Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý HOẠT ĐỘNG tự học của học VIÊN đào tạo hệ đại học tại học VIỆN QUÂN y

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (886.79 KB, 114 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ
HỌC CỦA HỌC VIÊN HỆ ĐẠI HỌC Ở HỌC VIỆN
QUÂN Y
14
1.1. Các khái niệm cơ bản
14
1.2. Nội dung quản lý hoạt động tự học của học viên hệ đại học
ở Học viện Quân y
24
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động tự học của học
viên hệ đào tạo đại học ở Học viện Quân y
30
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ
HỌC CỦA HỌC VIÊN HỆ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC Ở
HỌC VIỆN QUÂN Y
38
2.1. Khái quát chung về Học viện Quân y
38
2.2. Thực trạng hoạt động tự học của học viên hệ đào tạo đại học
ở Học viện Quân y
43
2.3. Thực trạng quản lý hoạt động tự học của học viên hệ đào tạo
đại học ở Học viện Quân y
49
Chương 3. BIỆN PHÁP VÀ KHẢO NGHIỆM BIỆN PHÁP QUẢN
LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA HỌC VIÊN HỆ ĐÀO
TẠO ĐẠI HỌC Ở HỌC VIỆN QUÂN Y


67
3.1. Các biện pháp quản lý tự học của học viên hệ đào tạo đại
học ở Học viện Quân y
67
3.2. Khảo nghiệm sự cần thiết, tính khả thi của các biện pháp
86
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
96
PHỤ LỤC
100


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tự học và học suốt đời là một trong những chìa khóa bước vào thế kỷ
XXI, đặc biệt, trong quan niệm mới về “học tập suốt đời: Một động lực của
xã hội” sẽ giúp con người đáp ứng yêu cầu của một thế giới đang thay đổi
nhanh chóng. Điều này càng được đòi hỏi mãnh liệt hơn khi khoa học kỹ
thuật phát triển như vũ bão làm cho con người “Không thể thỏa mãn những
đòi hỏi đó được, nếu mỗi người không học cách học”. Tự học là phương
pháp duy nhất giúp con người luôn phát triển, tự hoàn thiện trước yêu cầu
ngày càng cao của thực tiễn hiện nay.
Ở mỗi cấp học khác nhau có yêu cầu về tự học khác nhau, càng ở các
cấp học cao thì yêu cầu về tự học càng lớn. Học ở Đại học đòi hỏi ở học
viên phải lĩnh hội một khối lượng nội dung tri thức nhiều và khó, thời gian
dành cho tự học, tự nghiên cứu khá dồi dào, hơn nữa hiện nay ở nước ta
thực hiện chế độ 1 tuần làm việc 5 ngày nên thời gian trên giảng đường của
học viên ít và thời lượng dành cho học viên tự học càng nhiều hơn. Quá

trình tự học giúp học viên từng bước chiếm lĩnh tri thức chung của nhân
loại cho riêng mình một cách tự giác, tích cực và độc lập đã trở thành một
yếu tố quyết định chất lượng đào tạo ở các nhà trường Đại học hiện nay. Vì
vậy nghiên cứu về tự học để nâng cao hiệu quả tự học trong hoạt động dạy
học ở Đại học càng trở nên quan trọng và cấp thiết.
Tự học ở Đại học là một trong những hình thức tổ chức dạy học cơ
bản có tính độc lập cao và mang đậm nét sắc thái cá nhân nhưng có quan hệ
chặt chẽ với quá trình dạy học. Nội dung của tự học rất phong phú, bao
gồm toàn bộ những công việc học tập do cá nhân và có khi do tập thể học
viên tiến hành ngoài giờ học chính khóa hoặc do bản thân học viên độc lập
tiến hành ngay trong giờ chính khóa như: Đọc sách ghi chép theo cách
riêng, làm bài tập, tham gia các hoạt động thực tế …
3


Thực tiễn cho thấy, ngoài việc hoàn thành các nhiệm vụ học tập theo
chương trình đào tạo, nhờ tự học, học viên còn nâng cao trình độ văn hóa
chung cho mình để đáp ứng yêu cầu của cuộc sống đặt ra. Ngoài ra, nếu tổ
chức tốt công tác tự học sẽ giúp cho học viên phát triển tính tự giác, tích
cực và tính độc lập nhận thức, khắc phục tính thụ động, ỷ lại vào thầy hoặc
người khác; làm quen với cách làm việc độc lập - tiền đề, cơ sở để nâng
cao học vấn đáp ứng sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong thực tiễn
công tác sau này; bồi dưỡng hứng thú học tập, rèn luyện ý chí phấn đấu,
đức tính kiên trì, óc phê phán, nâng cao niềm tin và năng lực bản thân.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của tự học, những năm qua. Dưới
sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thường vụ, Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện
Quân y đã có chủ trương, biện pháp cụ thể nâng cao chất lượng đào tạo.
Đặc biệt, vấn đề tự học, tự nghiên cứu của học viên được tạo điều kiện tối
đa, giúp các em có những trải nghiệm thực tiễn, lĩnh hội kiến thức, rèn
luyện kỹ năng, tay nghề và bản lĩnh của người thầy thuốc tương lai. Kết

quả cho thấy, 100 % học viên ra trường đã đáp ứng được các yêu cầu khám
bệnh, chữa bệnh, một số học viên đã phát triển tốt thành các chuyên gia
đầu ngành trong các lĩnh vực y học. Tuy nhiên, bên cạnh đó, một số học
viên chất lượng học tập còn chưa cao, tính tự giác trong tự học, tự rèn
luyện còn kém, chưa thực sự chủ động, tích cực tham gia các hình thức học
tập khi thiếu, vắng sự giám sát của giáo viên, cán bộ quản lý.
Mặt khác, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học y học, của thực
tiễn khám bệnh, chữa bệnh, một số học viên còn chưa đáp ứng được yêu
cầu đặt ra. Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan;
nhưng trong đó nguyên nhân chủ quan như: Phương pháp dạy học y học
còn chưa phát huy được tính tích cực, chủ động của học viên; các hình thức
tổ chức dạy học còn đơn điệu, chưa phong phú; Học viên chưa nhận thức rõ
về vai trò tự học đối với nghề nghiệp tương lai. Tự học chưa trở thành
4


