Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 3 4 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.11 MB, 18 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngành giáo dục mầm non chăm sóc giáo dục trẻ từ khi cất tiếng khóc chào
đời đến 6 tuổi. Có thể nói: từ một thực thể tự nhiên bắt đầu bước vào xã hội, dần
dần trở thành “người”, trở thành con người xã hội. Nhờ quá trình giáo dục giúp trẻ
phát triển toàn diện về nhân cách: thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm- hành vi
xã hội, thẩm mỹ. Tâm hồn trẻ thơ như tờ giấy trắng rất non nớt, rất trong sáng và
rất dễ tiếp thu những cái tốt cũng như những cái xấu từ bên ngoài. Tuy nhiên, ở lứa
tuổi này nếu chúng ta không biết cách uốn nắn và dạy dỗ trẻ không đến nơi thì sẽ
gây khó khăn cho các bậc học sau. Chính vì vậy mà người lớn chúng ta cần phải
rèn luyện cho trẻ những thói quen tốt ngay từ nhỏ.
Thật vậy, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế rất nhiều các bậc phụ
huynh có ít thời gian để quan tâm và hướng dẫn con cái chính vì vậy trẻ thường hay
ỉ lại và không thể tự lo cho bản thân. Trẻ em ngày nay đã thông minh hơn, hoạt bát,
lém lĩnh hơn nhiều so với trẻ em ngày xưa. Tuy nhiên các cháu lại rất thiếu các kĩ
năng sống, thiếu khả năng tự lập và thường hay dựa dẫm vào người lớn. Khi gặp
khó khăn là chúng thường tìm ngay đến người lớn mà không tự mình tìm cách giải
quyết. Điều này ảnh hưởng đến sự phát triển nhận thức, tình cảm của trẻ.
Nếu trẻ biết tự phục vụ, trẻ sẽ thấy quý trọng bản thân, nuôi dưỡng những giá
trị sống chính là nền tảng cho trẻ sau này và hình thành những kĩ năng sống tích
cực trong trẻ. Ở mỗi lứa tuổi, trẻ rất cần có những tác động khác nhau đến kĩ năng
sống của trẻ.
Chính vì vậy, tôi luôn quan tâm đến những biện pháp dạy kĩ năng tự phục vụ
cho trẻ đặc biệt ở lứa tuổi tôi đang dạy mẫu giáo 3-4 tuổi. Trẻ lớp tôi, ở lứa tuổi này
trẻ cũng đã hình thành được một số kỹ năng tự phục vụ nhưng đa số trẻ còn dựa
dẫm vào người lớn.
Qua tìm tòi nghiên cứu, nhận thức sâu sắc ý nghĩa vai trò quan trọng của các
kĩ năng tự phục vụ đối với sự phát triển của trẻ và dựa trên khả năng tự phục vụ của
trẻ tại lớp nên tôi mạnh dạn chọn đề tài “ Một số biện pháp nâng cao kỹ năng tự
phục vụ nhằm phát huy tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi A trường Mầm non
1.6”


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Tính tự lập được hình thành rất sớm và là một biểu hiện tâm lí có ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình hình thành các phẩm chất nhân cách của trẻ. Một số dấu hiệu
đáng tin cậy của bắt đầu sự hình thành tính tự lập, đó là nhu cầu tự khẳng định
mình xuất hiện. Trẻ muốn tự làm một số công việc trong sinh hoạt hằng ngày. Giáo
dục tính tự lập cho trẻ ngay từ khi còn bé không những tạo ra cho trẻ khả năng tự
lập trong sinh hoạt hằng ngày mà còn là một trong những điều kiện quan trọng để
hình thành sự tự tin, năng động, sáng tạo, làm cơ sở hình thành các kĩ năng sống
sau này.
Trang 1


Sáng kiến kinh nghiệm
Thực tế hiện nay cho thấy, đối với gia đình, chủ yếu là cha mẹ còn có nhiều
sai lầm về giáo dục nói chung và giáo dục tính tự lập cho trẻ nói riêng. Thứ nhất là
nuông chiều con quá mức chỉ biết hưởng thụ sau này trở thành người có tính ích kỉ,
vụng về, thiếu tự tin trong cuộc sống. Thứ hai là không tin vào khả năng của trẻ, trẻ
muốn làm nhưng thấy trẻ làm lóng ngóng, chậm chạp thì tỏ ra khó chịu, nên người
lớn thường “sốt ruột” và làm thay trẻ, dẫn đến trẻ có thái độ bướng bỉnh dần dần
tạo ra sự ỉ lại, lười biếng mất tự tin ở trẻ.
Đối với giáo viên đa số đã nhận thức đầy đủ và có thái độ đúng đắn trong
giáo dục tính tự lập cho trẻ lên ba. Song về hướng dẫn trẻ hoạt động để hình thành
tính tự phục vụ cho trẻ lại rất hạn chế. Nguyên nhân là do người giáo viên cho rằng
trẻ còn quá nhỏ để rèn tính tự lập, bên cạnh đó điều quan trọng là khi trẻ thực hiện
chậm chạp, long ngóng sợ tốn thời gian.
Vì vậy để hình thành và phát triển tính tự phục vụ cho trẻ nói chung và trẻ
mẫu giáo 3-4 tuổi nói riêng giáo viên mầm non phối kết hợp với cha mẹ trẻ có
những biện pháp giáo dục phù hợp nhằm phát huy khả năng tự phục vụ, làm cơ sở
cho sự hình thành nhân cách cho trẻ sau này.

