Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ LUÂN CHUYỂN cán bộ THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG vụ HUYỆN ủy QUẢN lý ở TỈNH sóc TRĂNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.51 MB, 109 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN LUÂN CHUYỂN CÁN BỘ DIỆN
BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY QUẢN LÝ Ở
TỈNH SÓC TRĂNG
1.1. Cán bộ diện Ban Thường vụ huyện ủy quản lý và

10

những vấn đề cơ bản luân chuyển cán bộ diện Ban
Thường vụ huyện ủy quản lý ở tỉnh Sóc Trăng
1.2 Thực trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm luân chuyển

10

cán bộ diện Ban thường vụ huyện ủy quản lý ở tỉnh
Sóc Trăng
Chương 2. YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

35

TĂNG CƯỜNG LUÂN CHUYỂN CÁN BỘ DIỆN
BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY QUẢN LÝ Ở
TỈNH SÓC TRĂNG HIỆN NAY
2.1. Những nhân tố tác động và yêu cầu tăng cường luân


57

chuyển cán bộ diện Ban thường vụ huyện ủy quản lý ở
tỉnh Sóc Trăng hiện nay
2.2. Những giải pháp chủ yếu tăng cường luân chuyển

57

cán bộ diện Ban Thường vụ huyện ủy quản lý ở
tỉnh Sóc Trăng hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

69
91
93
98


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”,
“Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Công tác cán
bộ là nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Nghị quyết Hội nghị
lần thứ ba BCH Trung ương Đảng khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước chỉ rõ: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại
của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là
khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”.
Trong công tác cán bộ, luân chuyển cán bộ là khâu quan trọng góp phần

sắp xếp cán bộ hợp lý hơn, từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các
cấp, qua đó góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cấp ủy, tổ
chức đảng, hiệu lực quản lý của chính quyền các cấp. Mục đích của luân chuyển
cán bộ là nhằm tạo bước đột phá, góp phần đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ;
tạo điều kiện để đào tạo, rèn luyện, thử thách cán bộ ở những địa bàn, lĩnh vực
công tác mà cán bộ cần tích lũy kinh nghiệm, nâng cao bản lĩnh công tác cho
chức danh đương nhiệm hoặc chức danh sẽ đảm nhiệm sau luân chuyển theo quy
hoạch; đồng thời giúp tăng cường nguồn nhân sự cho các địa phương, cơ quan,
đơn vị có nhu cầu hoặc gặp khó khăn về đội ngũ cán bộ, khắc phục sự hẫng hụt,
bị động trong công tác nhân sự.
Tỉnh Sóc Trăng là một tỉnh ven biển thuộc đồng bằng sông Cửu Long với
nhiều tiềm năng kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội. Bước vào thời kỳ đổi mới, để
thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển Tỉnh ủy đã đặt ra nhiệm vụ phải đẩy
mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý từ tỉnh đến cơ sở, trong đó chú
trọng chỉ đạo thực hiện luân chuyển cán bộ thuộc diện BTVHU quản lý nhằm
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của tỉnh nói chung và địa phương nói riêng.
Thời gian qua, công tác luân chuyển cán bộ thuộc diện BTVHU quản lý ở tỉnh
Sóc Trăng đã đạt được những tiến bộ đáng kể, góp phần nâng dần chất lượng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, thực tế

3


cũng cho thấy, công tác luân chuyển cán bộ thuộc diện BTVHU quản lý ở tỉnh
Sóc Trăng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Nhận thức của một số cấp ủy, chính
quyền về chủ trương luân chuyển cán bộ còn hạn chế, còn lẫn lộn, chưa phân
định rõ giữa luân chuyển với điều động cán bộ. Một số địa phương còn lúng
túng, bị động trong triển khai thực hiện. Số lượng cán bộ đã qua luân chuyển
nhìn chung còn ít, chưa đáp ứng yêu cầu chuẩn bị nguồn cán bộ lãnh đạo quản lý
cho địa phương. Việc lựa chọn, quy hoạch, đưa cán bộ vào diện luân chuyển còn

có biểu hiện chủ quan, tùy tiện, thực hiện chưa đảm bảo theo lộ trình. Chế độ,
chính sách hỗ trợ đối với cán bộ luân chuyển còn mang tính tạm thời, chưa thật
đồng bộ. Gắn với yêu cầu của công tác cán bộ trong thời kỳ đổi mới, thực tiễn
công tác luân chuyển cán bộ diện BTVHU quản lý ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay
đang đặt ra nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, giải quyết cả trên phương diện lý
luận và thực tiễn. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề: “Luân chuyển cán bộ diện Ban
Thường vụ huyện ủy quản lý ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay” làm đề tài luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Công tác cán bộ nói chung, luân chuyển cán bộ nói riêng, là vấn đề hết
sức quan trọng và cần thiết, được nhiều nhà nghiên cứu đề cập, nhiều bài viết,
nhiều công trình của các tác giả, quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ. Có thể
nêu một số công trình tiêu biểu như:
Sách “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
thời kỳ đẩy manh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Nguyễn Phú
Trọng, Trần Xuân Sầm (chủ biên). Nxb CTQG, H, 2003. Các tác giả đã làm rõ
những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; chỉ ra những nội dung cơ
bản về tiêu chuẩn chung đối với cán bộ và tiêu chuẩn đối với từng loại cán bộ cụ
thể. Đề tài cũng đã làm rõ nội dung các khâu, các bước, quy trình của công tác
cán bộ như: phát hiện, lựa chọn, đánh giá, sử dụng và cất nhắc cán bộ; huấn
luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đồng thời, đề tài cũng đã xác định yêu cầu

4


chung về chất lượng của đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước. Trên cơ sở đó, đề tài xác định những quan điểm, phương hướng, giải pháp
cơ bản nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong thời kỳ mới.

Sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ” của Bùi
Đình Phong. Nxb Lao động, H, 2006. Tác giả đã hệ thống hóa quá trình hình
thành và những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ
của Đảng, trong đó có một số nội dung cơ bản như: vai trò của cán bộ; đạo đức
của người cán bộ cách mạng; huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng…
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ là cơ sở quan
trọng để tác giả đề xuất, vận dụng vào xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung,
QHCB diện BTVHU quản lý ở đồng bằng Bắc Bộ nói riêng.
Sách “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” do Vũ Văn Hiền chủ
biên, Nxb CTQG, H, 2007. Các tác giả đã tập trung luận giải vai trò của việc xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của HTCT; phân tích, đánh giá thực trạng
đội ngũ này, Từ đó, các tác giả đã nhấn mạnh đến những yêu cầu về tiêu chuẩn
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và năng lực cán bộ trong mối quan hệ với
yêu cầu nhiêm vụ trong thời kỳ mới. Trên cơ sở đó các tác giả đã đưa ra các giải
pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, trong đó công tác QHCB.
Sách “Một số vấn đề về xây dựng đảng và công tác cán bộ” của Bùi
Ngọc Thanh, Nxb CTQG, H, 2008. Tác giả đánh giá khái quát việc thực hiện
tiêu chuẩn cán bộ đã được Hội nghị TW 3 Khóa VIII của Đảng xác định cũng
như những việc làm được, những việc phải tiếp tục thực hiện trong việc luân
chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý theo Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính
trị khóa IX…
Sách “Đánh giá qui hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lí thời kì
CNH, HĐH đất nước” (2008) của Trần Đình Hoan Nxb CTQG, H. Đây là kết
5


