Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý HOẠT ĐỘNG tự học của SINH VIÊN đại học THÀNH đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.23 KB, 90 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ
HỌC CỦA SINH VIÊN
1.1.
Một số khái niệm công cụ
1.2.
Nội dung quản lý hoạt động tự học của sinh viên
trường đại học
1.3.
Các yếu tố tác động đến quản lý hoạt động tự học của
sinh viên trường đại học
Chương 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
TỰ HỌCCỦA SINH VIÊN Ở TRƯỜNG ĐẠI
HỌC THÀNH ĐÔ
2.1.
Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại
học Thành Đô
2.2.
Thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên
Trường Đại học Thành Đô
2.3.
Nguyên nhân của thực trạng tự học và quản lý hoạt động
tự học của sinh viên Trường Đại học Thành Đô
Chương 3 YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
THÀNH ĐÔ HIỆN NAY
3.1.


Yêu cầu đề xuất biện pháp
3.2.
Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường
Đại học Thành Đô hiện nay
3.3.
Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
KỂT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

3
13
13
22
24

30
30
35
44

48
48
50
80
85
88


3


MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức
đang đặt ra những yêu cầu mới không chỉ cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo
mà còn đòi hỏi mỗi cá nhân phải có khả năng thích ứng cao, linh hoạt trong
tiếp nhận, xử lý thông tin và không ngừng tự bồi dưỡng tri thức để đáp ứng
được các nhu cầu ngày càng phát triển của xã hội. Chính vì vậy, việc phát
huy vai trò năng động chủ quan, chú trọng bồi dưỡng năng lực tự học, tự đào
tạo của người học đang là một nội dung quan trọng của đổi mới giáo dục,
đào tạo trong nhà trường hiện nay, đây được xem như một hướng đột phá,
được sự quan tâm lớn của xã hội và các trường đại học, cao đẳng trong cả
nước. Chính vì vậy, trong Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
lần thứ 8 (khóa XI), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại... Tập trung dạy cách học, cách
nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri
thức, kỹ năng, phát triển năng lực” [39; tr.8]. Đây là vấn đề có ý nghĩa rất
quan trọng của giáo dục, nhằm biến quá trình đào tạo của nhà trường thành
quá trình tự đào tạo của mỗi cá nhân.
Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ cấp bách đặt ra cho
các trường đại học nói chung và Trường Đại học Thành Đô nói riêng trong
giai đoạn hiện nay. Một trong những con đường để nâng cao chất lượng đào
tạo là đổi mới phương thức đào tạo nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của
sinh viên. Đối với sinh viên trường Đại học Thành Đô, nâng cao chất lượng tự
học có ý nghĩa rất quan trọng, trực tiếp quyết định đến chất lượng dạy và học,
tự học không chỉ giúp sinh viên nắm vững tri thức, kỹ xảo, kỹ năng nghề
nghiệp mà còn là một trong những yếu tố quan trọng để biến nhận thức thành


4


niềm tin, xây dựng và phát triển tư duy độc lập sáng tạo, làm cho người học
có thể biết phát hiện và phân tích được những vấn đề phức tạp của thực tiễn
xã hội, cũng như trong đời sống hàng ngày để tìm ra hướng giải quyết đúng
đắn. Vì vậy, tổ chức các hoạt động tự học một cách hợp lý, khoa học, có chất
lượng, hiệu quả là vấn đề có tính cấp thiết hiện nay.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, đặc biệt là Nghị quyết
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 (khóa XI) về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo trong tình hình mới, những năm qua, Trường
Đại học Thành Đô đã tiến hành đổi mới đồng bộ nội dung, phương pháp, hình
thức giáo dục, đào tạo theo hướng dân chủ hoá, tích cực hoá nhằm hướng tới
mục tiêu đào tạo những sinh viên trở thành những con người hoạt động thực
tiễn tự chủ, năng động và sáng tạo. Vai trò tích cực, chủ động trong học tập
rèn luyện của sinh viên đã được đề cao.
Tuy nhiên, việc tích cực hóa hoạt động của sinh viên trong tự học
còn nhiều hạn chế, ở một bộ phận sinh viên việc quán triệt mục tiêu, yêu
cầu đào tạo chưa sâu sắc, ý thức tự giác trong tự học, tự rèn luyện chưa
thường xuyên, liên tục, sinh viên chưa có kỹ năng và phương pháp học tập
khoa học, hợp lý. Bên cạnh đó, việc đổi mới phương pháp dạy học của
giảng viên còn chậm, chủ yếu vẫn là truyền thụ kiến thức trong chương
trình, chưa tập trung nhiều đến đổi mới phương pháp dạy học. Việc kiểm
tra đánh giá kết quả tự học của sinh viên vẫn chưa được chú trọng theo
hướng phát triển năng lực và phẩm chất của người học.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng đó là Nhà trường chưa
chú ý làm tốt công tác quản lý đối với hoạt động hoạt động học tập nói
chung, quản lý tự học của sinh viên nói riêng. Công tác quản lý hoạt động
tự học chủ yếu vẫn là quản lý hành chính, chưa thực sự có hình thức tổ


5


chức và biện pháp quản lý phù hợp... Những hạn chế đó đã ảnh hưởng trực
tiếp đến kết quả giáo dục, đào tạo của Nhà trường.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi chọn đề tài: “Quản lý
hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học Thành đô” làm luận văn
thạc sĩ chuyên ngành quản lý giáo dục.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong lịch sử phát triển của giáo dục, các nhà giáo dục đã sớm nhận
thức về vai trò quan trọng của tự học. Ngay từ thời cổ đại, Khổng Tử (551 479 trước công nguyên) đã chỉ ra rằng: thầy giáo chỉ giúp cho học trò cái
mấu chốt nhất, còn mọi vấn đề khác học trò phải từ đó mà tìm ra; Xôcơrát
(469 - 399 trước công nguyên) thì cho rằng cần phải để cho người học tự
suy nghĩ, tự tìm tòi, tự phát hiện thấy những sai lầm của mình và tự khắc
phục những sai lầm đó. Những tư tưởng của Khổng Tử và Xôcơrát về dạy
học, không những đề cao vai trò của người thầy mà còn rất xem trọng tính
tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của người học. Do đó, các ông
đã quan tâm dẫn dắt người học cách học và rèn cách học.
Nhiều thể ký sau đó, rèn luyện các kỹ năng tự học được các nhà giáo
dục quan tâm nghiên cứu như: Mông-te -nhơ (1532 - 1592, Pháp), Rút - xô
(1712 - 1778, Pháp), Usinxki (1824 - 1870, Nga)… Trong đó nổi bật nhất
là Cômenxki (1592 - 1670) là nhà giáo dục vĩ đại người Tiệp khắc (Cộng
hoà Séc), trong tác phẩm Khoa sư phạm của mình, khi bàn về vấn đề tự
học, ông khuyên “mỗi ngày nên giao cho trí nhớ một việc gì đó”, “Sự học
tập trau dồi kiến thức phải được bắt đầu, phát triển và tăng cường từ cội rễ
bên trong…, muốn trau dồi kiến thức vững chắc không thể làm một lần mà
phải ôn đi ôn lại, có bài tập thường xuyên” [31].
Trong quản lý hoạt động học, ông cho rằng nhà trường và học sinh
cần tạo ra sự ham học, phát huy mạnh mẽ các chức năng tâm lý nhận thức


