Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý HOẠT ĐỘNG tự học của học SINH TRUNG học PHỔ THÔNG THỊ xã PHÚC yên, TỈNH VĨNH PHÚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.82 KB, 106 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ HOẠT

Trang
3

ĐỘNG TỰ HỌC CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
1.1.
1.2.

THÔNG THỊ XÃ PHÚC YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC
Các khái niệm cơ bản
Nội dung quản lý và những nhân tố tác động tới quản lý

12
12

hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông thị xã
Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
Thực trạng quản lý hoạt động tự học của học sinh trung

25

học phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
Chương 2 YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG

37

1.3.


TỰ HỌC CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
57

2.1.

THÔNG THỊ XÃ PHÚC YÊN TỈNH VĨNH PHÚC
Yêu cầu quản lý hoạt động tự học của học sinh trung học

57

2.2.

phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
Biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh trung

64

2.3.

học phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
Khảo nghiệm tính cấp thiết và tính khả thi của các biện
pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh trung học

phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

80
85

88
93


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tự học thường xuyên, tự học suốt đời là điều kiện cơ bản, con đường
quan trọng để con người chiếm lĩnh kho tàng tri thức nhân loại và tự hoàn
thiện nhân cách bản thân. Trong các nhà trường, tự học là một hình thức học
tập, một hoạt động, một khâu có vai trò quyết định đến chất lượng của quá
trình dạy học, đặc biệt là ở bậc trung học phổ thông.
Thời gian học tập trong các trường trung học phổ thông là quá trình học
sinh tiếp thu, lĩnh hội những tri thức mới và rèn luyện những phẩm chất cần
thiết, dưới sự chỉ đạo trực tiếp hoặc gián tiếp của giáo viên. Với tư cách là
một hình thức hoạt động độc lập của người học trong quá trình giáo dục, tự
học không chỉ giúp người học củng cố, mở rộng, hệ thống hoá kiến thức, rèn
luyện các kỹ xảo, kỹ năng mà còn đẩy nhanh thích ứng hoạt động học và hình
thành một loạt các phẩm chất nhân cách cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp
và cuộc sống sau này. Vì vậy, tự học thật sự là một "chìa khoá vàng của giáo
dục" và “cách học tập: phải lấy tự học làm cốt” có ý nghĩa cực kỳ to lớn trong
thời đại văn minh trí tuệ. Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) chỉ rõ: “Từng
bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình
dạy - học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học
sinh... Phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng
khắp trong toàn dân”.
Chất lượng tự học của học sinh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng ở
bậc trung học phổ thông, yếu tố quản lý giữ vai trò trọng yếu. Để có nề nếp,
chất lượng và hiệu quả, tự học của học sinh trung học phổ thông phải là hoạt
động tự giác của người học, trên cơ sở sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám

sát của các chủ thể quản lý. Hoạt động đó, đòi hỏi mỗi học sinh phải luôn xác


4
định rõ mục đích tự học, mục tiêu cụ thể của từng môn, bài, buổi học; có
phương pháp, kĩ năng tự học phù hợp; vượt qua những khó khăn, những trạng
thái tâm lý mệt mỏi, chán trường... Điều đó cho thấy, chủ thể quản lý có vai
trò quan trọng không thể thiếu đối với hoạt động tự học của học sinh các
trường trung học phổ thông.
Nhận thức rõ điều đó, các trường trung học phổ thông thị xã Phúc Yên,
tỉnh Vĩnh Phúc đã và đang tích cực đổi mới toàn diện quá trình giáo dục - đào
tạo. Trong đó, đặc biệt quan tâm đến hoạt động tự học của học sinh và quản lý
hoạt động này. Nhờ đó, chất lượng giáo dục ngày càng được nâng lên, tỷ lệ học
sinh khá, giỏi, tốt nghiệp, đỗ đại học hằng năm tăng. Tuy nhiên, xét ở từng thời
điểm, từng đối tượng cụ thể, đặc biệt trước sự phát triển của tình hình và yêu
cầu nhiệm vụ giáo dục - đào tạo, chất lượng tự học của học sinh và quản lý
hoạt động này đã dần bộc lộ những hạn chế, bất cập. Một bộ phận học sinh có
biểu hiện thiếu tích cực, tự giác trong tự học; tính kế hoạch trong tự học chưa
cao, còn để lãng phí thời gian; kĩ năng tự học còn nhiều hạn chế. Vai trò, trách
nhiệm của giáo viên bộ môn trong quản lý tự học của học sinh chưa được phát
huy đầy đủ; việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong quản lý,
nâng cao chất lượng tự học của học sinh và đảm bảo cơ sở vật chất, điều kiện
cho hoạt động này còn nhiều hạn chế... Vấn đề tất yếu, cấp bách đặt ra cần
nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống về lý luận, thực tiễn và đề xuất những
giải pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông thị xã
Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, làm cơ sở khoa học để góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục - đào tạo của các Nhà trường trên địa bàn hiện nay.
Với những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Quản lý hoạt động tự
học của học sinh trung học phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc”
làm đề tài nghiên cứu.



5
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
2.1. Những công trình nghiên cứu về tự học và quản lý hoạt động tự
học trên thế giới
Trong quá trình phát triển của giáo dục và khoa học giáo dục thế giới,
việc tự học và quản lý hoạt động tự học đã được nhiều nhà tư tưởng, nhà giáo
dục, nhà khoa học bàn luận.
N.A.Rubakin trong tác phẩm: “Tự học như thế nào” đã nhấn mạnh vai
trò của thái độ tích cực tự học trong việc chiếm lĩnh tri thức của học sinh. Theo
ông để tự học đạt kết quả thì: “việc giáo dục động cơ đúng đắn là điều kiện cơ
bản để học sinh tích cực, chủ động trong tự học” [38, tr.36]. Điều này chứng tỏ
N.A.Rubakin đã thấy rõ vai trò của yếu tố động cơ trong hoạt động tự học của
học sinh. Như vậy, muốn học tập có kết quả đòi hỏi phải giáo dục cho người
học động cơ đúng trong tự học. Song thực tế có động cơ đúng nhưng người học
thiếu kỹ năng thực hiện thì hoạt động tự học vẫn không đạt kết quả.
I.F.Khalamôv trong cuốn “Phát huy tính tích cực của học sinh như thế
nào?” [13, tr.65] đã khẳng định: Tự học đóng vai trò quan trọng trong việc
nâng cao tính tích cực nhận thức và hiệu quả hoạt động trí tuệ của học sinh.
P.V.Êxipôv [7] nghiên cứu công tác tự học của học sinh ngoài giờ lên lớp
cho rằng: Tự học là việc học của học sinh tiến hành khi không có sự tham gia
hướng dẫn trực tiếp của giáo viên. Trong đó người học phải vươn tới mục đích đã
đề ra. Trong nghiên cứu của mình tác giả cũng đưa ra phương hướng để kích thích
hoạt động tự học cho học sinh đó là: Trong quá trình dạy học giáo viên có thể nêu
lên hàng loạt vấn đề và yêu cầu học sinh hoàn thành trong một thời gian xác định.
Nhưng cách thức hướng dẫn người học tự học thì tác giả chưa đề cập tới.
Raisa Rojsinh (1997), trong cuốn “Nền giáo dục cho thế kỷ XXI,
những triển vọng châu Á - Thái Bình Dương” [37, tr.55] đã cho thấy, mục
đích của giáo dục là đào tạo ra những con người “hiếu học và một xã hội học