quả nghiên cứu của đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước; “Những vấn đề lý
luận và thực tiễn về đánh giá, qui hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lí

trong thời kì CNH, HĐH đất nước” do PGS,TS Trần Đình Hoan làm chủ
nhiệm, Các tác giả đã phân tích cơ sở phương pháp luận và những yêu cầu của
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước về công tác đánh giá, qui hoạch, luân chuyển
cán bộ ở nước ta; đồng thời, làm sang tỏ cơ sở khoa học của công tác đánh giá
cán bộ; QHCB; luân chuyển cán bộ lãnh đạo phải quản lí. Theo các tác giả,
trong công tác cán bộ hiện nay, có thể xác định: đánh giá cán bộ là khâu tiền
đề, QHCB là khâu nền tảng, luân chuyển cán bộ là khâu đột phá và đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ vừa là yêu cầu trước mắt vừa là nhiệm vụ lâu dài. Để đánh giá
đúng cán bộ, tổ chức và cá nhân có thẩm quyển phải thực sự “có tầm, có tâm”
cơ sở khoa học và thực tiễn của công tác QHCB đã được các tác giả tập trung
làm rõ.
“Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng
sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Luận án tiến
sĩ Lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng của Nguyễn Thái Sơn, Học viện
Chính trị quốc gia, 2002. Tác giả đã phân tích 4 đặc điểm của vùng đồng bằng
sông Hồng: Một là, đây là vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp, song các yếu tố cho sản xuất hàng hóa, khai thác thế
mạnh hạn chế; hai là, đồng bằng sông Hồng không chỉ là khu vực trọng điểm
kinh tế nông nghiệp, mà còn có đầy đủ điều kiện phát triển một cơ cấu kinh tế
toàn diện; ba là, là vùng mang đậm nét truyền thống văn hóa và quan hệ xã hội
của cộng đồng dân cư lâu đời, nhưng lại sớm chịu tác động của nền kinh tế thị
trường; bốn là, HTCT được đổi mới có tác động tích cực tới đời sống kinh tế,
văn hóa, xã hội, song vẫn tồn tại những khó khăn lớn, yếu tố gây mất ổn định
không thể xem thường. Đây là nội dung rất quan trọng, có thể kế thừa và phát
triển để làm cơ sở cho việc phân tích những yếu tố tác động, những yêu cầu đặt
ra đối với đội ngũ cán bộ diện BTVHU quản lý ở tỉnh Sóc Trăng.

6



Trần Đình Hoan (2003), Luân chuyển cán bộ - khâu đột phá nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ngang tầm thời kỳ phát triển mới, Một số
văn kiện xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ và đảng viên, Nxb CTQG. Tác giả
đã khái quát và phân tích những kinh nghiệm của các triều đại phong kiến trong
việc luân quan; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về luân chuyển
cán bộ. Đánh giá sự tác động của tình hình, nhiệm vụ cách mạng và khẳng định
luân chuyển cán bộ phải được coi là một trong những khâu đột phá trong chiến
lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Nguyễn Trọng Phúc (2002), V.I Lênin, Hồ Chí Minh nói về luân chuyển
cán bộ”, Tạp chí Công sản, số 9. Trần Văn Đông (2002), Luân chuyển cán bộ
cần giải pháp thiết thực, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 8. Phạm Ngọc Phước
(2003) Luân chuyển cán bộ - động lực mới, nguồn sáng tạo mới trong công việc,
Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5. Lê Kim Việt (2009), Luân chuyển cán bộ lý luận
– khâu đột phá để nâng cao chất lượng công tác lý luận của Đảng trong giai
đoạn hiện nay, Tạp chí Cộng sản số 11.
Các công trình, đề tài nghiên cứu khoa học nêu trên đã đề cập đến công
tác cán bộ nói chung, luân chuyển cán bộ nói riêng ở nhiều phạm vi, góc độ khác
nhau. Các công trình nghiên cứu đó rất có giá trị, gợi mở cho tác giả luận văn
nhiều vấn đề đi sâu nghiên cứu sâu hơn nữa. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có
công trình nào nghiên cứu hệ thống, chuyên sâu về luân chuyển cán bộ diện
BTVHU quản lý tỉnh Sóc Trăng hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn luân chuyển cán bộ diện BTVHU quản lý ở tỉnh Sóc Trăng; đề xuất yêu cầu,
giải pháp tăng cường luân chuyển cán bộ diện BTVHU quản lý ở tỉnh Sóc Trăng
hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn luân
chuyển cán bộ diện BTVHU quản lý ở tỉnh Sóc Trăng.


7


- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm luân chuyển cán bộ diện BTVHU quản lý ở tỉnh Sóc Trăng.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu tăng cường luân chuyển cán bộ diện
BTVHU quản lý ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Luân chuyển cán bộ diện BTVHU quản lý ở
tỉnh Sóc Trăng
* Phạm vi nghiên cứu: Về nội dung là nghiên cứu những vấn đề luân
chuyển cán bộ diện BTVHU quản lý ở tỉnh Sóc Trăng. Phạm vi về thời gian:
Nghiên cứu, khảo sát luân chuyển cán bộ diện BTVHU quản lý ở tỉnh Sóc Trăng
hiện nay từ khi có Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ chính trị đến nay. Thời gian
điều tra, khảo sát, tổng kết thực tiễn được giới hạn từ năm 2010 đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về công tác cán bộ nói chung và công tác luân chuyển cán bộ nói riêng.
* Cơ sở thực tiễn: là hiện thực cán bộ đã qua luân chuyển các chức danh
BTVHU quản lý và công tác luân chuyển cán bộ trong những năm qua. Luận
văn tham khảo kinh nghiệm về luân chuyển cán bộ của các địa phương khác, các
báo cáo tổng kết của cấp ủy, cơ quan chức năng các cấp về công tác cán bộ, kết
quả điều tra khảo sát của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn thực hiện trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin sử dụng các phương pháp nghiên cứu của
khoa học liên ngành và chuyên ngành, trong đó chú trọng các phương pháp:
logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra khảo sát,
tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa của đề tài

Kết quả nghiên cứu luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp ủy
đảng và các cơ quan làm công tác tổ chức - cán bộ ở tỉnh Sóc Trăng trong công

8


tác cán bộ; đồng thời, luận văn có thể làm tài liệu phục vụ nghiên cứu, tham
khảo phục vụ giảng dạy môn xây dựng Đảng ở các học viện, nhà trường.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn có kết cấu gồm: Mở đầu; 2 chương (4 tiết); kết luận; danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.

9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LUÂN CHUYỂN CÁN BỘ DIỆN BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY
QUẢN LÝ Ở TỈNH SÓC TRĂNG
1.1. Cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý
và những vấn đề cơ bản về luân chuyển cán bộ diện ban
thường vụ huyện ủy quản lý ở tỉnh Sóc Trăng
1.1.1. Cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản
lý ở tỉnh Sóc Trăng
* Khái quát về tỉnh Sóc Trăng
Sóc Trăng là một vùng đất được người Việt đến khai khẩn trong khoảng
hơn 200 năm nay. Năm 1900, Pháp lập tỉnh Sóc Trăng. Năm 1956, tỉnh Sóc
Trăng hợp nhất với tỉnh Bạc Liêu thành tỉnh Ba Xuyên. Sau ngày 30 tháng 04
năm 1975, tỉnh Ba Xuyên giải thể, địa bàn Sóc Trăng thuộc tỉnh Hậu Giang.
Ngày 26 tháng 11 năm 1991, tỉnh Sóc Trăng được tái lập.