phong trào sâu, rộng trong toàn Học viện; học viên còn thiếu kỹ năng và
phương pháp tự học … Đặc biệt, một trong những nguyên nhân góp phần
làm giảm chất lượng tự học của học viên là công tác quản lý còn lỏng lẻo,
thiếu đồng bộ; xây dựng kế hoạch, nội dung quản lý tự học của học viên
đôi khi chưa thường xuyên và mang tính hình thức. Tổ chức thực hiện kế
hoạch tự học cho học viên còn chưa nhiều, yếu tố ngoại cảnh chi phối;
công tác kiểm tra, đánh giá kết quả tự học, tự rèn luyện của học viên còn
chưa thường xuyên, khách quan và chính xác … Vì vậy nghiên cứu tìm ra
biện pháp quản lý, nâng cao chất lượng tự học của học viên hệ đào tạo đại
học ở HVQY đang là vấn đề được cấp ủy, chỉ huy các cấp hết sức quan tâm.
Nghiên cứu về tự học, quản lý hoạt động tự học của học viên được
nhiều Nhà khoa học trong và ngoài quân đội quan tâm đề cập ở các khía
cạnh, góc độ khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu về quản lý hoạt động tự
học của học viên ở một địa điểm cụ thể là HVQY thì chưa có đề tài nào

nghiên cứu một cách cụ thể và hệ thống. Từ những lý do trên, chúng tôi lựa
chọn “Quản lý hoạt động tự học của học viên hệ đào tạo đại học ở Học
viện Quân y” làm đề tài nghiên cứu với mong muốn đưa ra những kiến giải
khoa học trước thực trạng nêu trên, góp phần nâng cao chất lượng quản lý
hoạt động dạy học, chất lượng giáo dục và đào tạo ở HVQY hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Những tư tưởng và nghiên cứu về tự học trên thế giới
Trong lịch sử giáo dục, vấn đề tổ chức hoạt động tự học được quan
tâm từ rất sớm. Ý tưởng dạy học coi trọng người học, chú ý đến tự học đã
có từ thời cổ đại, tuy chưa đề cập trực tiếp đến vấn đề tự học nhưng đã
bước đầu khẳng định vai trò và ý nghĩa to lớn của việc tự tìm tòi học hỏi,
khám phá, trang bị tri thức cho bản thân. Tuỳ theo từng giai đoạn lịch sử và
mức độ phát triển của xã hội mà ý tưởng này đã phát triển và trở thành
quan điểm dạy học tiến bộ ngày nay.
5


Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ra đời đã quan tâm đến hoạt động học tập cho tất cả mọi người. Hoạt động
học tập của ngưòi học ngày càng được cải tiến theo hướng tự học, khơi dậy và
phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của người học, biến quá trình đào tạo
thành quá trình tự đào tạo là mục tiêu cơ bản của ngành giáo dục.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, nhà
giáo dục lớn đã trực tiếp đào tạo ra nhiều thế hệ học trò xuất sắc, những
chiến sĩ cách mạng kiên cường cho cách mạng Việt Nam. Cuộc đời của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về mọi mặt, trong đó có tấm
gương về tự học - thực hiện việc tự học trong suốt cuộc đời của mình.
Người dạy “về cách học phải lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo
giúp vào” chính là quy luật và cũng là lời dạy mà Hồ Chủ Tịch đã rất nhấn

mạnh: “Phải biết tự động học tập”. [29].
Từ những năm 60 của thế kỷ XX, tư tưởng về tự học cho người học đã
được nhiều tác giả như Phan Trọng Luận, Nguyễn Kỳ, Đặng Vũ Hoạt, Hà Thế
Ngữ [14], Thái Duy Tuyên, Trần Kiểm [25], Nguyễn Cảnh Toàn [35] ... đề cập
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong các công trình nghiên cứu của mình. Do
nhu cầu thực tiễn nên Trung tâm nghiên cứu và phát triển tự học ra đời, thu hút
sự quan tâm của nhiều người.

Từ những năm 70 của thế kỷ XX đến nay, nhiều công trình, tác giả đã đi
sâu nghiên cứu về tự học như: Trung tâm nghiên cứu tự học - tự đào tạo với
sự tham gia của Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn, Vũ Văn Tảo, Phó giáo sư Lê
Khánh Bằng và đã cho ra mắt một số tác phẩm: “Tự học, tự đào tạo - tư tưởng
chiến lược của giáo dục Việt Nam”, “Luận bàn và kinh nghiệm về tự học” của
Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn; “Quy trình học tập và tự học” của Nguyễn Đình
Xuân; “Rèn luyện phương pháp học tập có hiệu quả” của các tác giả Quốc
Khánh - Phương Nga … Các tác phẩm cùng với việc luận bàn về tự học đã đề
cập đến KNTH và rèn luyện KNTH của học sinh, sinh viên. Ngày 15/01/1998
tại Hà Nội, Trung tâm đã tổ chức thành công hội thảo khoa học: “Tự học, tự đào

6


tạo, tư tưởng chiến lược của sự phát triển giáo dục Việt Nam”. Khẩu hiệu của hội
thảo là “tất cả vì năng lực tự học, tự đào tạo của dân tộc Việt Nam anh hùng và
hiếu học”.

Ngoài ra còn có nhiều tác phẩm, bài viết về vấn đề tự học đã được các
tác giả đề cập dưới nhiều khía cạnh khác nhau như: Tác giả Nguyễn Ngọc
Bảo với cuốn: “Phát huy tính tích cực, tính tự lực của học sinh, học viên
trong quá trình dạy học”, tác giả Hà Thị Đức với công trình nghiên cứu cấp

Bộ: “Nghiên cứu hoạt động tự học của học viên sư phạm” (1994) cũng đi
đến khẳng định: Vị trí và quan hệ của tự học trong hoạt động dạy - học ở
đại học: Hoạt động tự học không thể tách rời khỏi hoạt động dạy và vai trò
chỉ đạo của giảng viên. Kỹ năng tự học gồm: Kỹ năng định hướng, kỹ năng
giao tiếp, kỹ năng nhận thức, kỹ năng thiết kế và tổ chức, kỹ năng tự kiểm
tra, kỹ năng tự đánh giá, tự điều chỉnh.
Hay như tác giả Võ Quang Phúc cũng đã chỉ ra [30]: Tự học là yếu tố
“trội” của học, với những đặc điểm riêng của nó, trong mối quan hệ dạy học - tự
học.