Tự phục vụ là phương tiện không thể thiếu để giúp trẻ tăng năng lực hội
nhập, tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tin vững vàng trước mọi khó khăn thử
thách.Tự phục vụ chính là chiếc chìa khóa của sự sống còn, sự phát triển và sự
thành công của mỗi con người.
II. THỰC TRẠNG
Là một giáo viên phụ trách lớp mẫu giáo 3-4 tuổi A, bước đầu tôi có những
thuận lợi và khó khăn sau:
1. Thuận lợi
Trường được Phòng Giáo dục Huyện và Ban giám hiệu nhà trường quan tâm,
đầu tư cơ sở vật chất đầy đủ.
Giáo viên đều có trình độ trên chuẩn, yêu nghề mến trẻ, tâm huyết với nghề,
có tinh thần học hỏi, luôn trau dồi về chuyên môn, nghiệp vụ.
2. Khó khăn:
Lớp có 49 cháu quá đông (chia làm 2 nhóm), khả năng nhận thức của các
cháu không đồng đều( Số lượng cháu sinh cuối năm 2013 chiếm 1/3; Số cháu mới
đi học chiếm 1/4). Nhiều cháu khả năng tự phục vụ còn rất yếu, còn rụt rè, lúng
túng, nhút nhát. Bên cạnh đó lại có những cháu nghe nhưng chưa hiểu được các yêu
cầu của cô, thích tự làm theo ý mình .
Trẻ bị ảnh hưởng bởi cuộc sống phát triển hiện đại như: Internet, tivi, các trò
chơi điện tử. Ví dụ như: khi ăn thì trẻ phải xem Ipad, điện thoại... thì trẻ mới chịu
ăn.
Trẻ được sống trong môi trường quá bao bọc khiến trẻ quen dựa dẫm, không
có tính tự lập, ích kỷ, lãnh cảm với môi trường xung quanh.

Trang 2


Sáng kiến kinh nghiệm
Đa số phụ huynh là cán bộ công chức chỉ sinh 1-2 con nên thường nuông
chiều, bao bọc nên trẻ thường ỷ lại, dựa dẫm vào người lớn.

Còn phụ huynh người dân tộc thiểu số lại phó mặt cho giáo viên chăm sóc,
giáo dục trẻ.
3. Thực trạng về kĩ năng tự phục vụ của trẻ
Đầu năm tôi khảo sát thực tế với các tiêu chí về khả năng tự phục vụ của trẻ,
kết quả nhận được như sau:
Tiêu chí khảo sát

Tự cầm ca lấy nước để uống.
Tự xúc cơm ăn.
Tự dọn chén sau khi ăn
Lau mặt, đánh răng sau khi ăn
Tự cởi, mặc, xếp quần áo.
Tự mang giày, dép
Tự xếp mền, gối sau khi ngủ dậy
Khả năng trẻ tự làm mà không
cần GV nhắc nhở

Đạt

Tỷ lệ
lượng
(%)
14
56%
11
44%
10
40%
8
32%

8
32%
13
52%
7
28%
6

24%

Chưa đạt
Số
Tỷ lệ
lượng
(%)
11
44%
14
56%
15
60%
17
68%
17
68%
12
48%
18
72%
19


76%

Bảng 1: Kết quả khảo sát khả năng tự phục vụ của các cháu
Chủ điểm: Bé ngoan (Từ ngày 3/10- 21/10/2016)
Thời gian đầu, tôi thấy khả năng nhận thức của các cháu chưa tốt, khả năng
tự phục vụ còn hạn chế (bảng 1). Có nhiều cháu nói chưa tốt, chưa biết một số thói
Trang 3


Sáng kiến kinh nghiệm
quen tự phục vụ đơn giản như: Có 44% cháu khát nước, muốn uống nước nhưng
không biết cách lấy nước uống, không biết cách cầm ca uống nước như thế nào cho
không bị đổ. Có một số trẻ khi có nhu cầu đi vệ sinh nhưng lại không biết cởi quần
nên bị tè dầm ra quần, không biết cởi quần áo khi bị dơ (68%). Có 56% khi ăn cô
phải xúc, 48% cháu không biết mang giày, 60% trẻ ăn xong không biết dẹp chén...
Tuy nhiên có một số trẻ có kĩ năng tự phục vụ rất tốt nhưng lại thiếu tính chủ động
(76%), trẻ luôn đợi chờ người lớn nhắc nhở thì trẻ mới chịu làm.
Để có những biện pháp hay, thiết thực nhằm hướng dẫn trẻ kĩ năng tự phục
vụ, đầu tiên tôi sẽ tìm hiểu những nguyên nhân đưa đến việc trẻ chưa có khả năng
tự phục vụ và ý thức tự phục vụ của trẻ chưa tốt:
Nguyên nhân thứ nhất: xuất phát từ phía trẻ, có một số cháu có do khả năng
tiếp thu chậm hoặc không chịu tập trung khi cô hướng dẫn. Một số cháu thì mới đi
học nên chưa có nề nếp, chưa quen môi trường sinh hoạt tại lớp.
Nguyên nhân thứ 2: xuất phát từ giáo viên, do cô không chịu khó, không
kiên trì hướng dẫn cho trẻ những kĩ năng tự phục vụ nên cô hay làm giúp trẻ cho đỡ
mất thời gian. Việc này lâu dần sẽ khiến cho trẻ có tư tưởng ỷ lại, không chịu làm.
Nguyên nhân thứ 3: lại xuất phát từ phía phụ huynh, do mỗi gia đình ngày
nay thường chỉ có một đến 2 con, tất cả tình cảm cha mẹ dành trọn cho những đứa
con yêu qúy của mình. Ngoài ra, trẻ luôn được cha mẹ chìu chuộng hết mức, luôn