6
tập thường xuyên”. Người học vừa là chủ thể vừa là mục đích cuối cùng của
quá trình giáo dục. Họ phải tự chỉ đạo, tự tổ chức quá trình học tập theo phẩm
chất cá nhân của mình. Muốn tự học, tự nghiên cứu tốt cần phải tổ chức việc
học và tăng cường quản lý việc học.
Như vậy, kết quả nghiên cứu của các tác giả trên cho thấy, tự học đã
được xem xét một cách toàn diện. Các nghiên cứu không chỉ tiếp tục khẳng
định bản chất, vai trò của tự học, xem xét tự học trong mối quan hệ với các
hoạt động của quá trình dạy học, nêu lên những biện pháp tổ chức hoạt động
dạy học nhằm nâng cao hiệu quả tự học của người học... mà còn cho thấy
công tác quản lý hoạt động tự học, tự nghiên cứu của người học là lĩnh vực
được đặc biệt coi trọng ở các nước trên thế giới hiện nay. Quản lý hoạt động
học tập có vai trò to lớn đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo,
là “nhân tố quan trọng của chất lượng giáo dục”. Các công trình nghiên cứu
cũng đã đưa ra những khuyến nghị, biện pháp khác nhau về tổ chức, chính
sách và kỹ thuật đối với ngành giáo dục - đào tạo và Chính phủ các nước
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả tự học và quản lý hoạt động tự học. Đặc
biệt là chuyển từ quản lý học tập “lấy công nghệ là trung tâm sang lấy con
người là trung tâm”.
2.2. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu về tự học và quản lý hoạt
động tự học ở Việt Nam
Những năm qua ở nước ta, giáo dục - đào tạo được xác định là “quốc sách
hàng đầu”. Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách quản lý để phát
triển giáo dục, đồng thời có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về
vấn đề này. Trong đó, có công tác quản lý hoạt động tự học của người học.
Một số công trình nghiên cứu về công tác quản lý giáo dục, quản lý
hoạt động học tập như: “Một số khái niệm về quản lý giáo dục” của tác giả
Đặng Quốc Bảo (1997); “Giáo trình Quản lý giáo dục và đào tạo” [51] của



7
tập thể cán bộ nghiên cứu Trường Cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo Hà Nội
(2002);“Khoa học quản lý giáo dục - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [14]
của tác giả Trần Kiểm (2004); “Quản lý Nhà nước về giáo dục, lý luận và
thực tiễn” [18] của tác giả Đặng Bá Lãm (2005).
Các công trình tiêu biểu nghiên cứu về tự học và quản lý quá trình tự
học như: “Tự học để thành công”, (Khoa học cho mọi người) [20], của tác
giả Nguyễn Hiến Lê (1992). “Một số yếu tố tâm lý cơ bản trong tự học của
sinh viên cao đẳng sư phạm” [9] của tác giả Trần Thị Minh Hằng (2000).
“Phương pháp hướng dẫn tự học phần cơ sở di truyền học cho học viên tại
các trung tâm giáo dục thường xuyên” [34] của tác giả Hoàng Hữu Niềm
(2001). “Những giải pháp cơ bản bồi dưỡng phương pháp tự học cho học
sinh đào tạo sĩ quan ở các trường đại học quân sự” [10] của tác giả Mai Văn
Hoá (2004). “Rèn luyện năng lực tự học cho học sinh trung học phổ thông
qua giờ văn học sử” [59] của tác giả Phạm Thị Xuyến (2005). “Một số giải
pháp nhằm phát triển năng lực tự học toán của học sinh trung học phổ thông
(Qua việc dạy học chủ đề quan hệ song song và quan hệ vuông góc ở hình
học lớp 11)” [16] của tác giả Phạm Đình Khương (2006). “Hình thành và
phát triển kĩ năng tự học toán cho học sinh trung học cơ sở (Thông qua dạy
học các tập hợp số)” [36] của tác giả Võ Thành Phước (2009).
Với các cách tiếp cận vấn đề tự học, quản lý hoạt động tự học trong các
giai đoạn lịch sử khác nhau, với những đối tượng khác nhau và ở những góc
độ, khía cạnh khác nhau, song các nhà khoa học đều đi đến thống nhất về một
số vấn đề liên quan đến tự học và quản lý hoạt động tự học đó là:
Thứ nhất, thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của tự
học và công tác quản lý hoạt động tự học. Theo họ, đây là một hoạt động, một
khâu quan trọng và là nhân tố quyết định đến chất lượng dạy, chất lượng học,
quyết định đến trình độ, năng lực của mỗi người.