Có 05 kiểu tự học: Tự học độc lập mò mẫm; Tự thân vận động; Tự
học có sự hướng dẫn từ trước; Tự học có sự hướng dẫn từ xa; Tự học trong
hoạt động dạy - học.
Có 04 nhóm kỹ năng tự học: Kỹ năng lập kế hoạch tự học; Kỹ năng
nghe và ghi bài trên lớp; Kỹ năng ôn tập; Kỹ năng đọc sách.
Nhận thức được vai trò của tự học, quản lý hoạt động tự học nâng cao
chất lượng học tập của học viên trong nhà trường quân đội, nhiều tác giả đã
quan tâm nghiên cứu. Tiêu biểu như:
Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Sư phạm - tâm lí “Những phương hướng tổ
chức hoạt động tự học của sinh viên các trường quân sự” của tác giả Trịnh
Quang Từ đã tập trung nghiên cứu đưa ra các phương hướng tổ chức hoạt động
tự học như: Xây dựng một hệ thống bài tập nhận thức theo hướng tăng dần độ
khó, chỉ ra cho sinh viên biết tự kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động tự học.
7


Cùng với các biện pháp trên, tác giả đã xây dựng hệ thống KNTH cho sinh viên
quân sự.
Luận án Tiến sĩ Giáo dục học “Những giải pháp cơ bản bồi dưỡng
phương pháp tự học cho sinh viên đào tạo sĩ quan ở các trường đại học quân

sự” của tác giả Mai Văn Hoá [12] [13] đã tập trung nghiên cứu xác định nội
dung, con đường, quy trình bồi dưỡng phương pháp tự học trong giảng dạy
các môn khoa học xã hội và nhân văn và đề xuất các giải pháp cơ bản về lí
luận dạy học để bồi dưỡng phương pháp tự học cho HV, đặc biệt là các vấn
đề: Phương hướng chỉ đạo cách viết, quy trình biên soạn giáo trình có chức
năng bồi dưỡng phương pháp tự học; cấu trúc nội dung, các bước vận dụng
các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực và công nghệ thông tin vào
bài giảng để bồi dưỡng phương pháp tự học; chỉ đạo ôn tập, cải tiến câu hỏi
kiểm tra - thi hướng việc đánh giá, rút kinh nghiệm phương pháp tự học sau
kiểm tra - thi vào việc bồi dưỡng phương pháp tự học.
Tác giả Đỗ Xuân Đô (2011), luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: “Biện
pháp quản lý hoạt động tự học của học viên Trường Sĩ quan Lục quân 1 hiện
nay” [10], tác giả đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, thực tiễn cũng như hệ
thống các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học viên Trường Sĩ quan
Lục quân 1, đồng thời tác giả đã xác định 5 biện pháp cơ bản để quản lý hoạt
động tự học của học viên đó là: Giáo dục, xây dựng động cơ học tập cho học
viên; kiểm soát kế hoạch tự học; kết hợp vai trò của giảng viên và cán bộ
quản lý trong tổ chức thực hiện; phát huy khả năng tự quản lý của học viên và
tạo lập môi trường thuận lợi cho tự học.
Ở một khía cạnh khác tác giả Nguyễn Đức Viểm (2012) với đề tài:
“Quản lý hoạt động tự học, tự nghiên cứu của giáo viên các trường Trung cấp
trong quân đội” [38], đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, xác định rõ ràng,
chính xác mục đích, khách thể, đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu; rút
ra được những kết luận cần thiết, các khái niệm có tính khái quát cao, phân
tích rõ nội hàm của từng khái niệm. Đặc biệt tác giả đã rút ra được những
8


kinh nghiệm trong quản lý tự học, tự nghiên cứu của đội ngũ giáo viên các
trường Trung cấp trong quân đội. Luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Phi

Hùng (2014) về đề tài: “Quản lý hoạt động tự học của học viên trong đổi mới
phương pháp dạy học ở Trường Sĩ quan Chính trị” [23], từ lý luận và thực
tiễn quản lý hoạt động tự học của học viên trong đổi mới phương pháp dạy
học ở Trường Sĩ quan Chính trị. Tác giả đã xác định 5 biện pháp cơ bản đó là:
Tăng cường giáo dục, xây dựng động cơ, thái độ tự học đúng đắn cho học
viên; chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện kế hoạch tự học của học viên theo xu
thế đổi mới phương pháp dạy học; đổi mới các hình thức, phương pháp quản
lý hoạt động tự học của học viên; đổi mới phương pháp, hình thức kiểm tra,
đánh giá kết quả tự học của học viên; bảo đảm cơ sở vật chất và môi trường
thuận lợi đáp ứng nhu cầu tự học trong đổi mới phương pháp dạy học.
Tác giả Lê Văn Cao (2016), về đề tài: “Quản lý hoạt động tự học của học
viên cao học hệ quân sự ở Học viện Chính trị hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ
Quản lý Giáo dục, Học viện Chính trị [5]. Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý
luận, thực tiễn quản lý hoạt động tự học của học viên cao học, từ đó đề
xuất các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học viên cao học hệ quân
sự ở Học viện Chính trị góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trình độ
Thạc sĩ cho đội ngũ cán bộ chính trị, giảng viên và cán bộ nghiên cứu khoa
học xã hội và nhân văn quân sự, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo của
Học viện Chính trị hiện nay. Ngoài ra, có các tác giả với các nghiên cứu
như: Luận văn Thạc sĩ của tác giả Hoàng Văn Thượng: “Một số biện pháp nâng
cao chất lượng hoạt động tự học của giáo viên tiểu học huyện Quan Hóa - tỉnh
Thanh Hóa”; luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Lý: “Những biện pháp
nâng cao kết quả hoạt động tự học của học viên Trường Cao đẳng Sư phạm Kon
Tum”

Như vậy, vấn đề tự học trong quá trình dạy học đã được nhiều nhà
khoa học, nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau,
các tác giả đã chỉ ra vai trò, tầm quan trọng của hoạt động tự học, các kỹ
9



năng tự học và một số biện pháp nhằm vào việc phát huy năng lực tự học,
tự rèn luyện cho người học. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động tự học của
học viên hiện nay vẫn là mối quan tâm lớn đối với trường đại học, cao đẳng
nói chung và Học viện Quân y nói riêng. Trong khi cả nước vẫn đang tiến
hành cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” thì vấn đề tự học theo tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa
hết sức thiết thực.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý hoạt
động tự học, đề tài đề xuất biện pháp quản lý hoạt động tự học của học viên
hệ đại học ở Học viện Quân y, góp phần nâng cao chất lượng học tập của
học viên cũng như nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của Nhà trường.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa, khái quát hóa lý luận về hoạt động tự học và quản lý
hoạt động tự học của học viên.
Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động tự học và quản lý hoạt động
tự học của học viên hệ đào tạo đại học ở Học viện Quân y.
Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động tự học của học vięn hệ
đào tạo đại học ở Học viện Quân y.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
*Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động học tập của học viên ở Học viện Quân y.
*Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động tự học của học viên hệ đào tạo đại học ở Học viện
Quân y.
* Phạm vi nghiên cứu

