Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Luan van thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc bổ nhiệm cán bộ thuộc diện ban thường vụ huyện ủy quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.76 KB, 107 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”
[27, tr.269]; “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”
[27, tr.273]. Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
khẳng định: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng gắn
liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ, là khâu then chốt
trong công tác xây dựng Đảng” [13, tr.66].
Công tác cán bộ bao gồm nhiều khâu, nhiều việc, từ tìm hiểu, tuyển
chọn cán bộ đến đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, điều động, bổ nhiệm, quản lý,
đánh giá, chăm sóc sức khỏe và đời sống, khen thưởng, kỷ luật cán bộ...Các
khâu công việc đó liên kết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau nhằm xây dựng
đội ngũ cán bộ có đủ số lượng và chất lượng cao đáp ứng nhiệm vụ cách
mạng. Trong các khâu đó, việc bổ nhiệm cán bộ vào chức danh lãnh đạo, quản
lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả và chất
lượng của các khâu công việc khác.
Để bổ nhiệm đúng cán bộ phải thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ (TTDC), do tập thể quyết định, đồng thời phát huy trách nhiệm của từng
thành viên lãnh đạo, thực sự coi trọng vai trò, quyền hạn của người đứng đầu
các tổ chức, các cơ quan, đơn vị trong công tác cán bộ.
Nguyên tắc TTDC trong công tác cán bộ phải được thể chế hóa thành
các quy chế, quy trình để thực hiện đúng và thống nhất. Những nhận xét, kết
luận về cán bộ và quy trình xem xét bổ nhiệm cán bộ nhất thiết phải do cấp ủy
cơ quan lãnh đạo có có thẩm quyền, quyết định, sau khi đã lắng nghe đầy đủ ý
kiến của các cơ quan có liên quan, ý kiến đóng góp của cán bộ, nhân dân và
việc tự phê bình của cán bộ; kết hợp đúng đắn chế độ tập thể với trách nhiệm
cá nhân, dân chủ thật sự, không dân chủ hình thức; huy động mọi cấp, mọi


2


ngành phối hợp với cơ quan tham mưu giúp cấp ủy làm công tác quản lý cán
bộ. Trong những năm qua, việc thực hiện hệ thống các quy chế, quy định, quy
trình về công tác cán bộ của Đảng nói chung, trong bổ nhiệm cán bộ nói riêng
ở các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa đã đạt được những kết quả quan trọng.
Các quy chế đó đã phát huy dân chủ, thực hiện nhiều hình thức công khai lấy
ý kiến của cán bộ cấp dưới, của tập thể, của nhân dân tham gia xây dựng đội
ngũ cán bộ góp phần khắc phục một phần khuyết điểm trước đây coi công tác
cán bộ chỉ là việc riêng của một số người, của cơ quan tổ chức, tạo ra bước
tiến bộ đáng kể trong công tác cán bộ.
Tuy nhiên, chất lượng thực hiện các quy chế, quy trình bổ nhiệm chưa
cao và chưa đồng đều. Còn tình trạng trên là do chưa có sự thống nhất cao
trong nhận thức đối với những quan điểm chủ yếu về tiêu chuẩn cán bộ, chưa
thực sự lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo chủ yếu về phẩm chất
và năng lực cán bộ; cách đánh giá cán bộ chung chung, thiếu cụ thể, hình
thức, máy móc, thiếu căn cứ xác đáng. Không ít cấp ủy, tổ chức đảng và
người lãnh đạo nắm không chắc, đánh giá không đúng cán bộ; thiếu khách
quan, thành kiến hẹp hòi, định kiến với những người trung thực, có tinh thần
đấu tranh thẳng thắn. Một số bước trong quy trình xem xét bổ nhiệm thực
hiện chưa thật chặt chẽ, hoặc hình thức, nặng nề không cần thiết. Chưa thực
hiện tốt quy trình dân chủ, công khai và minh bạch trong bổ nhiệm cán bộ.
Còn để xảy ra tình trạng lợi dụng dân chủ tung dư luận xuyên tạc, gây nhiễu
thông tin, làm lẫn lộn trắng đen. Do quản lý cán bộ chưa tốt, một số cấp ủy và
cơ quan quản lý không hiểu đúng cán bộ, không theo dõi kịp thời những diễn
biến tư tưởng và hành động của cán bộ, nên đã bố trí một số cán bộ phẩm chất
đạo đức kém vào những cương vị lãnh đạo quan trọng, dẫn đến vi phạm kỷ
luật, thậm chí vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín và làm
giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Trong bối cảnh trên, cần có một sự nghiên cứu toàn diện về việc tổ
chức thực hiện đúng nguyên tắc TTDC, các quy chế, quy định, quy trình về



3
công tác bổ nhiệm cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy (BTVHU)
quản lý ở các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa. Từ những phân tích trên, tác
giả lựa chọn đề tài "Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc bổ
nhiệm cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý ở các huyện
miền núi tỉnh Thanh Hóa giai đoạn hiện nay" để làm luận văn thạc sĩ. Đây
là vấn đề cấp thiết, phù hợp với nhiệm vụ trong công tác xây dựng Đảng hiện
nay và đáp ứng nhu cầu thực tiễn của địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, việc nghiên cứu khoa học về nguyên tắc TTDC,
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện, thực hiện nguyên tắc TTDC
trong bổ nhiệm cán bộ đã được nhiều nhà nghiên cứu và các nhà hoạt động
chính trị quan tâm ở dưới nhiều góc độ khác nhau như:
- Nguyễn Phú Trọng: Phải chăng nguyên tắc tập trung dân chủ đã lỗi
thời ?, Nxb CTQG, Hà Nội, 1990.
- Đậu Thế Biểu: Vận dụng sáng tạo nguyên tắc tập trung dân chủ của
V.I.Lênin, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1990.
- Phạm Văn Thắng: Nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng tổ
chức và hoạt động của Đảng bộ quân đội hiện nay, Luận án Phó tiến sĩ khoa
học lịch sử, Hà Nội, 1996.
- Phạm Văn Huỳnh: Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng - nội
dung, những nhân tố tác động, khuyết điểm và kiến nghị, Tạp chí Nghiên cứu
lý luận, số 6 – 1990.
- Trần Trung Quang: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
điều kiện mới, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 2 – 1990.
- Nguyễn Văn Tốn: Lại bàn về tập trung dân chủ, Tạp chí Nghiên cứu
lý luận, số 4 – 1991.
- Nguyễn Phú Trọng: Để đản bảo dân chủ trong Đảng, Tạp chí Cộng
sản, số 11 – 1990.