được đáp ứng ngay mọi yêu sách, mọi mong muốn của trẻ, ba mẹ và người lớn
trong gia đình làm thay trẻ tất cả mọi việc vì họ sợ con vất vả, sợ qúa sức của con,
sợ con làm không được theo ý mình, sợ mất thời gian... Điều này lâu dần hình
thành ở trẻ tính ỷ lại, luôn dựa dẫm vào người khác, thiếu kiên nhẫn và lười lao
động.
Ngoài ra một số phụ huynh là người dân tộc thiểu số thì họ lại không quan
tâm đến con cái, họ nghĩ trách nhiệm là của giáo viên nên họ phó mặc cho giáo
viên giáo dục trẻ.
III. BIỆN PHÁP
Qua việc áp dụng sáng kiến này tôi muốn đóng góp một phần nhỏ bé đưa ra
một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi nâng cao kĩ năng tự phục vụ nhằm phát
huy được tính tự lập cho trẻ.
1. Khảo sát khả năng của trẻ
Từ những nhận thức của mình về vấn đề giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu
giáo, tôi định hướng được nhiệm vụ của mình trong công việc. Và để gặt hái được
nhiều kết quả tốt trong quá trình thực hiện nên ngay từ đầu năm học tôi đã tiến
hành khảo sát trẻ theo những kĩ năng cấn thiết để giáo dục tính tự lập cho trẻ mà tôi
đã xác định ở trên (bảng 1).
Để theo dõi và đánh giá được kết quả về kỹ năng tự phục vụ mà trẻ đạt được
thì sau mỗi chủ điểm tôi đều khảo sát trẻ.
Ví dụ: Chủ điểm gia đình: Sau khi thực hiện hết chủ điểm, tôi đã tiến hành
khảo sát kỹ năng tự phục vụ của trẻ để xem sự phát triển của trẻ như thế nào.
Trang 4


Sáng kiến kinh nghiệm
Tiêu chí khảo sát

Tự cầm ca lấy nước để uống.
Tự xúc cơm ăn.

Tự dọn chén sau khi ăn
Lau mặt, đánh răng sau khi ăn
Tự cởi, mặc, xếp quần áo.
Tự mang giày, dép
Tự xếp mền, gối sau khi ngủ dậy
Khả năng trẻ tự làm mà không cần
GV nhắc nhở

Đạt

Tỷ lệ (%)
lượng
17
68%
14
56%
13
52%
15
60%
12
48%
16
64%
11
44%
9

36%


Chưa đạt
Tỷ lệ
Số lượng
(%)
8
32%
11
44%
12
48%
10
40%
13
52%
9
36%
14
56%
16

64%

Bảng 2: Kết quả khảo sát khả năng tự phục vụ của trẻ ở chủ điểm “Tổ ấm
gia đình” thực hiện từ ngày 24/10- 18/11/ 2016)
Quá trình khảo sát như vậy để đánh giá được sự phát triển về kỹ năng của trẻ
thông qua họa động học, hoạt động hàng ngày của trẻ tại lớp. Như vậy, cứ hết một
chủ điểm là tôi lại tiến hành khảo sát, đánh giá trẻ.
2. Hướng dẫn và rèn luyện những kĩ năng tự phục vụ cần thiết cho trẻ.
Tôi hướng dẫn các cháu nâng cao các kỹ năng tự phục vụ thông qua giờ hoạt
động chung và các hoạt hộng mọi lúc mọi nơi nhằm giúp trẻ phát triển hoàn thiện

và có khả năng thích ứng trong mọi hoàn cảnh thực tế.
Việc trẻ biết tự chăm sóc mình là những viên gạch đầu tiên xây dựng tính tự
tin, tự lập và ứng phó với những đòi hỏi khác. Ví dụ như: Khi trẻ biết cách xếp
quần áo thì sau này khi đi học trẻ dễ dàng áp dụng kĩ năng đó vào việc xếp sách vở,
đồ dùng đi học. Khi đi làm trẻ sẽ biết sắp xếp công việc tốt hơn.
Nếu trẻ không biết mang đôi vớ, giặt bộ quần áo cho chính mình thì trẻ cũng
sẽ không biết làm điều đó cho người khác. Dạy cho trẻ khả năng tự chăm sóc mình,
ngoài việc tốt cho bản thân trẻ, trẻ tự chăm sóc mình cũng là cách giúp đỡ những
người trong gia đình… Trẻ không biết tự chăm sóc mình thì sẽ không cảm nhận
được sự vất vả khi làm việc gì, không thông cảm và thấu hiểu thì trẻ sẽ không có sự
chia sẻ, gắn bó với những tình cảm mà người thân đã giành cho mình.
Kĩ năng tự chăm sóc bản thân như: Tự nhặt đồ chơi, tự cởi và mặc, xếp quần
áo, rửa mặt, tay, đánh răng, tự đi dép, chuẩn bị mũ, áo khoác, khẩu trang khi đi ra
ngoài, tự ăn, đội mũa bảo hiểm…
Ví dụ: Giáo viên đang hướng dẫn trẻ xếp quần áo: Đầu tiên chúng mình sẽ
lộn áo sang mặt phải, trước khi gấp chúng mình phải rủ quần áo cho phẳng, tiếp
theo trải áo ra, lấy tay vuốt áo cho thật phẳng phiu, rồi nhẹ nhàng gấp tay áo bên
Trang 5


Sáng kiến kinh nghiệm
phải vào trong thân áo, sau đó gấp tiếp tay áo bên trái vào trong thân áo. Cầm 2
bên gấu áo gấp lên trên làm sao cho gấu áo bằng với tay áo, cuối cùng gấp đôi
thêm một lần nữa.