10



Đề tài tập trung nghiên cứu đề xuất biện pháp quản lý hoạt động tự
học của học viên quân sự hệ đào tạo đại học ở Học viện Quân y. Các số liệu
điều tra, khảo sát tính từ năm 2012 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Chất lượng và hiệu quả quá trình tự học của học viên phụ thuộc vào
nhiều yếu tố. Nếu trong quản lý hoạt động tự học của học viên các chủ thể
quản lý chặt chẽ công tác giáo dục, xây dựng động cơ, thái độ học tập đúng
đắn cho học viên; chỉ đạo xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch tự học cho
học viên; quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên, thúc đẩy giảng viên
cải tiến phương pháp giảng dạy giúp học viên tự học có hiệu quả; kết hợp
đồng bộ giữa quản lý chủ thể và vai trò của tự quản lý trong tự học của học
viên; thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả tự học của học viên thì có
thể nâng cao chất lượng tự học, hình thành năng lực tự học của học viên,
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của Học viện.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về giáo dục, QLGD, trực tiếp là các chủ trương quan
điểm về đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT, nâng cao chất lượng, quản lý
dạy học, phát huy vai trò của tự học tập của mỗi người. Đề tài sử dụng các
quan điểm tiếp cận hệ thống - cấu trúc, quan điểm logic - lịch sử và quan
điểm thực tiễn để luận giải các nhiệm vụ của đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu khoa học, các văn kiện,
nghị quyết, văn bản pháp quy của Đảng, Nhà nước, Ngành liên quan đến
GD&ĐT và quản lý GD&ĐT; các tạp chí, thông tin, sách chuyên khảo tham

11


khảo, công trình khoa học về tình hình học tập, tự học. Từ đó xác định cơ sở
lý luận quản lý hoạt động tự học của học viên hệ đào tạo đại học.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
Trao đổi, tọa đàm với cán bộ quản lý các cấp, bộ môn - khoa, đặc biệt
là cơ quan đào tạo và đơn vị quản lý học viên.
Tiến hành điều tra bằng mẫu phiếu câu hỏi với 97 giảng viên, cán bộ
quản lý các cấp, 145 học viên hệ quân sự tại Học viện Quân y. Nội dung về
tìm hiểu thực trạng quản lý hoạt động tự học của học viên hệ quân sự đào
tạo đại học ở Học viện Quân y hiện nay.
Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn quản lý hoạt động thông qua các báo
cáo của các cơ quan, đơn vị và của Học viện hàng năm để góp phần làm rõ
thực trạng, tìm ra nguyên nhân hạn chế, bất cập trong quản lý hoạt động tự
học của học viên hệ đào tạo đại học ở Học viện Quân y.
Khảo nghiệm tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp được đề xuất.
- Phương pháp hỗ trợ.
Sử dụng toán thống kê để tổng hợp, tính toán các số liệu điều tra và
khảo nghiệm tính cần thiết, tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất.
7. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận, cung cấp tình hình thực tế về
quản lý hoạt động tự học của học viên hệ đào tạo đại học của Học viện
Quân y để Ban Giám hiệu, các cơ quan của Học viện nghiên cứu có thể áp
dụng các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học viên hệ đào tạo đại
học của Học viện hiện nay, góp phần làm chuyển biến tình hình tự học
của học viên của Học viện.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho các Học viện, nhà trường trong công tác quản lý học viên nói
chung và quản lý hoạt động tự học của học viên hệ đào tạo đại học ở Học

viện Quân y nói riêng.
12


8. Kết cấu của đề tài
Cấu trúc luận văn gồm: Phần mở đầu, 3 chương (8 tiết), và kết luận,
kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.

13


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
CỦA HỌC VIÊN HỆ ĐẠI HỌC Ở HỌC VIỆN QUÂN Y
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Hoạt động tự học của học viên hệ đại học ở Học viện Quân y
Tự học là một trong những hoạt động cơ bản của học viên ở các
trường đại học, nhiều nhà giáo dục cho rằng học ở đại học chủ yếu là tự
học. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng tự học của học viên các trường đại
học luôn là một vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Khi nghiên cứu về tự học có rất nhiều các quan niệm khác nhau. Theo
tác giả Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức trong cuốn lý luận dạy học đại học thì
“Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở đại học. Đó là một hình
thức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức và
kỹ năng do chính người đọc tự tiến hành trên lớp hoặc ở ngoài lớp theo hoặc
không theo một chương trình sách giáo khoa đã được quy định” [14, tr. 165].
Theo tác giả Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học là tự mình động não, suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp
… ) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh
vực đó thành sở hữu của mình”. [35, tr. 60]

Theo giáo trình lý luận dạy học đại học quân sự, Tổng cục Chính trị,
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, năm 2013: “Tự học là hình thức học tập
độc lập sáng tạo của người học, nhằm lĩnh hội, củng cố và vận dụng các
kiến thức kỹ xảo, kỹ năng”. [37, tr. 234]
Như vậy từ các góc độ khác nhau nhưng khi quan niệm về tự học đều
có điểm chung là nhìn hoạt động tự học với bản chất của nó là quá trình
nhận thức tự giác, tích cực độc lập chiếm lĩnh tri thức hình thành kỹ xảo, kỹ
năng của chính bản thân người học. Từ đó, chúng ta có thể định nghĩa về
hoạt động tự học của học viên hệ đào tạo đại học ở HVQY như sau:
14


Hoạt động tự học của học viên hệ đào tạo đại học ở HVQY là quá
trình nhận thức dưới sự chỉ đạo của giảng viên, học viên tự tổ chức, tự chỉ
đạo, tự điều khiển hoạt động học tập nhằm chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kỹ
năng, hình thành những kinh nghiệm nghề nghiệp cho bản thân, góp phần
thực hiện mục đích, nhiệm vụ của quá trình dạy học
Tự học là hoạt động tổ chức nhận thức độc lập của từng người học, tự
phát huy năng lực cá nhân để thực hiện các nhiệm vụ tự học xác định. Tự
học là “tự động học tập”, thể hiện tính tự lực, tự giác, tích cực cao trong
quá trình lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kỹ năng. Vì vậy, tự học mang đậm
sắc thái cá nhân, biểu hiện ở: Tự xác định mục tiêu chiếm lĩnh kiến thức,
rèn luyện kỹ năng, hoàn thành các nhiệm vụ tự học cụ thể đặt ra trong từng
giờ học, buổi học; tự lập kế hoạch, tiến độ, thời gian tự học phù hợp với
mục tiêu tự học đã xác định; tự xác định nội dung, nhiệm vụ, lựa chọn
PPTH, sử dụng phương tiện tự học phù hợp; tự kiểm tra - đánh giá, tự điều
chỉnh việc học của bản thân.
Tự học có vị trí vai trò rất quan trọng đối với hoạt động học tập của
học viên, tự học giúp cho học viên nắm vững tri thức, hiểu biết sâu sắc tri
thức và biết vận dụng tri thức, kỹ xảo, kỹ năng vào giải quyết các nhiệm vụ