4
- Nguyễn Thị Thắng: Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
quận, huyện thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội quản lý trong giai
đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội, 2006.
- Nguyễn Quang Huy: Xây dựng đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ Quận ủy Tây Hồ thành phố Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện
nay. Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội, 2006.
- Trần Văn Thuận: Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp quận của
thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội, 2005.
- Trương Thị Bạch Yến: Chuẩn hóa đội ngũ cấp ủy viên quận, huyện
của thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ khoa học
chính trị, Hà Nội, 2006.
- Tăng Nghĩa: Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị
cấp huyện ở Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay. Hà Nội, 2006.
- Nguyễn Hồng Vân: Xây dựng đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp quận ở
thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử, Hà Nội, 2000.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đều đề cập đến vấn đề xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện BTVHU quản lý, hoặc là ở dạng
chung nhất, hoặc ở một vài khía cạnh về thực hiện nguyên tắc TTDC trong bổ
nhiệm cán bộ thuộc diện BTVHU quản lý, chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu có hệ thống dưới góc độ một luận văn khoa học về thực hiện
nguyên tắc TTDC trong bổ nhiện cán bộ thuộc diện BTVHU quản lý ở các
huyện miền núi của một tỉnh cụ thể như đề tài luận văn. Tuy nhiên, trong
những công trình đã được công bố có những nội dung có liên quan đến đề tài
được tác giả luận văn tham khảo có kế thừa, chọn lọc.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn

Mục đích của luận văn là đề xuất những phương hướng, giải pháp
góp phần thực hiện đúng nguyên tắc TTDC trong việc bổ nhiệm cán bộ


5
thuộc diện BTVHU quản lý ở các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa trong
giai đoạn hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Trình bày rõ quan niệm về nguyên tắc TTDC và việc thực hiện
nguyên tắc TTDC trong công tác cán bộ của Đảng.
- Phân tích những ưu điểm và hạn chế trong thực hiện nguyên tắc
TTDC khi bổ nhiệm cán bộ thuộc diện BTVHU quản lý ở các huyện miền núi
của tỉnh Thanh Hóa thời gian qua.
- Đề xuất các giải pháp khả thi thực hiện đúng nguyên tắc TTDC trong
bổ nhiệm cán bộ thuộc diện BTVHU quản lý ở các huyện miền núi tỉnh
Thanh Hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực
tiễn thực hiện nguyên tắc TTDC trong việc bổ nhiệm cán bộ thuộc diện
BTVHU quản lý ở các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu 11 huyện miền núi tỉnh
Thanh Hóa; thời gian nghiên cứu từ năm 1999 (từ khi có quy định về phân
cấp quản lý cán bộ, quy chế đánh giá cán bộ, quy chế bổ nhiệm cán bộ của Bộ
Chính trị khóa IX) đến nay.
Bổ nhiệm có bổ nhiệm chức vụ, bổ nhiệm ngạch công chức. Luận văn
chỉ đề cập việc bổ nhiệm cán bộ giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý.
Bổ nhiệm cán bộ bao gồm bổ nhiệm lần đầu, bổ nhiệm lại; đối với các
chức danh được giao chức vụ theo quy trình bổ nhiệm và giới thiệu ứng cử,
khi trúng cử thì cấp có thẩm quyền chuẩn y. Luận văn tập trung nghiên cứu
loại bổ nhiệm lần đầu đối với các chức danh lãnh, đạo quản lý trong các cơ

quan đảng, chính quyền, chuyên môn.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng


6
sản Việt Nam về nguyên tắc TTDC nói chung, thực hiện nguyên tắc TTDC
trong công tác cán bộ của Đảng nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp kết hợp
giữa lý luận thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lịch sử và lô-gích. Ngoài ra, luận
văn cũng sử dụng một số phương pháp của xã hội học, phương pháp hệ thống,
phỏng vấn sâu...
6. Những đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn
- Đánh giá khách quan thực trạng việc thực hiện nguyên tắc TTDC
trong bổ nhiệm cán bộ thuộc diện BTVHU quản lý ở các huyện miền núi tỉnh
Thanh Hóa.
- Đề xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm góp phần thực hiện đúng
nguyên tắc TTDC trong bổ nhiệm cán bộ thuộc diện BTVHU quản lý ở các
huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu để các cấp ủy, cơ quan tổ chức cán bộ tham khảo cho việc nâng cao chất lượng bổ nhiệm cán bộ thuộc diện
BTVHU quản lý trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


7
Chương 1
NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG BỔ NHIỆM

CÁN BỘ THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY QUẢN LÝ
Ở CÁC HUYỆN MIỀN NÚI TỈNH THANH HÓA - NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG BỔ NHIỆM CÁN BỘ
THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY QUẢN LÝ

1.1.1. Khái quát về nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng
1.1.1.1. Vị trí, tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ
TTDC là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của các đảng
cộng sản. Song, nguyên tắc này không chỉ đóng khung trong đảng cộng sản,
mà khi giành được chính quyền, nó đã được thực hiện trong quản lý và hoạt
động của nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) và của nhiều tổ chức chính trị xã hội trong chế độ XHCN.
Nguyên tắc TTDC được C. Mác và Ph. Ăng-ghen nêu ra lần đầu vào
năm 1847 trong việc tổ chức “Liên minh những người cách mạng”; sau đó,
được tiếp tục khẳng định trong tổ chức “Liên minh công nhân quốc tế” (Quốc
tế I) do chính C. Mác sáng lập vào năm 1864 và cùng với Ph. Ăng-ghen lãnh
đạo tổ chức này nhằm đáp ứng nhu cầu của của phong trào công nhân là phải
thống nhất lực lượng trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản, bảo
đảm sự ổn định, nhất trí và tính tổ chức của đội tiên phong.
V.I. Lênin là người kế thừa và phát triển sáng tạo nguyên tắc TTDC
phù hợp với những điều kiện lịch sử và thời đại mới. Tại nước Nga, năm
1895, V.I. Lênin thành lập tổ chức “Liên minh chiến đấu giải phóng giai cấp
công nhân”, mầm mống đầu tiên cho sự ra đời của đảng cộng sản ở Nga, hoạt
động trên cơ sở kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân ở Nga. Năm
1898, V.I. Lênin thành lập Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga, năm 1918,
đổi tên thành Đảng Cộng sản (bôn-sơ-vích) Nga. Đây là lần đầu tiên trên thế
giới, một đảng cộng sản được thành lập.


