Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG đội NGŨ ĐẢNG VIÊN của các ĐẢNG bộ xã ở TỈNH cà MAU HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560 KB, 125 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC

Trang
3

TIỄN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG
VIÊN CỦA CÁC ĐẢNG BỘ XÃ Ở TỈNH CÀ MAU
Đội ngũ đảng viên và những vấn đề cơ bản về nâng cao chất

10

lượng đội ngũ đảng viên của các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau
1.2. Thực trạng, nguyên nhân và một số kinh nghiệm nâng cao chất

10

lượng đội ngũ đảng viên của các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau
Chương 2. YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO

33

1.1.

CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN CỦA CÁC
ĐẢNG BỘ XÃ Ở TỈNH CÀ MAU HIỆN NAY
2.1. Sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ và yêu cầu nâng cao

51


chất lượng đội ngũ đảng viên của các đảng bộ xã ở tỉnh Cà
Mau hiện nay
2.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của
các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

51
60
93
95
100


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng viên là tế bào cơ bản cấu thành tổ chức đảng; số lượng, chất
lượng đội ngũ đảng viên trực tiếp quyết định năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu, uy tín và danh dự của tổ chức đảng và toàn Đảng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng là gồm các đảng viên mà tổ chức nên. Mọi công
việc của Đảng đều do đảng viên làm. Mọi chính sách của Đảng đều do đảng
viên mà thấu đến quần chúng. Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do
đảng viên cố gắng thực hiện”[42,tr.235-236]. Trong hệ thống chính trị, đảng
viên là hạt nhân lãnh đạo, nguồn bổ sung cán bộ cho bộ máy của Đảng, Nhà
nước và các đoàn thể, là lực lượng nòng cốt trong các phong trào cách mạng
của các tổ chức và quần chúng. Vì vậy, Người cũng thường xuyên căn dặn:
chi bộ tốt là do có nhiều đảng viên tốt, đảng viên tốt thì Đảng mới mạnh,
Đảng có mạnh thì Đảng mới làm tròn nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo mọi mặt của đời sống

xã hội. Những thành tựu to lớn mà Đảng ta lãnh đạo trong các cuộc kháng
chiến chống giặc ngoại xâm và công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay, càng khẳng định
vị trí, vai trò quan trọng của đội ngũ đảng viên.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, từ
yêu cầu của cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn và nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức đặt ra những yêu cầu mới, cao hơn ở người đảng viên. Nếu
Đảng không tự đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, không chăm lo xây dựng đội
ngũ đảng viên vững mạnh thì Đảng không thể lãnh đạo thắng lợi nhiệm vụ
cách mạng trong tình hình mới.
Những năm qua, quán triệt các quan điểm, chủ trương, giải pháp của Đảng,
của Tỉnh ủy về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, các đảng bộ xã trong tỉnh Cà Mau đã

3


có những chủ trương, giải pháp nâng cao chất lượng nhằm bảo đảm cho đội ngũ
đảng viên ở cơ sở có số lượng, cơ cấu hợp lý và ngày càng nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động, đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ chính trị của đảng bộ xã
nói riêng và Đảng bộ tỉnh nói chung. Tuy nhiên, đội ngũ đảng viên cũng đang
có những hạn chế nhất định cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu; vai trò, tư
cách đảng viên chưa thực sự được phát huy, nhất là ở cơ sở địa phương…
Từ những vấn đề trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Nâng cao chất lượng
đội ngũ đảng viên của các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay” vừa là yêu
cầu thường xuyên, vừa thể hiện sự cấp bách hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Quán triệt Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, quy
định, hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
Trung ương Đảng; các chỉ thị, hướng dẫn của cơ quan đảng cấp trên, trong

những năm qua đã có nhiều cơ quan, cán bộ lãnh đaọ, quản lý, cán bộ khoa
học đã nghiên cứu về công tác xây dựng Đảng và công tác xây dựng đội ngũ
đảng viên của Đảng nói chung và xây dựng đội ngũ đảng viên ở các tổ chức
cơ sở đảng nói riêng. Tiêu biểu có các công trình, đề tài sau:
* Nhóm các công trình nghiên cứu về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ
mới” của PGS.TS Nguyễn Phú Trọng, PGS.TS Tô Huy Rứa và PGS.TS Trần
Khắc Việt đồng chủ biên, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004; “Nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của các Đảng bộ phường ở thủ đô Hà Nội hiện nay”
của tập thể tác giả, PGS, TS Đỗ Ngọc Ninh chủ biên, Nxb CTQG, Hà Nội, năm
2004; "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ
mới" của PGS Lê Văn Dương (chủ biên), Nxb CTQG, Hà Nội, 2004; "Nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong giai đoạn hiện
nay", Thông tin chuyên đề phục vụ nghiên cứu, giảng dạy, lưu hành nội bộ - Viện
4


Thông tin Khoa học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội, 2006: “Chất lượng các đảng bộ xã vùng đồng bằng tỉnh Thanh Hóa
giai đoạn hiện nay” (2004), “Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng cấp xã
tỉnh Vĩnh Long hiện nay”, luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành Xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam của Nguyễn Văn Bé Tư, Học viện Chính trị
Quân sự (2012);“Nâng cao chất lượng đảng bộ xã trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” của Dương Trung Ý
(Chủ biên), Nxb CTQG, H, 2012; “Nâng cao chất lượng hoạt động lãnh đạo
của tổ chức đảng ở các cơ quan thuộc Trường Sĩ quan chính trị hiện nay” luận
văn thạc sĩ Xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước, của Phạm Minh Sơn,
Học viện Chính trị (2013); “Nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng uỷ các
phường thuộc Đảng bộ quận Hà Đông, thành phố Hà Nội hiện nay”, Luận văn

thạc sỹ Nguyễn Hà Phương (2014)…
Từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, các công trình trên đã nghiên cứu
làm rõ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng ta về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của Đảng, của tổ chức cơ sở đảng, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm và
đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng và toàn Đảng trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, đề cập
vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là giải pháp quan trọng, mang tính
đột phá trong nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
* Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài
Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên cấp cơ sở đã được các nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu, tiêu biểu như: “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về công tác đảng viên trong giai đoạn mới của cách mạng nước ta”, Tạp chí
nghiên cứu lý luận số 4/1999 của Đậu Thế Biểu; “Nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ hiện nay”, Luận văn thạc sĩ
Luật học (2003) của Nguyễn Thị Hậu; “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
5