học tập. Tự học giúp cho học viên hình thành phương pháp tự học phù hợp,
làm phong phú và hoàn thiện hơn vốn hiểu biết của mình. Hình thành phẩm
chất trí tuệ và rèn luyện nhân cách người học. Đồng thời tự học còn rèn
luyện cho học viên có nếp sống văn minh, phương pháp làm việc khoa học,
đức tính kiên trì, óc phê phán và lòng nhiệt tình say mê nghiên cứu. Tự học
là nhân tố quyết định đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động học tập.
Mục đích hoạt động tự học của học viên ở HVQY: Là nắm vững hệ
thống tri thức, thành thạo kỹ xảo, kỹ năng, hình thành thái độ đúng đắn của
một người Bác sĩ trong tương lai theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo của HVQY.
Cụ thể như sau:
15


Về kiến thức: Tự lĩnh hội các kiến thức khoa học cơ bản, y học cơ sở
làm nền tảng cho y học lâm sàng và chuyên khoa; có những kiến thức cơ
bản về chẩn đoán, điều trị, tư vấn và phòng bệnh; có phương pháp luận
khoa học trong công tác phòng bệnh, chữa bệnh và nghiên cứu khoa học;
nắm vững pháp luật và chính sách về bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe
nhân dân.
Về kỹ năng: Lĩnh hội và rèn luyện các kỹ năng như thực hiện được
công tác tư vấn, giáo dục sức khỏe, tổ chức chăm sóc và nâng cao sức khỏe
nhân dân; chẩn đoán, xử lý các bệnh và cấp cứu thường gặp; định hướng
chẩn đoán và điều trị bước đầu một số bệnh chuyên khoa; chỉ định, đánh
giá được một số xét nghiệm, kỹ thuật thăm dò chức năng cơ bản; đề xuất
được các biện pháp xử lý thích hợp để chăm sóc, nâng cao sức khỏe cộng
đồng và bảo vệ môi trường sức khỏe … vv.
Về thái độ: Tự rèn luyện, tự trau dồi các thái độ, phẩm chất như tận
tụy với sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân; tôn
trọng, cảm thông, hết lòng phục vụ người bệnh; tôn trọng, chân thành hợp
tác với đồng nghiệp; giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của ngành;

coi trọng việc kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền; tôn trọng pháp
luật, thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ và những yêu cầu nghề nghiệp;
trung thực khách quan, có tinh thần nghiên cứu khoa học và học tập nâng
cao trình độ.
Chủ thể của hoạt động tự học là chính bản thân học viên ở HVQY: Tự
học là hoạt động học tập mang đậm sắc thái cá nhân của người học, chính
thông qua hoạt động tự học người học thể hiện rõ nhất những phẩm chất và
năng lực của mình. Chất lượng và hiệu quả của hoạt động tự học phụ thuộc
vào nhiều yếu tố nhưng trước hết là phụ thuộc vào thái độ, động cơ tự học;
phương pháp, kỹ năng tự học; khả năng lập kế hoạch tự học và thực hiện kế
hoạch ấy một cách nghiêm túc, có hiệu quả.
16


Trong môi trường đào tạo của nhà trường, ngoài việc lấy nội lực (chủ
thể, tự giác, tích cực) “làm cốt”; tự học của học viên còn có sự định hướng,
chỉ đạo trực tiếp và gián tiếp của giảng viên, nghĩa là có “chỉ đạo giúp vào”
như sự chỉ đạo của giáo trình, cách dạy, cách kiểm tra - đánh giá đối với tự
học của học viên.
Nội dung của hoạt động tự học của học viên ở HVQY: Nội dung tự học
bao gồm toàn bộ những vấn đề học tập do cá nhân học viên độc lập tiến
hành, biểu hiện cụ thể qua việc thực hiện các nhiệm vụ tự học hàng ngày.
Trên cơ sở mục tiêu, yêu cầu đào tạo, nội dung của hoạt động tự học được
xem xét ở ba khía cạnh như sau:
Về nội dung tự học cơ bản: Quán triệt phương châm biến quá trình
đào tạo của nhà trường thành quá trình tự đào tạo của mỗi học viên. Do đó
nội dung tự học của học viên phải toàn diện, đầy đủ theo yêu cầu và
chương trình học quy định. Xét về cơ bản, nội dung của hoạt động tự học
gồm: Kiến thức cơ bản; kiến thức, kỹ năng về nghề nghiệp đang được đào
tạo; tri thức phương pháp. Đối với học viên của HVQY thì hoạt động tự học

trong các phòng labo (thực tập cơ sở), và tại bệnh viện (thực tập lâm sàng)
có vị trí vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành phẩm chất và năng
lực của người Bác sĩ trong tương lai. Vì vậy, quản lý hoạt động tự học của
học viên HVQY cần phải coi đây là một nội dung quản lý trọng tâm.
Về nội dung tự học thường xuyên: Là những nội dung tự học diễn ra
hàng ngày, thể hiện ở việc giải quyết các nhiệm vụ tự học cụ thể. Nội dung
hoạt động tự học rất phong phú, có thể kể đến: Nghiên cứu bút ký; đọc và
nghiên cứu giáo trình, tài liệu; ghi chép tài liệu học tập; ghi nhớ tài liệu học
tập; chuẩn bị cho các buổi học sau, bài học sau; trao đổi, tranh luận, học
hỏi; ôn luyện ... vv.
Về nội dung tự học mở rộng: Ngoài những nội dung tự học bắt buộc
theo mục tiêu, yêu cầu, chương trình đào tạo của nhà trường, học viên có
17


thể tự học - tự nghiên cứu những lĩnh vực tri thức theo sở thích, sở
trường cá nhân.
Nội dung tự học thường xuyên có ý nghĩa là phương tiện từng bước
thực hiện và hướng tới nội dung tự học cơ bản. Nội dung tự học cơ bản
biểu hiện cụ thể và được thực hiện thông qua nội dung tự học thường
xuyên. Nội dung tự học mở rộng có tác động tích cực, bổ sung, làm phong
phú hơn cho nội dung tự học cơ bản và nội dung tự học thường xuyên.
Tự học của học viên luôn luôn có mối quan hệ chặt chẽ với các thành
tố của quá trình sư phạm ở đại học như: Mục tiêu, nội dung, phương pháp
giảng dạy, kiểm tra - đánh giá, môi trường tự học ... tác động trực tiếp đến
việc tổ chức hoạt động tự học của học viên.
Tự học của học viên ở HVQY vừa có những điểm chung như: Tự học
của học viên đại học, vừa có nét riêng trong môi trường học tập ở
HVQY, đó là:
Hoạt động tự học của học viên hệ đào tạo đại học ở Học viện Quân y