(Hình ảnh trẻ đang xếp quần áo)

Lứa tuổi này trẻ đã ý thức được sự an toàn cho chính bản thân trẻ. Hàng ngày
trẻ đi tới trường bằng phương tiện xe máy là chủ yếu, chính vì vậy tôi cũng dạy cho
trẻ kỹ năng như đội mũ bảo hiểm để trẻ biết cách đội mũ bảo hiểm khi ngồi lên xe

máy.

( Hình ảnh trẻ đang thực hành đội mũ bảo hiểm)
Trẻ ở độ tuổi này hoàn toàn có thể tự chăm sóc bản thân, chính vì vậy tôi chỉ
cần khuyến khích và động viên trẻ trong những buổi học đầu tiên.
Ngay từ những ngày đầu tiên đến trường, tôi hướng dẫn trẻ cách tự mặc quần
áo, gấp quần áo, cất quần áo vào đúng nơi quy định. Công việc này yêu cầu phải có
thời gian và người GV phải kiên nhẫn. Nhờ vậy mà sau gần một tháng, trẻ hình
thành thói quen tự lập trong việc chăm sóc bản thân.
Trang 6


Sáng kiến kinh nghiệm
Kĩ năng tự chăm lo vệ sinh cá nhân như: Lau nước trên sàn, lau bụi trên bàn,
gạt nước sau khi đi vệ sinh, đi vệ sinh đúng nơi, bỏ rác đúng nơi quy định.
Tôi hướng dẫn trẻ cách vệ sinh cá nhân như: rửa tay, rửa mặt, đánh răng.
Dạy trẻ cách an toàn khi thực hiện các việc vệ sinh cá nhân. Tạo cho trẻ có ý thức
tự giác chăm lo vệ sinh cá nhân thông qua các câu truyện, hoạt động học tập trên
lớp.
Ví dụ: Giáo viên vừa thực hành và hướng dẫn cho trẻ cách lau mặt đúng cách: cô
trải khăn trên lòng bàn tay dùng ngón cái và ngón trỏ lau từng mắt, nhích khăn lau
tiếp mũi miệng. Gập khăn mỗi mặt lau một bên trán má và lật khăn lau lại cằm cổ.
Sau đó cô bỏ khăn bẩn vào chậu đựng khăn bẩn.

( Trẻ thực hành kỹ năng lau mặt)
Kĩ năng hỗ trợ người khác: Bật tivi, lấy chén ăn cơm, lấy ly uống nước, cất
dép đúng quy định, xách phụ đồ, dọn dẹp bàn ghế sau khi ăn xong. Đây cũng là
một trong những kỹ năng tự phục vụ cần thiết cho trẻ. Bản thân tôi luôn hướng dẫn
một cách tận tình cho trẻ để trẻ thực hiện được tốt.


Trang 7


Sáng kiến kinh nghiệm

( Hình ảnh trẻ đang xếp bàn ghế)
Thói quen biết xếp hàng: Đây là một thói quen mà hầu hết người lớn chúng
ta không để ý khi tham gia vào các hoạt động chung. Nhưng hãy cố gắng làm
gương và tập cho trẻ có thói quen xếp hàng ngay từ nhỏ để dẩn dần thay đổi được
một cách ứng xử kém văn hóa nơi công cộng là sự chen lấn nhau.
Ở lớp tôi rèn cho trẻ thói quen xếp hàng (không chen ngang, xô đẩy bạn..)
khi tham gia vào một hoạt động nào đó như: cùng nhau xếp hàng đi ra sân hoạt
động ngoài trời.
Khi tổ chức các hoạt động mà trẻ lộn xộn thì hoạt động đó sẽ không diễn ra
suôn sẽ được, xếp hàng là cũng thể hiện đuọc tính kỹ luật của trẻ trong một tổ chức,
trong nhóm lớp của mình.

( Trẻ xếp hàng khi ra hoạt động ngoài trời)
Trang 8


Sáng kiến kinh nghiệm
Thói quen bỏ rác vào thùng rác: Ngay tại lớp học, tôi cho đặt thùng rác ở nơi
qui định, để trẻ thấy việc bỏ rác là 1 thói quen trong lớp. Khi đi chơi ngoài sân
trường, cũng cần bỏ rác và hướng dẫn cho trẻ bỏ rác vào các thùng rác công cộng
để hình thành thói quen này.Thường xuyên nhắc nhở trẻ vứt rác vào đúng nơi quy
định. Khi trẻ nhìn thấy rác là trẻ tự giác nhặt bỏ vào thùng rác không cần giáo viên
nhắc nhở. Những hành động của trẻ như vậy cũng thể hiện được ý thức của trẻ đối
với vệ sinh môi trường ở nơi công cộng. Để có được những hành động, thái độ của
trẻ khi nhặc rác như vậy thì bản thân tôi cũng phải làm gương cho trẻ thấy.