8
Thứ hai, khái quát được bản chất, chức năng, nguyên tắc, phương pháp
quản lý giáo dục.
Thứ ba, xác định những công cụ quản lý giáo dục, quản lý trường học,
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường.
Những kiến giải đó là cơ sở lý luận và thực tiễn cho quá trình triển khai
nghiên cứu đề tài của tác giả. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách cơ bản, sâu sắc, toàn diện, có hệ thống, dưới góc độ quản lý
giáo dục về quản lý hoạt động tự học trường trung học phổ thông. Do vậy, đề tài
nghiên cứu “Quản lý hoạt động tự học của học sinh trường trung học phổ
thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc” sẽ góp phần giải quyết một trong những
đòi hỏi cấp bách về đổi mới, nâng cao chất lượng dạy - học nhằm hoàn thành tốt
nhiệm vụ giáo dục - đào tạo của các trường trên địa bàn tỉnh.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý hoạt động tự học của
học sinh trung học phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, trên cơ sở đó đề
xuất những biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh trung học phổ
thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý,
chất lượng giáo dục, đáp ứng yêu cầu “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo” trung học phổ thông trên địa bàn Thị xã hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận quản lý hoạt động tự học của học sinh trung học
phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
- Khảo sát, phân tích thực trạng quản lý hoạt động tự học của học sinh
trung học phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay
- Xác định các biện pháp cơ bản quản lý hoạt động tự học của học sinh
trung học phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay



9
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động học tập của học sinh trung học phổ thông thị xã
Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông thị xã Phúc
Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài đi sâu nghiên cứu vấn đề quản lý hoạt động tự học
của học sinh ngoài thời gian lên lớp, giảng dạy tập trung của giáo viên.
- Về không gian: Tất cả các trường trung học phổ thông thị xã Phúc
Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Về thời gian: Các số liệu khảo sát, thống kê, minh chứng tính từ năm
2009 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Tự học là một khâu của quá trình dạy học. Lý luận dạy học hiện đại cho
thấy, tự học có vai trò quyết định đến chất lượng dạy học. Chất lượng hiệu
quả hoạt động tự học phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng ở bậc trung học phổ
thông, yếu tố quản lý giữ vai trò trọng yếu. Nếu xây dựng được cơ chế quản lý
hoạt động tự học phù hợp; thực hiện tốt quy trình quản lý hoạt động tự học
của học sinh; phát huy được vai trò của các chủ thể quản lý và vai trò tự quản
lý của học sinh đối với hoạt động tự học; tạo lập môi trường, điều kiện tự học
đảm bảo, thì chất lượng hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông thị
xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc sẽ được nâng lên.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về giáo



10
dục, đào tạo; đồng thời, tác giả vận dụng các quan điểm hệ thống - cấu
trúc, lôgíc - lịch sử và quan điểm thực tiễn để xem xét, phân tích, tổng hợp,
đánh giá các vấn đề nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Thực hiện việc đọc tài liệu, thu thập thông tin; phân tích, tổng hợp, hệ
thống hoá, khái quát hoá các tài liệu về đào tạo, giáo án, dạy học, các văn bản
tổng kết giáo dục - đào tạo, các Nghị quyết, chỉ thị của các trường trung học phổ
thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc trong quản lý giáo dục và quản lý hoạt
động tự học của học sinh. Các chỉ thị, nghị quyết về nâng cao chất lượng dạy
học, chất lượng giáo dục đào tạo của các Nhà trường.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Quan sát hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ quản
lý giáo dục, của các tổ chức, các cơ quan trong các nhà trường; hoạt động dạy
học của giáo viên; hoạt động học tập của học sinh ở các trường trung học phổ
thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Điều tra xã hội học đối với giáo viên, học sinh, cán bộ quản lý giáo dục,
các tổ chức đảng, chính quyền và các cơ quan quản lý giáo dục, quản lý cán bộ,
giáo viên ở các trường trung học phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Trao đổi với ban giám hiệu nhà trường (đặc biệt là hiệu trưởng), cán bộ
quản lý giáo dục, giáo viên, học sinh, cán bộ bộ môn, từ đó rút ra những kết
luận theo nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu, tìm hiểu chương trình, quy trình đào tạo, giáo án của giáo
viên; các đề tài, phần mềm, tài liệu mà giáo viên đã thực hiện; hệ thống sổ
sách của các trường trung học phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Nghiên cứu hoạt động tự học của học sinh, kết quả học tập của họ,
nghiên cứu hoạt động quản lý, tổ chức hoạt động tự học của nhà trường, các



11
bộ môn, cách đánh giá, nhằm đúc rút thành những kinh nghiệm về quản lý
hoạt động tự học của học sinh các trường trung học phổ thông thị xã Phúc
Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Xin ý kiến của một số nhà khoa học về vấn đề lý luận và thực tiễn có
liên quan tới việc nghiên cứu đề tài.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn đã xây dựng và hoàn thiện các khái niệm hoạt động tự học
và quản lý hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông thị xã Phúc
Yên, tỉnh Vĩnh Phúc; xây dựng hệ thống biện pháp quản lý hoạt động tự học
của học sinh trung học phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa học
cho thực tiễn đổi mới nâng cao chất lượng dạy - học của các trường trung
học phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc; đồng thời là tài liệu tham
khảo cho đội ngũ cán bộ, giáo viên, cơ quan quản lý giáo dục ở các trường
trung học phổ thông nhằm nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo trong giai
đoạn hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (6 tiết), kết luận và kiến nghị, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
TỰ HỌC CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THỊ XÃ PHÚC YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC
1.1. Các khái niệm cơ bản

1.1.1. Khái niệm hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông
* Tự học và vai trò của tự học
Tự học đã và đang được tiếp cận, nghiên cứu dưới nhiều giác độ khác
nhau. Theo cách hiểu chung nhất, tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử
dụng các khả năng trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) và có khi
cả cơ bắp (khi sử dụng công cụ thực hành) cùng các phẩm chất cá nhân như
động cơ, tình cảm, nhân sinh quan (trung thực khách quan, không ngại khó,
kiên trì nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý chí muốn thành đạt, biến khó khăn
thành thuận lợi,….) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân
loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của riêng mình.
Tổ tiên ta đã dạy rằng, sự học không cốt thuộc chữ, thuộc sách mà
cốt nắm lấy cái đạo của dạy học, đọc sách phải rút ra các điểm mấu chốt,
quan trọng, các phép tắc chủ yếu học xưa mà thấy nay, qua trang sách mà
thấu hiểu việc ngoài đời. Khổng Tử (551 - 479 tr.CN) nói, một vật có bốn
góc, từ chỉ cho một góc mà không biết suy ra ba góc còn lại thì ta không
dạy nữa; đây chính là vì Ông đề cao sự tự học, tự nghiên cứu của các nho
sinh. Lê Quý Đôn (1726 - 1784) học vấn uyên bác, văn chương tài hoa,
không sách nào không đọc, Ông đọc sách luôn ghi chép, luôn có ý kiến phê
phán riêng của mình, so sánh ý kiến học giả xưa và nay, rồi sau đó giải
thích theo ý của mình... Xét về bản chất thì đây chính là tự học, suy cho
cùng tự học là tự tìm ra chân lý.