Tỉnh Sóc Trăng nằm ở cửa Nam sông Hậu, cách tỉnh Sóc Trăng khoảng
231 km, cách Cần Thơ 62 km, nằm trên tuyến Quốc lộ 1A nối liền các tỉnh Hậu
Giang, Thành phố Cần Thơ, Bạc Liêu, Cà Mau. Tỉnh Sóc Trăng có vị trí tọa độ
9012’ - 9056’ vĩ Bắc và 105033’ - 106023’ kinh Đông. Đường bờ biển dài 72 km
và 03 cửa sông lớn là Định An, Trần Đề, Mỹ Thanh đổ ra Biển Đông. Địa giới
hành chính của Sóc Trăng ở phía bắc và tây bắc giáp tỉnh Hậu Giang, phía tây
nam giáp tỉnh Bạc Liêu, phía đông bắc giáp tỉnh Trà Vinh, Phía Đông và đông
nam giáp Biển Đông. Tỉnh có 331.164,25 ha diện tích tự nhiên, 1.326.740 nhân
khẩu. Hiện nay Sóc Trăng có 11 đơn vị hành chính, gồm thành phố Sóc Trăng,
thị xã Vĩnh Châu, thị xã Ngã Năm và 8 huyện: Châu Thành, Cù Lao Dung, Kế
Sách, Long Phú, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Thạnh Trị, Trần Đề và 109 đơn vị hành
chính cấp xã gồm 80 xã, 17 phường, 12 thị trấn.
Sóc Trăng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia thành mùa là
mùa khô và mùa mưa, trong đó mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, mùa
10


khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm
khoảng 26,80C, ít khi bị bão lũ. Đất đai của Sóc Trăng có độ màu mỡ cao, thích
hợp cho việc phát triển cây lúa nước, cây công nghiệp ngắn ngày như mía, đậu
nành, bắp, các loại rau màu như hành, tỏi và các loại cây ăn trái như bưởi, xoài,
sầu riêng... Hiện đất nông nghiệp chiếm 82,89%, trong đó, đất sản xuất nông
nghiệp chiếm 62,13%, đất lâm nghiệp có rừng 11.356 ha chiếm 3,43%, đất nuôi
trồng thuỷ sản 54.373 ha chiếm 16,42%, đất làm muối và đất nông nghiệp khác
chiếm 0,97%. Đất nông nghiệp trong địa bàn tỉnh chủ yếu sử dụng cho canh tác
lúa, cây hàng năm khác và diện tích đất còn lại dùng trồng cây lâu năm và cây ăn
trái, ngoài ra cũng có nhiều diện tích đất tự nhiên chưa được sử dụng.
Sóc Trăng là tỉnh có vị trị địa lý khá thuận lợi cho việc giao thương và
phát triển kinh tế, xã hội. Toàn tỉnh có 72 km bờ biển, có 3 cửa sông lớn là Định
An, Trần Đề của Sông Hậu và Mỹ Thanh của Sông Mỹ Thanh đổ ra biển Đông

rất thuận lợi cho giao thông đường thủy, đường bộ và phát triển kinh tế du lịch.
Trên địa bàn tỉnh có 4 tuyến Quốc lộ và 14 tuyến tỉnh lộ với tổng chiều dài hơn
600 km, hệ thống đường huyện, đường giao thông nông thôn có hơn 3.700 km.
Các tuyến đường giao thông huyết mạch trong tỉnh gồm có Quốc lộ 1A, Quốc lộ
60, Quốc lộ Nam Sông Hậu, Quốc lộ Quản Lộ - Phụng Hiệp...Mạng lưới đường
ô tô khá dài chiếm khoảng 129 km.
Khi mới tách tỉnh (ngày 26 tháng 11 năm 1991), Tỉnh ủy Sóc Trăng có 10
đảng bộ trực thuộc gồm: 06 đảng bộ huyện, 01 đảng bộ thị xã và 03 đảng ủy
Công an, Quân sự, Bộ đội biên phòng; đến cuối tháng 12/1992, toàn tỉnh có 372
tổ chức cơ sở đảng. Trong quá trình hoạt động Tỉnh ủy Sóc Trăng đã thành lập
mới, tách, nhập, giải thể các tổ chức cơ sở đảng cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm
vụ chính trị của đảng bộ. Tính đến ngày 15-12-2015 toàn tỉnh có 16 đảng bộ trên
cơ sở trực thuộc Tỉnh ủy gồm: 08 đảng bộ huyện, 02 đảng bộ thị xã, 01 đảng bộ
thành phố và 05 Đảng ủy (Công an, Quân sự, Bộ đội biên phòng, Khối các cơ
quan, Khối doanh nghiệp) với 616 tổ chức cơ sở đảng (đảng bộ cơ sở là 220, chi
bộ cơ sở là 396), với tổng số đảng viên là 37.481 đồng chí (nữ 10.606 đồng chí,
11


dân tộc khơmer 5.214 đồng chí, Hoa 1.319 đồng chí, khác 20 đồng chí). Trong
này, diện BTVHU quản lý các huyện trên địa bàn tỉnh là 1.575 người (gồm cấp
huyện là 1.040 người, cấp xã là 535 người). Đây là đội ngũ cán bộ góp phần rất
lớn vào sự phát triển chung các huyện nói riêng và tỉnh Sóc Trăng nói chung.
* Chức năng, nhiệm vụ của các huyện ủy, ban thường vụ
huyện ủy thuộc Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng
Các đảng bộ huyện thuộc Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng là đảng bộ cấp trên cơ
sở. Theo Điều lệ Đảng, giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của đảng bộ huyện
là ban chấp hành đảng bộ huyện là cấp ủy cấp trên trực tiếp cơ sở, do đại hội đại
biểu đảng bộ huyện bầu ra theo đúng quy định của Điều lệ Đảng. Ban Chấp
hành đảng bộ huyện là hạt nhân lãnh đạo, trung tâm đoàn kết của đảng bộ huyện,

đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Sóc Trăng, hoạt động theo nguyên tắc
lãnh đạo tập thể, phân công cá nhân phụ trách, định kỳ báo cáo và chịu trách
nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội đại biểu đảng bộ huyện, trước Tỉnh
ủy Sóc Trăng và cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới.
Huyện ủy là cơ quan lãnh đạo của đảng bộ huyện giữa hai kỳ đại hội; thực
hiện đầy đủ các nhiệm vụ được quy định trong Điều lệ Đảng. BTVHU là cơ
quan chấp hành của huyện ủy, do huyện ủy bầu ra và được tỉnh ủy trực tiếp
chuẩn y, có chức năng, nhiệm vụ thay mặt huyện ủy giải quyết các công việc và
hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo giữa hai kỳ họp của huyện ủy, báo cáo và chịu trách
nhiệm trước huyện ủy về hoạt động của mình. Căn cứ Quy định số 29-QĐ/TW
ngày 25 tháng 7 năm 2016 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, quy định
thi hành Điều lệ Đảng; các BTVHU được Huyện ủy ủy quyền thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy chế làm việc như sau:
1. Lãnh đạo toàn diện các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận, các đoàn
thể, công tác dân tộc, công tác tôn giáo và vận động nhân dân thực hiện các chủ
trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ
chính trị trên địa bàn huyện.