( Trẻ nhặt và bỏ rác đúng nơi quy định)
Thói quen biết nói xin lỗi và cám ơn: Ngay từ bé, chúng ta cũng cho trẻ thấy
cách ứng xử như vậy của người lớn và khi giao tiếp với trẻ, chính tôi cũng phải nói
xin lỗi và cám ơn trẻ. Như thế, trẻ sẽ cảm nhận được một cách tự nhiên các cách
ứng xử này.
Ví dụ: Giáo viên hướng dẫn trẻ cách chào hỏi:
- Khi gặp người lớn thì chúng ta như thế nào?
+ Cô hướng dẫn cho trẻ cách chào hỏi với mọi người: Khi chào hỏi người
lớn thì gương mặt phải hướng về phía người chào, đầu hơi cúi xuống và khoanh
tay lại nói “ cháu chào ông ạ”
- Còn khi gặp bạn thì mình chào như thế nào?
+ Chào bạn bè: Giơ bàn tay, ngang tầm mắt, gương mặt vui vẽ và nói “
mình chào bạn”
- Khi mình bị mắc lỗi thì mình sẽ nói lời gì?
+ Nếu bị mắc lỗi thì khoanh tay lại, đầu hơi cúi xuống và nói “ Cháu xin lỗi
ông ạ”
- Khi được nhận quà thì mình sẽ nói như thế nào?
Trang 9


Sáng kiến kinh nghiệm
+ Nếu khi người khác cho quà, thì vòng tay lại, đầu hơi cúi xuống và nói “
Cháu cảm ơn ông ạ” và nhận quà bằng 2 tay.
Để giúp trẻ hình thành được các kĩ năng trên, tôi từng bước, tùy từng trẻ mà
thực hiện:
Đối với trẻ nói chưa thạo, tôi sẽ nói chậm rãi khi hướng dẫn trẻ, dạy trẻ cách
truyền đạt thông tin với cô giáo bằng cách ra hiệu khi cần giúp đỡ. Song song đó tôi
sẽ đưa các đề tài rèn kĩ năng tự phục vụ vào các hoạt động hàng ngày và tiếp tục
rèn các kĩ năng này ở mọi lúc mọi nơi cho đến khi trẻ thuần thục. Và tôi sẽ cho trẻ

thực hiện mỗi ngày để nó dần trở thành thói quen tốt của trẻ. Tận dụng các tình
huống cụ thể từ trẻ để rèn kĩ năng cho trẻ, như thế trẻ sẽ nhớ lâu hơn.
Tôi thường xuyên động viên, khích lệ cổ vũ trẻ, kịp thời khen trẻ khi cháu
làm được và làm tốt những công việc tự phục vụ. Nêu gương trước cả lớp những
bạn năng nổ, tích cực phụ giúp cô.
Tôi nhẹ nhàng và chỉ dẫn tận tình cho trẻ, tạo cho trẻ cảm giác tự tin là mình
có thể làm được và làm tốt. Đây cũng là cơ hội để cô và trẻ gần nhau và hiểu nhau
hơn.
Ngoài việc cổ vũ những cháu năng động tích cực phát huy khả năng, tôi chú
ý đến những cháu chậm tiếp thu chưa tốt, rụt rè. Tạo cơ hội để cháu được tự làm
những việc vừa sức, hướng dẫn trẻ mọi lúc mọi nơi: Con cứ làm đi, đừng sợ sai,
con làm được đấy, cô không mắng đâu!... Khi hướng dẫn trẻ thì giọng nói của tôi
cần nhẹ nhàng, chậm rãi, tạo sự gần gũi. Tránh những câu nói mệnh lệnh, cứng
nhắc: Làm nhanh đi, làm cái này nè, làm sai rồi...
Khi hướng dẫn trẻ một kĩ năng nào đó, tôi hướng dẫn một cách chậm rãi
từng thao tác một. Khi trẻ đã nắm được thao tác này thì tôi mới chuyển sang thao
tác khác. Tôi cho trẻ được thực hiện thường xuyên, liên tục để trở thành kĩ năng,
tạo cho trẻ cảm giác phấn khởi là mình cũng giỏi như bạn. Ví dụ: Đối với trẻ xúc
ăn chưa thạo. Ban đầu tôi chấp nhận việc cơm sẽ rơi vãi ra nhà hoặc trẻ cho cơm
vào mũi. Hoặc đối với trẻ chưa biết cách uống nước tôi đổ chút ít nước vào trong ly
và cho cháu tự cầm ly uống, trẻ uống như thế nào là tùy trẻ, lâu dần bản thân trẻ sẽ
tự điều chỉnh cho tốt hơn do đã được trải nghiệm nhiều lần và đã có kinh nghiệm ở
những lần thất bại trước. Để trẻ có được điều này đòi hỏi chúng ta phải chịu cực đôi
chút, kiên nhẫn chờ đợi sự tiến bộ từng ngày nơi con trẻ của chúng ta.
3. Phân công công việc, duy trì thói quen và cách làm việc.
Trong lớp, tôi phân công công việc cho từng thành viên để bé hiểu rằng mỗi
người đều có trách nhiệm với công việc và hình thành thói quen làm việc. Khi tổ
chức các hoạt động ở lớp có thể phân công công việc cho các bé, cho bé phụ giúp
cô trong giờ ăn: Lấy ghế, lấy khay và khăn ăn, kê bàn, chia chén muỗng,… giúp cô
trải chiếu, lấy chăn gối, đệm chuẩn bị giờ ngủ.

Tôi phân công theo từng tổ trực nhật, để mỗi thành viên trong tổ của mình
biết được trách nhiệm của mình đối với nhóm lớp, không còn tình trạng đùn đẩy, ỷ
Trang 10


Sáng kiến kinh nghiệm
lại cho các bạn khác trong lớp. Khi phân công công việc như vậy các bạn rất hứng
thú và vui vẽ thực hiện khi biết công việc của mình phải làm.