13
Trong các nhà trường cũng như trong khoa học giáo dục, vấn đề tự học
được quan tâm đặc biệt. Theo lý luận dạy học, bản chất của tự học của học
sinh bao gồm toàn bộ môi trường học tập được tổ chức bởi giáo viên với mục
tiêu hướng đến tự đào tạo cho người học. Tự học là hoạt động học tập diễn ra
mà không có sự tham gia trực tiếp của người dạy.
Tự học là quá trình tự nhận thức, tự chiếm lĩnh khái niệm khoa học phản

ánh đối tượng của nhận thức, biến tri thức của nhân loại thành học vấn của bản
thân (nhận thức khoa học bao gồm: mô tả, giải thích và vận dụng khái niệm
khoa học) trên cơ sở phát huy tính tự giác, tính tích cực và tính tự lực của
người học trong sự thống nhất biện chứng với phương pháp dạy. Quá trình tự
học không chỉ nhằm vào chiếm lĩnh khái niệm khoa học, mà còn định hướng
cho phát triển trí tuệ của người học.
Theo V.I.Lênin (1870 - 1924), hoạt động học tập phải diễn ra thường
xuyên, liên tục, suốt đời, phải “Học, học nữa, học mãi”. Hồ Chí Minh là một
tấm gương sáng về tự học, khi bàn đến vấn đề tự học, Hồ Chí Minh cho rằng:
Tự học là cách học tự động và phải biết tự động học tập. Theo Hồ Chí Minh
tự động học tập tức là tự học một cách hoàn toàn tự giác, tự chủ, không đợi ai
nhắc nhở, không chờ ai giao nhiệm vụ, mà tự mình vạch ra kế hoạch học tập
cho mình, rồi tự triển khai thực hiện kế hoạch đó một cách tự giác. Tự mình
làm chủ thời gian để học và tự mình kiểm tra đánh giá việc học của mình.
Trong quyển Học và Dạy cách học, GS Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng:
Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi
cả cơ bắp và các phẩm chất khác của người học, cả động cơ tình cảm, nhân
sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một tri thức nào đó của nhân loại, biến
tri thức đó thành sở hữu của riêng mình. Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí
Nghiên cứu giáo dục số 7/1998 cũng bàn về khái niệm tự học: “Tự học là
người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri thức kinh nghiệm bằng hành


14
động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự đặt mình vào tình huống học,
vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề, thử nghiệm
các giải pháp…Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học”.
Trong bài phát biểu tại hội thảo Nâng cao chất lượng dạy học tổ chức
vào tháng 11 năm 2005 tại Đại học Huế, GS Trần Phương cho rằng: “Học
bao giờ và lúc nào cũng chủ yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích

lũy từ nhiều thế hệ của nhân loại thành kiến thức của mình, tự cải tạo tư duy
của mình và rèn luyện cho mình kĩ năng thực hành những tri thức ấy”.
GS.TSKH Thái Duy Tuyên khẳng định: Tự học là một hoạt động độc
lập chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ sảo, là tự mình động não, suy nghĩ, sử
dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) cùng các
phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào
đó hay những kinh nghiệm lịch sử xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu
của chính bản thân người học (Chuyên đề Dạy tự học cho sinh viên trong các
nhà trường trung học, chuyên nghiệp và cao đẳng, đại học).
Như vậy, tự học đã và đang được tiếp cận, nghiên cứu với tính cách là
một quá trình học tập, một hình thức tổ chức dạy học, một phương pháp dạy
học, hay một khâu trong quá trình dạy học... Khi coi tự học là một quá trình
học tập, người ta thường nhấn mạnh đến các khâu, các bước kế tiếp nhau của
quá trình tự học. Khi xem tự học là một hình thức tổ chức dạy học, người
nhấn mạnh góc độ tổ chức, sắp xếp các giờ, các buổi tự học, tự nghiên cứu
của người dạy và người học. Còn khi tiếp cận, nghiên cứu tự học với tính
cách là một phương pháp học tập người ta lại nhấn mạnh cách thức phối hợp
các hoạt động, các thao tác học tập, nghiên cứu của người học nhằm nâng cao
tri thức và năng lực trí tuệ.
Tuy nhiên, điểm chung là các quan điểm trên đều cho thấy: tự học là tự
mình động não, suy nghĩ, sử dụng các khả năng trí tuệ (quan sát, so sánh, phân


15
tích, tổng hợp…) và có khi cả cơ bắp (khi sử dụng công cụ thực hành) cùng các
phẩm chất cá nhân như động cơ, tình cảm, nhân sinh quan (trung thực khách
quan, không ngại khó, kiên trì nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý chí muốn
thành đạt, biến khó khăn thành thuận lợi,...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu
biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của riêng mình.
Dưới góc độ quản lý giáo dục, tự học được xem là phương thức tự tổ

chức, tự điều khiển các hoạt động học tập của người học, dưới sự chỉ đạo của
người dạy, người quản lý, nhằm thực hiện các mục tiêu dạy học đã xác định.
Hoạt động tự học về bản chất là hoạt động tự nhận thức của người học.
Người học tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động tư duy của bản thân trong quá
trình thực hiện các nhiệm vụ học tập. Trong quá trình dạy - học, người học có
thể tiến hành hoạt động học tập dưới nhiều hình thức, trong các điều kiện
khác nhau. Khi người học tự mình huy động những phẩm chất, năng lực để
tìm tòi khám phá độc lập nhằm mục đích chiếm lĩnh tri thức, tức là họ tiến
hành hoạt động tự học.
Tự học là “cốt” của việc học, hễ có học là có tự học, không ai có thể
học hộ người khác. Khi nói đến học là hàm ý nói đến mối quan hệ giữa “nội
lực” của người học và “ngoại lực” tức là của người dạy. Hiệu quả của quá
trình dạy học chính là sự tương tác của tư duy, hành động và lời nói giữa người
dạy và người học. Nhờ sự trợ giúp của ngôn ngữ mà tư duy được củng cố và
phát triển. Giao tiếp bằng lời cho phép người học nhận thức thế giới xung
quanh, nhận ra mình trong thế giới đó. Tuy nhiên, phát triển tư duy chỉ với một
hệ thống giao tiếp không thôi thì chưa đủ, cần phải có hoạt động tự học của
người học. Tự học không chỉ giúp học sinh nắm vững được những kiến thức đã
được thầy cô trang bị, mà còn là động lực to lớn thúc đẩy tư duy sáng tạo của
học sinh, bồi dưỡng sự say mê học hỏi, khắc phục lối tư duy thụ động của học
sinh. Những nỗ lực của người học là nhằm làm chủ kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo


16
tạo điều kiện cho sự phát triển nhận thức và trí tuệ. John Lubbock đã nói: “Cái
gì ta tự học được mới thực là của ta hơn những cái người ta dạy ta”. Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng dạy: “Cách học tập:... Lấy tự học làm cốt...” [9, tr.18].
Người còn nhấn mạnh: “Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học” [9, tr.79].
Người khuyên: “Không phải có thầy thì học, thầy không đến thì đùa. Phải
biết tự động học tập” [9, tr.79].

Vai trò của tự học không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân người học, mà
nó còn có ý nghĩa to lớn đối với vấn đề nâng cao chất lượng của dạy học và
đào tạo. Chất lượng giáo dục và đào tạo cao nhất là sự cộng hưởng ngoại lực
dạy với nội lực tự học, tự đào tạo. Quá trình tự học là quá trình cá nhân hoá
việc học kết hợp, hợp tác với bạn, với thầy tức là quá trình xã hội hoá việc
học tập tạo ra chất lượng và hiệu quả cao, đạt mục tiêu đào tạo.
Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học và là một xu thế tất
yếu, bởi vì quá trình giáo dục thực chất là quá trình biến người học từ khách
thể giáo dục thành chủ thể giáo dục (tự giáo dục). Tự học giúp nâng cao kết
quả học tập của học sinh và chất lượng giáo dục của nhà trường, là biểu hiện
cụ thể của việc đổi mới phương pháp dạy học ở các nhà trường hiện nay.
Càng học lên cao thì tự học càng cần được coi trọng, nói tới phương pháp dạy
học thì cốt lõi chính là dạy tự học. Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập
và nghiên cứu khoa học. Bởi vì đã là người học, dù là ở cấp độ nào thì họ cần
có thói quen nghiên cứu, mà để có được thói quen ấy thì không thể không
thông qua con đường tự học. Muốn thành công trên bước đường học tập và
nghiên cứu thì phải có khả năng phát hiện và tự giải quyết những vấn đề mà
cuộc sống, khoa học đặt ra.
Tự học chính là cái gốc của sự phát triển bền vững của mỗi cá nhân, tạo
tiềm năng cho con người phát triển toàn diện, góp phần hoàn thiện nhân cách,


17
sức lao động. Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân là tính
tích cực, sự chủ động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh. Có thể xem tính tích cực
(hình thành từ tự học) như một điều kiện, kết quả của sự phát triển nhân cách
thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại. Trong đó hoạt động tự học là những biểu hiện
sự gắng sức cao về nhiều mặt của từng cá nhân người học trong quá trình
nhận thức thông qua sự hưng phấn tích cực. Mà hưng phấn chính là tiền đề
cho mọi hứng thú trong học tập. Có hứng thú người học mới có được sự tự

giác say mê tìm tòi nghiên cứu khám phá. Hứng thú là động lực dẫn tới tự
giác. Tính tích cực của con người chỉ được hình thành trên cơ sở sự phối hợp
ngẫu nhiên giữa hứng thú với tự giác. Nó bảo đảm cho sự định hình tính độc
lập trong học tập. Tự học giúp con người thích ứng với mọi biến cố của sự
phát triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học mỗi cá nhân sẽ không cảm
thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với những tình
huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả những thách thức to lớn
từ môi trường nghề nghiệp trong tương lai.
Như vậy, tự học có nghĩa là tự giác, chủ động chiếm lĩnh tri thức với
niềm say mê, hứng thú đặc biệt. “Nên tài, nên đức, nhờ tự học”- Lời tổng kết
ông cha ta truyền lại từ thế hệ này đến thế hệ khác như là một di sản quý báu
của dân tộc. Thực tế đã chứng minh rằng, hầu hết những nhà khoa học lớn,
những danh nhân văn hoá tầm cỡ thế giới đều trưởng thành từ con đường tự
học. Hồ Chí Minh cũng là một tấm gương sáng về tinh thần tự học suốt đời.
Đối với học sinh, sinh viên, tự học là để lĩnh hội tri thức, rèn luyện tư duy độc
lập, nâng cao khả năng phát hiện, tìm tòi, khám phá thế giới xung quanh...
* Hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông

Trong hệ thống giáo dục quốc dân, trường trung học phổ thông là
cấp học cuối cùng của bậc học phổ thông. Hoàn chỉnh tất cả các khâu mà
giáo dục phổ thông đặt ra để đạt được mục tiêu cấp học, hình thành cho
thế hệ trẻ nhân cách sống mà xã hội yêu cầu. Đó là lớp thanh niên có kiến


18

thức cơ bản phổ thông vững chắc về tự nhiên, xã hội. Biết tư duy sáng
tạo, năng động, dám nghĩ, dám làm, có kỹ năng làm việc và biết cách ứng
xử trong cuộc sống; có nhân sinh quan duy vật biện chứng, biết yêu
thương đồng loại, chan hoà với mọi người. Lớp thanh niên này sẽ tiếp tục

