Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Địa vị pháp lý của thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.41 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRƢƠNG THỊ HẠNH

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc

Hµ néi - 2009

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


KHOA LUẬT

TRƢƠNG THỊ HẠNH

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số

: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Võ Khánh Vinh

Hµ néi - 2009




MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thực hiện đường lối của Đảng nền kinh tế nước
nhà tiếp tục tăng trưởng, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng
cao. Trong thành tựu đó có phần đóng góp tích cực của cơ quan tư pháp, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp
và sự giúp đỡ của các cơ quan nhà nước, sự ủng hộ và giám sát của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, các cơ quan tư pháp đã đạt được nhiều kết
quả trong việc ngăn ngừa, đấu tranh tội phạm và các tệ nạn xã hội góp phần
vào việc giữ vững an ninh đấu tranh và bảo vệ chính sách bình yên cho nhân
dân. Đó là mặt quan trọng của cuộc sống đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Bên cạnh những đóng góp to lớn thì công tác của các cơ quan tư pháp
vẫn còn không ít những sai phạm. Những sai phạm này không chỉ ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, tổ chức, gây bức xúc
trong xã hội mà qua đó nó còn thể hiện sự yếu kém của pháp luật. Chính vì
vậy, công cuộc cải cách tư pháp là nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang
được Đảng và Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Từ năm 2002 - 2005,
Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị đã ban hành một số nghị quyết về
xây dựng, hoàn thiện Nhà nước và pháp luật. Trong đó nhấn mạnh đến tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp như Nghị quyết 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời
gian tới" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 08), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị "Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng năm 2020" (sau đây gọi tắt là
Nghị quyết 48), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 "Về chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 49). Trong đó,


Nghị quyết 08 đưa ra một trong những nhiệm vụ của cơ quan tư pháp là phải
nâng cao chất lượng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án nhằm
ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình
sự, bảo vệ trật tự, kỷ cương, đảm bảo và tôn trọng quyền dân chủ, quyền và
lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân; chủ trương đề cao vai trò tranh
tụng tại phiên tòa. Nghị quyết 08 cũng đã khẳng định: "Nâng cao chất lượng
tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư
pháp" [4].
Trong hệ thống các cơ quan tư pháp bảo vệ pháp luật thì Tòa án được
coi là trung tâm, là cơ quan nhân danh Nhà nước thực hiện quyền tư pháp, là
tâm điểm của cải cách tư pháp. Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa là thành viên
của Hội đồng xét xử, là người trực tiếp giải quyết vụ án, cùng Hội đồng xét
xử ra các phán quyết của Tòa án liên quan đến quyền lợi của cá nhân, tổ chức.
Trong cải cách tư pháp Tòa án được coi là trọng tâm với nhiệm vụ "nâng cao
tranh tụng tại các phiên tòa" và khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan; Thẩm
phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa
án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem
xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị
cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền lợi ích hợp
pháp để ra bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong
thời hạn luật định thì việc lựa chọn đề tài "Địa vị pháp lý của Thẩm phán
trong tố tụng hình sự Việt Nam" làm luận văn Thạc sĩ là điều hết sức cần
thiết và có tính thời sự với mong muốn góp phần vào thực hiện nhiệm vụ
chung về cải cách tư pháp.
2. Tình hình nghiên cứu
Theo thống kê không đầy đủ thì cũng có một số công trình nghiên cứu

về chế định Thẩm phán cũng như về địa vị pháp lý của Thẩm phán dưới dạng
luận văn cử nhân như: "Chế định Thẩm phán trong tố tụng hình sự - Một số