6


để lĩnh hội kiến thức; người học phải “nỗ lực tổ chức hoạt động học tập của
mình, dành thời gian tổi đa có thể cho việc học tập”.
Đặc biệt đề cập đến vấn đề tự học, V.I.Lênin (1870 - 1924), trong tác
phẩm “Nhiệm vụ đoàn thanh niên” của mình. Người đã nhắc nhở các đoàn
viên phải tích cực học tập. Người viết: “Người ta chỉ có thể trở thành người
cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả kho tàng
tri thức mà nhân loại tạo ra” [36; tr.36], và để thực hiện được điều đó phải
“Học, học nữa, học mãi”. Lênin chỉ ra rằng: nhà trường cần rèn luyện cho
thanh niên các kỹ năng tự mình xây dựng những quan điểm cộng sản chủ
nghĩa cho bản thân.
Trong tự học, Người yêu cầu thanh niên cần rèn luyện việc tự học tự
nghiền ngẫm, xử lý tri thức đã được lĩnh hội. Quan điểm của Lênin về quản lý
hoạt động học tập là: Cải tổ triệt để việc dạy dỗ, việc tổ chức và giáo dục
thanh niên, các nhà trường phải tổ chức, vũ trang cho thể hệ trẻ những tri thức
khoa học cơ bản, hệ thống, hiện đại, bồi dưỡng cho họ những năng lực nhận
thức và phát triển trí tuệ.Người còn trăn trở “Tôi cũng sẽ cố gắng giải đáp vấn
đề phải học cái đó như thể nào” [36; tr.37], tức là Người bàn đến cách học,
phương pháp học tập...
Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, tư tưởng về tự học và quản lý hoạt
động tự học trong quá trình giáo dục đã được bàn đến trong lịch sử giáo
dục của dân tộc ta, nhiều tư tưởng đến nay vẫn còn nguyên giá trị về ý
nghĩa lý luận và hiện thực đối với công tác quản lý hoạt động tự học của
người học hiện nay.
Nghiên cứu qua các tài liệu viết về Quốc Tử Giám, trường đại học
đầu tiên ở nước ta trong đó có đề cập đến cách thức học tập của các giám
sinh. Phương pháp học của giám sinh chủ yếu là tự học, tự tìm hiểu,
nghiền ngẫm, suy luận….



7

Nhà bác học Lê Quý Đôn (1726 - 1784), khi đề cập đến vấn đề học tập,
ông khuyên học trò “Biết hổ thực mới thành người”, “Biết học thì không thể
biện lẽ thiểu thì giờ”. Ông nêu ý kiến tiến bộ về quản lý xã hội theo mệnh đề:
“Tứ tổn” và “Ngũ quy”. Đây là những kiến giải quan trọng cho quản lý xã hội
nói chung, quản lý việc tự học nói riêng.
Hồ Chí Minh là người mở ra ký nguyên mới cho nền giáo dục cách
mạng Việt Nam, sinh thời Người đã luôn quan tâm đến các vấn đề về giáo
dục - đào tạo. Khi bàn về phương pháp học tập của người học, Người cho
rằng, chủ yếu là tự học, tự nghiên cứu có trao đổi thảo luận để tìm hiểu nội
dung kiến thức môn học “ tổ chức từng ban cao cấp hoặc trung cấp, lấy tự học
làm cốt, do thảo luận và chỉ đạo giúp vào” [42; tr.38].
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình, tác giả đã đi sâu nghiên
cứu về tự học như: Trung tâm nghiên cứu tự học - tự đào tạo với sự tham gia
của Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn, Vũ Văn Tảo, Phó giáo sư Lê Khánh Bằng và
đã cho ra mắt một số tác phẩm: “Tự học, tự đào tạo - tư tưởng chiến lược của
giáo dục Việt Nam”, “Luận bàn và kinh nghiệm về tự học”, “Quá trình dạy Tự học” của Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn; “Quy trình học tập và tự học” của
Nguyễn Đình Xuân; “Rèn luyện phương pháp học tập có hiệu quả” của các
tác giả Quốc khánh, Phương Nga [23], khi đề cập vấn đề “Rèn luyện phương
pháp học tập có hiệu quả” đã đề cập đến phương pháp học khoa học và chỉ ra
cách rèn luyện trí nhớ khi đọc sách, cách rèn luyện các phương pháp học tập
sao cho hiệu quả và đạt kết quả cao trong thi cử.
Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách quản lý để
phát triển giáo dục. Theo đó, đề cập đến công tác quản lý hoạt động học tập
của người học, trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nêu rõ:
“Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề
cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề... nâng cao chất