học lên các bậc học cao hơn để được đào tạo thành các cán bộ khoa học kỹ thuật, các chuyên gia lành nghề, các nhà khoa học nhân tài của đất
nước. Một bộ phận thanh niên này sẽ được đào tạo nghề để trở thành
những công nhân kỹ thuật lành nghề cung cấp cho các ngành kinh tế - văn
hoá - xã hội của đất nước.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, nhu
cầu về nguồn nhân lực tăng nhanh về số lượng, chất lượng và đa dạng về
loại hình lao động nhằm tiếp thu công nghệ mới, nhanh chóng nắm bắt,
đuổi kịp nhịp độ phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới,
trong bối cảnh hội nhập và phát triển.
Những định hướng chiến lược phát triển giáo dục của Đảng, nhà
nước, nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã chỉ rõ vị trí, vai trò,
nhiệm vụ trọng tâm, cũng như phương thức quản lý trường trung học phổ
thông. Vì vậy, cần có sự quan tâm đúng mức và có biện pháp quản lý cho
phù hợp để nâng cao hiệu quả giáo dục ở trường trung học phổ thông.
Học sinh các trường trung học phổ thông là những học sinh đã tốt
nghiệp trung học cơ sở, đủ điều kiện xét tuyển, trúng tuyển và đang học tập
tại các trường trung học phổ thông. Họ có độ tuổi phổ biến từ 15 tới 18
(không kể một số trường hợp đặc biệt); gồm học sinh các khối: lớp 10, lớp 11,
lớp 12; thể chất tốt, học lực khá; nhạy cảm với cái mới và những tác động
khách quan; hiểu biết xã hội còn ít; khả năng chịu đựng khó khăn, gian khổ,
vất vả hạn chế; một số học sinh, điều kiện sống nhiều khó khăn...


19
Với mục tiêu “Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm
chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề
nghiệp. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng,
truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực
hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; phát triển khả năng sáng tạo, tự học,
khuyến khích học tập suốt đời...”, nhiệm vụ học tập của học sinh các trường

trung học phổ thông rất đa dạng và khá nặng. Ngoài các môn học mang tính
phổ thông, cơ bản còn có những nội dung, chương trình dành cho học sinh
trường chuyên, lớp chuyên, lớp chọn, các nội dung về kỹ năng sống, về giới...
trải qua 3 năm học (từ lớp 10 đến lớp 12), học sinh phải vượt qua kì thi tốt
nghiệp Trung học phổ thông vào cuối năm học lớp 12.
Để thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ học tập đó, trên cơ sở giới thiệu
hướng dẫn của giáo viên, tự học của học sinh trung học phổ thông có vai trò
quyết định. Hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông có thể diễn ra
dưới sự chỉ đạo, điều khiển, hướng dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp của giáo viên
và các lực lượng quản lý giáo dục. Tự học dưới sự chỉ đạo, điều khiển hướng
dẫn trực tiếp của giáo viên đó là lúc người học là chủ thể nhận thức tích cực,
tiến hành những hoạt động học tập để lĩnh hội kiến thức theo sự dẫn dắt của
giáo viên. Khi không có giáo viên điều khiển trực tiếp, người học tự mình sắp
xếp kế hoạch, huy động năng lực bản thân và các điều kiện vật chất để lĩnh
hội kiến thức mới, thực hiện các nhiệm vụ học tập. Ngoài ra, hoạt động tự học
của học sinh trung học phổ thông còn có thể được diễn ra trên cơ sở đòi hỏi
của tự thân người học, nhằm đáp ứng nhu cầu nâng cao hiểu biết, bổ sung và
mở rộng tri thức ngoài chương trình giáo dục quy định.
Từ đó có thể quan niệm, tự học của học sinh trung học phổ thông thị
xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc là phương thức tự tổ chức, tự điều khiển các
hoạt động học tập của học sinh, dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn, quản lý của
giáo viên và các chủ thể quản lý nhằm nâng cao kiến thức, trình độ và rèn


20
luyện những phẩm chất cần thiết của người học sinh, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi
của nhiệm vụ giáo dục - đào tạo.
Như vậy, hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông có phạm vi
rất rộng, từ tự học trên lớp dưới sự điều khiển trực tiếp của giáo viên đến tự học
ngoài giờ lên lớp, dưới sự điều khiển gián tiếp của giáo viên và tự học hoàn toàn

độc lập không có sự tổ chức, điều khiển của giáo viên. Do mục tiêu và phạm vi
nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ xem xét việc quản lý hoạt động tự học của học
sinh trung học phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc với tính cách là hoạt
động học tập ngoài giờ lên lớp, dưới sự điều khiển gián tiếp của giáo viên và các
lực lượng quản lý giáo dục, nhằm hoàn thành mục đích, nhiệm vụ giáo dục của
các Nhà trường. Ở phạm vi đề tài này, tự học của học sinh được tiếp cận với tư
cách là một hình thức tổ chức dạy học và là một hoạt động học tập.
1.1.2. Khái niệm quản lý hoạt động tự học của học sinh trung học
phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
Thị xã Phúc Yên nằm ở phía đông tỉnh Vĩnh Phúc, phía Đông Bắc của
Thủ đô Hà Nội, cách trung tâm thủ đô 30 km. Với diện tích tự nhiên
12.029,55 ha, 10,1 vạn người (tính đến tháng 6 năm 2014), Thị xã có 6
phường và 4 xã. Các Phường: Đồng Xuân, Hùng Vương, Phúc Thắng, Trưng
Nhị, Trưng Trắc, Xuân Hòa, các xã: Cao Minh, Nam Viêm, Ngọc Thanh,
Tiền Châu. Thị xã là một đô thị đạt tiêu chuẩn đô thị loại III vào năm 2013 và
theo quy hoạch là đô thị loại II vào năm 2015, trung tâm công nghiệp, thương
mại, du lịch và dịch vụ tổng hợp, vùng trọng điểm kinh tế của tỉnh. Vị trí địa
lý, giao thông thuận lợi, gần Thủ, sân bay quốc tế Nội Bài, có đường quốc lộ
2, đường quốc lộ 23, đường sắt Hà Nội - Lào Cai, có đường cao tốc xuyên Á
đi cảng Cái Lân Quảng Ninh và Côn Minh Trung Quốc; có hệ thống hạ tầng
kỹ thuật, hệ thống cung cấp dịch vụ tương đối hoàn chỉnh, trên địa bàn Thị xã
có trên 50 cơ quan, doanh nghiệp, các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học