diễn ra trong môi trường sư phạm quân sự, gắn liền với nhiệm vụ sẵn sàng
chiến đấu; diễn ra trong tập thể học viên có tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật
nghiêm. Do tính chất của một tổ chức quân sự, học viên hệ quân sự phải nội
trú 100% quân số, được tổ chức thành các đơn vị học viên (hệ, lớp, tổ) chịu
sự quản lý trực tiếp của cán bộ chuyên trách quản lý học viên. Đây là môi
trường và điều kiện rất thuận lợi để học viên tập trung thời gian tự học, trao
đổi kinh nghiệm tự học, ít bị chi phối bởi những tác động ngoại cảnh, giữ
nghiêm kỷ luật tự học.
Trong môi trường của một nhà trường quân sự nên học viên phải hoạt
động theo điều lệnh, điều lệ, quy định của quân đội và luôn luôn sẵn sàng
chiến đấu cao ngay cả trong thời bình. Vì vậy, hoạt động tự học của học
viên cũng luôn bị chi phối bởi điều lệnh, điều lệ, kỷ luật quân đội nghiêm
ngặt; Công tác Đảng, Công tác Chính trị; Công tác Hành chính quân sự của
18


nhà trường. Điều đó có ảnh hưởng nhất định đến việc tổ chức và thời gian
tự học của học viên như: Giờ tự học được duy trì chặt chẽ, các buổi tối
không chỉ dành cho tự học mà còn phải tiến hành sinh hoạt (Đảng, Đoàn,
Chính quyền). Hoạt động tự học của học viên chịu sự kiểm tra, đôn đốc,
nhắc nhở trực tiếp, thường xuyên của đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kiêm
chức, nhất là về các mặt: Thực hiện kế hoạch tự học, chấp hành thời gian,
kỷ luật tự học đến quy trình và PPTH. Đây là điều kiện thúc đẩy việc học
và mang cả ý nghĩa “bắt buộc” học viên thực hiện, chấp hành.
Đối tượng hoạt động tự học của học viên hệ đào tạo đại học ở Học
viện Quân y trong quá trình đào tạo tại nhà trường là những tri thức y học
cần chiếm lĩnh và những kỹ xảo, kỹ năng tương ứng với nó. Đào tạo trong
ngành y là một lĩnh vực đặc thù nó đòi hỏi học viên phải có bản lĩnh vững
vàng, có thể chịu đựng được những sức ép ghê gớm về tâm lý. Trong quá
trình tự học người học phải thường xuyên có những trải nghiệm khác

thường (thường xuyên tiếp xúc với tử thi, giải phẫu). Cũng do tính quy
định của mục tiêu đào tạo mà không gian học tập của học viên có những
đặc điểm khác so với các đối tượng đào tạo khác, ngoài việc tự học tập,
nghiên cứu ở nhà, học tập trên giảng đường … học viên thường phải thực
hành, thực tập, lĩnh hội kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp thông qua việc thí
nghiệm, thực nghiệm, quan sát, thực hành thực tế trong phòng thí nghiệm,
đặc biệt là hoạt động thực tế ở các bệnh viện. Do đặc điểm hoạt động của
học viên rộng, phân tán, bởi vậy công tác quản lý HĐTH của học viên gặp
nhiều khó khăn. Để nâng cao hiệu quả quản lý, công tác giáo dục chính trị
tư tưởng, định hướng nghề nghiệp nhằm phát huy vai trò tích cực tự giác
trong học tập của học viên luôn có ý nghĩa quan trọng, góp phần trực tiếp
vào nâng cao chất lượng học tập của họ.
Ngoài ra, phương pháp, phương tiện tự học của học viên ở HVQY
cũng có những yếu tố khác biệt. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đào tạo,
19


học viên phải thực hiện nhiều hành động học tập. Ngoài thực hiện quy trình
học tập chung, học viên luôn phải coi trọng thực hành thực tập, ôn luyện
thường xuyên liên tục. Qua đó phát triển các kỹ năng nhận biết, so sánh,
phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa, luyện tập kỹ năng nghề
nghiệp đáp ứng với yêu cầu đòi hỏi của ngành y.
Về phương tiện tự học của học viên cũng rất đa dạng, ngoài giấy, bút,
sách, giáo trình, máy vi tính thông thường còn có những tài liệu, phương
tiện học tập mang tính đặc trưng nghề nghiệp như mô hình cơ thể người,
xác người, kính hiển vi, dụng cụ thực hành, phòng học kỹ thuật, người
bệnh, bệnh viện … Đặc điểm này đòi hỏi công tác quản lý HĐTH của học
viên phải rất cụ thể, chu đáo trên tất cả các mặt. Từ công tác kế hoạch, công
tác điều hành, tổ chức thực hiện, kiểm tra đôn đốc … đều phải được tiến
hành một cách khoa học. Thực hiện không đúng những yêu cầu trong công

tác quản lý, HĐTH của học viên không những không đạt được kết quả như
mong muốn mà còn có thể gây nên những tác hại trong quá trình học tập.
Tự học của học viên hệ đào tạo đại học ở Học viện Quân y được tiến
hành trong mối quan hệ thống nhất chặt chẽ giữa tự chỉ đạo tự học của
học viên với sự chỉ đạo của giáo viên, và cán bộ quản lí.
Tự học của học viên hệ đào tạo đại học ở Học viện Quân y phải đảm
bảo các yêu cầu sau:
Hiểu rõ mục đích học tập và xác định động cơ học tập đúng đắn. Khi
hiểu rõ mục đích học tập và xác định động cơ học tập đúng đắn cần phân
biệt sự khác nhau giữa phong cách học tập cũ và mới.
Học phải có kế hoạch: Học viên phải lập kế hoạch cho việc tự học, tự
nghiên cứu (học lúc nào ? Học ở đâu ? Học môn gì, phần nào trước, môn
gì, phần nào sau ?), tốt nhất là rèn luyện được phương pháp học ở mọi
nơi, mọi lúc.