công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Trị hiện nay”, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004) của Dương
Hương Sơn; “Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở đơn vị cơ sở làm
nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu ở các binh đoàn chủ lực trong tình
tình hiện nay”, Luận án tiến sĩ quân sự, chuyên ngành công tác đảng, công tác
chính trị trong các lực lượng vũ trang (1999) của Phạm Đình Nhịn; “Nâng
cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các tổ chức cơ sở đảng phường và xã ven
đô trong công cuộc đổi mới hiện nay”, Luận án Phó tiến sĩ khoa học lịch sử,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1996) của Đặng Đình Phú; Lê
Văn Lượng (2002), Nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên trong
thanh niên các dân tộc thiểu số ở nông thôn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn hiện nay,

Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng đảng Cộng sản Việt
Nam; “Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở nông thôn đồng bằng sông
Hồng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Luận án
Tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh (2003) của Cao Thị Thanh Vân; Nguyễn Chí Tính (2004), Nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã tỉnh An Giang trong giai đoạn
hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam; Nguyễn Văn Chất (2005), Nâng cao chất lượng giáo
dục rèn luyện đảng viên là học viên người dân tộc thiểu số đào tạo cán bộ
chính trị cấp phân đội ở Học viện Chính trị Quân sự trong giai đoạn hiện
nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng đảng
Cộng sản Việt Nam; Lê Văn Cương (2005), Công tác phát triển đảng viên
trong nữ thanh niên dân tộc thiểu số của các đảng bộ xã miền núi tỉnh Thanh
Hóa trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên
ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam; Nguyễn Thị Ngọc Loan (2006),
Chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phường thành
phố Hà Nội giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên
6


ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam; Nguyễn Văn Hào (2013), Đẩy
mạnh công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ xã ở
Thành phố Đà Nẵng giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị,
chuyên ngành xây dựng đảng Cộng sản Việt Nam; Trần Hồng Phương (2015),
“Chất lượng công tác phát triển đảng là người dân tộc Khmer của các đảng
bộ xã, phường, thị trấn của tỉnh ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay”, Luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước, Hà Nội.
Nhìn tổng quát, trong những năm qua các công trình nghiên cứu có liên
quan đến đề tài luận văn đã công bố. Những công trình đó đã dựa chắc vào
học thuyết Mác - Lênin về chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân, tư

tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng đảng, quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung và công tác phát triển
đảng nói riêng, để luận giải những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn công
tác phát triển đảng, đưa ra quan niệm về chất lượng, phân tích thực trạng,
nguyên nhân, đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng công tác
phát triển đảng và xây dựng đội ngũ đảng viên theo phạm vi nghiên cứu.
Các công trình trên đây đã lựa chọn đối tượng nghiên cứu khác nhau
theo đối tượng, phạm vi nghiên cứu và đã có những đóng góp nhất định về lý
luận và thực tiễn trong phạm vi nghiên cứu; các công trình, đề tài đã đề cập
khá sâu sắc, toàn diện những vấn đề liên quan đến công tác đảng viên và tổ chức
đảng ở một số vùng, miền trọng điểm, lực lượng vũ trang của đất nước. Tuy vậy,
đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản chuyên sâu vấn đề
“Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu của mình, vừa có sự kế thừa, vừa không bị trùng lặp
với các công trình khoa học đã được công bố, nghiệm thu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn; đề xuất những giải pháp
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay.
7


* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên của các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau.
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau.
Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội
ngũ đảng viên của các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu: là nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của
các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau.
* Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực tiễn chất lượng và nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên của các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau (đảng viên
sinh hoạt tại các chi bộ trực thuộc các đảng bộ xã); điều tra, khảo sát ở các
đảng bộ xã điển hình trên địa bàn các huyện, thành phố trực thuộc tỉnh Cà
Mau, thời gian từ 2011 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng; nghị quyết, chỉ thị, quy định về
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, quy chế hoạt động của Đảng.
* Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn chất lượng đảng viên các đảng bộ xã ở tỉnh
Cà Mau thời gian qua; qua báo cáo sơ kết, tổng kết về công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, công tác xây dựng đội ngũ đảng viên; qua điều tra khảo sát
thực tế, trao đổi tọa đàm với cán bộ lãnh đạo, đảng viên, nhân dân để rút ra
những kết luận cần thiết phục vụ cho nội dung nghiên cứu của đề tài. Đồng thời,
có kế thừa tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các đề tài đã nghiệm thu,
công bố, ứng dụng có liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của
8


các khoa học xã hội và nhân văn; trong đó chú trọng sử dụng các phương
pháp kết hợp lôgich - lịch sử, phương pháp nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn, phân tích, tổng hợp khảo sát, điều tra thực tế và phương pháp chuyên
gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần vào làm rõ hơn những vấn đề
lý luận và thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học giúp cấp ủy các cấp thuộc Đảng

bộ tỉnh Cà Mau trong xác định các chủ trương, giải pháp nâng cao chất lượng
đội ngũ đảng viên nói chung, nhất là đảng viên ở các đảng bộ xã. Đồng thời,
đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập
môn xây dựng Đảng trong các nhà trường, trung tâm giáo dục chính trị hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.

9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN , THỰC TIỄN NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN CỦA CÁC ĐẢNG BỘ XÃ
Ở TỈNH CÀ MAU
1.1. Đội ngũ đảng viên và những vấn đề lý luận cơ bản về nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên của các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau
1.1.1. Đảng bộ xã và đội ngũ đảng viên của các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau
* Khái quát về tỉnh Cà Mau
Cà Mau là tỉnh cực Nam của Tổ quốc, là một trong những tỉnh thuộc
vùng Đồng bằng sông Cửu Long và nằm trọn trên bán đảo Cà Mau. Mũi Cà
Mau là địa danh có ý nghĩa thiêng liêng đối với nhân dân cả nước; là địa bàn
có tầm chiến lược về kinh tế - chính trị, quốc phòng - an ninh trong khu vực
và cả nước. Tỉnh có diện tích tự nhiên là 5.329,5 km 2, là tỉnh có diện tích vào
loại lớn trong vùng (chỉ sau tỉnh Kiên Giang). Đất đai của Cà Mau là đất trẻ,
mới được khai phá sử dụng, có độ phì trung bình khá, hàm lượng chất hữu cơ
cao. Các tài nguyên đất đai, khí hậu, nguồn nước… tương đối thuận lợi, là
tiềm năng lớn để phát triển kinh tế Ngư - Nông - Lâm nghiệp, tạo nguồn
nguyên liệu để phát triển công nghiệp chế biến xuất nhập khẩu và gắn với du
lịch sinh thái, biển đảo.