8

lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ
thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục” [14; tr. 18, 19]. Trong Luật
Giáo dục xác định: “Tập trung quản lý chất lượng, phân cấp quản lý, tăng
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục”; người học “Thực
hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch giáo dục...”.
Việc quản lý hoạt động học tập được cụ thể hoá từ quy định về “Tổ chức,
quản lý việc bảo đảm chất lượng giáo dục” [37].
Tuy tiếp cận vấn đề quản lý hoạt động học tập của người học trong các
giai đoạn lịch sử khác nhau, ở những góc độ, khía cạnh khác nhau, song các
nhà khoa học đều đi đến thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan
trọng của hoạt động học tập và công tác quản lý hoạt động học tập; đây là quá
trình, một khâu quan trọng và là nhân tổ quyết định đến chất lượng học tập
của người học.
Ngoài ra, còn nhiều luận văn, luận án bàn về vấn đề hoạt động tự
học, nhiều bài báo khoa học của các nhà giáo, nhà quản lí giáo dục, nhà
khoa học viết về vấn đề tự học của người học được đăng tải chủ yếu ở các
tạp chí: Giáo dục, Khoa học giáo dục, Dạy và học ngày nay như: “ Hoạt
động tự học của sinh viên các trường đại học hiện nay” của tác giả Hà Thị
Đức, trên tạp chí nghiên cứu giáo dục số 2/1994; “Tự học, một tư tưởng
lớn của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về dạy học” của tác giả Nguyễn Hoàng
Yến, trên tạp chí nghiên cứu giáo dục số 3/1999; “Dạy học phát huy tính
năng động sáng tạo của học sinh” của tác giả Nguyễn Gia Cầu, trên tạp chí
giáo dục số 156/2007; “Đối điều về tự học ở đại học” của tác giả Dương
Đức Sáu, trên tạp chí giáo dục số 154/2007… Hiện nay, một số nhà trường
đại học đã và đang đưa nội dung tự học, quản lý hoạt động tự học trong quá
trình dạy học nhằm bồi dưỡng lí luận cơ bản về tự học cho học sinh, sinh
viên vận dụng có hiệu quả vào hoạt động học tập của mình.



9

Các công trình khoa học trên ở những khía cạnh khác nhau đã đề cập
về cách quản lý đối với người học - với tư cách là chủ thể trong quá trình
dạy học. Khẳng định tầm quan trọng của công tác quản lý hoạt động học
tập đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, trong đó đã đưa ra
được một số quan niệm, ý kiến trong việc khái quát về quản lý hoạt động tự
học và cách tự quản lý của người học. Thông qua tổng quan các công trình
nghiên cứu về tự học, quản lý hoạt động tự học của sinh viên ở trên, có thể
rút ra một số nhận xét:
Về vấn đề tự học, quản lý hoạt động học tập của sinh viên đại học ở
Việt Nam đã có nhiều công trình chuyên khảo, đề tài nghiên cứu với các khía
cạnh khác nhau như: Hoạt động tự học của sinh viên các trường đại học; về
công tác quản lý sinh viên; quản lý chất lượng học tập…Nhưng lý luận về
biện pháp, cách thức, kỹ năng quản lý hoạt động tự học của sinh viên để định
hướng cho việc thực hiện quản lý hoạt động tự học của sinh viên thì chưa
được các tác giả quan tâm nghiên cứu một cách thỏa đáng.
Ở một số trường đại học tuy đã có những công trình nghiên cứu đề
cập đến các phương hướng tổ chức hoạt động tự học của sinh viên; phương
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của họ. Song vấn đề quản lý hoạt
động tự học của sinh viên là vấn đề ít được nghiên cứu có hệ thống, cơ bản.
Do vậy, cần có những công trình đi sâu vào nghiên về vấn đề này, đáp ứng
yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn giáo dục, đào tạo đang có những bước chuyển
biến mạnh mẽ cùng với xu hướng đổi mới toàn diện của giáo dục đại học
hiện nay ở trên thể giới và ở trong nước.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động
tự học của sinh viên Trường Đại học Thành Đô.



10

* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận quản lý hoạt động tự học của sinh viên
trường đại học.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng và chỉ ra nguyên nhân thực trạng quản
lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học Thành Đô.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên
Trường Đại học Thành Đô hiện nay.
4. Khách thể nghiên cứu, đối tương, phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý sinh viên Trường Đại học Thành Đô.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học Thành Đô.
* Phạm vi nghiên cứu và giới hạn nghiên cứu
Về phạm vi nội dung: Tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt
động tự học của sinh viên Trường Đại học Thành Đô
Về phạm vi đối tượng nghiên cứu, khảo sát: Sinh viên đào tạo bậc đại
học, cao đẳng chính quy ở Trường Đại học Thành Đô.
Phạm vi, giới hạn thời gian nghiên cứu: Các số liệu điều tra, khảo sát
tính từ năm 2011 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Chất lượng học tập nói chung, chất lượng tự học nói riêng của sinh
viên Trường Đại học Thành Đô chỉ có thể đảm bảo tốt khi được quản lý
chặt chẽ. Quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học Thành
Đô phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan, khách quan và với sự tham gia
của nhiều lực lượng. Nếu các lực lượng quản lý thực hiện đồng bộ các biện
pháp như: Xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch quản lý hoạt động tự học

của sinh viên ; hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động tự học của sinh viên ;


11

tăng cường quản lý hoạt động đổi mới phương pháp dạy học của đội ngũ

giảng viên ; nâng cao năng lực các chủ thể quản lý và vai trò tự quản lý hoạt
động tự học của sinh viên ; thường xuyên kiểm tra, đánh giá, kiểm định kết
quả hoạt động tự học của sinh viên ; tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị
kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng tự học cho sinh viên thì sẽ
quản lý được hoạt động tự học của sinh viên, qua đó chất lượng học tập nói
riêng, chất lượng đào tạo nói chung của Nhà trường sẽ được nâng lên.
6. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở phương pháp luận
- Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh; các văn kiện nghị quyết của Đảng, Nhà nước về giáo dục đào tạo.
- Đề tài sử dụng cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc, thực tiễn để giải
quyết các vấn đề khoa học của đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ
thống hoá, mô hình hoá, khái quát hoá trong nghiên cứu tài liệu lí luận có liên
quan đến quản lý hoạt động tự học.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp quan sát hoạt động của đội ngũ cán bộ quản lý (phòng
đào tạo, giáo viên chủ nhiệm lớp), hoạt động giảng dạy của giảng viên, hoạt
động tự học của sinh viên để rút ra những kết luận cần thiết.
+ Phương pháp điều tra bằng các bảng hỏi đối với sinh viên, giảng viên

và cán bộ quản lý để đánh giá thực trạng, nguyên nhân về nhận thức, trách
nhiệm trong công tác quản lý hoạt động tự học.