8

Nguyên tắc TTDC được V.I. Lênin đề cập sâu từ năm 1905. Vào năm
này, tại Hội nghị Trung ương Đảng Công nhân dân chủ-xã hội Nga, V.I.
Lênin đề nghị đưa nguyên tắc TTDC vào chương trình nghị sự của Hội
nghị và được Hội nghị chấp thuận. Tuy nhiên, tại Hội nghị, nguyên tắc
TTDC vẫn chưa được đưa vào Điều lệ của Đảng Công nhân dân chủ-xã hội
Nga, vì còn có những ý kiến khác nhau. Năm 1906, Đảng Công nhân dân
chủ-xã hội Nga họp Đại hội từ ngày 23-4 đến ngày 8-5 để thống nhất lực
lượng và nguyên tắc tổ chức của Đảng. Tại Đại hội này, V.I. Lênin trình
bày “Cương lĩnh hành động” của Đảng. Người viết: “nguyên tắc tập trung
trong Đảng hiện nay được mọi người thừa nhận” [25, tr.279]. Đại hội nhất
trí thông qua Điều lệ mới của Đảng. Điều lệ ghi rõ: “Tất cả các tổ chức
đảng phải được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ” [11, tr.313].
Như vậy, nguyên tắc TTDC lần đầu tiên được ghi trong Điều lệ của một
đảng cộng sản vào năm 1906.
V.I. Lênin thường viết “dân chủ” là tính từ giải nghĩa cho danh từ “tập
trung”, nên khi dịch ra tiếng Việt là “tập trung dân chủ”. Còn Chủ tịch Hồ Chí
Minh thường viết “dân chủ tập trung”. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội II
(năm 1951) của Đảng ta do Người trình bày ghi rõ: “Về tổ chức, Đảng Lao
động Việt Nam theo chế độ dân chủ tập trung” [28, tr.174]. Đây chỉ là cách
viết theo văn phong khác nhau (phương Tây và Hán ngữ), còn về thực chất
quan niệm của V.I. Lênin và của Hồ Chí Minh là thống nhất.
TTDC là một nguyên tắc xây dựng Đảng đã được kiểm nghiệm lâu dài
và có hiệu quả nhất đối với việc xây dựng tổ chức; là cơ sở vững chắc cho
hoạt động của các đảng cộng sản và đảng công nhân. Nguyên tắc TTDC bắt
nguồn từ tính chất của bản thân đảng cộng sản với tư cách là một một tổ chức
chính trị thống nhất về cả tư tưởng, đường lối, tổ chức và hành động. V.I.
Lênin viết: “Trong cuộc đấu tranh để giành chính quyền, giai cấp vô sản
không có vũ khí nào hơn là sự tổ chức” [24, tr.490].



9
Tại Việt Nam, thuật ngữ “nguyên tắc tập trung” xuất hiện lần đầu tiên
vào năm 1929. Trong Điều lệ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (gọi tắt là
Thanh niên) - một trong các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Hội (tháng 51929) ghi: “Hội tổ chức theo nguyên tắc tập trung” [14, tr.120]. Tiếp đó, tháng
6 - 1929, Đông Dương Cộng sản Đảng họp Đại hội lần thứ nhất (Đại hội
thành lập), thông qua Điều lệ Đảng, trong đó ghi: “Đảng Cộng sản tổ chức
theo lối dân chủ tập trung” [14, tr.220]. Tại Đại hội lần thứ nhất (Đại hội
thành lập, tháng 11- 1929), An Nam Cộng sản Đảng thông qua Điều lệ Đảng,
trong đó ghi: “Đảng tổ chức theo dân chủ tập trung” [14, tr.360]. Trong “Điều
lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam” được thông qua Hội nghị thành lập
Đảng ngày 03-02-1930 chưa ghi nguyên tắc TTDC. Tháng 10-1930 Trung
ương Đảng họp Hội nghị lần thứ nhất, quyết định đổi tên Đảng thành Đảng
Cộng sản Đông Dương và thông qua “Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương”,
trong đó ghi: “Đảng Cộng sản Đông Dương cũng như các chi bộ của Quốc tế
Cộng sản phải tổ chức theo lối dân chủ tập trung” [15, tr.119]. Điều lệ Đại hội
I Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 3-1935), Điều lệ Đại hội II Đảng Lao
động Việt Nam (tháng 2-1951) đều ghi nguyên tắc tổ chức của Đảng là “dân
chủ tập trung”. Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội III (năm 1960), Đại
hội IV (năm 1976), Đại hội V (năm 1981), Đại hội VI (năm 1986), Đại hội
VII (năm 1991), Đại hội VIII (năm 1996), Đại hội IX (năm 2001), Đại hội X
(năm 2006) đều ghi: “Đảng tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ” và xác
định TTDC là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Về mặt nhà nước, Điều 6,
Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992, ghi: “Quốc hội, Hội
đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc tập trung dân chủ” [36, tr.178].
Đảng ta nhận thức rõ việc tổ chức sinh hoạt nội bộ của Đảng trên cơ sở
TTDC là sự bảo đảm có tính chất quyết định trong việc vạch ra đường lối,


10

chiến lược, sách lược; trong việc hình thành các cơ quan lãnh đạo và tạo ra
những tiền đề cần thiết để bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được đúng
hướng và phát triển.
Trong Đảng đều có chung nhận thức là, thực hiện TTDC đúng đắn sẽ
dẫn đến sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thể hiện sự sinh hoạt
chặt chẽ và đoàn kết nội bộ; Đảng được xây dựng và hoạt động trên cơ sở
nguyên tắc thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Cơ quan lãnh đạo cao
nhất là Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Trong thời gian giữa hai Đại hội,
sự lãnh đạo của Đảng tập trung vào Ban Chấp hành Trung ương. Những nghị
quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng là sản phẩm kết tinh trí tuệ của
toàn Đảng. Khi nghị quyết của Đại hội Đảng và nghị quyết của Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng đã được thông qua thì trở thành “pháp lệnh” đối
với các tổ chức đảng và đảng viên. Nghị quyết đó chính là thành quả của một
quá trình thảo luận đóng góp dân chủ trong Đảng. Nghị quyết đúng và đi vào
cuộc sống là sự thể hiện một cách đầy đủ nguyên tắc (chế độ) TTDC trong
Đảng và trong sinh hoạt của Đảng. Vì vậy, nếu xem nhẹ, buông lỏng hoặc
thực hiện không đúng nguyên TTDC sẽ gây những thiệt hại nghiêm trọng đến
năng lực hoạt động của Đảng, đến vai trò lãnh đạo và ảnh hưởng của Đảng
trong xã hội, thậm chí dẫn đến Đảng bị tan rã.
Một trong những đặc trưng cơ bản của đảng vô sản kiểu mới là thừa
nhận và thực hiện triệt để nguyên tắc TTDC trong tổ chức, sinh hoạt nội bộ và
toàn bộ hoạt động của mình. Đây không chỉ là một nguyên tắc tổ chức cơ bản
đối với đảng vô sản chân chính, mà còn là một quy luật và nhu cầu của quá
trình phát sinh, phát triển và trưởng thành của đảng.
Với tư cách là một đảng cầm quyền, vai trò, năng lực và sức chiến đấu
của Đảng ta một phần cơ bản và quyết định bởi mức độ nhận thức và khả
năng thực hiện nguyên tắc TTDC. Đây là một trong những nhân tố quyết định
sự sống còn của Đảng gắn với sự thành bại của công cuộc đổi mới xây dựng