Tỉnh Cà Mau có 09 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 01 thành phố và
08 huyện (thành phố Cà Mau, huyện U Minh, Thới Bình, Trần Văn Thời,
Đầm Dơi, Cái Nước, Phú Tân, Năm Căn, Ngọc Hiển). Trong đó có 9 thị trấn,
10 phường và 82 xã. Dân số 1.222.199 người, bao gồm 3 dân tộc chính là
Kinh, Hoa, Khmer. Mật độ 230 người/km 2. Dân số nông thôn chiếm 79,8%.
Cà Mau có nhiều tôn giáo và thờ cúng tín ngưỡng dân gian. Vùng đất và con
người Cà Mau được hình thành và phát triển trên cơ sở khẩn hoang, lập
nghiệp, chung sức, chung lòng vượt qua mọi khó khăn, hiệp lực đấu tranh
chống lại mọi kẻ thù, bảo vệ quê hương, đất nước, tạo nên đời sống văn hóa
10


của người dân trên vùng đất cực Nam của Tổ quốc. Là địa phương giàu
truyền thống cách mạng, là căn cứ địa cách mạng của Xứ ủy Nam Bộ và Khu
ủy khu Tây Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Hiện
nay, trong sự nghiệp đổi mới, Cà Màu là tỉnh luôn có sự ổn định chính trị,
những năm gần đây phát triển khá nhanh, văn hóa-xã hội ngày càng phát
triển; QP,AN được giữ vững và tăng cường, góp phần quan trọng vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Bên cạnh đó, quá trình phát triển địa phương, thực hiện CNH,HĐH, phát
triển kinh tế nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong điều kiện thể chế kinh
tế thị trường, thì so với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong cả
nước, Cà Mau là một trong những địa phương, việc thu hút đầu tư, tốc độ phát
triển kinh tế còn chậm, chỉ số thu nhập JDP còn thấp, vẫn còn có những tàn dư
lạc hậu, tệ nạn phá rừng, huỷ hoại môi trường và các tệ nạn xã hội khác tác
động đến quá trình xây dựng và phát triển, thực hiện an sinh xã hội của tỉnh.
* Đảng bộ tỉnh Cà Mau
Đến cuối năm 2015, Đảng bộ tỉnh Cà Mau có 14 đảng bộ trực thuộc
(08 đảng bộ huyện, 01 đảng bộ thành phố, 01 Đảng bộ Dân chính đảng, 01
Đảng bộ khối Doanh nghiệp, 03 đảng bộ lực lượng vũ trang: Công an, Quân

sự, Biên phòng), có 620 TCCSĐ (gồm 221 đảng bộ cơ cở và 399 chi bộ cơ
sở), với trên 41.600 đảng viên.
Chất lượng TCCSĐ và đảng viên cuối năm 2015 như sau: TCCSĐ đạt
tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh chiếm 51,20%; TCCSĐ hoàn thành tốt
nhiệm vụ chiếm 36,77%%; TCCSĐ hoàn thành nhiệm vụ chiếm 10,96%;
TCCSĐ yếu kém chiếm 0,18%. Đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
chiếm 14,48%; đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ chiếm 76,29%; đảng viên
hoàn thành nhiệm vụ chiếm 11,90%; đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ
chiếm 0,76%.

11


Những năm qua, công tác xây dựng Đảng ở Đảng bộ tỉnh có sự chuyển
biến tích cực. Công tác chính trị, tư tưởng được quan tâm chỉ đạo thực hiện
tốt. Các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên tự giác thực hiện nghiêm túc
việc tự phê bình và phê bình, khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, hạn chế của
tập thể, cá nhân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) về xây
dựng Đảng. Ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, tính tiền phong
gương mẫu, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị ở
từng cấp, từng ngành, của cán bộ, đảng viên được nâng lên. Việc học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được triển khai sâu rộng; tạo sự
chuyển biến tích cực, hiệu quả trong học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối
sống và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức của Bác trong cán bộ, đảng
viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân. Tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng
viên và nhân dân ổn định; ý thức cảnh giác cách mạng được nâng lên, tích cực
đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, lệch lạc, âm mưu hoạt động
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, nhất là những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kết nạp đảng viên đảm bảo chất
lượng và số lượng.

* Các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau
Các đảng bộ xã là TCCSĐ trực thuộc các đảng bộ huyện, thành phố
trên địa bàn tỉnh Cà Mau. Hiện nay Đảng bộ tỉnh Cà Mau có 82 đảng bộ xã
với 20.668 đảng viên.
Đảng là một tổ chức chặt chẽ và khoa học từ Ban Chấp hành Trung ương
đến chi bộ. Các tổ chức đảng ở xã là một bộ phận cấu thành Đảng và là nền
tảng của Đảng. Nền tảng của Đảng vững chắc do sự vững mạnh của các tổ
chức cơ sở đảng lập thành; là cái bảo đảm cho sự vững chắc của toàn Đảng và
các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chi bộ là
nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”[44,tr.210].
Căn cứ Quy định số 95-QĐ/TW, ngày 03/3/2004 của Ban Bí thư về chức
12


năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, thì đảng bộ xã có 5 nhiệm vụ cơ
bản sau:
- Lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng.
Đảng bộ, chi bộ xã có trách nhiệm lãnh đạo chính quyền thực hiện các
chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo nghị quyết đại hội của
đảng bộ xã và của cấp trên; Lãnh đạo chính quyền thực hiện nhiệm vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp…Lãnh đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, thực
hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; giám sát
mọi hoạt động ở cơ sở theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước; mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; kịp
thời giải quyết những vướng mắc phát sinh trong cộng đồng dân cư ở cơ sở
theo đúng luật pháp, không để tích tụ mâu thuẫn trở thành những điểm nóng,
không để xảy ra tình trạng khiếu kiện tập thể, vượt cấp hoặc lợi dụng dân chủ
để làm mất ổn định chính trị ở nông thôn.
Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân và chính sách hậu

phương quân đội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; ngăn
chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, nhất là ma túy, mại dâm.
- Lãnh đạo công tác tư tưởng. Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh và phát huy
truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội trong các tầng lớp nhân
dân...Tuyên truyền, vận động làm cho nhân dân hiểu và chấp hành đúng
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các
nhiệm vụ của địa phương; kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp
nhân dân để giải quyết và báo cáo lên cấp trên. Lãnh đạo cán bộ, đảng viên và
nhân dân đấu tranh chống các quan điểm sai trái, những hành vi nói, viết và làm
trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
chống tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, bè phái, gia trưởng, bảo thủ và các hủ
13


tục lạc hậu, mê tín, dị đoan; phòng, chống sự suy thoái về đạo đức, lối sống của
cán bộ, đảng viên.
- Lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ. Đảng bộ, chi bộ xã có trách nhiệm
lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức trong hệ thống chính trị, các đơn
vị kinh tế, sự nghiệp ở cơ sở vững mạnh; xây dựng và thực hiện quy hoạch,
kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tích cực tạo nguồn cán bộ tại chỗ, từng
bước trẻ hóa đội ngũ cán bộ, công chức xã.
- Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở xã vững
mạnh, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định và điều lệ của mỗi
đoàn thể. Thực hiện tốt các chính sách về dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà
nước, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, thi đua thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao; tham gia xây
dựng, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước và các nhiệm vụ của địa phương, trước hết là những chủ trương, chính
sách về nông nghiệp, nông dân và nông thôn.

- Xây dựng tổ chức đảng. Đề ra chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp xây
dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh, gắn với xây dựng, củng cố hệ
thống chính trị ở cơ sở; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
đảng và đội ngũ đảng viên, nhất là việc phát hiện và đấu tranh chống tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác; chú trọng củng cố,
xây dựng và nâng cao chất lượng lãnh đạo của các chi bộ ở thôn (ấp, bản...).
Thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập
trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình; thực hiện có nền nếp và nâng
cao chất lượng sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ, bảo đảm tính lãnh
đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu.
Với vai trò là cầu nối trực tiếp giữa Đảng và quần chúng, Đảng bộ xã có
điều kiện lựa chọn những quần chúng ưu tú, có đủ điều kiện, tiêu chuẩn để bồi
dưỡng, giáo dục, rèn luyện, thử thách, kết nạp họ vào Đảng, tăng thêm nguồn
14


sinh lực cho Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng. Thông qua việc quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, tổ chức đảng ở xã
có trách nhiệm phát hiện, bồi dưỡng và rèn luyện đội ngũ cán bộ cho Đảng. Tổ
chức cơ sở đảng là nơi xuất phát đề cử ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng.
* Đội ngũ đảng viên của các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng viên:
C.Mác, PhĂngghen đã chỉ ra đặc trưng cơ bản nhất của người đảng viên
cộng sản: “Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất
trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn thúc đẩy phong
trào tiến lên; về mặt lý luận họ khác bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở
chỗ họ hiểu rõ những điều kiện và tiến trình và kết quả của phong
trào”[16,tr.343]. Quan điểm của C.Mác, PhĂngghen đã chỉ ra rằng, đảng
viên cộng sản phải là người tiên phong trong hoạt động thực tiễn cách mạng
và tư tưởng lý luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Mỗi đảng viên tốt,

mỗi chi bộ tốt là đảng được mạnh thêm một phần; đảng viên kém, chi bộ
kém là những khâu yếu của Đảng”[45,tr.166]. Xuất phát từ quan điểm đó,
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng vấn đề cốt lõi của
việc tạo dựng tổ chức là phải xây dựng đội ngũ đảng viên. Mọi biểu hiện coi
nhẹ, thái độ không nghiêm túc, không khoa học trong xây dựng đội ngũ
đảng viên là nguồn gốc làm cho Đảng lỏng lẽo về tổ chức, giảm sút năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu, dẫn đến làm biến chất, tan rã Đảng.
- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đảng viên:
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về người đảng viên cộng sản và trong công tác xây dựng đội ngũ đảng
viên, Đảng ta đặc biệt coi trọng chất lượng đảng viên, nhằm đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng. Nhờ đó Đảng ta đã xây
dựng được một đội ngũ đảng viên có phẩm chất chính trị vững vàng, có đạo
đức lối sống cách mạng, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, luôn
15


vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
chỉ rõ: “Đảng viên là chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp
công nhân Việt Nam suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi
ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá
nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ, các nghị quyết của
Đảng và pháp luật Nhà nước, có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao;
có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ
chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”.
Đảng viên của các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay là những người
đang công tác, sinh hoạt trong các cơ quan của xã, các đơn vị trường học trên
địa bàn xã, các chi bộ ấp và các đảng viên nghỉ hưu về sinh hoạt nơi cư
trú....do đảng bộ xã trực tiếp quản lý giáo dục, rèn luyện. Ngoài ra, còn có
những đảng viên công tác ở các cơ quan, đơn vị của cấp trên được giới thiệu

giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy nơi cư trú theo Quy định 76-QĐ/TW của
Bộ Chính trị.
Hiện nay, đội ngũ đảng viên của các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau có
20.668 đảng viên. Theo nhiệm vụ, điều kiện công tác, sinh hoạt có thể chia
đảng viên ở các đảng bộ xã theo ba nhóm: những đảng viên đang công tác
trong hệ thống chính trị xã và ở khu dân cư (ấp); những đảng viên là cán bộ,
công chức, viên chức đã về hưu về sinh hoạt nơi cư trú; những đảng viên cư
trú cùng với gia đình trên địa bàn xã nhưng đang công tác, làm việc ở ngoài
xã, như làm cho các đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế….
- Quan niệm về đội ngũ đảng viên của các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau
Khoa học về tổ chức đã chỉ ra rằng, nhằm tổ chức sự lãnh đạo của Đảng có
hiệu quả nhất, cần có một số lượng đảng viên đáp ứng quy mô của sự lãnh đạo.
Tuy nhiên, cần chống khuynh hướng chạy theo số lượng thuần tuý mà coi nhẹ
chất lượng. Đồng thời cần có một cơ cấu đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu lãnh
đạo, nhất là khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền. Tuy nhiên, trong vấn đề này cần