12


2. Thay mặt Huyện ủy quyết định các chủ trương, biện pháp chỉ đạo thực
hiện các nghị quyết, chủ trương của Tỉnh ủy và những vấn đề về kinh tế- xã hội,
quốc phòng- an ninh, xây dựng hệ thống chính trị của Đảng bộ.
3. Cụ thể hoá, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị
quyết, chỉ thị của Trung ương, của Tỉnh ủy và của Huyện ủy. Hàng năm, xây
dựng chương trình kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện chương trình kiểm tra,
giám sát.
4. Căn cứ vào Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện, Chương trình làm việc

toàn khoá và Chương trình kiểm tra, giám sát toàn khoá của Huyện ủy, Ban
Thường vụ Huyện ủy đề ra Chương trình làm việc năm, xác định những vấn đề
quan trọng cần nêu ra thảo luận và quyết định tại các cuộc họp của Huyện ủy;
xem xét, cho ý kiến về nội dung chất vấn, quyết định việc chất vấn và trả lời chất
vấn theo chương trình kỳ họp của Huyện ủy.
5. Xem xét, trình Huyện ủy và cáp có thẩm quyền quyết định việc chia
tách, sáp nhập, thành lập mới các đảng ủy, chi bộ trực thuộc huyện ủy; cho ý
kiến việc chia tách, điều chỉnh địa giới hành chính cấp xã, ấp, khóm trên địa bàn
huyện; cho ý kiến để trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định thành lập, Sáp
nhập, chia tách các cơ quan trực thuộc ủy ban nhân dân huyện, các tổ chức chính
trị xã hội.
6. Xem xét, trình Huyện ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy nhân sự cấp ủy và
nhân sự UBKT huyện ủy khóa mới; nhân sự giới thiệu ứng cử chức danh bí thư,
các phó bí thư, ủy viên BTVHU, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND. Đề nghị
Ban thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy chỉ định bổ sung ủy viên BCH đảng bộ
huyện; chuẩn y kết quả bầu bổ sung ủy viên BTVHU.
7. Phân công công tác các Huyện ủy viên, Ủy viên BTVHU. Quyết định
bố trí, đề bạt hoặc giới thiệu, đề nghị nhân sự và thi hành kỷ luật đảng theo quy
định của Điều lệ Đảng và các quy định về phân cấp quản lý cán bộ; đánh giá
phân loại hàng năm đối với tổ chức cơ sở đảng và cán bộ chủ chốt của huyện;
quyết định thành lập, giải thể các tổ chức đảng trực thuộc và kỷ luật cấp ủy cấp
dưới trực tiếp theo quy định của Điều lệ Đảng.
8. Quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kế thừa các chức danh

13


chủ chốt cấp huyện và xã, thị trấn. Hàng năm xem xét bổ sung, hoàn chỉnh quy
hoạch và quyết định kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
9. Chỉ đạo việc chuẩn bị nội dung, định hướng nhân sự đại hội Đảng bộ

các xã, thị trấn và tương đương, nhân sự chủ chốt các đoàn thể chính trị, chính
trị- xã hội và các tổ chức xã hội nghề nghiệp cấp huyện. Chuẩn y kết quả bầu cử
hoặc chỉ định cấp ủy, cấp ủy viên cấp dưới trực tiếp theo quy định của Điều lệ
Đảng; chuẩn y Ủy ban Kiểm tra, Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm và các thành viên
Ủy ban Kiểm tra của Đảng bộ cơ sở trực thuộc.
10. Triệu tập và chuẩn bị nội dung hội nghị Huyện ủy; báo cáo tình hình
và kết quả thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy, của Huyện ủy theo định kỳ và đề
xuất những vấn đề quan trọng để Huyện ủy thảo luận quyết định.
11. Thông tin cho Huyện ủy theo chế độ quy định và hàng năm thông báo
cho Huyện ủy biết về các quyết định bổ nhiệm, phân công công tác cũng như kỷ
luật đối với cán bộ thuộc diện Huyện ủy quản lý.
12. Quyết định các vấn đề về chủ trương, chính sách cán bộ và công tác
cán bộ theo quy định của Điều lệ Đảng và các văn bản hướng dẫn của Trung
ương, của Tỉnh ủy về cán bộ và công tác cán bộ.
13. Chỉ đạo đại hội đảng bộ, chi bộ trực thuộc huyện ủy khi hết nhiệm kỳ
và chuẩn bị các điều kiện tổ chức đại hội đại biểu đảng bộ huyện nhiệm kỳ mới.
14. Đối với các đồng chí Ủy viên BTVHU phải chịu trách nhiệm trước
ban chấp hành đảng bộ huyện, BTVHU về sự lãnh đạo, chỉ đạo trên lĩnh vực, địa
bàn phân công phụ trách và có thêm trách nhiệm, quyền hạn cụ thể.
* Các mối quan hệ của các ban thường vụ Huyện ủy ở tỉnh Sóc Trăng
Quan hệ giữa các BTVHU với chính quyền huyện là quan hệ giữa lãnh
đạo và chịu sự lãnh đạo. Sự lãnh đạo của BTVHU tỉnh Sóc Trăng đối với chính
quyền là quyết định bảo đảm cho chính quyền hoạt động đúng Hiến pháp, pháp
luật. Các BTVHU ở tỉnh Sóc Trăng có chức năng lãnh đạo phát huy tính chủ
động, sáng tạo của chính quyền trong quản lý Nhà nước theo Hiến pháp và pháp
luật. Quan hệ giữa chính quyền với BTVHU là quan hệ vừa mang tính phụ
thuộc, vừa mang tính độc lập. Tính phụ thuộc được xác định bởi vai trò lãnh đạo
và địa vị cầm quyền của Đảng. Tính độc lập được quy định bởi chức năng,

14



nhiệm vụ của chính quyền. Chính quyền huyện là cơ quan quyền lực Nhà nước
ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân,
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân
dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên đối với các lĩnh vực của đời sống
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh…quản lý, điều hành
chính quyền theo đường lối, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Quan hệ giữa BTVHU với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội khác là quan hệ giữa lãnh đạo và chịu sự lãnh đạo. BTVHU lãnh đạo bằng
nghị quyết, thông qua các hoạt động của ban thường vụ huyện ủy, bí thư và các
huyện ủy viên và người đứng đầu Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Thông qua các báo cáo của Mặt trận Tổ quốc và ban chấp hành các đoàn thể, các
BTVHU ở tỉnh Sóc Trăng chỉ đạo hoạt động của ban chấp hành đoàn thể.
Quan hệ giữa BTVHU với Tỉnh ủy Sóc Trăng là quan hệ chấp hành sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy theo quy định của Điều lệ Đảng. Các BTVHU ở
tỉnh Sóc Trăng phải tuyệt đối chấp hành sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy Sóc
Trăng về mọi mặt, kịp thời báo cáo tình hình thực hiện chức năng, nhiệm vụ lãnh
đạo, tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy, đồng
thời chịu trách nhiệm trước pháp luật và Tỉnh ủy về các quyết định của mình.
Quan hệ giữa BTVHU với các cấp ủy cơ sở thuộc đảng bộ huyện là quan
hệ giữa lãnh đạo và chấp hành sự lãnh đạo. Các BTVHU có trách nhiệm lãnh
đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng thuộc đảng bộ
huyện lãnh đạo cơ quan, đơn vị cơ sở thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác
xây dựng Đảng. Các cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng thuộc đảng bộ các huyện phải
nghiêm chỉnh chấp hành sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra của BTVHU;
thực hiện tốt chế độ báo cáo, xin chỉ thị, ý kiến chỉ đạo của huyện ủy, BTVHU
theo quy định của Điều lệ Đảng và quy định, hướng dẫn của Trung ương.
* Quan niệm cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy
quản lý ở tỉnh Sóc Trăng.