12

+ Phương pháp toạ đàm trao đổi với sinh viên, cán bộ quản lý và giảng
viên về thực trạng và các biện pháp quản lý hoạt động tự học cho sinh viên.
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm : các văn bản tổng kết đào tạo,
chương trình đào tạo, tài liệu của cán bộ quản lý sinh viên, kế hoạch, lịch
học tập, công tác của sinh viên và kết quả bài thi tốt nghiệp cuối khóa của
sinh viên.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm tự học của sinh viên, quy trình
quản lý hoạt động tự học, nhằm đúc rút những kinh nghiệm về quản lý hoạt
động tự học cho sinh viên ở Trường Đại học Thành Đô.
+ Phương pháp chuyên gia : Xin ý kiến chuyên gia về các vấn đề cần
phân tích, đánh giá và những biện pháp đề xuất.
7. Ý nghĩa của đề tài
Phát hiện thực trạng hoạt động tự học và quản lý hoạt động tự học; đề
xuất các biện pháp quản lý hoạt động hoạt động tự học cho sinh viên ở
Trường Đại học Thành Đô. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài
liệu tham khảo phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu, công tác quản lý
giáo dục ở Trường Đại học Thành Đô.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Phần mở đầu, 3 chương (9 tiết), kết luận, kiến nghị,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


13


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Một số khái niệm công cụ
1.1.1. Tự học của sinh viên
Tự học (self-learning) là khái niệm đã được các tác giả đưa ra các định
nghĩa dưới nhiều góc độ khác nhau:
Theo Thanh Nghị trong Việt Nam Tân Từ điển, “tự học là học một
mình theo sách, không có thầy dạy” hay “tự học là tự đi tìm lấy kiến thức”.
Tác giả Nguyễn Hiến Lê cho rằng “tự học là học không ai bắt buộc, tự
mình tìm tòi, học hỏi để hiểu biết dù có thầy hay không. Người tự học hoàn toàn
làm chủ mình, muốn học môn nào tuỳ ý, muốn học lúc nào cũng được, đó mới là
điều kiện quan trọng”, ông cũng nói rõ hơn về khái niệm và tầm quan trọng của
tự học: “Mỗi người đều nhận ra hai thứ giáo dục: Một thứ, do người khác truyền
cho, một thứ quan trọng hơn nhiêu, do mình tự kiếm lấy” [26, tr.34].
Theo tác giả Lê Khánh Bằng: “Tự học là tự mình suy nghĩ, sử dụng
các năng lực trí tuệ và phấm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa
học…” [15, tr.3].
- Tác giả Nguyễn Cảnh Toàn coi tự học là “nội lực” của người học, ông
cho rằng: “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ
và có cả cơ bắp cùng các phẩm chất của mình, cả động cơ tình cảm, nhân sinh
quan, thể giới quan để chiếm một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại,
biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình. Việc tự học sẽ được tiến hành khi
người học có nhu cầu muốn hiểu biết một kiến thức nào đó và bằng nỗ lực
của bản thân cô gắng chiếm lĩnh được kiến thức đó” [34, tr.52].
- Nghiên cứu phương hướng tổ chức tự học cho sinh viên các nhà
trường quân sự, tác giả Trịnh Quang Từ viết: “Tự học là quá trình nỗ lực


14


chiếm lĩnh tri thức của bản thân người học bằng hành động của chính mình,
hướng tới những mục đích nhất định” [56;tr.21-22].
- Tác giả Nguyễn Thị Bích Hạnh cho rằng: “Tự học của sinh viên là
một bộ phận cốt lõi của học, là một thành phần của dạy học. Tự học của sinh
viên ở trên lớp là quá trình sinh viên tự lực giải quyết nhiệm vụ học tập do
giáo viên đề ra trong các tình huống dạy học ở trên lớp. Tự học phản ánh tính
chủ động, tích cực, độc lập và tự chủ nghiên cứu của sinh viên trong quá trình
học tập dưới sự hướng dẫn của giảng viên” [24].
Những quan điểm trên về tự học tuy khác nhau, nhưng đều chung bản
chất đó là sự tự giác và kiên trì cao; sự tích cực, độc lập và sáng tạo của người
học trong học tập. Do đó, có thể quan niệm, tự học của sinh viên trường đại học
là quá trình người học tích cực, chủ động tìm tòi, nghiên cứu để chiếm lĩnh tri
thức bằng hành động của chính mình, nhằm phát triển phương pháp tư duy
sáng tạo và hình thành thói quen và kỹ năng học tập suốt đời
Tự học là hoạt động độc lập, chủ yếu mang tính cá nhân của người học
trong quá trình nhận thức, học tập để cải biến nhân cách, nó vừa là phương
tiện vừa là mục tiêu của quá trình đào tạo. Đây là hoạt động được diễn ra ở
mọi nơi, mọi lúc, với nhiều mức độ khác nhau, cả khi có sự chỉ đạo trực tiếp
của giảng viên và cả khi không có sự chỉ đạo trực tiếp của giảng viên.
Tự học có sự chỉ đạo trực tiếp của giảng viên, là quá trình người học
thực hiện các yêu cầu của giảng viên để tự tổ chức các công việc học tập, tiến
hành nghiên cứu, tìm tòi thông tin nhằm hoàn thành các nhiệm vụ học tập.
Kết quả tự học phụ thuộc vào mối quan hệ biện chứng giữa sự hướng dẫn của
người dạy và sự hưởng ứng tích cực của người học.
Tự học diễn ra khi không có sự hướng dẫn trực tiếp của giảng viên là
hình thức hoàn toàn độc lập của sinh viên, có thể vượt ra ngoài chương trình
đào tạo của nhà trường, bằng nghị lực và sự say mê, người học tự làm phong