16


chống khuynh hướng nặng về cơ cấu đội ngũ mà hạ thấp tiêu chuẩn đảng viên.
Hậu quả của tình trạng này là bệnh hình thức, nặng về chỉ tiêu mà không quan tâm
đến vấn đề chất lượng. Học thuyết Mác - Lênin về xây dựng Đảng chỉ ra rằng,
phải xây dựng một hệ thống tổ chức thật sự khoa học, hợp lý để lãnh đạo, quản lý
đội ngũ đảng viên. Tổ chức đảng phải quản lý, lãnh đạo đảng viên, bởi trong thực
tiễn, hoạt động của người đảng viên đều liên quan trực tiếp đến vai trò, uy tín của
Đảng Cộng sản. Chỉ có gắn mình trong tổ chức thì sức mạnh của đội ngũ đảng
viên mới được phát huy. Vì vậy, trong quá trình nâng cao chất lượng đội ngũ đảng
viên phải đồng thời với việc nâng cao chất lượng tổ chức đảng để lãnh đạo, quản
lý đảng viên. Do vậy, đảng viên phải chịu sự quản lý trực tiếp của chi bộ. Đây là
loại hình tổ chức tế bào của Đảng, trực tiếp quản lý, lãnh đạo đảng viên. Theo

nguyên tắc của một đảng kiểu mới, mọi đảng viên phải tham gia sinh hoạt trong
một tổ chức đảng, trực tiếp là trong một chi bộ, không có ngoại lệ. Chi bộ có trách
nhiệm quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, tiến hành công tác phát triển đảng
viên mới. Thực tế cho thấy, để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, chi bộ, tổ
chức cơ sở đảng phải trong sạch vững mạnh, giữ đúng chế độ sinh hoạt, giữ
nghiêm kỷ luật đảng và làm tốt công tác phát triển đảng.
Từ quan điểm và phương pháp tiếp cận trên thấy rằng, để tạo thành các tổ
chức cơ sở đảng và tạo thành Đảng cần có đội ngũ đảng viên với một số lượng cần
thiết nhất định; một cơ cấu hợp lý và chất lượng đảng viên thể hiện ở tư cách và tiêu
chuẩn đảng viên. Theo đó, đội ngũ đảng viên của các đảng bộ xã bao gồm các yếu tố:
Số lượng đảng viên: phải có một số lượng đảng viên nhất định mới có
thể thành lập được tổ chức cơ sở đảng, chi bộ. Tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân
chính trị ở cơ sở, có chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo toàn diện mọi lĩnh vực
hoạt động, công tác của địa phương, cơ sở, vì vậy phải có số lượng đảng viên
nhất định. Điều lệ Đảng quy định: ở xã có từ ba đảng viên chính thức trở lên,
lập tổ chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp ủy cấp huyện); chi bộ trực thuộc đảng
ủy cơ sở được tổ chức theo nơi làm việc hoặc nơi ở của đảng viên; mỗi chi bộ
17


ít nhất có ba đảng viên chính thức. Chi bộ đông đảng viên có thể chia thành
nhiều tổ đảng.
Về cơ cấu: là hạt nhân chính trị ở cơ sở, có chức năng, nhiệm vụ lãnh
đạo toàn diện mọi lĩnh vực hoạt động, công tác của địa phương về chính trị tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh… Vì vậy, phải có cơ
cấu đội ngũ đảng viên hợp lý, bao gồm các vấn đề về chuyên môn, ngành
nghề, độ tuổi, trình độ học vấn, dân tộc, tôn giáo. Có như vậy mới bảo đảm sự
lãnh đạo của TCCSĐ bao quát các lĩnh vực trọng yếu và toàn diện.
Về chất lượng: chất lượng đội ngũ đảng viên thể hiện ở tư cách, tiêu
chuẩn và việc hoàn thành nhiệm vụ đảng viên. Đó là phẩm chất chính trị, đạo
đức, lối sống, năng lực hoàn thành nhiệm vụ của người đảng viên.

Giữa các yếu tố tạo thành đội ngũ đảng viên có mối quan hệ biện chứng
với nhau tạo điều kiện làm tiền đề hỗ trợ cho nhau, tạo nên sức mạnh tổng
hợp của đội ngũ. Vì vậy, nâng cao chất lượng phải đặc biệt quan tâm các yếu
tố đó, không coi nhẹ bất cứ yếu tố nào, trong đó đặc biệt coi trọng chất lượng.
- Vai trò của đội ngũ đảng viên của các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau:
Một là, đảng viên là người chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; đại biểu ưu tú trong các
tổ chức, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân lao động ở cơ sở địa phương.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Đảng chính là đội quân ưu tú nhất, là
bộ tham mưu chính trị của gia cấp công nhân và là đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng ta
hoạt động không vì mục đích tự thân của mình, mà chính là vì hạnh phúc của
nhân dân, tức là nhằm xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên CNXH. Đảng Cộng sản
Việt Nam trước hết là một tổ chức, Đảng là một cơ thể chính trị - xã hội sống,
cho nên toàn bộ sức mạnh của Đảng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng đều được tạo thành từ mỗi một thành viên trong tổ chức, từ mỗi tế bào
18