vấn đề lý luận và thực tiễn", của Trần Thu Trang; "Địa vị pháp lý của Chánh
án, Phó chánh án Tòa án nhân dân, Thẩm phán, Thư ký Tòa án và Hội thẩm
nhân dân trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam", của Nguyễn Thị Hằng;
"Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán ở Việt Nam hiện nay",
của Đỗ Gia Thư; "Nghiên cứu mô hình nhân cách Thẩm phán trong hoạt động
xét xử", của Bùi Kim Chí dưới dạng luận án ttiến sĩ… Bên cạnh đó, còn có
một số công trình nghiên cứu dưới dạng bài viết đăng trên các tạp chí khoa
học về hoạt động thực tiễn của Thẩm phán của các nhà làm công tác thực tiễn,
các nhà nghiên cứu khoa học. Thiết nghĩ hơn bao giờ hết trong giai đoạn hiện
nay khi Đảng và Nhà nước đang chú trọng đến tiến trình cải cách tư pháp mà
trọng tâm là Tòa án, với tư cách là học viên cao học, một cán bộ Tòa án làm
công tác thực tiễn tác giả nhận thấy việc nghiên cứu về địa vị pháp lý của
Thẩm phán có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn.
3. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ những vấn đề lý luận, nội dung
các quy định về hoạt động của Thẩm phán theo Bộ luật Tố tụng hình sự cũng
như tình hình thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động của Thẩm phán trong
tố tụng hình sự. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lý
của Thẩm phán theo hướng cải cách tư pháp, nâng cao yếu tố tranh tụng tại
các phiên tòa như Bộ Chính trị đã đề ra trong các nghị quyết 08, 49 và 48.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam về địa vị pháp lý của Thẩm phán và thực tiễn áp dụng các
quy định về hoạt động của Thẩm phán.
Trên cơ sở mục đích, đối tượng nghiên cứu đã xác định phạm vi
nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung vào những vấn đề tố tụng hình sự

liên quan đến địa vị pháp lý của Thẩm phán và thực tiễn áp dụng. Bên cạnh


đó luận văn cũng có tìm hiểu, so sánh với pháp luật của một số nước trên
thế giới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và Nhà nước.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa
học như: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống
kê, tổng hợp…
6. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp cho cơ quan lập pháp lựa chọn
giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán,
các quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa và các quy định liên quan đến
quá trình giải quyết vụ án hình sự để phán quyết của Tòa án được khách quan,
không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm… đảm bảo nguyên tắc
hoạt động Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tạo ra
hành lang pháp lý vững chắc cho Thẩm phán khi thực hiện nhiệm vụ xét xử.
Bên cạnh đó, luận văn còn có ý nghĩa thực tiễn rất lớn cho những
người làm công tác thực tiễn mà cụ thể ở đây là Thẩm phán. Giúp cho Thẩm
phán có nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm của họ
được pháp luật quy định để từ đó áp dụng cho thống nhất, chính xác, tránh áp
dụng tùy tiện.
Tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân giám sát hoạt động xét xử của
Thẩm phán qua kết quả giải quyết án. Giúp cho những người tham gia tố tụng
có những nhận thức hiểu biết đúng đắn về địa vị pháp lý của Thẩm phán để
khi ra phiên tòa có sự tôn trọng pháp luật, tôn trọng người tiến hành tố tụng và
biết cách để bảo vệ quyền lợi của mình.
7. Những đóng góp mới của luận văn



Trên cơ sở nghiên cứu đề tài "Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố
tụng hình sự Việt Nam" luận văn đã làm rõ những vấn đề lý luận về địa vị
pháp lý của Thẩm phán; nghiên cứu thực trạng các quy định pháp luật về hoạt
động của Thẩm phán theo Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam; tìm hiểu thực
tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hoạt động của Thẩm phán để thấy
được những kết quả đạt được và chưa đạt được, tìm ra những nguyên nhân.
Trên cơ sở đó luận văn đưa ra một số giải pháp hoàn thiện nhằm hoàn thiện
địa vị pháp lý của Thẩm phán đặt trong bối cảnh cải cách tư pháp mà Bộ Chính
trị đã đề ra.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm phán
trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng các quy định về hoạt động của Thẩm phán theo
Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật
về hoạt động của Thẩm phán trong tố tụng hình sự.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện các quy định về địa vị
pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA THẨM PHÁN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN

1.1.1. Khái niệm Thẩm phán, địa vị pháp lý của Thẩm phán

Trong bộ máy nhà nước, Tòa án nhân dân có một vị trí đặc biệt quan
trọng - là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự,
hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế, hành chính, kinh doanh thương mại và
giải quyết các công việc khác theo quy định của pháp luật như thi hành án,
giải thích pháp luật… Bằng hoạt động của mình, Tòa án bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa, quyền dân chủ của công dân, của tập thể, bảo vệ tính mạng,
sức khỏe, tài sản, tự do, nhân phẩm danh dự của công dân và bảo vệ tài sản
của Nhà nước. Thông qua hoạt động xét xử, Tòa án góp phần giáo dục công
dân ý thức pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống, tham gia cuộc
đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác.
Trong hoạt động xét xử của Tòa án, Thẩm phán được coi là nhân tố,
hạt nhân rất quan trọng, nhân vật trung tâm. Xét xử được hiểu là "hoạt động
do Tòa án thực hiện để xem xét và giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành
chính, lao động, kinh tế với việc tuân thủ nghiêm ngặt các đòi hỏi của pháp
luật và trật tự pháp luật, có tính lập luận công bằng và có ý nghĩa bắt buộc
chung" [44, tr. 45]. Xét xử đã có từ rất lâu đời nhưng sự ra đời của Thẩm phán
lại khá muộn màng. Dưới thời kỳ chiếm hữu nô lệ và phong kiến hình thức
nhà nước chủ yếu là quân chủ lập hiến, hoạt động xét xử cũng như hoạt động
lập pháp, hoạt động hành pháp đều tập trung vào giai cấp chủ nô và phong
kiến mà đại diện là nhà vua. Nhà vua là người nắm toàn bộ quyền hành, đứng
đầu Nhà nước ban hành các đạo luật, quyết định tổ chức thực hiện và là người
có quyền lực cao nhất. Đến mãi sau này vào khoảng thế kỷ 17 - 18, giai cấp tư


sản phát triển mạnh mẽ đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến đã hạn chế
dần quyền lực của nhà vua, tiến tới xóa bỏ Nhà nước phong kiến lỗi thời.
Trong thời gian này, các học giả tư sản mà tiêu biểu nhất là Montesquieu đã
đưa ra luận điểm: phải tách các hoạt động ban hành pháp luật, hoạt động thực
hiện pháp luật và hoạt động xét xử, chia quyền lực nhà nước thành 3 loại
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập với nhau tạo cơ chế kiềm chế

đối trọng lẫn nhau, chống lại tư tưởng độc quyền của một người, hay của một
cơ quan nào đó, nắm toàn bộ quyền lực nhà nước. Có thể nói sự tách bạch và
độc lập giữa Tòa án ra khỏi hai nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp đã hình
thành nên một đội ngũ cán bộ mới trong bộ máy nhà nước làm nhiệm vụ xét
xử từ xưa đến nay chưa có đó là Thẩm phán [28, tr. 16]. Vậy, Thẩm phán
được hiểu như thế nào cho đầy đủ và chính xác?
Cũng có nhiều khái niệm (định nghĩa) về Thẩm phán chẳng hạn như:
- "Thẩm phán là một chức danh Nhà nước trong hệ thống Tòa án các
cấp" [27].
- Theo tác giả Đỗ Gia Thư: "Thẩm phán là người làm việc trong cơ
quan Tòa án, chuyên xét xử các vụ án và giải quyết các vụ việc theo thẩm
quyền của Tòa án, ra các bản án, quyết định nhân danh Nhà nước" [28, tr. 17].
- Tại Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002
đã đưa ra khái niệm "Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của
pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác
thuộc thẩm quyền của Tòa án" [41].
Trải qua sự phát triển của lịch sử cũng như sự phát triển của nền lập pháp từ
khi chưa có đội ngũ Thẩm phán đến khi xuất hiện đội ngũ Thẩm phán để từ
đó khái niệm về Thẩm phán dần được xuất hiện và ngày càng hoàn thiện hơn.
Chúng tôi đồng tình với khái niệm về Thẩm phán được quy định tại Pháp