15

phú thêm những hiểu biết và nâng cao giá trị văn hóa của mình. Tự học biểu
hiện ý thức học tập rất cao của sinh viên, đây cũng là một mục tiêu cần giáo
dục cho sinh viên ở các trường đại học.
Tự học độc lập nhằm thoả mãn nhu cầu hiểu biết riêng, mở rộng tri
thức ở bên ngoài. Đây là dạng tự học ở mức độ cao nhất, đòi hỏi tính tự giác
cao của người học nên biện pháp quản lý tốt nhất là quản lý nhiệm vụ học tập
hay sản phẩm người học hoàn thành
Tự học có hiệu quả khi nó diễn ra trong các điều kiện: Người học có
nhu cầu, có hứng thú học tập, mong muốn có thành tích cao trong học tập
làm cơ sở cho sự phát triển trong tương lai; chương trình đào tạo của nhà
trường phải đặt ra những yêu cầu cao, đòi hỏi sinh viên phải phấn đấu, nội
dung môn học có chứa các tình huống hấp dẫn đặt sinh viên vào trạng thái
phải tư duy tích cực; lớp học là một môi trường tích cực, ở đó mọi sinh
viên đều cố gắng, có những sinh viên tiên tiến là nòng cốt; nhà trường có
đủ giáo trình, tài liệu tham khảo và có phương tiện hỗ trợ sinh viên học tập;
giảng viên luôn đặt ra các yêu cầu cao, đòi hỏi sinh viên phải cố gắng phấn
đấu và sẵn sàng hướng dẫn sinh viên phương pháp học tập để đạt được mục
tiêu tốt nhất.
Như vậy, tự học sẽ đạt được kết quả tốt khi nó tụ hội những điều kiện
học tập thuận lợi, trong đó người dạy có yêu cầu cao, luôn động viên, khích lệ
và hướng dẫn cho người học phương pháp học tập, người học có ý thức học
tập, tập trung cao độ, kiên trì, tích cực và có phương pháp học tập sáng tạo.
1.1.2. Hoạt động tự học của sinh viên trường đại học
Hoạt động tự học của sinh viên trường đại học là quá trình nhận thức,
độc lập sáng tạo của người học và được tổ chức trong điều kiện sư phạm
nhất định, nhằm lĩnh hội, củng cố và vận dụng các kiến thức kỹ xảo, kỹ năng
nhằm đáp ứng tốt mục tiêu yêu cầu đào tạo của nhà trường.



16

Tự học là một hình thức hoạt động nhận thức mang đậm sắc thái cá
nhân. Trong đó sinh viên tự tổ chức quá trình nhận thức của mình một cách
độc lập sáng tạo để thực hiện tốt việc tiếp thu kiến thức, xử lý và tích luỹ
kiến thức, cũng như rèn luyện các kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp và phát
triển tư duy khoa học
Quá trình tự học là quá trình vận động của người học từ chỗ chưa biết
đến chỗ biết và biết ngày càng đầy đủ sâu sắc và hoàn thiện hơn. Từ chỗ nắm
vững tri thức đều nắm vững kỹ xảo, kỹ năng và ngày càng ở mức độ cao hơn,
vận dụng những kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng và các tình huống từ đơn giản
đến phức tạp qua đó góp phần hình thành những phẩm chất và năng lực của
người học.
Hoạt động tự học của sinh viên không chỉ tuân theo qui luật của quá
trình nhận thức mà còn xuất phát từ động lực của hoạt động tự học. Đây
chính là kết quả của quá trình giải quyết các mâu thuẫn vốn có trong quá
trình tự học. Trong quá trình này phải kể đến mâu thuẫn giữa mục tiêu yêu
cầu đào tạo cao với trình độ khả năng của sinh viên còn hạn chế. Giải quyết
được mâu thuẫn này trong quá trình tự học sẽ giúp cho sinh viên nâng cao
về mặt nhận thức, hoàn thiện và củng cố hệ thống tri thức kỹ xảo, kỹ năng
nghề nghiệp của mình.
Như vậy có thể nói thực chất hoạt động tự học của sinh viên là một
quá trình nhận thức không có sự điều khiển trực tiếp của giảng viên, mà
giảng viên chỉ đóng vai trò là người tổ chức hướng dẫn một cách gián tiếp
giúp cho sinh viên thực hiện các nhiệm vụ học tập. Đây thực sự là một
quá trình học tập gian nan vất vả đòi hỏi người học phải có động cơ mục
đích rõ ràng, có ý chí quyết tâm vượt qua khó khăn thử thách, thường
xuyên xây dựng và thực hiện có hiệu quả kế hoạch học tập, lựa chọn cho



17

mình phương pháp học tập phù hợp, khai thác tốt các điều kiện phương
tiện học tập hiện có.
Hoạt động tự học của sinh viên đòi hỏi chủ thể còn phải phát huy tính
tích cực của nhận thức, sẽ góp phần giải quyết các mâu thuẫn của quá trình
học tập. Tính tích cực của hoạt động nhận thức chúng ta có thể khái quát
dưới 2 dạng bên trong và bên ngoài.
Bên trong: là thái độ của chủ thể hoạt động, đó là sự tự nguyện, tự giác,
có nhu cầu hứng thú đối với việc học tập, có sự nỗ lực cố gắng, kiên trì khắc
phục khó khăn trong quá trình nắm tri thức và có khả năng định hướng đối
với nhiệm vụ nhận thức.
Bên ngoài: Đó là sự huy động cao nhất, các chức năng tâm lý để chiếm
lĩnh kiến thức, biểu hiện ra bên ngoài của nó là những trạng thái hoạt động
tích cực. Chẳng hạn là sự tập trung chú ý, sự căng thẳng trí tuệ, sự tận dụng
thời gian để thực hiện kế hoạch học tập và khả năng giải quyết các tình
huống một cách sáng tạo.
Như vậy, hoạt động tự học chính là quá trình sinh viên tự mình động
não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có cả cơ bắp cùng các phẩm
chất của mình, cả động cơ tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm
một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu
của mình. Việc tự học sẽ được tiến hành khi người học có nhu cầu muốn hiểu
biết một kiến thức nào đó và bằng nỗ lực của bản thân cố gắng chiếm lĩnh
được kiến thức đó.
Ở các trường đại học nói chung và Trường Đại học Thành Đô nói
riêng, tự học là cần thiết và là cách học ở đại học. Đó là một hình thức tổ
chức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm chiếm lĩnh hệ thống tri thức
và kỹ năng do chính bản thân người học tiến hành. Khi sinh viên tự mình
huy động mọi phẩm chất, năng lực của bản thân để tiến hành các hoạt