11
chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Đây cũng chính
là một trọng tâm chống phá của kẻ thù nhằm thúc đẩy sự tự tan vỡ của Đảng.
Mặc dù trên thế giới có ý kiến khác nhau, nhưng Đảng ta trước sau như
một khẳng định, Đảng được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc TTDC.
1.1.1.2. Bản chất và nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ
Dù diễn đạt là “tập trung dân chủ” hay “dân chủ tập trung” thì đây vẫn
là một nguyên tắc hoàn chỉnh chứ không phải là sự lắp ghép cơ học giữa hai
thành tố “tập trung” và “dân chủ”. V.I. Lênin viết:
Chế độ tập trung hiểu theo nghĩa thực chất dân chủ, đã bao
hàm khả năng - khả năng này do lịch sử tạo ra lần đầu tiên - phát huy
một cách đầy đủ và tự do không những các đặc điểm của địa phương
mà cả những sáng kiến của địa phương, tính chủ động của địa
phương, tính chất muôn hình muôn vẻ của các đường lối, của các
phương pháp và phương tiện để đạt mục đích chung [26, tr.186-187].
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: có
Đảng chương thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải
phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục
tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương [29, tr.229].
Rõ ràng, nguyên tắc TTDC là một chỉnh thể thống nhất, nguyên tắc này
hướng tới sự tập trung thống nhất, nhưng là tập trung trên cơ sở dân chủ,
mang tính chất dân chủ; bảo đảm, củng cố và tăng cường tập trung phải đặt
trên cơ sở giữ vững, mở rộng và phát huy dân chủ. Đến lượt mình, dân chủ
trong nguyên tắc TTDC chỉ được thực hiện đúng đắn và đầy đủ bằng sự bảo
đảm và chế ước bởi tập trung; mở rộng và phát huy dân chủ không có mục
đích gì khác ngoài việc hướng tới củng cố sự tập trung trong Đảng.
Nói cụ thể, tập trung trên cơ sở dân chủ, mang tính chất dân chủ là sự
tập trung trí tuệ ý chí và quyền lực của đa số, thiểu số phải phục tùng; là sự



12
tập trung gắn liền giữa cấp trên và cấp dưới, cấp trên lắng nghe và tôn trọng
cấp dưới, kiểm tra cấp dưới và cấp dưới tự giác phục tùng cấp trên, giám sát
cấp trên. Đồng thời, tập trung trên cơ sở dân chủ, được quyết định bởi nền
tảng dân chủ là sự tập trung do toàn thể đảng viên kiến lập nên, không phải do
một ai đó ban phát hoặc một nhóm nào có quyền thâu tóm; là sự tập trung của
ý chí, trí tuệ, quyền lực của đa số tạo nên một cách thống nhất và tự giác chứ
không phải là thứ tập trung được thiết lập một cách độc đoán, cưỡng bức nào
đó. Nó khác hẳn, đối lập với mọi thứ: tập trung quan liêu, độc đoán chuyên
quyền; tập trung nhằm trấn áp cấp dưới, trấn áp đảng viên, thoát ly cơ sở, xa
rời thực tiễn, tập trung theo kiểu hình hành “đẳng cấp” trong Đảng.
Mặt khác, dân chủ phải hướng tới tập trung, bảo vệ và giữ vững tập
trung; là việc bảo vệ, tôn trọng quyền bình đẳng và phát huy trí tuệ, sự đóng
góp của các đảng viên trong trong việc bàn bạc, thảo luận và quyết định các
công việc của Đảng, không phân biệt đảng viên giữ chức vụ hoặc không giữ
chức vụ, đảng viên trẻ hoặc đảng viên có nhiều tuổi đảng; là sự tự do phát huy
mọi sáng kiến, kinh nghiệm của đảng viên, của các tổ chức đảng nhằm tập
trung cao nhất trí tuệ của toàn Đảng. Đó cũng là sự mở rộng những con
đường, phương pháp một cách đa dạng và rộng rãi đối với tất cả các đảng
viên, các tổ chức của Đảng nhằm tạo nên sức mạnh chung bằng sự đoàn kết
thống nhất, hướng vào việc thực hiện mục tiêu, lý tưởng chung của toàn
Đảng, chứ không phải thứ dân chủ cực đoan mưu toan tạo ra sự chia rẽ bè
phái, phân tán cục bộ phá vỡ sự đoàn kết thống nhất của Đảng, biến tổ chức
đảng thành câu lạc bộ bàn cãi suông, mất khả năng hành động thống nhất.
Như vậy, nguyên tắc TTDC là một chỉnh thể không thể chia cắt, dù xét
dưới bất kỳ góc độ nào. Tập trung đúng đắn phải dựa trên nền tảng dân chủ
chân chính và để đảm bảo mở rộng dân chủ đúng đắn; đến lượt mình, dân chủ
trong nguyên tắc TTDC phải là dân chủ hướng tới tập trung, có mục đích, có
định hướng, có lãnh đạo và tổ chức.



13
Trong nhận thức, cần tránh cách hiểu siêu hình, giản đơn rằng nguyên tắc
TTDC là sự kết hợp giữa hai mặt đối lập là tập trung và dân chủ, vì nếu hiểu như
vậy sẽ đi đến kết luận: muốn tăng cường tập trung phải giảm bớt dân chủ, muốn
mở rộng dân chủ thì phải nới lỏng tập trung. Trong thực chất, TTDC một mặt đối
lập với phân tán, tự do vô chính phủ, vô tổ chức, vô kỷ luật; mặt khác, đối lập
với tập trung độc đoán, chuyên quyền. “Tập trung” và “dân chủ” trong nguyên
tắc TTDC không đối lập với nhau, hạn chế lẫn nhau, bài trừ lẫn nhau.
Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: TTDC là nguyên tắc cơ bản trong tổ
chức và sinh hoạt đảng, thuộc bản chất của Đảng, là một tiêu chí để phân biệt
chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, đảng cách mạng chân chính với
các đảng phái khác. Phủ nhận nguyên tắc này là phủ nhận đảng cộng sản từ
bản chất. Xóa bỏ nguyên tắc này là phá hoại sức mạnh của Đảng từ gốc. Kinh
nghiệm cho thấy, ở đâu và lúc nào xa rời nguyên tắc TTDC thì Đảng không
còn sức mạnh; hoặc rơi vào độc đoán, hoặc trở thành một câu lạc bộ, mở
đường cho chủ nghĩa cơ hội, bè phái, vô chính phủ đủ loại hoạt động, cuối
cùng làm tan rã Đảng về tổ chức, cũng tức là thủ tiêu bản thân Đảng. Kẻ địch
đang rất muốn và kích động chúng ta rơi vào tình trạng đó. Thực tế đã có
không ít đảng, nội bộ rối loạn hoặc tan rã chỉ vì vi phạm nguyên tắc TTDC, sa
vào cái bẫy “đa nguyên, đa đảng”. Trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng ta
luôn yêu cầu các tổ chức đảng và đảng viên coi trọng, thực hiện đúng nguyên
tắc TTDC, xem đây là một nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của Đảng.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nguyên tắc TTDC, từ bài học gần đây của các đảng anh em và qua
hoạt động thực tiễn, Đảng ta đã chỉ rõ:
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực

hiện tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu
toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại


14
hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh dạo của Đảng là
Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ,
chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).
3. Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động
của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới;
định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức
đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của
Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá
nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại
hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị
thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán
thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến
của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo
lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn
quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được
truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm
quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với
đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc về phạm vi quyền
hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp
trên [18, tr.16-19].