15


Đại Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (chủ biên), xuất bản năm 1999
định nghĩa cán bộ là: “1. Người làm việc trong cơ quan nhà nước. 2. Người giữ
chức vụ, phân biệt với người bình thường không giữ chức vụ trong các cơ quan
tổ chức nhà nước” [33-tr.249]. Với cách quan niệm này, khái niệm cán bộ gần
như đồng nghĩa với khái niệm công chức ở các nước phương Tây từ trước đến
nay. Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Cán bộ là công dân Việt
Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ
trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là
cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp
huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước”.
Như vậy, cán bộ là những người được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội cấp Trung ương, tỉnh, huyện và cấp xã,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Phân cấp quản lý cán bộ là nhằm phát huy trách nhiệm, quyền hạn của các
cấp ủy, tổ chức đảng trong trong phạm vi được phân công, phân cấp, đảm bảo
cho đội ngũ cán bộ của HTCT được xây dựng, quản lý, sử dụng đáp ứng yêu cầu
của nhiệm vụ chính trị ở mỗi cấp. Mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các
cơ quan, đơn vị có trách nhiệm trực tiếp quản lý cán bộ đang công tác, sinh hoạt
trong tổ chức mình và chịu trách nhiệm trước cấp ủy cấp trên về cán bộ thuộc
quyền quản lý của mình. Đảng phân công, phân cấp quản lý cán bộ cho các cấp
ủy, tổ chức đảng, đồng thời thường xuyên kiểm tra việc thực hiện.
Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Quyết định số
49-QĐ/TW ngày 03/5/1999, sau được sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định số 67QĐ/TW ngày 04/7/2007 Quy định về phân cấp quản lý cán bộ. Trên cơ sở quyết
định của Bộ Chính trị và hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương, Ban Thường

vụ các tỉnh ủy cụ thể hóa thành các quy định về phân cấp quản lý cán bộ của địa
phương. Theo đó, có thể quan niệm cán bộ diện BTVHU quản lý là những người
16


được bầu cử, bổ nhiệm vào các chức danh chủ chốt trong HTCT huyện và xã,
các chức danh trưởng và phó phòng, ban ngành và tương đương cấp huyện. Họ
chịu trách nhiệm đầu tiên, trực tiếp và thường xuyên trong việc lãnh đạo, chỉ
đạo quản lý và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, ngành trên
địa bàn các huyện ở tỉnh Sóc Trăng. Cán bộ diện BTVHU quản lý ở tỉnh Sóc
Trăng gồm các chức danh sau:
Ở cấp huyện: Ủy viên Ban chấp hành đảng bộ huyện; Trưởng ban và phó
trưởng ban của Huyện ủy và tương đương; Ủy viên UBKT Huyện ủy, ủy viên
UBND huyện; Bí thư, phó bí thư, ủy viên ban thường vụ đảng ủy trực thuộc
huyện ủy; Trưởng phòng, phó trưởng phòng và tương đương; Chủ tịch, phó chủ
tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; cấp trưởng và cấp phó các đoàn thể
chính trị-xã hội;
Ở cấp xã: Bí thư, phó bí thư, ủy viên BTV đảng ủy xã, thị trấn; Chủ tịch,
phó chủ tịch HĐND xã, thị trấn. Chủ tịch, phó chủ tịch UBND xã, thị trấn.
* Đặc điểm cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý ở
tỉnh Sóc Trăng
Một là, cán bộ diện BTVHU quản lý ở tỉnh Sóc Trăng là
những người được bầu cử, bổ nhiệm vào các chức danh
lãnh đạo, quản lý chủ chốt của HTCT.
Là những người đứng đầu, có chức năng lãnh đạo, quản lý, được bầu cử,
bổ nhiệm theo luật định, vì vậy đây là đội ngũ những người nắm trong tay quyền
lực rất cao. Quyền lực đó cho phép họ thực thi nhiều nhiệm vụ trong phạm vi
chức trách được giao, đây là đội ngũ có nhiều đóng góp quan trọng nhất, quyết
định nhất đến sự ra đời và hiện thực hóa những chủ trương, chính sách phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương, Sự đóng góp của cán bộ diện BTVHU quản lý là

liên tục, ngày một nhiều hơn (từ trong quá khứ - khi bản thân họ là cán bộ chủ
chốt thuộc nhiều lĩnh vực ở cấp thấp hơn, đến hiện tại, và cả tương lai - khi họ
bước lên vị trí lãnh đạo, quản lý cao hơn, hoặc nghỉ quản lý vẫn có thể tham vấn
cho lãnh đạo địa phương về nhiều vấn đề). Tuy nhiên, cũng bởi vì nắm trong tay

17


nhiều quyền lực, họ rất dễ dẫn đến những sai lầm do quyền lực không được kiểm
soát, đạo đức không được tiếp tục rèn luyện hoặc chủ quan, duy ý chí.
Hai là, cán bộ diện BTVHU quản lý ở tỉnh Sóc Trăng phần lớn là người
trưởng thành ở địa phương.
Sinh ra, lớn lên, trưởng thành và gắn bó với cán bộ, nhân dân địa phương,
vì vậy hơn ai hết họ mang trong mình tình cảm sâu nặng và tinh thần trách
nhiệm đối với sự thăng trầm của địa phương. Bằng quá trình công tác, kinh
nghiệm, năng lực, đạo đức và tình cảm của mình, cán bộ diện BTVHU quản lý
tạo lập được uy tín cá nhân khá vững đối với cộng đồng, cấp trên và cấp dưới.
Uy tín đó khi được giữ vững, trở thành nhân tố quan trọng động viên, khích lệ,
tạo niềm tin đối với cấp trên, cấp dưới và quần chúng nhân dân khi đối diện với
những khó khăn, thử thách cần có đột phá cải cách, đổi mới ở các địa phương.
Ba là, cán bộ diện BTVHU quản lý ở tỉnh Sóc Trăng có trình độ học vấn,
chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý nhà nước khá cao nhưng
không đồng đều
Ngày nay, sự mở rộng giao lưu quốc tế và trong nước, cùng với nhiều
chính sách ưu đãi của Đảng, Nhà nước trong đào tạo, bồi dưỡng khiến đội ngũ
này thường xuyên được đào tạo, giao lưu, học hỏi kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý
ở những địa phương có mô hình phát triển điển hình nhất, ở những nước có nền
chính trị - hành chính hiện đại, văn minh nhất. Những kiến thức học tập đó được
đội ngũ cán bộ chủ chốt trực tiếp vận dụng vào quá trình lãnh đạo, quản lý, tiếp
tục tạo nên những đột phá phát triển về tư duy cũng như chỉ đạo thực tiễn ở các

địa phương, đơn vị. Tuy vậy, như bao người dân ở tỉnh Sóc Trăng, đội ngũ cán
bộ diện các BTVHU quản lý cũng mang trong mình nét tâm lý truyền thống.
Bên cạnh những đặc điểm tích cực, tiến bộ thì tâm lý bảo thủ, co cụm, cục bộ,
bản vị, địa phương chủ nghĩa…vẫn còn cố hữu ít nhiều trong cộng đồng và trong
mỗi cán bộ dù ở cương vị nào. Tâm lý đó cán trở sự bứt phá, không mở đường
cho tư duy đổi mới, không đưa lại sự ủng hộ, tạo điều kiện cho cái mới ra đời.
Điều này giải thích tại sao không ít cán bộ có tính cách thoáng đãng, rộng mở
của người Nam Bộ nên tạo môi trường làm việc thoáng đãng phát huy được
trình độ, năng lực của mình. Đây là điều rất cần được lưu ý, để trong quá trình