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tư pháp (1957), Tập luật lệ về tư pháp, Hà Nội.
2. Lê Cảm và Nguyễn Ngọc Chí (2004), "Tố tụng tranh tụng và vấn đề cải
cách tư pháp ở Việt Nam trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền", Trong sách: Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
3. Nguyễn Ngọc Chí (2007), Nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự,

Bài giảng cho học viên cao học luật, Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của
Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Hiển, Dương Bạch Long (2005), Những điều cần biết về
quyền, nghĩa vụ của Thẩm phán trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Quốc Hoàn (2008), Giáo trình Luật so sánh, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
9. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (1999), Giáo trình Luật Hiến pháp
Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
10. "Luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa" (2007),
Thông tin khoa học Kiểm sát, (3+4).


11. Nhà Pháp luật Việt - Pháp (1998), Bộ luật Tố tụng hình sự của nước cộng
hòa Pháp (bản dịch), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Ngô Hồng Phúc (2003), "Vấn đề nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên
tòa hình sự", Tòa án nhân dân, (2).
13. Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội.
14. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội.
15. Quốc hội (1960), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
16. Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội.
17. Quốc hội (1981), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.

18. Quốc hội (1988), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
19. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
20. Quốc hội (1993), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
21. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
22. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
23. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
24. Hoàng Thị Sơn (1996), "Tìm hiểu nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", Luật học, (5).
25. Hoàng Thị Minh Sơn (2007), "Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam qua các
Bộ luật Tố tụng hình sự", Luật học, (1).
26. Lê Xuân Thân (2004), Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa
án nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
27. Trần Văn Thăng (2006), Sổ tay thuật ngữ pháp luật phổ thông, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
28. Đỗ Gia Thư (2006), Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ Thẩm
phán, Luận án tiến sĩ Luật học.


29. Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây (cũ) (2004), Hồ sơ vụ án hình sự số
29/HSPT/2004, Hà Tây.
30. Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây (cũ) (2005), Hồ sơ vụ án hình sự số
17/20005/HSST, Hà Tây.
31. Tòa án nhân dân tối cao (1976), Tập hệ thống hóa luật lệ về tố tụng hình
sự, Hà Nội.
32. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Báo cáo Tổng kết công tác năm 2005 và
phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2006 của ngành Tòa án nhân
dân, Hà Nội.
33. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Báo cáo Tổng kết công tác năm 2006 và
phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2007 của ngành Tòa án nhân

dân, Hà Nội.
34. Tòa án nhân dân tối cao (2007), Báo cáo Tổng kết công tác năm 2007 và
phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2008 của ngành Tòa án nhân
dân, Hà Nội.
35. Tòa án nhân dân tối cao (2008), Báo cáo Tổng kết công tác năm 2008 và
phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2009 của ngành Tòa án nhân
dân, Hà Nội.
36. Tòa án nhân dân tối cao (2008), Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao năm 2005, Hà Nội.
37. Thu Trang (2004), "Những quy định mới về người tiến hành tố tụng trong
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003", Tòa án nhân dân, (8).
38. Trần Văn Tú (2004) "Đổi mới nội dung, phương thức quản lý", trong kỷ
yếu: Đổi mới công tác quản lý, đào tạo bồi dưỡng Thẩm phán Tòa
án nhân dân địa phương, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Tòa án
nhân dân tối cao.
39. Đào Trí Úc (2002), "Các Tòa án nhân dân", Trong sách: Hệ thống tư pháp
và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.


40. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân, Hà Nội.
41. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân, Hà Nội.
42. Viện Khoa học Kiểm sát (2002), "Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga",
Phụ trương Thông tin khoa học pháp lý.
43. Viện Khoa học xét xử (2007), Công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong
hoạt động xét xử tại Tòa án nhân dân, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
44. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình Các cơ quan bảo vệ pháp luật, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.

45. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.



×