1.1.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, trong bổ
nhiệm cán bộ
1.1.2.1. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác
cán bộ
Nội dung khái quát của nguyên tắc TTDC trong công tác cán bộ được
Đảng ta khẳng định:


15
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ
cán bộ, đồng thời đề cao trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống
chính trị và người đứng đầu tổ chức. Cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm
quyền phải chủ trì và chịu trách nhiệm về công tác tổ chức cán bộ theo
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định; xác định rõ
trách nhiệm của tập thể và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm
của người đứng đầu trong công tác cán bộ [16, tr.293-294].
Nội dung cụ thể của nguyên tắc này là:
- Đảng đề ra đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách và quy chế
quản lý công tác cán bộ; lãnh đạo và kiểm tra các cấp, các ngành tổ chức thực
hiện; trực tiếp quản lý cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong các tổ chức của hệ
thống chính trị như cán bộ lãnh đạo các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang,
đoàn thể nhân dân, tổ chức kinh tế - xã hội; quản lý cán bộ theo chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước và điều lệ của đoàn thể.
- Đảng thực hiện đường lối, chính sách cán bộ thông qua các tổ chức
đảng (ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy...) và đảng viên trong cơ quan nhà
nước và các đoàn thể nhân dân, thực hiện đúng quy trình, thủ tục, pháp luật
của Nhà nước và điều lệ của các đoàn thể và tổ chức xã hội.
- Phân công, phân cấp quản lý cán bộ cho các cấp ủy và các tổ chức
đảng, đồng thời thường xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ của các
ngành, các cấp, coi đây là một trong những công việc quan trọng bậc nhất của

lãnh đạo công tác cán bộ.
- Những vấn đề về chủ trương, chính sách, đánh giá, bố trí, sử dụng
điều động, đề bạt, khen thưởng, xử lý kỷ luật cán bộ nhất thiết phải do cấp ủy
có thẩm quyền quyết định theo đa số.
- Mọi tổ chức đảng và cán bộ đảng viên phải “nghiêm túc chấp hành
các nghị quyết của cấp uỷ về cán bộ và công tác cán bộ; cá nhân phải chấp
hành quyết định của tập thể; tổ chức đảng cấp dưới phải chấp hành quyết định
của tổ chức đảng cấp trên” [13, tr.78].


16
- Nguyên tắc TTDC trong công tác cán bộ phải được thể chế hóa, cụ
thể hóa thành các quy chế, quy định, quy trình. Những nhận xét, kết luận về
cán bộ nhất thiết phải do cấp ủy có thẩm quyền quyết định sau khi đã lắng
nghe đầy đủ ý kiến của các cơ quan có liên quan, ý kiến đóng góp của nhân
dân và tự phê bình của cán bộ. Kết hợp đúng đắn chế độ tập thể với trách
nhiệm cá nhân, dân chủ với tập trung, không dân chủ hình thức. Huy động
mọi cấp, mọi ngành phối hợp với cơ quan tham mưu giúp cấp ủy làm tốt công
tác cán bộ.
Các cấp ủy, tổ chức đảng theo thẩm quyền cần cụ thể hóa để các quy
đinh, quy chế, quy trình của công tác cán bộ mà Trung ương đã xác định phù
hợp với thực tiễn của từng địa phương, ngành đáp ứng yêu cầu xây dựng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý; xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể trong
hệ thống chính trị (HTCT) tham gia, phối hợp trong công tác cán bộ làm cơ sở
để thực hiện tốt các khâu trong công tác cán bộ
1.1.2.2. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm
cán bộ
Cần nói ngay rằng, từ khi trong toàn Đảng đều đã thực hiện công tác
quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, việc bổ nhiệm cán bộ khác căn bản với
khi chưa có quy hoạch cán bộ. Hiện nay, nói chung, cán bộ được xem xét bổ

nhiệm phải trong diện quy hoạch cả nguồn tại chỗ và cán bộ ở nơi khác, đã có
thời gian bồi dưỡng, thử thách; không phải khi có nhu cầu bổ nhiệm mới giới
thiệu cán bộ bất kỳ, chưa được dự kiến. Trường hợp điều động, luân chuyển
kết hợp bổ nhiệm (không phải trong quy hoạch từ nguồn tại chỗ) có quy định
riêng, nhưng nói chung cán bộ đó cũng trong quy hoạch bổ nhiệm giữ chức
vụ cao hơn ở nơi công tác cũ. Vì vậy, khâu xem xét bổ nhiệm được bắt đầu từ
các cán bộ trong quy hoạch cho từng chức danh.
Nguyên tắc TTDC thể hiện trong quá trình xem xét bổ nhiệm cán bộ
lãnh đạo, quản lý ở những nội dung chủ yếu sau:


17
Một là: Người đứng đầu và các thành viên cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh
đạo cơ quan, đơn vị đề xuất nhân sự đề nghị bổ nhiệm và nêu nhận xét, đánh
giá về cán bộ được đề xuất.
Người lãnh đạo, quản lý đề cao trách nhiệm của mình trong việc đề
xuất, nhận xét, đánh giá cán bộ, giúp tập thể cấp ủy xem xét, quyết định.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX trình Đại hội
X đã xác định: Thực hiện chế độ trách nhiệm trong đề cử, bổ nhiệm chức vụ
lãnh đạo theo hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó, cấp sử dụng
trực tiếp giới thiệu để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Hai là: Cá nhân, tập thể đề nghị bổ nhiệm cán bộ phải có ý thức xây
dựng cao, chịu trách nhiệm về đề nghị của mình.
Đây là biện pháp cần thiết để quy trách nhiệm cho những cá nhân và tổ
chức đề xuất cán bộ bổ nhiệm, nhằm nâng cao hơn nữa trách nhiệm của người
lãnh đạo đối với việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, tránh tình trạng dựa
dẫm, đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau, khi bổ nhiệm cán bộ sai thì không ai chịu
trách nhiệm, đề phòng nguy cơ tư lợi trong công tác cán bộ.
Trong trường hợp người lãnh đạo, quản lý không đề xuất, bồi dưỡng
được cán bộ dự nguồn để bổ nhiệm thì họ cũng phải chịu trách nhiệm như

những trường hợp đề xuất bổ nhiệm không đúng, gây hậu quả không tốt.
Ba là: Tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị thảo luận
nhận xét, đánh giá cán bộ một cách dân chủ, công khai trước khi biểu quyết
(bằng phiếu kín) đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định bổ nhiệm.
Quyết định bổ nhiệm cán bộ cùng với nhận xét, đánh giá chính thức về
cán bộ đề nghị bổ nhiệm do tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan,
đơn vị xem xét, thảo luận quyết định theo đa số đúng theo Quyết định số 68QĐ/TW ngày 04-7-2007 của Bộ Chính trị. Trường hợp không thuộc thẩm
quyền theo phân cấp quản lý thì tập thể cấp ủy lãnh đạo cơ quan, đơn vị đề
nghị lên cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.