18


quy hoạch và bố trí, sử dụng cán bộ, cấp ủy đảng ở tỉnh Sóc Trăng phát huy ưu
điểm hạn chế, khắc phục được sự tác động tiêu cực từ đặc điểm tâm lý này.
* Vai trò của cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý ở
tỉnh Sóc Trăng
Một là, cán bộ diện BTVHU quản lý là những người nòng cốt trong việc
tổ chức nghiên cứu, quán triệt, triển khai đường lối, chủ trương, nghị quyết, chỉ
thị của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước ở địa phương, đơn vị.
Là những người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu của các tổ chức
trong HTCT, cán bộ diện BTVHU quản lý là những người đầu tiên được tiếp
nhận đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thông
qua hệ thống văn bản của Đảng, Nhà nước hoặc thông qua các hội nghị giao ban,
tổng kết, thông qua sự chỉ đạo trực tiếp của cấp trên. Với chức trách, nhiệm vụ
của người đứng đầu, hoặc cấp phó của người đứng đầu, cán bộ diện BTV HU
quản lý phải chủ động tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt trong cơ quan, tổ
chức đảng của mình; đồng thời, phải chủ động lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực
hiện các chủ trương, nghị quyết, chính sách, pháp luật. Các chủ trương, nghị
quyết, chính sách đó có sớm đi vào thực tiễn ở địa phương, đơn vị hay không,

nhanh hay chậm, có thực hiện triệt để, hiệu quả hay không, phần lớn phụ thuộc
vào ý thức trách nhiệm và năng lực tổ chức thực tiễn của người đứng đầu cơ
quan, đơn vị.
Hai là, cán bộ diện BTVHU quản lý là những người đóng vai trò nòng cốt
trong việc xây dựng HTCT và phát triển các lĩnh vực đời sống xã hội của các
huyện vững mạnh
Là những cán bộ chủ chốt ở cơ quan, đơn vị, hơn ai hết, cán bộ diện
BTVHU quản lý phải là những người đóng vai trò nòng cốt trong xây dựng
HTCT vững mạnh ở địa phương. Vai trò đó thể hiện trước hết ở việc nhận thức
đúng và rõ về chức năng, nhiệm vụ, về tổ chức, bộ máy của tổ chức, đơn vị
mình, trên cơ sở đó, họ là những người lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động xây dựng tổ
chức, bộ máy, cán bộ, công chức và lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành bộ máy đó thực
hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định, thể hiện trong công tác cán bộ.
Chính những cán bộ diện BTVHU quản lý là những người trực tiếp tham gia xây
19


dựng và bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức.
Không chỉ là những người đứng đầu, cấp phó của những người đứng đầu
cơ quan, đơn vị, nhiều cán bộ diện BTVHU quản lý còn là người đứng đầu
ngành, lĩnh vực ở địa phương. Các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại…hay sự phát triển của đời sống kinh tế, văn hóa, xã
hội nói chung ở các huyện gắn liền với vai trò, trách nhiệm của những người
đứng đầu các lĩnh vực này. Là những người trực tiếp tham mưu, giúp việc cho
lãnh đạo huyện trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý ngành, lĩnh vực ở địa
phương, đội ngũ cán bộ diện BTVHU quản lý có vai trò rất quan trọng đối với
sự phát triển của ngành, lĩnh vực ở địa phương. Mức độ vững vàng về bản lĩnh
chính trị, lập trường tư tưởng, mức độ trong sáng, lành mạnh về đạo đức, lối
sống, sự am hiểu, tinh thông về chuyên môn, nghiệp vụ, khả năng lãnh đạo, quản
lý, ý thức trách nhiệm…của những cán bộ này sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến

đời sống kinh tế, xã hội của địa phương. Cuộc đời và sự nghiệp của họ có thể tạo
những dấu ấn tốt hoặc không tốt, có đóng góp hoặc không đóng góp thiết thực
cho sự phát triển của địa phương. Điều này tùy thuộc vào phẩm chất, đạo đức,
trình độ, năng lực của chính bản thân đội ngũ cán bộ diện BTVHU quản lý.
Ba là, cán bộ diện BTVHU quản lý là hạt nhân đoàn kết
thống nhất trong tổ chức đảng, trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức và nhân dân.
Cán bộ diện BTVHU quản lý ở tỉnh Sóc Trăng đều là cán bộ lãnh đạo,
quản lý, vừa là người đứng đầu, cấp phó người đứng đầu, đồng thời họ cũng
thường là những cấp ủy viên các cấp. Tính đảng, ý thức tổ chức, kỷ luật, tinh
thần, thái độ ứng xử, làm việc của đội ngũ cán bộ này có ảnh hưởng rất lớn đền
bầu không khí, tinh thần, thái độ, ý thức chấp hành kỷ luật, sự đoàn kết, gắn bó
của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong đơn vị và nhân dân. Bản thân
mỗi cán bộ đó không chỉ là hạt nhân đoàn kết mà còn là tấm gương để cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức noi theo.
Cán bộ diện BTVHU quản lý cũng là những người được nhân dân đặc
biệt quan tâm, thậm chí là những đối tượng để nhân dân giám sát. Phẩm chất,
đạo đức, trình độ, năng lực công tác của họ không chỉ cán bộ, đảng viên, công
20


chức, viên chức ở cơ quan, đơn vị họ công tác biết mà qua nhiều kênh khác
nhau, nhân dân cũng nắm khá rõ. Nếu thực sự họ là tấm gương tốt, nhân cách,
phẩm chất, năng lực, ý thức, trách nhiệm của họ sẽ là chỗ dựa tin cậy, hạt nhân
trong việc tổ chức, tập hợp, đoàn kết nhân dân thực hiện đường lối chủ trương
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Bốn là, cán bộ diện BTVHU quản lý là nguồn bổ sung cán bộ cho các cơ
quan, ban, ngành, đoàn thể ở tỉnh Sóc Trăng.
Là những cán bộ đã trưởng thành qua thực tiễn ở địa phương, cơ sở,
những cán bộ diện BTVHU quản lý là những người đã được tín nhiệm qua các

kỳ, các cấp đại hội đảng bộ, các đợt lấy phiếu thăm dò, tín nhiệm để bổ nhiệm
hoặc giới thiệu ứng cử, hoặc lấy phiếu quy hoạch…Do đó, đội ngũ cán bộ diện
BTVHU, nhất là những cán bộ trẻ, có triển vọng thường là nguồn cán bộ lãnh
đạo, quản lý của cấp trên, nhất là cấp trên trực tiếp. Cán bộ chủ chốt cấp huyện
là nguồn trực tiếp của cán bộ chủ chốt tỉnh, cán bộ chủ chốt xã là nguồn cán bộ
của các cơ quan huyện. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ diện BTVHU quản lý
nói chung, luân chuyển cán bộ diện BTVHU quản lý trực tiếp tạo nguồn cán bộ
dồi dào bổ sung cho cấp trên.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về luân chuyển cán bộ diện ban thường vụ
huyện ủy quản lý ở tỉnh Sóc Trăng
* Quan niệm về luân chuyển cán bộ diện ban
thường vụ huyện ủy quản lý
Luân chuyển là một thuật ngữ vốn thường xuyên được sử dụng trong
cuộc sống hàng ngày (luân chuyển tài liệu cho người khác đọc, luân chuyển
công tác, luân chuyển đồng vốn...). Luân chuyển thực chất là một từ ghép
Hán - Việt giữa từ luân và từ chuyển. Luân là sự thay đổi có tính chất thứ tự,
lần lượt, quay vòng, luân phiên; còn chuyển là chỉ sự vận động, di chuyển,
dịch chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, sự thay đổi về vị trí, địa điểm. Theo
Từ điển tiếng Việt thông dụng, luân chuyển có nghĩa là chuyển đổi lần lượt
theo vòng [33, tr. 1058].
Công tác cán bộ của Đảng bao gồm các khâu xây dựng tiêu chuẩn cán bộ,
quy hoạch tạo nguồn tuyển chọn cán bộ; đào tạo bồi dưỡng cán bộ; nhận xét
21