( Hình ảnh trẻ phơi khăn)
Tôi phân công công việc cho các thành viên trong từng hoạt động cụ thể như
sắp xếp bàn ăn, dọn chén bát, xếp trải nệm… Các thành viên phối hợp với nhau để
thực hiện nhiệm vụ của mình.

( Trẻ đang chuẩn bị sắp xếp ăn)

Trang 11


Sáng kiến kinh nghiệm

( Trẻ đang chuẩn bị cho tổ chức bữa ăn)

( Trẻ đang trải nệm để chuẩn bị giờ ngủ)
Việc hình thành một hành động tự phục vụ là điều không khó nhưng cái khó
là hình thành thói quen cho trẻ. Chính vì vậy, tôi thường xuyên: Phân công công
việc cụ thể; cho trẻ được làm nhiều lần; có những biện pháp khen thưởng, khích lệ,
động viên.
4. Khuyến khích kết quả tốt đẹp trẻ làm được
Trẻ ở lứa tuổi mầm non rất thích tự làm những công việc vừa sức của mình để

phục vụ cho bản thân. Hiểu được điều này, các cô luôn khuyến khích trẻ rèn luyện tính
tự lập ngay từ khi còn nhỏ. Các con rất hào hứng khi được giúp cô giáo những việc
đơn giản như: chuẩn bị bàn, ghế cho giờ học, giờ ăn hay tự mình sắp xếp đồ dùng
ngay ngắn để vào cặp. Trong giờ ăn, các bé được tập cách bê bát ăn cơm một cách cẩn
thận về chỗ ngồi của mình và sau khi ăn xong các bé biết tự mang bát đến khu vực quy
định.
Trang 12


Sáng kiến kinh nghiệm
Chính những việc làm của người lớn thường ngày sẽ được trẻ chú ý quan sát và
ghi nhớ để thực hiện lại. Vì vậy, ngoài việc nâng cao tính tự giác, tự lập, trẻ còn tạo
dựng được tinh thần tập thể, biết quan tâm giúp đỡ những người xung quanh. Đó có
thể là những hành động nhỏ trẻ có thể hỗ trợ bạn bè trong giờ học hay giờ hoạt động
vui chơi. Đối với trẻ mới vào lớp chưa quen kĩ năng tự phục vụ bản thân thì những trẻ
đã được học trước sẽ trở thành người hướng dẫn cho bạn mới. Những lúc như vậy các
cô giáo luôn chú ý khen ngợi, động viên, khuyến khích trẻ và trẻ luôn vui thích và cố
gắng phát huy những kĩ năng tốt này. Các cô luôn tạo điều kiện để trẻ học những kĩ
năng sống vì những trải nghiệm sẽ giúp trẻ thích ứng nhanh với môi trường xung
quanh, phát triển tính nhanh nhẹn, khả năng tư duy, ý thức tự giác và tinh thần tập thể.
Việc khen ngợi cần được xem như hành động công nhận trẻ đã hoàn thành
công việc nào đó, cho dù chúng chỉ hoàn thành ở mức sơ sài nhất. Cụ thể tôi đưa ra
những lời nhận xét tích cực sau mỗi việc mà trẻ đã làm. Tôi không bao giờ dùng
những từ khen ngợi quá đáng cho một hành động đơn giản. Thay vào đó là những
lời động viên tích cực như: con đánh răng sạch quá, miệng con rất thơm vì con đã
đánh răng, cảm ơn con vì đã sắp xếp đồ chơi cho lớp, con đi vệ sinh đúng nơi quy
định rồi đó, cảm ơn con đã cất dọn đồ chơi gọn gàng cho cô, cô rất vui khi các con
giúp cô lau sạch lá cây… Các hình thức tôi thường dùng để khen, tuyên dương
những hành động tốt trước lớp: cho trẻ được cắm cờ, dán phiếu bé ngoan, tuyên
dương cuối tuần…


( Trẻ được tuyên dương cuối tuần)
Tôi đưa ra nhiều hình thức khen ngợi trẻ, tuyên dương để động viên khích lệ
trẻ thông qua việc bé được dán phiếu bé ngoan khi trẻ tích cực tham gia vào hoạt
động.

Trang 13


Sáng kiến kinh nghiệm

( Trẻ dán phiếu bé ngoan vào cuối tuần)
Không những thế, tôi còn động viên tinh thần cho trẻ bằng cách cắm hình
vào “ Bông hoa tích cực” vào cuối tuần, trẻ nào tốt sẽ được cắm hình vào bông hoa.

( Trẻ lên cắm hình khi được khen ngợi)
5. Phối hợp với phụ huynh
Việc hướng dẫn và rèn luyện các kĩ năng tự phục vụ cho trẻ nếu chỉ có cô
giáo và nhà trường thì không thể thành công mà phải có sự phối hợp của các thành
viên trong gia đình trẻ như: cha mẹ, ông bà, anh em… Các thành viên trong gia

Trang 14


Sáng kiến kinh nghiệm
đình luôn tạo mọi cơ hội cho bé nhìn thấy các việc làm và cách thức làm việc của
mình, đồng thời nên giải thích cho bé về việc đó (dù bé có hiểu hay không).
Thường xuyên trao đổi thông tin giữa giáo viên và phụ huynh của trẻ. Giáo
viên cần tìm hiểu thêm thông tin về trẻ từ phụ huynh: Ở nhà, cháu có hay giúp đỡ
ba mẹ không? Cháu thích làm những việc gì giúp mẹ, bố mẹ có để cho trẻ tự phục

vụ bản thân những việc vừa sức không: Mang giày dép, xếp quần áo của mình, tự
xúc ăn...?
Ngoài việc tìm hiểu từ phụ huynh thì tôi thường xuyên phản hồi thông tin về
trẻ cho phụ huynh nắm: Ở lớp, cháu là người như thế nào? Cháu có hay giúp cô
không? Những việc trẻ làm tốt khi ở lớp... để phụ huynh tiếp tục khuyến khích cho
cháu làm tốt khi ở nhà nhằm xây dựng thói quen tốt cho trẻ.