18
Bốn là: Cấp ủy, tổ chức đảng và tập thể lãnh đạo các cơ quan có thẩm
quyền xem xét, quyết định bổ nhiệm một cách dân chủ trên cơ sở phát huy
đầy đủ trách nhiệm và quyền hạn của từng thành viên, nhất là của người đứng
đầu cơ quan, đơn vị.
Việc đánh giá, lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ phải do tập thể cấp ủy và tổ
chức đảng, tập thể lãnh đạo các cơ quan có thẩm quyền thảo luận dân chủ và
quyết định theo đa số.
Trường hợp người đứng đầu cơ quan, đơn vị và tập thể lãnh đạo có ý
kiến khác nhau thì cần báo cáo đầy đủ lên cấp có thẩm quyền xem xét, quyết
định. Trường hợp tập thể lãnh đạo giới thiệu hai người có số phiếu ngang
nhau thì chọn nhân sự do người đứng đầu giới thiệu để quyết định bổ nhiệm
hoặc trình cấp có thẩm quyền bổ nhiệm.
Năm là: thực hiện quy trình bổ nhiệm chặt chẽ qua các bước sau:
- Trước hết, khi cơ quan, đơn vị có nhu cầu, cấp ủy tổ chức đảng phải
trình cơ quan có thẩm quyền về yêu cầu, số lượng và dự kiến phân công công
tác đối với cán bộ sẽ được bổ nhiệm. Sau khi được cơ quan có thẩm quyền
đồng ý về chủ trương mới thực hiện các bước tiếp theo.
- Người đứng đầu và các thành viên cơ quan, đơn vị đề xuất nhân sự dự

kiến bổ nhiệm.
Căn cứ quy hoạch cán bộ, những người có trách nhiệm đề xuất nhân sự,
tiến hành đánh giá, nhận xét đầy đủ về cán bộ được dự kiến bổ nhiệm làm căn
cứ để lấy ý kiến cán bộ trong cơ quan, đơn vị.
- Tổ chức lấy ý kiến cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị.
Cấp có thẩm quyền quản lý cán bộ tiến hành các bước lấy ý kiến cán
bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị về cán bộ dự kiến bổ nhiệm.
Tại các hội nghị lấy phiếu tín nhiệm phải tiến hành các công việc chính
như sau:
+ Nêu mục đích, yêu cầu.
+ Công bố tiêu chuẩn cán bộ cần bổ nhiệm.


19
+ Thông báo danh sách cán bộ do tập thể lãnh đạo giới thiệu; tóm tắt lý
lịch, quá trình học tập công tác; nhận xét, đánh giá ưu, khuyết điểm mặt
mạnh, mặt yếu, triển vọng phát triển; dự kiến phân công công tác đối với từng
cán bộ được giới thiệu.
Trường hợp người được giới thiệu bổ sung ngoài danh sách nhân sự do
lãnh đạo đưa ra lấy ý kiến, thì người giới thiệu phải báo cáo rõ và chịu trách nhiệm
về lý lịch, nhận xét, đánh giá của cá nhân mình về người của mình giới thiệu.
+ Lập danh sách lấy phiếu tín nhiệm.
+ Ghi phiếu lấy ý kiến (không phải ký tên)
Kết quả phiếu tín nhiệm có giá trị tham khảo quan trọng, là một
trong những căn cứ để xem xét, nhưng không phải là căn cứ duy nhất và
chủ yếu để quyết định.
- Tập thể lãnh đạo xem xét, quyết định bổ nhiệm hoặc trình lên cấp trên
bổ nhiệm theo quy định phân cấp quản lý cán bộ.
Tập thể lãnh đạo (cấp ủy đảng, lãnh đạo đơn vị) căn cứ ý kiến đề xuất
của các cá nhân có trách nhiệm, sự tín nhiệm của tập thể xem xét, đánh giá và

thảo luận một cách toàn diện, sau đó quyết định theo ý kiến của đa số các
thành viên trong lãnh đạo. Trường hợp có ý kiến khác nhau giữa tập thể lãnh
đạo và người đứng đầu cơ quan, đơn vị, thì báo cáo lên cấp trên xem xét,
quyết định.
Đối với những cán bộ thuộc diện của Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý
thì quy trình nêu trên được bổ sung thêm những yêu cầu cao hơn.
Khi cần thiết, cơ quan có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm cán bộ gặp,
trao đổi ý kiến hoặc uỷ quyền cho cơ quan tham mưu về công tác tổ chức cán bộ gặp, trao đổi ý kiến với nhân sự trước khi quyết định.
Quy trình xem xét bổ nhiệm lại cũng cơ bản như quy trình xem xét bổ
nhiệm lần đầu, gồm các bước chính:
- Cán bộ làm báo cáo tự nhận xét, đánh giá về việc thực hiện chức
trách, nhiệm vụ trong thời hạn giữ chức vụ.


20
- Tập thể cán bộ, công chức trong đơn vị tham gia ý kiến bằng phiếu kín.
- Cán bộ đứng đầu cơ quan, đơn vị trực tiếp sử dụng cán bộ nhận xét,
đánh giá và đề xuất ý kiến có bổ nhiệm lại hay không.
- Tập thể lãnh đạo xem xét, quyết định hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền
quyết định theo phân cấp quản lý cán bộ.
1.2. NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG BỔ NHIỆM CÁN BỘ
THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY QUẢN LÝ Ở CÁC HUYỆN MIỀN
NÚI TỈNH THANH HÓA

1.2.1. Đối tượng cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản
lý (cán bộ đảng, cán bộ chính quyền, cán bộ đoàn thể)
Căn cứ Quyết định số 67-QĐ/TW ngày 04-7-2007 của Bộ Chính trị về
việc ban hành "Quy định về phân cấp quản lý cán bộ", Ban Thường vụ Tỉnh
ủy Thanh Hóa đã ban hành Quyết định số 957- QĐ/TU ngày 28-4-2008 “Quy
định phân công, phân cấp quản lý tổ chức bộ máy và cán bộ”, trong đó quy