cấu tạo nên Đảng, tức là từ từng người đảng viên. Nói cách khác, sức mạnh
của Đảng phụ thuộc vào số lượng và chất lượng của đội ngũ đảng viên. Đảng
viên tồn tại gắn liền với tổ chức; chịu sự lãnh đạo, giáo dục, quản lý, kiểm tra
của tổ chức. Tổ chức mạnh đảm bảo từng người mạnh, từng người mạnh
khiến cả tổ chức mạnh. Chất lượng đội ngũ đảng viên ngày càng cao, nội bộ
càng ổn định, thì uy tín của Đảng đối với quần chúng càng lớn.
Ở các xã, phường, thị trấn, là nơi cụ thể hóa đường lối, nghị quyết của
Đảng. Do đó, đảng viên là người trực tiếp đại biểu cho đường lối chính sách
của Đảng, xây dựng và góp phần bổ sung, hoàn chỉnh đường lối, chính sách;

là người trực tiếp tuyên truyền vận động, gương mẫu đi đầu trong tổ chức
thực hiện theo lời dạy của Bác: “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.
Trong các tổ chức đoàn thể, các tầng lớp nhân dân lao động ở địa phương,
bao giờ đảng viên cũng là đại biểu trong các tổ chức và là “đầu tầu” trên các
mặt hoạt động, các nhiệm vụ và phong trào của đại phương, đoàn thể.
Hai là, đội ngũ đảng viên ở các xã, phường, thị trấn trực tiếp góp phần
xây dựng, hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng; cụ thể hóa chủ
trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, nghị quyết của cấp ủy cấp trên
thành nghị quyết của cấp ủy cấp mình; đồng thời có trách nhiệm tổ chức
triển thực hiện thắng lợi ở địa phương cơ sở; tăng cường mối liên hệ máu
thịt giữa Đảng với nhân dân.
Đảng viên là người đóng góp ý kiến, góp phần xây dựng đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, nhiệm vụ chính trị của TCCSĐ và trực tiếp tổ chức
thực hiện. Trong quá trình thực hiện, đảng viên góp phần kiểm nghiệm đường
lối chính sách của Đảng, phát hiện những điều chưa hợp lý của đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng để cấp có
thẩm quyền bổ sung, làm cho đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đúng
đắn hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng: “Mỗi công việc của Đảng đều do đảng
viên làm. Mọi nghị quyết của Đảng đều do đảng viên chấp hành. Mọi khẩu hiệu,
19


kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện”[42,tr.235-236].
Đảng viên là người đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào
quần chúng, trực tiếp lãnh đạo, tổ chức, giáo dục quần chúng thực hiện. Chủ
tịch Hồ Chí Minh viết: “Mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu
đến quần chúng”; “Mỗi đảng viên là người thay mặt cho Đảng trước quần
chúng, để giải thích chính sách của Đảng và chính phủ cho quần chúng hiểu
rõ và vui lòng thi hành”[41,tr.189]. Như vậy, đảng viên không chỉ là người
đóng góp ý kiến, góp phần xây dựng, hoàn thiện đường lối chủ trương, chính

sách của Đảng, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ mà còn trực tiếp tổ chức thực
hiện. Với ý nghĩa đó đảng viên chính là người xây dựng, củng cố, tăng cường
mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân ở xã.
Ba là, người đảng viên dù ở cương vị nào, cũng vừa là người lãnh đạo, vừa
là người phục vụ quần chúng; đảng viên ở các đảng bộ xã là người thường xuyên,
trực tiếp tiếp xúc với nhân dân, cầu nối, phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân
dân với Đảng mà trực tiếp là các cấp ủy đảng ở địa phương.
Vai trò đó của người đảng viên là sự quán triệt, thực hiện tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng Đảng. Trong mỗi con người đảng viên, người lãnh đạo
và người đầy tớ luôn thống nhất với nhau trong mọi mặt hoạt động lãnh đạo
của đảng bộ địa phương.
Với vai trò là người lãnh đạo, Đảng phải thuyết phục, thu phục được
quần chúng. Muốn vậy, đường lối, chính sách của Đảng phải thực sự đúng
đắn, cách mạng và khoa học, phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân,
thực sự là ngọn đèn dẫn lối, soi đường cho nhân dân hành động. Để thực hiện,
Đảng yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thực sự gương mẫu trước nhân
dân, nói đi đôi với làm, phải có cái tâm, cái trí, cái đức; thực sự trung thành đối
với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Mọi đảng viên, tổ chức đảng phải thực sự là
người lãnh đạo xứng đáng của nhân dân chứ không phải theo đuôi, a dua đối với
quần chúng.
20


Với vai trò là người đầy tớ trung thành của nhân dân, đòi hỏi mục đích hoạt
động lãnh đạo của Đảng là phục vụ nhân dân, đem lại quyền lợi cho nhân dân
chứ không nhằm mục đích nào khác. Mọi đảng viên phải tiêu biểu cho đạo lý
chí công vô tư, mình vì mọi người. thực sự là công bộc của dân; phải tôn
trọng, lắng nghe ý kiến nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân.
Hiện nay, với vai trò này, đòi hỏi người đảng viên phải có lập trường
chính trị vững vàng, trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, với sự

nghiệp đổi mới; có năng lực trí tuệ, am hiểu thực tiễn; có nhiệt tình cách
mạng cao và năng lực hành động. Đấu tranh, loại trừ những thói ba hoa, chủ
nghĩa cá nhân, thành tích, căn bệnh tự kiêu, tự đại, công thần, quan liêu, tham
nhũng, xa rời quần chúng ở từng địa bàn, cơ sở.
Bốn là, đảng viên ở các đảng bộ xã là tiền đề, là cơ sở để xây dựng, bổ
sung nguồn phát triển đội ngũ cán bộ của cơ quan lãnh đạo, chính quyền, các
tổ chức chính trị-xã hội ở cơ sở và cấp trên.
Trong điều kiện đảng cầm quyền, tuyệt đại bộ phận đảng viên giữ trọng
trách trong các cơ quan bộ máy chính quyền từ Trung ương đến cơ sở. Vì vậy,
muốn phát triển trở thành cán bộ thì trước hết phải là đảng viên của Đảng. Mỗi
cán bộ phải là người đại biểu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng, có khả năng tuyên
truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động, tập hợp quần chúng; phát động các phong
trào quần chúng nhằm từng bước hiện thực hoá Cương lĩnh chính trị, đường lối,
nghị quyết của Đảng trong từng giai đoạn.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau
* Quan niệm chất lượng đội ngũ đảng viên các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau
Để có quan niệm đúng đắn về chất lượng đội ngũ đảng viên các đảng bộ
xã ở tỉnh Cà Mau cần thống nhất nhận thức về chất lượng nói chung.
Chất lượng là thuộc tính vốn có, là cái tạo nên giá trị của sự vật, hiện
tượng, con người. Chất lượng quy định những đặc điểm và tính chất khách

