biệt là em có cơ chế phòng vệ rất
cao khi tiếp xúc với người lạ.

à Vấn đề chính của thân chủ T hiện nay là sự thiếu hụt về giao tiếp xã hội. Sự tham
gia vào các hoạt động chung, cơ chế phòng vệ và khép kín của em là vấn đề chính, quan
trọng và cần phải được can thiệp và trợ giúp cho em T.
* Đánh giá và lập kế hoạch trợ giúp
Từ quá trình phân tích và tìm hiểu vấn đề của thân chủ tôi nhận thấy để trợ giúp cho
thân chủ cần phải có sự tác động từ nhiều phía trong đó cần tác động trực tiếp tới thân chủ
trong đó phải kể tới chính quyền địa phương, tới những người chăm sóc trực tiếp em T,
người dân địa phương. Từ các nguồn lực ấy sẽ cùng nhau có những hoạt động cụ thể nhằm
hướng cho em T sẽ cùng tham gia vào với các hoạt động cộng đồng.
Lập kế hoạch trợ giúp

-

Sự phối hợp của các đơn vị: Chính quyền địa phương, các ban ngành đoàn thể

trong xã, thôn nơi em sinh sống.
-

Người chăm sóc em.

-

Các tổ đội nhóm sinh viên tình nguyện: Có vai trò tổ chức các hoạt động vui chơi

tập thể thu hút các em tham gia cộng đồng.

20


-

NVXH: Phối hợp với các đơn vị nhằm kết nối các hoạt động. Hướng dẫn thân chủ

tham gia vào các nhóm hoạt động sinh hoạt tập thể. Sử dụng một số kĩ thuật để phân tích
những mong muốn của thân chủ.
-

Bổ sung các thông tin về thân chủ thông qua các anh, chị, em cùng chung sống

với thân chủ.
-


Sự phối hợp với những người dân có nhận thức tiến bộ về vấn đề HIV/AIDS để

có thể tổ chức những buổi hoạt động tại cộng đồng.
Thông qua những thông tin thu được người nghiên cứu cũng chỉ ra vấn đề trọng tâm
cần can thiệp và trợ giúp cho thân chủ :
+ Tăng cường sự giao lưu với những người xung quanh thân chủ: Không chỉ giới hạn
trong số những người chăm sóc trực tiếp cho thân chủ, những anh, chị, em cùng sống với
thân chủ tại địa phương. Để làm được điều này người nghiên cứu đã tiến hành tham vấn cho
Bà của em T. Người trực tiếp chăm sóc và hay trò chuyện với thân chủ T. Bà đã trò chuyện
và chia sẻ những thông tin về thân chủ cho người nghiên cứu những khi người nghiên cứu
không có mặt tại gia đình.
Người nghiên cứu cũng đã là người trực tiếp hỗ trợ cho thân chủ T những thông tin
cần thiết như hướng dẫn cho T những cách sử dụng các dụng cụ trong các hoạt động được tổ
chức. Trò chuyện và dạy chữ cho em T những khi em không thích tham gia vào các hoạt
động chung vì sức khỏe không cho phép. Thông qua các buổi làm việc cá nhân như vậy
người nghiên cứu đã tiến hành động viên, khích lệ và hướng dẫn cho thân chủ T có sự cởi
mở hơn.
* Thực hiện kế hoạch trợ giúp thân chủ
Căn cứ vào thời gian biểu của thân chủ tại xã người nghiên cứu đã có kế hoạch thực
hiện việc can thiệp trợ giúp cho thân chủ thông qua các đơn vị tham gia như đã trình bày ở
trên.
Mục tiêu đầu ra: Thân chủ cởi mở hơn trong giao tiếp với mọi người xung quanh.
Thân chủ tự động tham gia vào các hoạt động tập thể và chia sẻ thông tin cho mọi người
xung quanh. Thân chủ biết quan tâm tới những người mình yêu thương.
Lượng giá và kết thúc
Qua thời gian thực tế với các hoạt động được trợ giúp thân chủ NVXH đã tiến hành
các hoạt động nhằm can thiệp và trợ giúp cho thân chủ T, qua đây người nghiên cứu cũng
tiến hành lượng giá và kết thúc quá trình can thiệp với thân chủ T như sau:


21


• Những mặt đã đạt được.
Về phía thân chủ T.
-

Điều đầu tiên nhận thấy ở thân chủ T chính là sự thay đổi về thái độ đối với

NVXH cũng như với những người xung quanh em. Không còn cảm giác sợ sệt, khép kín so
với những ngày đầu tiên nữa.
-