( Hình ảnh giáo viên trao đổi với phụ huynh qua giờ đón, trả trẻ)
Tôi đã phối hợp với giáo viên trong lớp đưa ra nội dung để họp phụ huynh.
Tích cực tuyên truyền với phụ huynh thông qua các giờ đón – trả trẻ. Tôi cũng lấy
ý kiến của phụ huynh về kỹ năng tự phục vụ của trẻ tại gia đình thông qua phiếu
trưng cầu ý kiến. Đầu năm học tháng 10/2016 tôi cũng đưa ra các câu hỏi về các kỹ
năng tự phục vụ của trẻ tại gia đình như thế nào, kết quả được thể hiện như sau:
Tôi nhận thấy phụ huynh đều nhận thức được tầm quan trọng của việc về kỹ
năng tự phục vụ của trẻ. Có 52% phụ huynh xem kỹ năng tự phục vụ là rất quan
trọng, 48% là quan trọng. Hầu như các kỹ năng tự phục vụ ở nhà của trẻ mức độ
thường xuyên rất thấp: Trẻ có tự cầm ca để lấy nước uống: 52% là thường xuyên;
Trẻ có tự xúc cơm ăn: 12% trẻ thường xuyên xúc cơm ăn; Trẻ có tự lau mặt, đánh
răng sau khi ăn: 36% trẻ thường xuyên làm; Trẻ có tự cởi, mặc, xếp quần áo: 28%
trẻ thường xuyên làm; Trẻ có tự mang giày, dép: 60% trẻ làm thường xuyên; trẻ có
Trang 15


Sáng kiến kinh nghiệm
tự xếp mền, gối sau khi ngủ dậy: 8% trẻ thường xuyên làm; Ý thức tự giác của trẻ
khi làm thì chỉ có 8% trẻ thường xuyên làm.
Qua thời gian tôi áp dụng các biện pháp, và sự phối hợp với phụ huynh thì kỹ
năng tự phục vụ của trẻ đều được nâng lên rõ rệt. Tôi cũng tiếp tục trưng cầu ý kiến
phụ huynh vào thời điểm tháng 3/ 2017 kết quả khá tốt, mức độ thường xuyên tự
phục vụ của trẻ khá cao: Trẻ có tự cầm ca để lấy nước uống: 92% là thường xuyên;

Trẻ có tự xúc cơm ăn: 68% trẻ thường xuyên xúc cơm ăn; Trẻ có tự lau mặt, đánh
răng sau khi ăn: 76% trẻ thường xuyên làm; Trẻ có tự cởi, mặc, xếp quần áo: 80%
tẻ thương xuyên làm; Trẻ có tự mang giày, dép: 84% trẻ làm thường xuyên; trẻ có
tự xếp mền, gối sau khi ngủ dậy: 68% trẻ thường xuyên làm; Ý thức tự giác của trẻ
khi làm thì chỉ có 64% trẻ thường xuyên làm.
Thông qua các hoạt động trên, tôi nhận thấy phụ huynh đã có sự phối hợp
với giáo viên về rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ được tốt hơn.
IV. KẾT QUẢ
Những biện pháp trên đã giúp trẻ của lớp tôi nâng cao được kỹ tự phục vụ tốt
hơn, trẻ đã tự lập hơn trong cuộc sống. Ngay khi mới vào lớp, nhiều trẻ của tôi
chưa có kĩ năng tự phục vụ hoặc tự phục vụ chưa tốt, qua một quá trình rèn luyện
cho trẻ với các biện pháp mà tôi đã thực hiện. Giờ đây thì trẻ của tôi đã tiến bộ lên
rất nhiều, nhiều cháu có kỹ năng tự phục vụ rất tốt, cháu thích thú được giúp cô và
tự tin đề nghị với người lớn để trẻ được làm.
Về phía trẻ:
Tiêu chí khảo sát

Tự cầm ca lấy nước để uống.
Tự xúc cơm ăn.
Tự dọn chén sau khi ăn
Lau mặt, đánh răng sau khi ăn
Tự cởi, mặc, xếp quần áo.
Tự mang giày, dép
Tự xếp mền, gối sau khi ngủ dậy
Khả năng trẻ tự làm mà không cần
GV nhắc nhở

Đạt

Chưa đạt


Tỷ lệ
Tỷ lệ (%) Số lượng
lượng
(%)
24
96%
1
4%
20
80%
5
20%
23
92%
2
8%
24
96%
1
4%
21
84%
4
16%
22
88%
3
12%
21

84%
4
16%
18

72%

9

28%

Bảng 3: Kết quả đạt được cuối năm học về kĩ năng tự phục vụ của trẻ vào
thời điểm tháng 3/ 2017
Về giáo viên:
Trang 16