21
chuyên nghiệp, dạy nghề của Trung Ương, của tỉnh, của Hà Nội. Đây là điều
kiện thuận lợi để Phúc Yên khai thác các thế mạnh, đồng thời cũng là những
yếu tố ảnh hưởng lớn tới phát triển kinh tế - xã hội nói chung, giáo dục và đào
tạo của địa phương nói riêng.
Trong hệ thống giáo dục phổ thông, thị xã Phúc Yên có 4 trường trung

học phổ thông. Đó là, trường trung học phổ thông Bến Tre, trường trung học
phổ thông Hai Bà Trưng, trường trung học phổ thông Phúc Yên và trường
trung học phổ thông Xuân Hòa. Đặc điểm chung của các trường trung học
phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc là đứng chân trên địa bàn thị xã
gần 120 năm tuổi, nơi có bề dày truyền thống lịch sử, văn hoá và đấu tranh
cách mạng. So với các trường trung học phổ thông trong tỉnh, các trường
trung học phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc thuận lợi hơn về vị trí
địa lý, điều kiện giao thông và các điều kiện về con người, cơ sở vật chất đảm
bảo cho dạy và học. Cũng như con người Phúc Yên nói chung, Học sinh các
trường trung học phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc ham học hỏi,
đoàn kết, năng động, sáng tạo, sẵn sàng đáp ứng được yêu cầu phát triển của
đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông thị xã Phúc Yên,
tỉnh Vĩnh Phúc là toàn bộ những hành động mang tính tự giác cao, có chủ
định và sáng tạo, được điều khiển, chỉ đạo gián tiếp bởi các chủ thể quản lý
theo một chương trình, nội dung, kế hoạch cụ thể.
Chất lượng tự học của học sinh trung học phổ thông thị xã Phúc Yên,
tỉnh Vĩnh Phúc phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan, chủ quan. Đó là, yếu tố
nhận thức học sinh về vai trò của tự học, yếu tố quản lý và một số yếu tố khác
như hoạt động dạy, sách giáo khoa, tài liệu, cơ sở vật chất và trang thiết bị phục
vụ cho học tập... Nhưng trong đó, yếu tố quản lý có vai trò quan trọng.


22
Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại
và phát triển đều phải thừa nhận và chịu một sự quản lý nào đó. C.Mác đã
viết: “Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn
nhạc thì cần phải có nhạc trưởng’’[26,tr.480]. Cũng chính vì thế mà ngày
nay, thuật ngữ quản lý đã trở nên phổ biến.
Quản lý là sự tác động có ý thức nhằm điều khiển, hướng dẫn các quá

trình xã hội, những hành vi hoạt động của con người để đạt tới mục đích đúng
với ý định của nhà quản lý và phù hợp với quy luật khách quan. Trong quản
lý bao giờ cũng gồm 3 thành phần: chủ thể quản lý, mục tiêu quản lý và đối
tượng quản lý. Về bản chất, đó là cách thức tác động (lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức, hướng dẫn, giám sát, kiểm tra) hợp quy luật khách quan của chủ thể
quản lý nhằm làm cho hoạt động hay quá trình nào đó được vận hành, đạt
hiệu quả mong muốn và đạt mục tiêu đề ra.
Mỗi lĩnh vực, loại hình hoạt động có những nội dung, yêu cầu quản
lý khác nhau, gắn với từng chức năng, nhiệm vụ của chủ thế quản lý. Quản
lý hoạt động tự học của học sinh là một trong những nội dung cơ bản của
quản lý nhà trường, quản lý quá trình dạy - học. Mà quản lý hoạt động dạy
- học, thực chất là những tác động của chủ thể quản lý vào quá trình dạy
học (được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học sinh, với sự hỗ trợ đắc lực
của các lực lượng xã hội) nhằm hình thành và phát triển nhân cách của học
sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường. Với tư cách là một bộ phận, một
mặt, một nội dung cơ bản của quản lý quá trình dạy - học, quản lý hoạt
động tự học của học sinh là công tác nhằm cho hoạt động tự học của học
sinh đạt kết quả tốt hơn.
Theo đó, quản lý hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông
thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc là cách thức chủ thể quản lý lãnh đạo, chỉ
đạo, tổ chức, hướng dẫn, giám sát, kiểm tra... hoạt động tự học của học sinh


23
nhằm làm cho hoạt động này có hiệu quả, góp phần hoàn thành mục đích,
nhiệm vụ học tập, đáp ứng với mục tiêu giáo dục của Nhà trường.
* Mục tiêu quản lý hoạt động tự học của học sinh trung học phổ
thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc là phát huy tối đa tiềm năng, trí
tuệ, sự năng động, sáng tạo, tính tích cực, tự giác của học sinh nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tự học; đúc rút những kinh nghiệm

quản lý hoạt động tự học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào
tạo. Đây là mục tiêu xuyên suốt, nhất quán trong quản lý hoạt động tự học
của học sinh trung học phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Mọi
hoạt động, nội dung, yêu cầu, cách thức, biện pháp, phương tiện... của chủ
thể trong quản lý hoạt động tự học của học sinh đều phải nhằm hướng tới
và phục vụ mục tiêu này.
* Chủ thể quản lý hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông
thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc là Ban giám hiệu nhà trường, các cơ quan
chức năng có liên quan, bộ môn, giáo viên, cha mẹ học sinh và bản thân mỗi
học sinh. Như vậy, chủ thể quản lý hoạt động tự học của học sinh trung học
phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc không chỉ có chủ thể quản lý học
sinh của trường trung học phổ thông trên địa bàn thị xã - những lực lượng có
chức năng quản lý của các trường trung học phổ thông trên địa bàn; mà còn
bao hàm cả chủ thể quản lý học sinh trung học phổ thông thị xã Phúc Yên,
tỉnh Vĩnh Phúc, trong đó cha mẹ học sinh và chính bản thân mỗi học sinh. Mỗ
chỉ thể có phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, vai trò quản lý khác nhau nhưng
cùng hướng đến mục tiêu quản lý.
* Khách thể quản lý hoạt động tự học của học sinh trung học phổ
thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc là học sinh và hoạt động tự học của họ.
Như vậy, học sinh vừa là khách thể, vừa là chủ thể trong quá trình tổ chức
quản lý thực hiện hoạt động tự học của mình.