20


Tập trung tư tưởng: Học viên phải rèn luyện được sự tập trung tư
tưởng cao độ khi học tập, nghiên cứu, không bị xao lãng bởi những yếu tố
gây nhiễu xung quanh. Khi bắt đầu tự học một môn hay một phần nào đó,
học viên phải xác định được nội dung cần đọc, cần nghiên cứu thông qua
các câu hỏi của giảng viên. Khi xem xét một vấn đề, người học phải xuất
phát từ định nghĩa, khái niệm và đặt vấn đề đó trong mối liên hệ với các
vấn đề khác.
Học viên phải xây dựng cho mình phương pháp tự học đúng đắn, đặc
biệt là phải rèn luyện kỹ năng đọc sách, kỹ năng nghiên cứu tài liệu; kết
hợp giữa học cách hệ thống hóa các kiến thức đã học từ trên lớp kết hợp
với kiến thức đã học thông qua cách lập các sơ đồ về mối quan hệ giữa
các kiến thức, lập các bảng so sánh, các bảng tổng hợp các nội dung đã

học. Chủ động, tích cực trao đổi với giảng viên, người hướng dẫn về
những phần kiến thức khó, kiến thức không hiểu và những phần kiến thức
người học muốn đi sâu tìm hiểu rõ hơn.
1.1.2. Quản lý hoạt động tự học của học viên hệ đào tạo đại học ở
Học viện Quân y
Quản lý là một hiện tượng xuất hiện rất sớm, là một phạm trù tồn tại
khách quan được ra đời từ bản thân nhu cầu của mọi chế độ xã hội, mọi
quốc gia, mọi thời đại. Thuật ngữ quản lý đã trở nên phổ biến nhưng chưa
có một định nghĩa thống nhất. Các nhà khoa học đã đưa ra nhiều định nghĩa
quản lý từ các góc độ khác nhau:
Theo Đặng Quốc Bảo: “Quản lý là quá trình gây tác động của chủ thể
quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung”. [2, tr. 16]
Theo Trần Hồng Quân: “Quản lý là hoạt động có định hướng, có chủ
đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị
quản lý) trong tổ chức, nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục
đích của tổ chức”. [32, tr. 176]
21


Tác giả Hà Sỹ Hồ cho rằng: “Quản lý là quá trình tác động có định
hướng, có tổ chức, lựa chọn trong số các tác động có thể có, dựa trên các
thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ cho sự vận
hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục đích đã
định”. [22, tr. 25]
Như vậy, quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý đến khách thể quản
lý một cách có định hướng, có chủ định nhằm làm cho tổ chức vận hành, đạt
mục tiêu mong muốn bằng kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra.
Từ những cách tiếp cận về quản lý, chúng ta thấy các khái niệm quản
lý có điểm chung đó là: Quản lý bao giờ cũng tồn tại với tư cách là một hệ
thống bao gồm có hai yếu tố: Chủ thể quản lý và khách thể quản lý. Chủ

thể quản lý là tác nhân tạo ra các hoạt động, còn khách thể quản lý là người
chịu sự quản lý của chủ thể quản lý. Giữa chủ thể quản lý và khách thể
quản lý phải có chung một mục tiêu và quy trình, dựa vào đó làm căn cứ để
chủ thể tạo ra các tác động. Hai thành phần này có mối quan hệ, tác động
qua lại tương hỗ lẫn nhau.
Tiếp cận và kế thừa có chọn lọc các quan điểm của các tác giả trên,
theo chúng tôi: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể
quản lý lên khách thể quản lý nhằm phát huy cao nhất các tiềm năng, các
cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu quản lý đã xác định.
Từ các khái niệm trên, theo chúng tôi thì: Quản lý hoạt động tự học
của học viên hệ đào tạo đại học ở HVQY là những tác động có mục đích, có
tổ chức, kế hoạch của chủ thể quản lý tới hoạt động tự học của học viên
nhằm thực hiện mục tiêu của quá trình, góp phần nâng cao hiệu quả học tập
của học viên và chất lượng giáo dục và đào tạo của nhà trường.
Bản chất của quản lý hoạt động tự học của học viên hệ đào tạo đại học
ở HVQY là: Những tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến khách thể
quản lý nhắm nâng cao chất lượng học tập của học viên. Đây là quá trình
22


thực hiện các chức năng lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra hoạt động
tự học của học viên.
Mục tiêu quản lý hoạt động tự học của học viên hệ đào tạo đại học ở
HVQY là: Đảm bảo cho quá trình đào tạo và tự đào tạo vận hành đồng bộ,
có hiệu quả, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Để đạt
được mục tiêu này nhà trường cần đáp ứng được các nhu cầu tối thiểu của
học viên về cơ sở vật chất, phương tiện và trang thiết bị phục vụ cho hoạt
động tự học của học viên. Đối với học viên cần có thái độ, động cơ học
tập đúng đắn, xác định đúng mục đích tự học, có phương pháp và kỹ năng
tự học khoa học, phù hợp với khả năng của bản thân.

Chủ thể quản lý hoạt động tự học của học viện hệ đào tạo đại học ở
HVQY là: Ban Giám đốc, đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý phòng đào tạo,
ban khảo thí, tập thể học viên và chính bản thân mỗi học viên. Trong đó
quan trọng nhất là sự tự quản lý của mỗi học viên, của đội ngũ giảng viên và
cán bộ quản lý trực tiếp, vì vậy để nâng cao chất lượng tự học của học viên
thì công tác quản lý cần phát huy được vai trò của các nhân tố này.
Đối tượng quản lý học viện hệ đào tạo đại học ở HVQY là: Toàn bộ
hoạt động tự học của học viên và các điều kiện đảm bảo cho hoạt động tự
học có thể diễn ra một cách thuận lợi, có hiệu quả.
Nội dung quản lý học viện hệ đào tạo đại học ở HVQY bao gồm: Quản
lý các hoạt động giáo dục động cơ, thái độ, phương pháp, kỹ năng tự hoc
cho học viên; quản lý kế hoạch tự học và thực hiện kế hoạch tự học; quản
lý nội dung và phương pháp tự học; quản lý các điều kiện đảm bảo cho
hoạt động tự học; quản lý việc kiểm tra, đánh giá hoạt động tự học.
Phương pháp và công cụ quản lý hoạt động tự học của học viện hệ đào
tạo đại học ở HVQY rất đa dạng như nhóm các phương pháp hành chính,
phương pháp kích thích động viên … tương ứng với các phương pháp quản
lý có các công cụ quản lý như quản lý bằng mệnh lệnh, chỉ thị, điều lệnh
23


quản lý bộ đội, qui chế giáo dục đào tạo của nhà trường … nhưng với đặc
điểm riêng của hoạt động tự học của học viên HVQY thì các phương pháp
và công cụ quản lý cần chú ý nhiều đến việc phát huy tính tự giác, chủ
động, tích cực của học viên, đồng thời cần tổ chức các hoạt động tự học
một cách khoa học, hợp lý, chú trọng việc lập kế hoạch và thực hiện kế
hoạch tự học của học viên.
1.2. Nội dung quản lý hoạt động tự học của học viên hệ đào tạo đại
học ở Học viện Quân y
Quản lý là một hoạt động tương đối phức tạp, để hoạt động này đạt