Sự tiến bộ trong việc chủ động tham gia các hoạt động được tổ chức, biết nghe lời

dạy dỗ của ông bà và anh chị em trong gia đình.
Đánh giá mức độ tham gia hoạt động của thân chủ T
* Về hoạt động trợ giúp
Qua kết quả thu được về sự tiến bộ của thân chủ T, người nghiên cứu xin được đánh
giá một cách khách quan về hạt động trợ giúp qua 4 tuần như sau:
* Về mục tiêu đầu ra:
Thân chủ đã giao tiếp và cởi mở với những người xung quanh. Chủ động giao tiếp
với người lớn, biết cách chia sẻ những thông tin với bà hoặc các anh chị khác.
- Về sự phối hợp giữa các thành phần tham gia: Sự phối hợp chặt chẽ giữa NVXH và
người chăm sóc có sự quan tâm của ban lãnh đạo xã.
- Đã thực hiện việc vận dụng những kĩ năng của CTXH cá nhân trong quá trình làm
việc với thân chủ. Những kĩ năng như đặt câu hỏi, lắng nghe, quan sát là những kĩ năng rất
có ích khi làm việc với thân chủ là trẻ nhỏ lại khép kín.
- Những quy điều đạo đức nghề CTXH cũng được NVXH tôn trọng khi làm việc với
thân chủ T. Là một em bé thiệt thòi về mọi mặt chính vì thế sự tôn trọng thân chủ về tự do cá

nhân là điều mà NVXH đề lên hàng đầu.

22


Kết luận và khuyến nghị.
Trong xu thế toàn cầu nói chung, Việt Nam nói riêng vấn đề HIV/AIDS đang trở thành
một vấn nạn lớn của xã hội. Đại dịch HIV/AIDS ngày càng gia tăng, lan rộng trong các tầng
lớp dân cư,trong khi chưa có thuốc đặc trị căn bệnh này thì nguy cơ lây nhiễm là rất cao.
Hậu quả của HIV/AIDS vô cùng lớn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế xã hội của
mỗi quốc gia. Hiện nay số trẻ nhiễm và chịu ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ngày càng có xu
hướng gia tăng, gây ảnh hưởng lớn đến thế hệ tương lai của quốc gia. Mặc dù trong những
năm qua công tác thực hiện quyền trẻ em với nhiều nhóm đối tượng (trong đó có nhóm trẻ
chịu ảnh hưởng bởi HIV/ AIDS) ở Việt Nam đã được Đảng và nhà nước quan tâm thực hiện
và đạt được nhiều thành tựu đáng kể nhưng nhìn chung còn chưa thật sự hiệu quả. Quyền trẻ
em chưa được đảm bảo. Trẻ chịu ảnh hưởng và nhiễm trong mình căn bệnh thế kỷ
HIV/AIDS ít có cơ hội tiếp cận,được đảm bảo quyền lợi trong y tế, giáo dục, sự kỳ thị của
xã hội với nhóm đối tượng này rất lớn, nhiều trẻ phải sống lang thang bụi đời, nguy cơ xâm
hại cao.
Thông qua việc nghiên cứu tình hình đại dịch HIV trên thế giới nói chung, Việt nam
nói riêng có thể thấy: Vấn đề HIV/AIDS có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội của mỗi
quốc gia. HIV/AIDS có ảnh hưởng tới mọi tầng lớp nhân dân trong đó trẻ em là đối tượng
chịu ảnh hưởng nhiều.
Trẻ chịu ảnh hưởng và nhiễm trong mình căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS ít có cơ hội tiếp
cận,được đảm bảo quyền lợi trong y tế, giáo dục, sự kỳ thị của xã hội với nhóm đối tượng
này rất lớn, nhiều trẻ phải sống lang thang bụi đời, nguy cơ xâm hại cao.
Để nâng cao nhận thức của người dân trong cộng đồng, giúp các trẻ em có HIV/ AIDS có cơ
hội được tiếp cận với các dich vụ và hòa nhập xã hội, nhóm sinh viên chúng tôi xin đưa ra
một số đề xuất khuyến nghị sau:
• Về phía Đảng và nhà nước.

- Đảng và nhà nước cần xây dựng các chính sách, ban hành các văn bản luật liên
quân đến người có HIV nói chung, đặc biệt là trẻ em có HIV nói riêng.
- Trên cơ sở ban hành các văn bản luật liên quan, đưa các văn bản luật vào thực tiễn
xã hội giúp cho người có HIV được hòa nhập xã hội, tiếp cận với các dịch vụ.
• Về phía trung tâm.

23


- Ban lãnh đạo trung tâm cần có kế hoach xây dựng các mô hình vui chơi, học tập
cho trẻ có HIV.
- Cần tích cực đẩy mạnh công tác chăm sóc, giáo dục trẻ có HIV, giúp trẻ có HIV
tại trung tâm được hòa nhập với cộng đồng.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ nhân viên có năng lực, hiểu biết, nhiệt tình yêu trẻ.
• Về phía cộng đồng.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, truyền thông nâng cao nhận thức cho cộng đồng
về HIV và người có HIV, trẻ em có HIV.
- Tạo môi trường học tập, vui chơi lành mạnh giúp trẻ em có HIV hòa nhập xã hội,
cảm nhận được tình thương yêu từ phía cộng đồng.
• Về phía nhân viên xã hội.
- Cần tích cực nâng cao kiến thức về HIV và các vấn đề liên quan đến người có
HIV nói chung và trẻ em có HIV nói riêng.
- Tích cực rèn luyện các kỹ năng khi làm việc với trẻ em có HIV.
- Huy động các nguồn lực từ phía cộng đồng, cơ quan tổ chức xã hội tạo điều kiện
cho trẻ em có HIV hòa nhập xã hội như các trẻ em bình thường khác: Được học tập,
vui chơi, tiếp cận với các dịch vụ y tế...

24




×