18

động tìm tòi, khám phá độc lập nhằm mục đích chiếm lĩnh tri thức là họ
tiến hành hoạt động tự học.
1.1.3. Quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường đại học
Quản lý hoạt động tự học là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
trong QLGD nói chung và quản lý nhà trường nói riêng, là bộ phận cấu
thành nên hệ thống quản lý quá trình giáo dục, đào tạo trong nhà trường.
Quản lý hoạt động tự học của sinh viên bao gồm hai quá trình cơ bản là
quản lý hoạt động tự học trong giờ lên lớp và quản lý hoạt động tự học
ngoài giờ lên lớp, được tiến hành trên cả hai phương diện ở trường và ở
nhà. Quản lý hoạt động tự học là sự tác động của chủ thể quản lý đến quá
trình tự học của sinh viên làm cho họ tích cực, chủ động tự chiếm lĩnh tri
thức bằng sự cố gắng nỗ lực của chính mình. Quản lý hoạt động tự học của
sinh viên có liên quan chặt chẽ với quá trình tổ chức dạy học của giáo viên.
Từ cách hiểu trên, có thể quan niệm, Quản lý hoạt động tự học của
sinh viên trường đại học là hoạt động có tổ chức, có mục đích, có kế hoạch
của chủ thể quản lý tác động đến quá trình tự học của sinh viên và các điều
kiện đảm bảo nhằm không ngừng nâng cao chất lượng học tập, rèn luyện của
sinh viên, đáp ứng tốt mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trường.
Như vậy, quản lý hoạt động tự học là một hệ thống các tác động sư
phạm có mục đích, phương pháp, kế hoạch của các lực lượng giáo dục
trong và ngoài nhà trường đến toàn bộ quá trình tự học của sinh viên nhằm
thúc đẩy sinh viên tự giác, tích cực, chủ động tự chiếm lĩnh tri thức bằng sự
cố gắng nỗ lực của chính bản thân.
Thực chất, quản lý hoạt động tự học của sinh viên là những tác động
quản lý có tổ chức, có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối
tượng quản lý nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác, sáng tạo của

người học để tìm tòi, nghiên cứu, lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng, hình


19

thành, phát triển, hoàn thiện phẩm chất nhân cách theo mục tiêu yêu cầu
đào tạo. Theo quan niệm đó, quản lý hoạt động tự học của sinh viên ở đại
học nói chung và sinh viên Trường Đại học Thành Đô nói riêng có các đặc
điểm chính sau:
Mục tiêu quản lý: Là những kết quả dự kiến sẽ đạt được do quá trình
vận động của đối tượng quản lý dưới sự tác động của chủ thể quản lý; sự
thống nhất trong nhận thức tư tưởng và hành động của chủ thể và đối tượng
quản lý. Mục tiêu quản lý hoạt động tự học của sinh viên hiện nay là xây
dựng môi trường sư phạm, nâng cao chất lượng đào tạo. Phát huy tối đa
tiềm năng, trí tuệ, sự năng động, sáng tạo, tính “tích cực hoá” của chủ thể
quản lý, nhằm nâng cao chất lượng tự học, tự rèn luyện, nghiên cứu khoa
học, hoàn thiện phẩm chất, nhân cách của sinh viên; đúc rút ra những kinh
nghiệm quản lý hoạt động tự học hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo.
Chủ thể quản lý: Chủ thể quản lý là tập thể, cá nhân được tổ chức giao
nhiệm vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc gián tiếp trong lãnh đạo, quản lý giáo
dục, rèn luyện sinh viên trong suốt quá trình đào tạo. Chủ thể quản lý hoạt
động tự học của sinh viên ở trường đại học là: các cấp uỷ đảng, tổ chức chỉ
huy; các cơ quan chức năng, khoa; đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo
dục; các tập thể sinh viên và tự quản lý của từng sinh viên.
Khách thể quản lý: Là những sinh viên, tập thể sinh viên và hoạt động
tự học của họ chịu sự tác động, điều khiển, quản lý của chủ thể lãnh đạo, quản
lý trong suốt quá trình đào tạo. Như vậy, sinh viên và tập thể sinh viên vừa là
khách thể (đối tượng chịu sự quản lý của chủ thể) vừa là chủ thể trong quá
trình tổ chức tự quản lý những hoạt động tự học của mình.

Nội dung quản lý: Bao gồm quản lý việc thực hiện nội dung, chương
trình, kế hoạch tự học; quản lý bồi dưỡng động cơ tự học; quản lý phương


20

pháp ự học của sinh viên; quản lý nội dung, hình thức tự học của sinh viên;
quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả tự học của sinh viên; quản lý các điều
kiện đảm bảo cho hoạt động tự học của sinh viên…
Phương pháp quản lý: bao gồm toàn bộ những cách thức, biện pháp
tác động, điều khiển của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng hệ
thống công cụ, phương tiện nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã xác định.
Hệ thống công cụ quản lý gồm: các chỉ thị, nghị quyết của các tổ chức
đảng; pháp luật của Nhà nước; điều lệ, nội quy của Nhà trường; quy chế
giáo dục, đào tạo và chương trình, kế hoạch, mệnh lệnh của chỉ huy các
cấp. Sử dụng đồng bộ nhiều phương pháp quản lý, song cần tập trung vào
ba phương pháp chủ yếu, đó là: Phương pháp hành chính; phương pháp
giáo dục, thuyết phục, nêu gương; phương pháp kích thích bằng vật chất,
tinh thần.
Như vậy, quản lý hoạt động tự học của sinh viên ở trường đại học
vừa là một quá trình, vừa là hoạt động diễn ra các tác động quản lý đan
xen, liên tục, được tiến hành trong quá trình đào tạo với quy trình tổ chức
chặt chẽ. Điểm khác khác biệt cơ bản nhất so với quản lý hoạt động tự học
của sinh viên ở các nhà trường khác là: mục tiêu đào tạo sinh viên ở
Trường Đại học Thành Đô để trở thành (những kỹ sư, chuyên viên, dược
sĩ,... tương lai) có phẩm chất đạo đức chính trị, có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của người học và của thị trường
lao động trong thời đại mới của nền kinh tế tri thức.
Điều đó đặt ra yêu cầu khách quan về mục tiêu, kế hoạch, chủ thể,
khách thể, nội dung, phương pháp, thời gian và không gian quản lý mang

tính đặc thù, yêu cầu cao và phải xác định các biện pháp quản lý khoa học,
khả thi, phù hợp.