đánh giá cán bộ, bố trí sử dụng, luân chuyển cán bộ; kiểm tra cán bộ, quản lý cán
bộ; chính sách cán bộ. Trong tính chỉnh thể của công tác cán bộ, luân chuyển cán
bộ là một nội dung quan trọng của công tác cán bộ là tạo ra môi trường và điều
kiện tốt cho việc đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, tạo nguồn cán bộ lâu dài
cho đất nước.

Khác với các dạng luân chuyển thông thường, luân chuyển cán bộ
không chỉ đơn thuần là luân chuyển về vị trí, địa điểm hay một công việc
nhất định nào đó mà luân chuyển ở đây là sự thay đổi về nhiều mặt, đối với
cá nhân cán bộ được luân chuyển thì sự thay đổi trước hết là thay đổi về địa
điểm công tác, lĩnh vực hoạt động, thay đổi từ chức vụ lãnh đạo, quản lý này
sang chức vụ lãnh đạo, quản lý khác và đi kèm với sự thay đổi đó là sự thay
đổi về quyền hạn, trách nhiệm và những thay đổi về chế độ, chính sách...
Luân chuyển cán bộ là sự thay đổi có thời hạn mang tính luân phiên,
tức là có chiều đi và có chiều về. Luân chuyển cán bộ là nói đến sự hoán
chuyển vị trí thực thi công vụ giữa cán bộ này với cán bộ khác, là thay đổi
nhiệm sở theo kiểu quay vòng nhằm tạo nên chất lượng công tác cao hơn. Luân
chuyển không đơn thuần phải đơn thuần là “quay vòng” cán bộ như cách hiểu
thông thường. Nếu chỉ là quay vòng đơn thuần thì tác dụng của luân chuyển rất
hạn chế. Tùy theo tính chất của sự luân chuyển (luân chuyển nhằm mục đích gì,
cán bộ diện đối tượng nào trong ba đối tượng: cán bộ kế cận trong quy hoạch
cần tiếp tục được đào tạo trong thực tiễn một số lĩnh vực, nhất là thực tiễn lãnh
đạo toàn diện ở cấp dưới; cán bộ một số chức danh lãnh đạo đã giữ cùng chức vụ
ở cùng một nơi hai nhiệm kỳ; cán bộ một số chức danh lãnh đạo, quản lý có chủ
trương hạn chế bố trí người địa phương), yêu cầu đào tạo cụ thể và sức phấn đấu,
tiến bộ của từng cán bộ, theo yêu cầu của công việc, sau “vòng đi”, đối với một
số trường họp có “vòng về” với nhiều dạng khác nhau.
Cần phân biệt rõ giữa luân chuyển cán bộ với thuyên chuyển, điều động,
tăng cường cán bộ. Thuyên chuyển là khái niệm chỉ sự thay đổi nơi làm việc, vị
trí làm việc của cán bộ, công chức từ tổ chức này sang tổ chức khác. Thuyên
chuyển có thể do yêu cầu, nguyện vọng của cá nhân cán bộ, công chức, nhưng
được tổ chức chấp nhận. Thuyên chuyển có thể là ngang cấp, nâng cấp, hạ cấp,

22



cũng có thể ra khỏi khu vực công vụ hoặc ngược lại. Thuyên chuyển không định
hướng rõ rệt mục đích của việc thay đổi nơi công tác của cán bộ, công chức theo
một hướng nào.
Điều động là một khái niệm để chỉ việc cấp có thẩm quyền điều chuyển
cán bộ từ một tổ chức này sang tổ chức khác nhằm giải quyết nhiệm vụ, công vụ
(diện điều động), hoặc tăng cường cán bộ cho cơ quan, tổ chức để xử lý, giải
quyết một nhiệm vụ bức xúc, đột xuất (diện tăng cường); hoặc nhằm mục đích
chính là đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý trong quy hoạch (diện luân chuyển). Điều động mang tính đơn phương,
do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quyết định, cá nhân cán bộ, công chức phải
chấp hành, thực hiện.
Tuỳ theo mục đích điều động, có thể phân chia cán bộ điều động ra thành
ba loại: cán bộ thuộc diện điều động; cán bộ thuộc diện tăng cường và cán bộ
thuộc diện luân chuyển. Cán bộ diện điều động thường là những người đã kinh
qua công tác lãnh đạo, quản lý ở địa phương và các cơ quan cấp trên, có kinh
nghiệm xử lý các tình huống đặt ra trong thực tiễn, trong đó có cán bộ nằm trong
quy hoạch. Điều động, bố trí, sắp xếp lại cán bộ là công việc mang tính thường
xuyên trong công tác cán bộ nên trong điều động thường không quyết định thời
hạn điều động.
Tăng cường cán bộ là để đáp ứng yêu cầu bức xúc, mang tính đột xuất
trong từng thời điểm nhất định ở các địa phương, đơn vị. Mục đích của tăng
cường cán bộ là nhằm làm cho cán bộ (nơi được tăng cường) tăng thêm về số
lượng, mạnh hơn về chất lượng. Đây là công việc của các tổ chức và cơ quan có
thẩm quyền điều chuyển cán bộ về các địa phương, đơn vị bị hẫng hụt cán bộ.
Cán bộ diện luân chuyển là những cán bộ lãnh đạo, quản lý trong QHCB
của Trung ương và địa phương, còn trẻ, có triển vọng hoặc cán bộ dự nguồn để
trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý. Luân chuyển cán bộ nhằm mục đích chính là
đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách cán bộ, tạo điều kiện để cán bộ phát
triển toàn diện về năng lực lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu cán bộ trước mắt
và lâu dài của toàn bộ HTCT. Thời hạn luân chuyển tùy thuộc vào nhiệm vụ

chính trị và tùy theo từng trường hợp.