định trách nhiệm và quyền hạn quản lý tổ chức bộ máy và cán bộ của Ban
Thường vụ huyện, thị, thành ủy như sau:
- Quyết định phân công công tác các đồng chí ủy viên Ban Chấp hành,
ủy viên Ban Thường vụ huyện, thị, thành ủy.
- Trên cơ sở đề nghị của đồng chí Bí thư và Thường trực huyện, thị,
thành ủy; thảo luận và quyết định: tuyển chọn, bố trí, phân công công tác, giới
thiệu ứng cử, quy hoạch, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, khen thưởng,
kỷ luật, nhận xét, đánh giá và thực hiện chính sách đối với các chức danh: Phó
chủ tịch Hội đồng nhân dân (HĐND), Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND)
huyện, thị, thành phố; Trưởng, Phó trưởng ban của huyện ủy; Ủy viên trực
HĐND; Chánh, Phó Văn phòng huyện, thị, thành ủy; Trưởng, Phó phòng,
Chánh, Phó Văn phòng UBND huyện, thị, thành phố; Chủ tịch, Phó chủ tịch
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và Trưởng, Phó các đoàn thể, các đơn vị
trực thuộc huyện, thị, thành phố; Bí thư, Phó bí thư, Ủy viên Thường vụ Đảng


21
ủy; Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND xã, phường,
thị trấn; Bí thư tổ chức cơ sở đảng trực thuộc.
- Quyết định thực hiện quy trình nhân sự các chức danh cán bộ diện
Ban Thường vụ huyện, thị, thành ủy quản lý.
- Chuẩn bị nhân sự để Ban Chấp hành huyện đảng bộ xem xét, đề nghị
Ban Thường vụ Tỉnh ủy giới thiệu nhân sự ứng cử các chức danh Bí thư, Phó
bí thư huyện, thị, thành ủy; Chủ tịch HĐND và Chủ tịch UBND huyện, thị,
thành phố; giới thiệu nhân sự bổ sung uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện,
thị, thành phố. Giới thiệu bầu bổ sung ủy viên Ban
Thường vụ huyện, thị, thành ủy.
- Chuẩn y Ban Chấp hành, Bí thư, Phó Bí thư, Ủy viên Thường vụ, Chủ
nhiệm, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra các Đảng bộ, chi bộ trực thuộc; chỉ định bổ
sung Ủy viên Ban chấp hành, khi cần thiết chỉ định Bí thư Ban Chấp hành

Đảng bộ, chi bộ trực thuộc.
- Báo cáo cấp có thẩm quyền kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
đương chức và kế cận thuộc diện được phân cấp quản lý và diện Ban Thường
vụ Tỉnh ủy quản lý.
- Tham gia ý kiến với cơ quan cấp tỉnh về bố trí, bổ nhiệm, nhận xét
đánh giá cán bộ lãnh đạo của tổ chức theo ngành dọc đóng tại địa phương.
- Quyết định kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng viên theo quy
định của Điều lệ Đảng.
Như vậy, đội ngũ cán bộ thuộc diện BTVHU quản lý trước hết là những
cán bộ chủ chốt của huyện; những người được Ban Thường vụ trực tiếp đề
bạt, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, bố trí, sắp xếp, điều chuyển, khen thưởng,
thi hành kỷ luật và thực hiện các chính sách khác. BTVHU còn trực tiếp thực
hiện và chỉ đạo thực hiện việc kiểm tra, giám sát, quản lý hồ sơ nhằm theo
dõi, nắm tình hình đội ngũ này.
Căn cứ quyết định phân công, phân cấp về quản lý tổ chức bộ máy và
cán bộ nêu trên, đội ngũ cán bộ thuộc diện BTVHU quản lý gồm các nhóm
đối tượng cụ thể như sau:


22
Một là: Đội ngũ cán bộ công tác đảng, bao gồm các chức danh: Ủy viên
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, ủy viên Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy; Trưởng,
Phó các ban đảng (không phải là ủy viên BTVHU); Chánh, Phó Văn phòng
Huyện ủy; Giám đốc, Phó giám đốc Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện; các
đồng chí Bí thư (không phải là ủy viên Thường vụ Huyện ủy) và các Phó bí
thư và Ủy viên Thường vụ cấp ủy trực thuộc Huyện ủy.
Hai là: Đội ngũ cán bộ chính quyền và lãnh đạo, quản lý các cơ quan
hành chính, sự nghiệp bao gồm các chức danh: Phó chủ tịch HĐND, Phó chủ
tịch UBND, Ủy viên thường trực HĐND huyện; Trưởng, Phó phòng, Chánh,
Phó văn phòng UBND huyện; Trưởng, Phó giám đốc Đài truyền thanh truyền hình huyện; Giám đốc, Phó giám đốc Trung tâm giáo dục thường

xuyên; Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng Trường phổ thông dân tộc nội trú; Chủ
tịch, Phó chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND xã, thị trấn.
Ba là: Đội ngũ cán bộ mặt trận và các đoàn thể nhân dân bao gồm các
chức danh: Chủ tịch, Phó chủ tịch Ủy ban MTTQ và Trưởng, Phó các đoàn
thể chính trị - xã hội cấp huyện.
1.2.2. Đặc điểm việc bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện
ủy quản lý
Việc bổ nhiệm các chức danh cán bộ thuộc diện BTVHU quản lý vừa
có xem xét bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, vừa có xem xét để giới thiệu ứng cử.
Các chức danh bổ nhiệm và bổ nhiệm lại gồm: Trưởng, Phó các ban
đảng; Chánh, Phó Văn phòng Huyện ủy; Giám đốc, Phó giám đốc Trung tâm
bồi dưỡng chính trị huyện; Trưởng, Phó phòng, Chánh, Phó Văn phòng
UBND huyện; Trưởng, Phó các cơ quan trực thuộc huyện.
Các chức danh giới thiệu ứng cử gồm: ủy viên Ủy ban Kiểm tra, Chủ
nhiệm, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy; Bí thư, Phó bí thư, Ủy
viên Ban thường vụ Đảng uỷ và các tổ chức đảng trực thuộc; Phó chủ tịch
HĐND, Phó chủ tịch UBND, Ủy viên thường trực HĐND huyện; Chủ tịch,


23
Phó chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND xã, thị trấn; Chủ tịch, Phó
chủ tịch Ủy ban MTTQ, Trưởng, Phó các đoàn thể chính trị - xã hội cấp
huyện được BTVHU giới thiệu ứng cử để bầu cử theo quy định của Điều lệ
Đảng, Điều lệ MTTQ Việt Nam, điều lệ các đoàn thể chính trị - xã hội, Luật
Tổ chức HĐND và UBND.
1.2.3. Các bước của quy trình bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường
vụ Huyện ủy quản lý
1.2.3.1. Bổ nhiệm lần đầu
Bước 1: Căn cứ nhu cầu công tác, Thường trực HĐND, Thường trực
UBND, lãnh đạo các ban đảng, Ban Thường vụ các đoàn thể cấp huyện, Ban