21


quan vốn có của sự vật, hiện tượng và biểu hiện bằng các thuộc tính của sự
vật, hiện tượng. Chất lượng là biểu hiện giá trị và cũng là để phân biệt sự vật,
hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác. Chất lượng có thể đánh giá được
về định lượng và định tính thông qua các phương pháp khoa học.
Mỗi một sự vật, hiện tượng có chất lượng khác nhau, giá trị tác dụng khác

nhau, do đó phương pháp nghiên cứu, đánh giá chất lượng không giống nhau. Chất
lượng của một sự vật, hiện tượng, con người được biểu hiện ở giá trị, tác dụng trong
đời sống. Đánh giá chất lượng hoạt động trong lĩnh vực chính trị - xã hội thường là
phức tạp hơn trong lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ, y học...
Đội ngũ đảng viên các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau là một chỉnh thể bao
gồm nhiều nhân tố hợp thành: số lượng, cơ cấu và phẩm chất, năng lực của
từng người và cả đội ngũ. Các yếu tố ấy có vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ
khác nhau, nhưng có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Hoạt động của yếu tố này
là tiền đề, điều kiện của yếu tố kia và ngược lại. Nếu một yếu tố nào đó hoạt
động kém hiệu quả sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ đảng viên các
đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau. Vì vậy, xem xét chất lượng đội ngũ đảng viên các
đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau phải xem xét hoạt động của từng mặt, từng bộ
phận, yếu tố hợp thành nó. Để đánh giá chất lượng đội ngũ đảng viên các
đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau, phải nghiên cứu số lượng, cơ cấu và phẩm chất,
năng lực của từng người và cả đội ngũ và ở kết quả thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của từng người và cả đội ngũ. Bởi vì, kết quả thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của từng người và cả đội ngũ phản ánh kết quả vận động và phát
triển tổng hợp của các nhân tố ấy.
Từ phân tích trên, có thể quan niệm: Chất lượng đội ngũ đảng viên các
đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau là tổng hoà giá trị của các yếu tố hợp thành công
tác đảng viên của cấp ủy, tổ chức đảng được thể hiện ra ở số lượng, cơ cấu
và việc đáp ứng tiêu chuẩn đảng viên theo quy định của Điều lệ Đảng, bảo
đảm sự trong sạch vững mạnh của từng tổ chức và toàn đảng bộ, thực sự là
hạt nhân chính trị, nền tảng của Đảng ở cơ sở địa phương.

22


* Những yếu tố quy định chất lượng đội ngũ đảng viên.
Chất lượng của đội ngũ đảng viên là tổng hợp các yếu tố biểu hiện ở số

lượng, cơ cấu đội ngũ đảng viên; ở phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong
công tác và kết quả hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ đảng viên.
Một là, số lượng, cơ cấu đội ngũ đảng viên.
Muốn có một đội ngũ, bao giờ cũng phải có số lượng nhất định. Số
lượng đảng viên ở các xã không chỉ bảo đảm cho đảng bộ địa phương đủ sức
lãnh đạo mà còn bảo đảm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động,
bảo đảm cho sự phát triển đội ngũ cán bộ cả trước mắt và lâu dài. Vì vậy,
trong đánh giá chất lượng đội ngũ đảng viên bao giờ cũng dựa vào số lượng
đảng viên thực tế.
Chất lượng đội ngũ đảng viên còn phụ thuộc vào cơ cấu đội ngũ. Để có
một đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, bao giờ cũng phải có một
cơ cấu đồng bộ, hợp lý cả về độ tuổi, giới tính, năng lực, trình độ, thâm niên,
phạm vi lãnh đạo…để bảo đảm sự kế thừa, chuyển tiếp vững chắc giữa các
thế hệ đảng viên. Do sự đa dạng về địa bàn hoạt động, cần phải có một cơ cấu
đội ngũ đảng viên hợp lý để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, bao quát về mọi
mặt, phạm vi lãnh đạo của các tổ chức đảng.
Hai là, tiêu chuẩn đảng viên là yếu tố quy định chất lượng đội ngũ
đảng viên. Trong từng giai đoạn phát triển của cách mạng, yêu cầu đặt ra đối
với tiêu chuẩn của người đảng viên ngày càng cao và Đảng đều có sự bổ
sung, phát triển về nội dung tiêu chuẩn của đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ. Tiêu chuẩn đảng viên, trước hết biểu hiện yêu cầu về phẩm chất chính trị,
đạo đức lối sống đối với đảng viên. Đây là “gốc, rễ, nền tảng” chi phối, định
hướng, phong cách làm việc của đảng viên. Chỉ có tuyệt đối trung thành với
mục tiêu lý tưởng của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, tận tâm, tận tuỵ với công việc thì từng
đảng viên mới say mê nghiên cứu tìm tòi, suy nghĩ lựa chọn cách thức, biện
pháp nhằm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Chỉ có mẫu mực về đạo
23