24
Thứ nhất, nếu xét về phương diện tác động, chủ thể quản lý hoạt động
tự học của học sinh trung học phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc như
Ban giám hiệu các nhà trường, các cơ quan chức năng có liên quan, bộ môn,
giáo viên, cha mẹ học sinh liên tục tìm ra biện pháp, cách thức, phương thức
nhằm tác động đến người học sinh, qua đó làm thay đổi nhận thức, phương
pháp, hiệu quả hoạt động tự học của họ. Đến lượt nó, đối tượng của quá trình

quản lý lại trở thành chủ thể, tác động trở lại chủ thể quản lý, buộc chủ thể
quản lý phải tìm tòi, suy nghĩ, tìm ra các giải pháp tác động trở lại đối tượng.
Đây cũng chính là điều kiện để các chủ thể quản lý tự mình hoàn thiện mình
(tình cảm, thái độ, năng lực...) đáp ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ giáo dục đào tạo nói chung, công tác quản lý nói riêng.
Thứ hai, nếu xét về phương diện chịu sự tác động, thì người học sinh là
đối tượng của quá trình đó. Nhưng nếu xét về phương diện hoạt động, thì
người học sinh trung học phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc chính là
chủ thể hoạt động tự học của chính mình. Nói cách khác, về thực chất là tạo
mọi điều kiện cho học sinh trung học phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh
Phúc biến quá trình quản lý hoạt động tự học thành tự quản lý. Đồng thời
thông qua hoạt động của họ mà tác động trở lại các chủ thể giáo dục, bồi
dưỡng qua đó làm thay đổi chủ thể (thái độ, tình cảm, nhân cách...). Như vậy,
quản lý không chỉ tác động đến và làm biến đổi đến người học, người được
quản lý mà còn một chiều rất quan trọng khác là tác động đến và làm biến đổi
người dạy, người quản lý theo những tiêu chí xã hội nhất định.
Tựu chung, trong mối quan hệ này, học sinh vừa là đối tượng quản lý
vừa là chủ thể của quá trình ấy. Nghĩa là đặt trong mối quan hệ này thì họ
là đối tượng (quan hệ quản lý và được quản lý), nhưng trong mối quan hệ
khác thì họ là chủ thể (tự giáo dục, tự quản lý). Do vậy, khi tiếp cận cần có
phương pháp:


25
Chủ thể - đối tượng; đối tượng - chủ thể. Đây là sự tương tác hai chiều
(quan hệ biện chứng), tác động qua lại lẫn nhau, qui định lẫn nhau, nghĩa là
giải quyết tốt quan hệ này thì đồng thời giải quyết tốt mối quan hệ kia và
ngược lại. Quản lý hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông thị xã
Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc là một quá trình liên tục giải quyết các mâu thuẫn
nảy sinh từ mối quan hệ này. Giải quyết mối quan này chính là việc tìm ra,
phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng chủ thể, tạo sự đồng thuận của các

tổ chức, lực lượng, quá trình trong quản lý hoạt động tự học của học sinh trung
học phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Đồng thời làm thay đổi quan
niệm truyền thống: chủ thể (chủ động), đối tượng (bị động) sang quan niệm
chủ thể (định hướng), đối tượng (chủ thể).
Sự phân định giữa chủ thể và đối tượng chỉ là tương đối. Điều đó đặt ra
yêu cầu khách quan về mục tiêu, kế hoạch, nội dung, phương pháp, thời gian
và không gian của hoạt động quản lý để xác định các biện pháp quản lý hoạt
động tự học của học sinh trung học phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh
Phúc một cách khoa học, khả thi, hiệu quả.
1.2. Nội dung quản lý và những nhân tố tác động tới quản lý hoạt động
tự học của học sinh trung học phổ thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
1.2.1. Nội dung quản lý hoạt động tự học của học sinh trung học phổ
thông thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
Một là, quản lý việc tổ chức giáo dục xây dựng động cơ, trách nhiệm
tự học cho học sinh. Bất cứ một hoạt động nào của con người cũng đều có
mục đích, có động cơ. Động cơ là tiền đề, là điều kiện, nhân tố thúc đẩy,
định hướng và duy trì hoạt động tự học của học sinh. Như đã đề cập ở trên,
tự học là hoạt động chính của bản thân học sinh, được tiến hành ngoài giờ
lên lớp có hoặc không có sự hướng dẫn của thầy nhằm nắm vững, mở rộng
tri thức, nó mang tính độc lập cao và mang đậm sắc thái cá nhân. Do đó,


26
kết quả tự học phụ thuộc vào yếu tố tự giác, tích cực và phương pháp của
học sinh, mà điều đó chỉ có thể có được trên cơ sở động cơ đúng đắn, trách
nhiệm tự học cao của học sinh.
Khơi gợi hứng thú học tập để trên cơ sở đó ý thức tốt về nhu cầu học
tập. Xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh là việc cần làm đầu
tiên. Bởi vì, thành công không bao giờ là kết quả của một quá trình ngẫu hứng
tùy tiện thiếu tính toán, kể cả trong học tập lẫn nghiên cứu. Nhu cầu xã hội và

thị trường lao động hiện tại đặt ra cho mỗi người những tố chất cần thiết chứ
không phải là những điểm số đẹp, những điều như vật trang sức vào đời mà
không có thực lực vì động cơ học tập lệch lạc. Có động cơ học tập tốt khiến
cho người ta luôn tự giác, say mê học tập với những mục tiêu cụ thể, rõ ràng
với một niềm vui sáng tạo bất tận.
Trong rất nhiều động cơ học tập của học sinh các trường trung học phổ
thông thị xã Phúc Yên, có thể khuôn tách thành hai nhóm cơ bản: Các động
cơ hứng thú nhận thức và các động cơ trách nhiệm trong học tập.
Thông thường các động cơ hứng thú nhận thức hình thành và đến
được với người học một cách tự nhiên khi bài học có nội dung mới lạ, thú vị,
bất ngờ, động và chứa nhiều yếu tố nghịch lí, gợi sự tò mò. Động cơ này sẽ
xuất hiện thường xuyên khi giáo viên biết tăng cường tổ chức các trò chơi
nhận thức, các cuộc thảo luận hay các biện pháp kích thích tính tự giác tích
cực từ người học.
Động cơ, nhiệm vụ và trách nhiệm thì bắt buộc người học phải liên hệ
với ý thức về ý nghĩa xã hội của sự học. Giống như nghĩa vụ đối với Tổ quốc,
trách nhiệm đối với gia đình, thầy cô, uy tín danh dự trước bạn bè… Từ đó
các em mới có ý thức kỉ luật trong học tập, nghiêm túc tự giác thực hiện mọi
nhiệm vụ học tập, những yêu cầu từ giáo viên, phụ huynh, tôn trọng mọi chế
định của xã hội và sự điều chỉnh của dư luận.


×