Chấp hành các đảng bộ xã, thị trấn, các đảng ủy, chi bộ trực thuộc Huyện ủy
(gọi chung là tập thể lãnh đạo) trình BTVHU (bằng văn bản) về chủ trương,
số lượng và dự kiến phân công công tác đối với cán bộ được đề nghị bổ
nhiệm; đề xuất nhân sự cụ thể sau khi BTVHU đồng ý về chủ trương:
Bước 2: Trên cơ sở nguồn cán bộ trong quy hoạch và nhận xét, đánh giá
cán bộ, người đứng đầu, các thành viên lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cơ quan
tham mưu (Ban Tổ chức Huyện ủy) tham mưu đề xuất phương án nhân sự.
Bước 3: Tập thể lãnh đạo thảo luận, lựa chọn nhân sự và thông qua
nhận xét, đánh giá để lấy ý kiến của cán bộ trong cơ quan, đơn vị. Nhu cầu bổ
nhiệm một người có thể lựa chọn một người hoặc nhiều người.
Bước 4: Tổ chức lấy ý kiến về nguồn nhân sự. Thành phần tham gia lấy
ý kiến về nguồn nhân sự được quy định cụ thể cho mỗi chức danh bổ nhiệm,
nhưng phải phát huy được dân chủ trong xem xét lựa chọn cán bộ.
Trình tự lấy ý kiến gồm các công việc: trao đổi, thảo luận về yêu cầu
bổ nhiệm, tiêu chuẩn cán bộ; thông báo danh sách do tập thể lãnh đạo giới
thiệu, tóm tắt lý lịch, quá trình học tập công tác, nhận xét, đánh giá ưu, khuyết
điểm, mặt mạnh, mặt yếu, triển vọng phát triển, dự kiến phân công tác; giới
thiệu bổ sung nếu có (ngoài danh sách nhân sự do tập thể lãnh đạo giới thiệu);


24
ghi phiếu lấy ý kiến (không phải ký tên). Kết quả phiếu tín nhiệm có giá trị
tham khảo quan trọng, là một trong những căn cứ để xem xét, nhưng không
phải là căn cứ duy nhất và chủ yếu để quyết định.
Bước 5: Người đứng đầu cùng với tập thể lãnh đạo: phân tích kết quả
tổng hợp phiếu lấy ý kiến; xác minh, kết luận những vấn đề mới nảy sinh (nếu
có); lấy ý kiến bằng văn bản của Ban Thường vụ đảng ủy hoặc đảng ủy cơ
quan (những nơi không có Ban Thường vụ) về nhân sự được đề nghị bổ
nhiệm; tập thể lãnh đạo thảo luận, nhận xét, đánh giá và biểu quyết nhân sự
(bằng phiếu kín). Nhân sự được đề nghị bổ nhiệm phải được đa số các thành

viên trong trong tập thể lãnh đạo tán thành.
Bước 6: Làm tờ trình trình BTVHU xem xét, quyết định bổ nhiệm,
giới thiệu ứng cử hoặc thông báo kết luận cho cấp có thẩm quyền quyết định
bổ nhiệm.
Trường hợp người đứng đầu cơ quan, đơn vị và tập thể lãnh đạo có ý
kiến khác nhau thì cần báo cáo đầy đủ lên BTVHU xem xét, quyết định.
Trường hợp tập thể lãnh đạo giới thiệu hai người có số phiếu ngang
nhau thì chọn nhân sự do người đứng đầu giới thiệu để trình, đồng thời báo
cáo đầy đủ các ý kiến khác nhau để BTVHU xem xét, quyết định.
Bước 7: BTVHU thảo luận và quyết định bổ nhiệm bằng bỏ phiếu kín.
Ứng cử viên đạt từ nửa số ủy viên BTVHU trở lên đồng ý được bổ nhiệm.
1.2.3.2. Bổ nhiệm lại
Khi hết thời hạn giữ chức vụ bổ nhiệm theo quy định, phải xem xét có
hay không bổ nhiệm lại hoặc giới thiệu tái ứng cử.
Những cán bộ sau khi được bổ nhiệm, vì những lý do cụ thể, như: sức
khỏe không đảm bảo, không phù hợp với điều kiện làm việc, không hoàn
thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước... thì các cơ
quan tham mưu đề xuất và cấp lãnh đạo có thẩm quyền cần xem xét, thay thế
kịp thời, không chờ hết thời hạn giữ chức vụ bổ nhiệm.


25
Việc bổ nhiệm lại hoặc giới thiệu tái ứng cử được tiến hành từng bước,
phù hợp với quy định của Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước, điều lệ của
các đoàn thể chính trị - xã hội và yêu cầu của từng lĩnh vực, từng cơ quan,
đơn vị, từng cơ sở, bảo đảm ổn định và hiệu quả thiết thực.
Điều kiện bổ nhiệm lại: cán bộ phải hoàn thành nhiệm vụ trong thời
gian giữ chức vụ và vẫn đủ tiêu chuẩn, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong
thời gian tới; cơ quan đơn vị có yêu cầu; đủ sức khỏe để đảm nhiệm chức vụ
cũ. Những cán bộ tính đến tuổi nghỉ hưu không còn đủ một nhiệm kỳ bổ

nhiệm lại, nếu vẫn đáp ứng được yêu cầu công việc thì có thể tiếp tục giữ
chức vụ cho đến tuổi nghỉ hưu.
Quy trình, thủ tục bổ nhiệm lại:
- Cán bộ phải viết báo cáo tự nhận xét, đánh giá việc thực hiện chức
trách, nhiệm vụ trong thời hạn giữ chức vụ.
- Tập thể cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị tham gia đánh giá
bằng phiếu kín.
- Cán bộ đứng đầu cơ quan, đơn vị trực tiếp sử dụng cán bộ nhận xét,
đánh giá và đề xuất ý kiến có bổ nhiệm lại hay không. Tập thể lãnh đạo xem
xét quyết định và đề nghị BTVHU xem xét quyết định theo thẩm quyền.
1.2.4. Nội dung cụ thể của nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ
nhiệm cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý ở các huyện
miền núi tỉnh Thanh Hóa
Căn cứ Quyết định phân công, phân cấp quản lý tổ chức bộ máy và cán
bộ, Quyết định ban hành Quy chế bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng
cử của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa, các BTVHU phải xây dựng và
ban hành Quy chế bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử vào vị trí lãnh đạo,
quản lý trong HTCT của huyện theo thẩm quyền được phân cấp quản lý. Quy
chế này phải bảo đản thực hiện đúng các nguyên tắc, quy định, hướng dẫn của
Đảng về bổ nhiệm cán bộ và đúng nguyên tắc TTDC.


×