21

1.1.4. Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường
đại học
Theo từ điển tiếng Việt, biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành giải
quyết một vấn đề cụ thể.
Biện pháp quản lý là tổ hợp các phương pháp, các hình thức tiến
hành của chủ thể quản lý nhằm tác động đến đối tượng quản lý để giải
quyết những vấn đề cụ thể của hệ quản lý, làm cho hệ vận hành phát triển
đạt được mục tiêu mà chủ thể quản lý đã đề ra và phù hợp với quy luật
khách quan.
Theo đó, biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên ở trường
đại học là tổng hợp các cách thức quản lý của các chủ thể quản lý thuộc nhà
trường, tác động tới quá trình tự học của sinh viên nhằm thúc đẩy họ tự giác,
tích cực, chủ động tự chiếm lĩnh tri thức bằng sự cố gắng nỗ lực của chính
sinh viên, qua đó không ngừng nâng cao chất lượng học tập của sinh viên
theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo đã xác định.
Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên có vai trò rất quan
trọng nhằm xây dựng, củng cố các căn cứ khoa học, công cụ quản lý; giúp
nâng cao nhận thức, bồi dưỡng kỹ năng quản lý; phát huy tốt vai trò của
các tổ chức, lực lượng giáo dục trong nhà trường, góp phần nâng cao chất
lượng tự học, hiện thực hoá các mục tiêu, yêu cầu giáo dục, đào tạo của
nhà trường hiện nay. Việc xác định các biện pháp quản lý hoạt động tự học
của người học được tiến hành theo nhiều cách thức tiếp cận khác nhau
như: Tiếp cận theo phương pháp quản lý; tiếp cận theo quy trình, chức
năng quản lý; tiếp cận theo nguyên tắc quản lý giáo dục.

Ở đây, trong xác định các biện pháp quản lý hoạt động tự học của
sinh viên ở trường đại học nói chung, biện pháp quản lý hoạt động tự học
của sinh viên Trường Đại học Thành Đô nói riêng, chúng tôi đã kế thừa


22

và tích hợp các cách thức tiếp cận nêu trên, nhằm đề xuất hệ thống các
biện pháp mang tính toàn diện, hệ thống; kết hợp hài hoà các biện pháp,
tạo ra sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi trạng thái quản lý như mong muốn
của chủ thể quản lý trong những điều kiện cụ thể nhất định. Đặc biệt, các
biện pháp này vừa bảo đảm tính hiệu quả, toàn diện, đồng thời vừa là
khoa học, vừa là nghệ thuật, được xây dựng dựa trên những căn cứ sư
phạm và thực tiễn công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên ở
Trường Đại học Thành Đô hiện nay.
1.2. Nội dung quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường
đại học
Nội dung quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học
Thành Đô phong phú, đa dạng, song cần tập trung vào những nội dung cơ bản
chủ yếu sau đây:
* Quản lý hoạt động bồi dưỡng động cơ tự học
Mọi hoạt động của con người đều có mục đích, được thúc đẩy bởi động
cơ, động cơ hoạt động là lực đẩy giúp chủ thể vượt khó khăn để đạt được mục
đích đã định. Hoạt động tự học của sinh viên trường đại học nói chung,
Trường Đại học Thành Đô nói riêng phải được xây dựng bởi động cơ tự học,
mà động cơ tự học lại được hình thành từ nhu cầu bản chất của vấn đề giáo
dục, trong đó hình thành nhu cầu, động cơ tự học cho sinh viên là yếu tố
quyết định.
* Quản lý việc xây dựng và thực hiện kế hoạch tự học
Kế hoạch tự học là bảng phân chia nội dung tự học theo thời gian một

cách hợp lý dựa trên yêu cầu, nhiệm vụ tự học, khả năng của bản thân và các
điều kiện được đảm bảo nhằm hướng tới việc nắm vững kiến thức của từng
môn học. Có kế hoạch tự học, người học sẽ thực hiện nhiệm vụ học tập một
cách khoa học, năng động, sáng tạo và hiệu quả hơn.


23

* Quản lý việc xây dựng nội dung tự học
Nội dung tự học là hệ thống kiến thức học tập có tính bắt buộc phải
hoàn thành và hệ thống kiến thức tự đào sâu, mở rộng các vấn đề, nội dung
học tập mà giáo viên giảng trên lớp.
* Quản lý việc bồi dưỡng phương pháp tự học
Tự học phải được xác định bắt đầu từ mục đích, động cơ học tập đúng
đắn, qua đó hình thành cách học, biện pháp học, kỹ thuật học,v.v... mà có thể
gọi là kỹ năng tự học. Do vậy, người học cần phải được hướng dẫn, bồi
dưỡng và rèn luyện kỹ năng tự học ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường
phổ thông, từ đó mới có thể xây dựng được phương pháp tự học.
Xây dựng phương pháp tự học của bản thân theo một kế hoạch hợp
lý là điều kiện đảm bảo giúp cho người học đạt hiệu quả học tập cao hơn.
Mỗi sinh viên cần phải xác định và chọn cho mình phương pháp tự học phù
hợp; Phòng công tác sinh viên, đội ngũ giảng viên của Trường Đại học
Thành Đô cần phải hướng dẫn và tạo điều kiện đảm bảo để sinh viên xây
dựng kế hoạch tự học và lựa chọn phương pháp tự học phù hợp.
* Quản lý việc xây dựng kế hoạch kiểm tra đánh giá kết quả tự học
Kiểm tra việc xây dựng kế hoạch tự học của sinh viên hàng ngày, hàng
tuần, hàng tháng, học kỳ, năm học và thực hiện kế hoạch tự học theo những
mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ học tập nhằm phát hiện những sai lệch giúp sinh
viên điều chỉnh kế hoạch tự học. Kiểm tra đánh giá kết quả tự học là chức
năng nhiệm vụ của giảng viên và cán bộ quản lý thông qua hiệu suất đào tạo

của giảng viên và chất lượng học tập của sinh viên.
* Quản lý các điều kiện đảm bảo cho hoạt động tự học
Quản lý cơ sở vật chất phục vụ cho việc học tập trên lớp, thời gian
dành cho tự học; sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, thiết bị đồ dùng để