23


Như vậy, giữa luân chuyển với tăng cường và điều động cán bộ có những
điểm chung giống nhau và những điểm riêng khác nhau: Cả ba loại đều là thay
đổi vị trí công tác của cán bộ, đều phát huy năng lực của cán bộ đều góp phần
điều chỉnh cơ cấu đội ngũ cán bộ, khắc phục tình trạng khép kín. Cán bộ diện
luân chuyển cũng có nhiệm vụ tham gia giải quyết những khó khăn, vướng mắc
ở địa phương nơi đến. Nhưng, sự khác biệt của luân chuyển cán bộ là chú trọng
hơn việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ nằm trong
QHCB nguồn từ Trung ương đến địa phương và có quy định thời hạn cụ thể.
Trong khi đó, tăng cường cán bộ mang tính đột xuất và điều động, bố trí, sắp xếp
lại cán bộ mang tính thường xuyên. Ba loại hình này có mối quan hệ chặt chẽ, bổ
sung, hỗ trợ cho nhau, vì thế không được coi nhẹ một loại hình nào.
Trong thực hiện nếu không phân biệt giữa luân chuyển và điều động cán
bộ dễ dấn đến nhầm lẫn về mặt nhận thức và lúng túng trong chỉ đạo, tổ chức
thực hiện, nhất là trong luân chuyển cán bộ diện BTVHU quản lý ở các địa
phương nói chung, trong đó có các huyện của tỉnh Sóc Trăng nói riêng.
Từ quan điểm và phương pháp tiếp cận trên có thể quan niệm luân
chuyển cán bộ diện BTVHU quản lý ở tỉnh Sóc Trăng là toàn bộ hoạt động của
huyện ủy và các cấp ủy trực thuộc, các cơ quan tham mưu về công tác cán bộ và
các cơ quan liên quan nhằm đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện một cách toàn diện
cán bộ và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ, tạo điều kiện cho cán bộ trẻ,
trong quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn và tạo sự chủ động về nguồn
cán bộ cho hệ thống chính trị, khắc phục tình trạng cục bộ, khép kín trong công
tác cán bộ ở các huyện của tỉnh Sóc Trăng.
Mục đích luân chuyển cán bộ diện BTVHU quản lý ở tỉnh Sóc Trăng để
đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ một cách toàn diện; sử dụng hợp lý

có hiệu quả đội ngũ cán bộ tạo điều kiện để bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách cán
bộ, nhất là cán bộ trẻ, có triển vọng, giúp cán bộ trưởng thành nhanh hơn và toàn
diện, vững vàng hơn đáp ứng yêu cầu cán bộ trước mắt và lâu dài của hệ thống
chính trị các huyện ở tỉnh Sóc Trăng.
Chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo việc luân chuyển cán bộ là BTVHU. Theo phân
công, phân cấp BTVHU chủ động lập kế hoạch luân chuyển cán bộ thuộc diện

24


cấp mình quản lý một cách đúng đắn. Chỉ đạo các cơ quan chức năng và cấp ủy
cơ sở (nơi cán bộ đi và nới cán bộ đến) tạo mọi điều kiện tốt nhất để cán bộ
thuộc diện luân chuyển thực hiện nhiệm vụ; đồng thời kiểm tra chặt chẽ, giúp
các cấp ủy cơ sở uốn nắm có hiệu quả những lệch lạc nhằm tiến hành đồng bộ,
nhịp nhàng và hiệu quả chủ trương, kế hoạch luân chuyển cán bộ thuộc diện
BTVHU quản lý.
Đối tượng luân chuyển là những cán bộ đã được quy hoạch vào các chức
danh, chức vụ cán bộ thuộc diện BTVHU quản lý bao gồm cán bộ chủ chốt các
cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể, Mặt trận Tổ quốc. Đối tượng luân chuyển
còn bao gồm cả những cán bộ được phát hiện, tuyển chọn, bổ sung vào nguồn
cán bộ cán bộ thuộc diện BTVHU quản lý. Thời gian luân chuyển nói chung từ
ba năm trở lên. Cán bộ thuộc diện luân chuyển phải chấp hành nghiêm túc các
nghị quyết, quyết định của BTVHU về điều động, bổ nhiệm.
Lực lượng tham gia luân chuyển cán bộ thuộc diện BTVHU quản lý bao
gồm cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng, mọi cán bộ, đảng viên, các tổ chức thành viên
trong hệ thống chính trị huyện, xã. Cấp ủy, tổ chức đảng nơi cán bộ thuộc diện
luân chuyển đi và đến, cơ quan, đơn vị, các tổ chức trong hệ thống chính trị
huyện, xã có trách nhiệm đề xuất và và tổ chức thực hiện các quyết định của
BTVHU về luân chuyển cán bộ trong lĩnh vực được phân công, phân cấp. Cán
bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm túc các nghị quyết, quyết định của

BTVHU về luân chuyển cán bộ.
Nội dung luân chuyển cán bộ thuộc diện BTVHU quản lý là thực hiện
các việc: Quán triệt các nghị quyết, kết luận, hướng dẫn của Trung ương
chỉ thị, nghị quyết của cấp trên; căn cứ vào tình hình đội ngũ cán bộ của
huyện, ban hành nghị quyết, kế hoạch cán bộ luân chuyển trong mỗi nhiệm
kỳ, hằng năm hoặc trong một thời gian nhất định đối với đội ngũ cán bộ
diện BTVHU quản lý; BTVHU đề ra chủ trương, quán triệt tổ chức thực
hiện luân chuyển cán bộ đến từng cấp, từng ngành, đơn vị và từng cán bộ,
đảng viên nơi đi và nơi đến. Tiến hành công tác công tác tư tưởng đối với
cán bộ diện luân chuyển.
Ngay từ khi QHCB cũng là khi cán bộ đó phải xác định trách nhiệm

25


rèn luyện theo kế hoạch. Luân chuyển cán bộ diện quy hoạch thực sự là
một khâu tiếp nối của quy hoạch, là một trong những nội dung đào tạo, bồi
dưỡng, rèn luyện cho cán bộ diện quy hoạch. BTVHU và các cấp ủy phải
thực hiện rất nhiều nội dung công việc cụ thể, quyết định cử cán bộ đi; bố
trí người thay thế cương vị của cán bộ đi luân chuyển, bố trí công tác cho
cán bộ luân chuyển, giới thiệu tình hình địa phương; hướng dẫn cán bộ mới
luân chuyển đến, bố trí nơi làm việc, nơi ở, phương tiện làm việc... cho cán
bộ. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện trách nhiệm vụ của cấp ủy cử cán bộ
đi, cấp ủy nhận cán bộ đến và của cán bộ luân chuyển. Cấp ủy, lãnh đạo nơi
đi cần lựa chọn cán bộ phù hợp, có sự theo dõi, đánh giá kết quả qua thực
tế công việc. Tại nơi đến cần có sự phối hợp, tạo điều kiện, phân công công
việc hợp lý để cán bộ nhanh chóng hòa nhập, phát huy tối đa năng lực, sở
trường của bản thân. Cán bộ luân chuyển phải nỗ lực vượt khó, không
ngừng học tập, trau dồi kỹ năng, phương pháp quản lý, lãnh đạo, không
ngại va chạm, né tránh trong công việc, yên tâm gắn bó với nơi công tác

mới ra sức học tập phấn đấu rèn luyện.
Sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm công tác luân chuyển cán bộ. Tổng kết
công tác luân chuyển cán bộ, hoàn thiện chính sách chế độ đào tạo, đồng bộ các
yếu tố hỗ trợ công tác luân chuyển cán bộ. Đánh giá đúng thực chất hiệu quả
luân chuyển cán bộ trên cơ sở rà soát lại toàn bộ nội dung luân chuyển cán bộ
nói trên, phân tích nguyên nhân, ưu điểm, khuyết điểm và khẳng định tính đúng
đắn khoa học của các giải pháp trong quá trình luân chuyển tiếp theo.
Thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ luân chuyển. Cấp có thẩm
quyền cần quan tâm xây dựng và thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với cán
bộ luân chuyển như chế độ tiền lương, học tập, nhà ở, phụ cấp, phương tiện...
góp phần cải thiện đời sống giúp cán bộ yên tâm công tác, hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao.
* Quy trình tiến hành luân chuyển cán bộ
Theo Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị, quy trình tổ chức luân
chuyển cán bộ diện BTVHU quản lý gồm các bước sau:
Bước 1: Quán triệt nghị quyết, các văn bản hướng dẫn về luân chuyển

26


×