Sáng kiến kinh nghiệm
Bản thân tôi nhận thức rõ hơn, hiểu rõ hơn về việc nâng cao kỹ năng tự phục
vụ nhằm phát huy được tính tự lập của trẻ.
Có thêm nhiều kiến thức và kinh nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động để
giúp trẻ nâng cao kỹ năng tự phục vụ.
C. KẾT LUẬN
I. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Yếu tố tạo nên tính tự phục vụ ở mỗi cá nhân là khả năng tin tưởng vào
những đánh giá của bản thân, cũng như là tự vạch ra con đường đi cho mình mà
không cần lúc nào cũng nhờ đến sự chỉ bảo, hay tìm kiếm sự giúp đỡ từ người
khác. Có được khả năng này là một điều tuyệt với, bởi nó sẽ giúp trẻ tự lập hơn, từ
đó khuyến khích trẻ tạo ra những cơ hội để trẻ thể hiển mình. Những đứa trẻ biết tự
phục vụ từ nhỏ thì nhanh nhẹ và hoạt bát, nổi trội hơn hẳn so với những trẻ khác.

Còn đối với trẻ mầm non rất nhiều trẻ xuất hiện tình trạng dựa dẫm, ỷ lại,
được nuông chiều một cách thái quá dẫn đến không biết làm một số việc đơn giản
như không biết mặc quần áo, không biết tự đi giày, dép, không thích tự đi mà thích
được người lớn bế ẵm… Trẻ không biết cách chăm sóc bản thân, không biết giữ gìn
vệ sinh, lười nhác không biết hỗ trợ người khác. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến
tình trạng này trong đó thiếu tính tự lập là một nguyên nhân trọng tâm nhất. Như
chúng ta đã biết, trẻ em là một đối tượng khá nhạy cảm, nếu trẻ em được tiếp xúc
với nền giáo dục tốt thì trẻ phát triển theo chiều hướng tốt. Ngược lại nếu trẻ em
tiếp xúc với nền giáo dục không đúng đắn sẽ dẫn đến các hậu quả tiêu cực. Do đó
việc giáo dục tính tự phục vụ cho trẻ cần được áp dụng càng sớm càng tốt và là
phương pháp rất quan trọng và cần thiết. Tạo cho trẻ biết tự phục vụ không phải chỉ
có hướng dẫn cho trẻ tự lo cho bản thân mà còn giúp trẻ tự quyết định các vấn đề
của mình. Đó cũng là cách giúp trẻ vận động suy nghĩ, sáng tạo và tự tin.
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Qua thực tiễn đã giúp tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
Không được xem nhẹ vấn đề giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ trong quá
trình chăm sóc và giáo dục trẻ ở trường mầm non.
Giáo viên tránh làm thay trẻ, nên giao việc cho từng trẻ, tạo cơ hội cho cháu
chủ động hoạt động, để cháu có trách nhiệm với công việc mà mình được giao. Cô
cần đặt niềm tin vào trẻ rằng trẻ của mình có thể làm được. Điều này sẽ giúp trẻ tự
tin vào khả năng của mình.
Bằng những kinh nghiện thực tế trên đã chứng minh cho mọi người rằng: Dù
là trẻ ở lứa tuổi nào đi nữa thì người lớn chúng ta cũng nên tôn trọng trẻ, nên yêu
thương và gần gũi trẻ. Đó chính là điều kiện để góp phần giúp thế hệ tương lai của
đất nước sống có ích hơn, yêu lao động và yêu cuộc sống hơn.
Phải luôn đặt cái tâm của người giáo viên lên hàng đầu: ‘Cô giáo như mẹ
hiền”. Cần tạo cho trẻ cảm nhận: ‘Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Hãy yêu
thương trẻ như con của mình, tận tình chỉ dạy trẻ.
Trang 17



Sáng kiến kinh nghiệm
Khi thực hiện thì tránh nôn nóng, sợ mất thời gian mà phải thực hiện kiên trì,
liên tục và xuyên suốt.
Bản thân cần phải tích cực tìm tòi học hỏi, nhận thức sâu sắc những nội dung
giáo dục và lựa chọn nội dung phù hợp đưa vào dạy trẻ lớp mình.
Mạnh dạn dám nghĩ, dám làm, khắc phục mọi khó khăn để thực hiện thành
công ý tưởng của mình.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của nhà trường, phụ huynh cùng toàn thể CB –
GV/NV trong công tác giáo dục và hình thành kĩ năng tự phục vụ cho trẻ.
Tổ chức nhiều hoạt động tạo mọi cơ hội để trẻ được hình thành kĩ năng này.
Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, tạo uy tín và tiềm năng đối với phụ huynh
và đối với trẻ.
III. KIẾN NGHỊ
Mở lớp tập huấn chuyên môn về nội dung giáo dục kĩ năng sống cho giáo
viên đến từng cơ sở.
Tuyên truyền nội dung giáo dục kĩ năng sống cho trẻ Mầm Non trên đài báo,
ti vi nhằm nâng cao nhận thức của cha mẹ học sinh.
Tăng cường cơ sở vật chất, kinh phí để các trường tổ chức các hoạt động tập
thể có quy mô, chất lượng cao.
Trên đây là bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi trong việc nâng cao kỹ năng
tự phục vụ của trẻ lớp 3-4 tuổi A. Tôi rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của
các cấp lãnh đạo để bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi đạt hiệu quả cao.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN NHÀ TRƯỜNG

Tô Hạp, ngày 10 tháng 4 năm 2017
Người viết

Lê Thị Hiền


Trang 18



×