24

giảng viên và sinh viên cùng tích cực trong đổi mới phương pháp dạy học.
Trong quản lý hoạt động tự học của sinh viên cần phải phối hợp quản lý
chặt chẽ tất cả các nội dung trong mối quan hệ thống nhất. Đồng thời cần
phối hợp chặt chẽ các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để
quản lý hoạt động tự học trong và ngoài giờ lên lớp nhằm đảm bảo thời
gian tự học của sinh viên.
1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý hoạt động tự học của sinh viên
trường đại học
Một là, tác động của kế hoạch giáo dục, đào tạo, các công cụ quản lý, cơ
chế quản lý
Kế hoạch giáo dục, đào tạo, các công cụ quản lý và cơ chế quản lý là
những thiết chế có tính pháp lý, thống nhất, chính quy, đồng bộ, chặt chẽ; là
những tác động điều khiển, chỉ đạo và là tiền đề cho việc xây dựng các biện
pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên. Bao gồm: hệ thống các kế
hoạch về giáo dục, đào tạo; các văn bản, chỉ thị, hướng dẫn, quy chế, quy
định và cơ chế tổ chức quản lý hoạt động tự học của sinh viên. Cụ thể:
Tác động của kế hoạch trong giáo dục, đào tạo, bao gồm kế hoạch
giáo dục, đào tạo giai đoạn, khoá học, năm học, học kỳ, lịch giảng dạy và các
loại kế hoạch khác như kiến tập, thực tập, tham quan,... những kế hoạch này
tác động đến tiến trình, thứ tự, nội dung, phương pháp quản lý hoạt động tự
học của sinh viên.
Tác động của các công cụ quản lý tới quản lý hoạt động tự học của

sinh viên, đó là: Luật giáo dục; Quy chế đào tạo của Nhà trường; Điều lệ công
tác học sinh, sinh viên, nội quy hoạt động của Nhà trường, Quy chế hoạt động
kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo và một số quy định, chỉ thị, hướng
dẫn khác. Các công cụ quản lý tác động trực tiếp trong quan hệ chỉ đạo,
hướng dẫn, điều khiển, tổ chức quản lý hoạt động tự học của sinh viên.


25

Tác động của cơ chế quản lý tới quản lý hoạt động tự học của sinh
viên: Cơ chế hoạt động của bộ máy quản lý được thực hiện theo các
nguyên tắc nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả học tập của sinh viên; sự
phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong tham mưu, thực hiện quản lý nhà
nước về phát triển bộ máy quản lý, xây dựng và thực hiện các quy chế quản
lý về giáo dục, đào tạo, quản lý hoạt động tự học của sinh viên. Cơ chế
quản lý tác động toàn diện đến sự vận hành các hoạt động của bộ máy quản
lý, nguyên tắc quản lý, phương pháp quản lý và giải quyết mối quan hệ
giữa các chủ thể quản lý.
Hai là, mục tiêu, nội dung, phương pháp quản lý và yêu cầu nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo
Mục tiêu, nội dung, phương pháp quản lý là nhân tố quyết định chất
lượng giáo dục, đào tạo ở mỗi nhà trường đại học. Thực chất, đây là những
tác động toàn diện, sâu sắc tới toàn bộ quy trình quản lý, tới nhận thức và
hành động của chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Đồng thời, định
hướng, điều khiển, chỉ đạo việc xác lập và thực hiện các biện pháp quản lý
giáo dục của nhà trường nói chung và quản lý hoạt động tự học, nâng cao
chất lượng học tập của sinh viên nói riêng. Do đó, cần căn cứ vào mục tiêu,
nội dung, phương pháp quản lý và yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục,
đào tạo mà lựa chọn cách tiếp cận phù hợp, xác định biện pháp quản lý
chính xác và hiệu quả.

Ba là, chất lượng hoạt động giảng dạy, quản lý quá trình dạy học của
giảng viên
Chất lượng hoạt động giảng dạy, quản lý của giảng viên là yếu tố
rất quan trọng, trực tiếp quyết định đến chất lượng tự học của sinh viên.
Chất lượng giảng dạy, quản lý trong quá trình dạy học của giảng viên
được đánh giá bằng chất lượng bài soạn, tài nghệ sư phạm, hoạt động


26

giảng bài, phương pháp quản lý, kinh nghiệm thực tiễn, uy tín nghề
nghiệp của giảng viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giảng dạy nói
chung. Chất lượng giảng dạy, quản lý còn phụ thuộc vào nghệ thuật điều
khiển của giảng viên đối với sự tích cực hưởng ứng, tham gia các hoạt
động nhận thức, tiếp thu bài giảng, khả năng vận dụng kiến thức, kỹ xảo,
kỹ năng thực hành của sinh viên; dẫn dắt sinh viên biến quá trình giáo dục
thành quá trình tự giáo dục, tự học, tự rèn luyện và hoàn thiện nhân cách.
Do đó, chất lượng giảng dạy, quản lý của giảng viên có vai trò quan trọng,
quan hệ gắn bó mật thiết và tương tác với hoạt động tự học, tự rèn luyện
của sinh viên, trực tiếp tác động đến ý thức tự giác của sinh viên trong
hoạt động tự học và tác động đến kết quả học tập, việc hình thành kỹ xảo,
kỹ năng công tác của sinh viên.
Bốn là, chất lượng hoạt động quản lý của cán bộ quản lý giáo dục các
cấp, tập thể sinh viên và tự quản lý của mỗi sinh viên
Cán bộ quản lý giáo dục ở Trường Đại học Thành Đô bao gồm các
cấp lãnh đạo, chỉ huy, quản lý của nhà trường, cán bộ thuộc các cơ quan
nghiệp vụ, các khóa, lớp sinh viên. Chất lượng hoạt động quản lý của đội
ngũ cán bộ thể hiện ở phẩm chất, năng lực công tác trong quản lý hoạt
động tự học của sinh viên trong nhà trường. Bao gồm phẩm chất đạo đức,
phẩm chất nghề nghiệp; năng lực, nghệ thuật tổ chức, chỉ đạo, điều hành,

chỉ huy, quản lý tác động đến việc hoạch định chủ trương, chiến lược phát
triển nhà trường, hệ thống các văn bản, quy chế, quy định, chỉ thị, hướng
dẫn quản lý, xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch...
Chất lượng tự quản lý của tập thể sinh viên và từng sinh viên trong
hoạt động tự học ở Trường Đại học Thành Đô. Đây là những tác động trực
tiếp tới thái độ, động cơ ở trình độ tự giác cao, khả năng tập hợp các hoạt
động nhằm làm chuyển biến vị trí của người sinh viên từ đối tượng tiếp


×