được mục đích, yêu cầu đề ra đòi hỏi chủ thể quản lý cần thực hiện nhiều
biện pháp trong đó quan trọng nhất là phải nắm được nội dung quản lý gồm
những gì ? Đối với hoạt động tự học của học viên HVQY cần chú ý đến
một số nội dung sau:
Một là, xây dựng động cơ, mục đích tự học cho học viên hệ đào tạo
đại học ở HVQY.
Tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho học viên về vai trò
của tự học. Thông qua giáo dục truyền thống của nhà trường để nâng cao
nhận thức cho học viên về mục tiêu, yêu cầu đào tạo, kích thích hứng thú,
say mê học tập của học viên, xây dựng bầu không khí học tập tích cực.
Các hoạt động tuyên truyền giáo dục cần hướng tới việc xây dựng động
cơ học tập đứng đắn cho người học. Động cơ học tập được coi như nguồn
năng lượng để thúc đẩy “cỗ máy học tập” trong mỗi người học viên.
Chính vì vậy nuôi dưỡng động cơ học tập phải là việc làm đầu tiên chủ
thể quản lý cần thực hiện.
Động cơ tự học cũng có nhiều cấp độ khác nhau, bắt đầu từ sự tự
khẳng định mình, tự thỏa mãn nhu cầu phải hoàn thành nhiệm vụ học tập
và rèn luyện, sự mong muốn thành thạo nghề nghiệp trong tương lai …
cho tới cấp độ cao là thỏa mãn nhu cầu hiểu biết, long khát khao tri thức.
24


Mỗi động cơ đều được hình thành từ những tác động thực tiễn và được cá
nhân hóa thành hứng thú, tâm thế, niềm tin của mỗi cá nhân. Hình thành
động cơ tự học phải bắt đầu từ việc xây dựng các điều kiện phù hợp với
nhận thức, tình cảm của cá nhân.
Hai là, xây dựng kế hoạch tự học cho học viên hệ đào tạo đại học ở
HVQY.
Đối với bất kỳ ai muốn sự học thực sự có hiệu quả thì mục đích,
nhiệm vụ và kế hoạch học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng. Trong

đó kế hoạch phải được xác định với tính hướng đích cao. Tức là kế hoạch
dài hạn, ngắn hạn thậm chí từng môn, từng học phần, từng tuần, từng ngày
phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm, từng giai
đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình. Vấn đề kế
tiếp là phải chọn đúng trọng tâm, những vấn đề cốt lõi để ưu tiên tác động
và dành nhiều thời gian cho nó. Nếu việc học dàn trải thiếu tập trung thì
chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Sau khi đã xác định được trọng tâm, phải
sắp xếp các phần việc một cách hợp lý, logic cả về nội dung lẫn thời gian,
đặc biệt cần tập trung hoàn thành dứt điểm từng phần, từng hạng mục theo
thứ tự ưu tiên thể hiện chi tiết trong kế hoạch. Điều đó sẽ giúp quá trình
tiến hành việc học được trôi chảy, thuận lợi. Kế hoạch tự học giúp cho
người học thực hiện các nhiệm vụ tự học một cách khoa học và hiệu quả.
Từ đó quản lý việc xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch tự học sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả học tập của học viên.
Kế hoạch tự học của học viên HVQY ngoài việc thể hiện các nội dung
tự học trên lớp, ở nhà, học viên còn phải thể hiện cả nội dung tự học ở các
phòng thực hành labo và ở bệnh viện. Cán bộ quản lý cần đặc biệt quan
tâm tới việc thiết lập các mục tiêu và thực hiện các mục tiêu học tập của
học viên ở phòng labo và ở bệnh viện vì đây là nội dung tự học rất quan
trọng đóng vai trò then chốt trong việc hoàn thiện năng lực của học viên.
25


Ba là, tổ chức thực hiện kế hoạch tự học cho học viên hệ đào tạo đại
học ở HVQY.
Trong mục tiêu đào tạo của các trường cao đẳng, đại học nói chung,
mỗi ngành học đều có mục tiêu đào tạo riêng, bao gồm kiến thức cơ sở, cơ
bản và chuyên ngành. Đó là những nội dung học tập bắt buộc trong trường,
nhiệm vụ của học viên là phải hoàn thành nội dung học tập đó trong thời
gian quy định. Ngoài nội dung bắt buộc trong khung chương trình, học viên

có thể tự học, tự nghiên cứu theo sở thích, năng khiếu của bản thân. Việc
quản lý nội dung tự học nhằm hướng học viên vào những nội dung phù hợp
với mục tiêu, chương trình đào tạo.
Để quản lý được nội dung tự học của học viên hệ đào tạo đại học ở
HVQY, hướng cho nội dung tự học của học viên phù hợp với mục tiêu, yêu
cầu đào tạo thì giảng viên phải hướng dẫn nội dung tự học cho học viên.
Nội dung tự học gồm 2 phần:
Hệ thống các nhiệm vụ tự học có tính chất bắt buộc.
Tư vấn nội dung tự học, định hướng các vấn đề nghiên cứu phù hợp
với yêu cầu của ngành nghề đào tạo.
Bốn là, quản lý hình thức thực tập y khoa cho học viên hệ đào tạo đại
học ở HVQY.
Đối với học viên của HVQY thì nội dung tự học tại các phòng thực hành
labo (thực tập cơ sở) và thực hành tại bệnh viện (thực tập lâm sàng) đóng vai
trò đặc biệt quan trọng trong phát triển năng lực cho học viên. Vì vậy quản lý
nội dung tự học của người học cần đặc biệt chú ý tới nội dụng này.
Thực tập là một yêu cầu bắt buộc đối với học viên các trường y khoa,
được thực hiện từ năm thứ nhất và liên tục cho đến năm thứ sáu. Yêu cầu
thực tập, thời lượng thực tập và nội dung thực tập khác nhau trong mỗi
môn học, mỗi năm học; và những đòi hỏi ngày càng cao hơn. Thực tập
trong trường y khoa về cơ bản được chia làm 2 loại: Thực tập tại các phòng
26


×