đức, lối sống có ý thức tổ chức kỷ luật cao, mới bảo đảm cho từng tổ chức đảng
thực sự là trung tâm đoàn kết, mới vận động, giáo dục, thuyết phục, cảm hoá
được quần chúng và phát động quần chúng thực hiện các chủ trương, biện pháp
lãnh đạo của đảng bộ.
Tiêu chuẩn đảng viên biểu hiện ở yêu cầu về trình độ, năng lực của mỗi
đảng viên. Đây là yếu tố trực tiếp quy định đến chất lượng của từng đảng viên
và tổ chức đảng. Nếu trình độ thấp, năng lực của từng đảng viên yếu thì khó có
thể tạo ra một chất lượng của một đội ngũ. Tiêu chuẩn đảng viên còn biểu hiện ở
yêu cầu phương pháp, tác phong công tác của mỗi đảng viên. Nếu chỉ có phẩm
chất, kiến thức, năng lực thì vẫn chưa đủ mà còn cần phải có phương pháp làm
việc khoa học. Nếu có chủ trương, biện pháp đúng, nhưng phương pháp không
phù hợp thì cũng không đem lại hiệu quả như mong muốn. Phương pháp, tác
phong công tác của đảng viên gắn liền với phương pháp lãnh đạo của Đảng. Đó
chính là lý luận gắn liền với thực tiễn, nói đi đôi với làm, là xây dựng và nhân điển
hình; phương pháp nêu gương bản thân. Đồng thời, đó còn là việc chấp hành
nguyên tắc tổ chức sinh hoạt, giữ gìn kỷ luật đảng; xây dựng và thực hiện các quy
chế dân chủ trong Đảng…đó là nhân tố căn bản, trực tiếp tạo nên chất lượng của
từng đảng viên và cả đội ngũ.
Ba là, kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ đảng viên.
Phẩm chất, năng lực của đảng viên, chất lượng của đội ngũ phải được
biểu hiện ở kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, yêu cầu công tác xây
dựng đảng bộ. Nói cách khác, kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ của người
đảng viên và lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng cơ sở địa phương là
yếu tố suy cho cùng quy định chất lượng đảng viên và cả đội ngũ. Mỗi đảng viên
ngoài thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng, phải hoàn thành tốt
nhất theo từng cương vị, chức trách được giao. Chất lượng, hiệu quả thực hiện
chức trách, nhiệm vụ của đảng viên thấp thì không thể đánh giá người đảng viên
đó có phẩm chất, năng lực tốt được và nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương cơ
sở có sự khác nhau và mức độ, hiệu quả công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
24



đó chính là thước đo để đánh giá chất lượng của đội ngũ đảng viên và công tác
xây dựng đảng bộ.
Những yếu tố trên là thể thống nhất, tác động qua lại, quy định chất lượng
của đội ngũ đảng viên nói chung và đội ngũ đảng viên các đảng bộ xã ở tỉnh Cà
Mau nói riêng. Ngoài những yếu tố cơ bản trên quy định trực tiếp đến chất lượng
đội ngũ, còn có các yếu tố khách quan, chủ quan khác chi phối đến chất lượng
của đội ngũ, như: chất lượng của cấp ủy, tổ chức đảng với tư cách là chủ thể của
quá trình lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng đội ngũ đảng viên; chất lượng tiến
hành các mặt công tác kiểm tra, giám sát và công tác bảo vệ chính trị nội bộ của
cấp ủy, tổ chức đảng; điều kiện, môi trường làm việc, hoàn cảnh hậu phương gia
đình của từng đảng viên cũng ảnh hưởng, chi phối đến chất lượng đội ngũ đảng
viên nói chung và ở các đảng bộ xã trên địa bàn tỉnh Cà Mau nói riêng.
* Quan niệm nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của các đảng bộ xã
ở tỉnh Cà Mau.
Trong đời sống, thuật ngữ “nâng cao” được hiểu là hoạt động của chủ
thể tác động vào đối tượng nào đó làm cho chúng cao hơn, phát triển hơn trước
đây để đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội, cá nhân. Thuật ngữ này cũng còn
biểu đạt sự tự thân vận động, tự thân phát triển của một chủ thể nào đó để phẩm
chất, năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu của hoạt động thực tiễn. Khi nghiên cứu
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau phải nắm
vững quan điểm hệ thống, tính chỉnh thể của hoạt động thực tiễn của con người
trong đời sống xã hội. Bất cứ một hoạt động nào đó của con người cũng đều có
mục đích, đối tượng tác động, nội dung, phương thức, phương tiện và được diễn
ra trong thời gian, không gian cụ thể. Nếu một khâu, một công việc nào đó trục
trặc, hoạt động kém kết quả, lập tức sẽ làm ảnh hưởng đến các khâu khác, mặt
khác mà do đó kết quả hoạt động sẽ rất hạn chế, thậm chí thất bại, không đạt
được mục đích đề ra.
Từ những phân tích trên, có thể quan niệm nâng cao chất lượng đội ngũ đảng

25


viên các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau là tổng thể các hoạt động của tổ chức đảng tác
động vào yếu tố cấu thành chất lượng nhằm tạo sự chuyển biến, phát triển về số
lượng, cơ cấu phù hợp, có phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực đáp ứng tiêu
chuẩn đảng viên thời kỳ mới, góp phần xây dựng các tổ chức đảng trong sạch,
vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, hoàn
thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Mục đích nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên các đảng bộ xã là nhằm
phát triển đội ngũ về số lượng, với cơ cấu phù hợp, có phẩm chất chính trị,
đạo đức, năng lực đáp ứng tiêu chuẩn đảng viên thời kỳ mới; xây dựng đảng
bộ xã TSVM, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu,
hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Chủ thể nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên các đảng bộ xã là các cấp
ủy, tổ chức đảng, các ban chức năng của cấp ủy; đội ngũ đảng viên. Trong đó
chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo là cấp ủy đảng các cấp ở địa phương, mà đảng ủy
các xã, các chi ủy, chi bộ thuộc đảng bộ các xã là chủ thể trực tiếp lãnh đạo
triển khai tổ chức thực hiện; đội ngũ đảng viên vừa là đối tượng, vừa là chủ
thể với tư cách tự tu dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất, trình độ về mọi
mặt đáp ứng yêu cầu chức trách, nhiệm vụ được phân công.
Lực lượng tham gia nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên các đảng
bộ xã là toàn bộ các tổ chức trong hệ thống chính trị và nhân dân. Mỗi một
tổ chức, lực lượng có vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ khác nhau nhưng
đều nhằm mục đích giáo dục, rèn luyện, tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình phát triển chất lượng đội ngũ đảng viên các đảng bộ xã. Mọi hoạt
động của các cơ quan ban ngành, đoàn thể ở địa phương nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên các đảng bộ xã đều được thực hiện dưới sự
lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng.
Đối tượng nâng cao chất lượng là đội ngũ đảng viên của các đảng bộ

xã, bao gồm những đảng viên đang công tác trong hệ thống chính trị xã và
những đảng viên đã nghỉ hưu, hưởng các chế độ chính sách, những đảng viên
26


×