Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Bản chất hoạt động dạy học và biện pháp dạy học tích cực hiệu qủa cho người học (Tiểu luận)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.31 KB, 20 trang )

MỤC LỤC

Đề 1...…………………………………………………………2
Lời mở đầu……………………………………………………3
Nội dung chính ……………………………………………………...5
Câu 1:
1.Khái niệm hoạt động dạy học ………………………………………….5
2. Bản chất hoạt động dạy………………………………………………..6
3. Biện pháp dạy học tích cực hiệu qủa cho người học……………..........7
Câu2
1: Khái niệm phẩm chất …………………………………………………14
2:Những phẩm chất cần có của người giáo viên…………………………15
3: Tự đánh giá và nêu những biện pháp để hình thành,
rèn luyện những phẩm chất đó cho bản thân ……………………………19

Tài liệu tham khảo……………………………………….21

1


ĐỀ 1:
Câu 1: Bản chất hoạt động dạy học và biện pháp dạy
học tích cực hiệu qủa cho người học?
Câu 2: Những phẩm chất cần có của người giáo viên,
hãy tự đánh giá và nêu những biện pháp để hình thành,
rèn luyện những phẩm chất đó cho bản thân.

2


LỜI MỞ ĐẦU


Đất nước ta ngày càng tiến lên theo con đường công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Chúng ta đang phấn đấu để đạt được mục tiêu xây dựng một quốc gia có cơ sở
vật chất - kĩ thuật hiện đại; cơ cấu kinh tế hợp lý; quan hệ sản xuất tiến bộ; phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; đời sống vật chất cũng như tinh thần
được nâng cao; quốc phòng, an ninh được thắt chặt; dân giàu nước mạnh; xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh; xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa.
Muốn đạt được mục tiêu lâu dài đó, Việt Nam ta đã sớm xác định phải có sự kết
hợp hài hòa giữa thời cơ, tiềm năng và yếu tố con người của đất nước,... trong yếu
tố con người đó, ta không thể không kể đến vai trò của các em học sinh-mầm non
tương lai của đất nước.
Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,thời đại hiện nay vốn
là thời đại đua tranh của các cuộc cách mạng khoa học công nghệ, của kinh tế tri
thức- như “vũ bão”. Vấn đề bức thiết đối với người trẻ nói chung và học sinh nói
riêng là các em phải được trang bị một vốn hành trang kĩ lưỡng, chu toàn để có thể
đáp ứng yêu cầu của thời đại.Và để cho học sinh trở thành những nhân tài, những
mầm non này lớn lên có thể gây dựng sự nghiệp thì người giáo viên phải là người
lái đò, phải là tấm gương cả về phẩm chất và tri thức để học sinh noi theo.
Người xưa vẫn nói “nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, một chữ cũng thầy, nửa chữ
cũng thầy. Điều này cho thấy, nghề giáo là một nghề rất cao cả, luôn được xã hội
kính trọng và yêu quý từ ngàn xưa đến nay. Xã hội dù có phát triển đến đâu thì vị
trí, vai trò của người thầy giáo, cô giáo trong lòng mỗi con người vẫn được khẳng
định với sự kính yêu và tôn trọng. Với mỗi chúng ta, khoảng thời gian đi học là
khoảng thời gian đẹp nhất, với nhiều kỷ niệm đáng nhớ, đáng giữ gìn trân trọng
nhất. Trong ký ức đó, bạn bè, trường lớp và thầy cô là hình ảnh không bao giờ
phai. Thầy, cô giáo là những người đã truyền đạt các kiến thức, những kinh nghiệm
sống cho con người từ khi chập chững bước vào đời cho đến khi họ trưởng thành,
những kiến thức và kinh nghiệm đó có thể ở nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa
học tự nhiên, khoa học xã hội và cả những kiến thức để hình thành nhân cách con
người, góp phần tạo dựng một xã hội tốt đẹp. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn

diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân
chủ hoá và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển
3


đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”. Đại hội cũng đã xác định:
Chăm lo xây dựng đội ngũ giáo viên; xã hội hoá giáo dục, đào tạo; khuyến khích
các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; mở rộng hợp tác
quốc tế và tăng ngân sách cho hoạt động giáo dục, đào tạo (GD-ĐT). Phát triển đội
ngũ nhà giáo với cơ cấu hợp lý, có chất lượng sẽ là động lực quan trọng để đổi mới
và nâng cao chất lượng GD-ĐT, góp phần quan trọng tạo ra nguồn nhân lực có chất
lượng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển của xã hội và hội nhập
quốc tế. Đồng thời, Đại hội cũng đã chỉ ra các giải pháp cơ bản phát triển đội ngũ
giáo viên, trong đó coi giải pháp: "xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp
ứng yêu cầu về chất lượng”, là khâu then chốt, là tiền đề trong đổi mới GD-ĐT
hiện nay. Chủ trương “Phát triển đội ngũ giáo viên là khâu then chốt” trong “đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo” thể hiện tư duy và nhận thức cách
mạng, khoa học, toàn diện, triệt để và sâu sắc của Đại hội XI.
Vì những lí do trên mà bài tiểu luận này sẽ tìm hiểu, giải thích về bản chất hoạt
động dạy và biện pháp dạy học tích cực hiệu qủa cho người học. Những phẩm chất
cần có của người giáo viên qua đó sẽ tự đánh giá và đưa ra biện pháp để hình
thành, rèn luyện những phẩm chất để trở thành một người giáo viên.

4


NỘI DUNG CHÍNH
Câu 1.Bản chất hoạt động dạy học và biện pháp dạy học tích cực hiệu
qủa cho người học?
1.Khái niệm hoạt động dạy học:

Trong quá trình sống và tồn tại, con người có thể tiếp nhận kinh nghiệm
sống một cách tự nhiên nhờ quá trình giao tiếp và hoạt động với cộng đồng. Mỗi cá
nhân ngay từ bé đã tiếp nhận được những kỹ năng, kỹ xảo về ngôn ngữ, về lao
động sản xuất về cách thức chung sống giữa người với người, giữa người với tự
nhiên. Trải qua thời gian, cá nhân có sự sàng lọc những gì có lợi cho mình, giúp
mình tồn tại trong các mối quan hệ xã hội, thiết lập được những kinh nghiệm sống
bao gồm một hệ thống tri thức và kỹ năng thực hành nhờ những chỉ dẫn của người
có kinh nghiệm bằng sự bắt chước, tập dượt để đạt tới sự đúng – sai giữ lại hoặc
loại bỏ.
Học là quá trình tự giác, tích cực, tự lực chiếm lĩnh khái niệm khoa học dưới
sự điều khiển sư phạm của giáo viên, chiếm lĩnh khái niệm khoa học là mục đích
của hoạt động học. Học sinh sẽ thu nhân kiến thức từ kho tàng văn hóc xã hội của
nhân loại thành nền học vấn riêng cho bản thân.
“Dạy học là quá trình hoạt động hai mặt do thầy giáo (dạy) và học sinh (học)
nhằm thực hiện các mục đích dạy học. Nhiệm vụ dạy học trong nhà trường không
chỉ đảm bảo một trình độ học vấn nhất định mà còn góp phần hình thành nhân cách
con người của xã hội cộng sản chủ nghĩa”.(Bách khoa Giáo dục học – Maxcơva).
Quan niệm trên về quá trình dạy học đã phản ánh tính chất hai mặt của quá
trình này: quá trình dạy của giáo viên và quá trình học của học sinh. Hai quá trình
này không tách rời nhau mà là một quá trình hoạt động chung nhằm hình thành
nhân cách của con người mới, đáp ứng được yêu cầu của thời đại. Trong quá trình
họat động chung đó, người giáo viên đóng vai trò lãnh đạo, tổ chức, điều khiển
hoạt động nhận thức của học sinhđể giúp họ tự khám phá ra tri thức. Tất nhiên
người giáo viên còn có chức năng cung cấp cho người học tri thức, nhưng chỉ khi
nào thật cần thiết. Song chức năng này không phải là chức năng chính yếu của toàn
bộ quá trình dạy. Người giáo viên phải suy nghĩ để giúp học sinh sử dụng những tri
thức, những kinh nghiệm mà họ thu thập được qua các phương tiện thông tin đại
chúng, qua cuộc sống, kết hợp với tri thức giáo viên cung cấp cho để tạo nên sự
hiểu biết của bản thân mình.
5



Phối hợp với hoạt động đó của giáo viên, học sinh tự giác, tích cực, chủ
động, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức của mình nhằm nắm vững tri
thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo, phát triển năng lực nhận thức, đặc biệt là năng
lực tư duy sáng tạo, hình thành cơ sở thế giới quan khoa học và những phẩm chất
đạo đức của con người mới. Chính học sinh chứ không phải người nào khác phải
tự mình làm ra sản phẩm giáo dục. Tính chất hành động của họ có ảnh hưởng quyết
định tới chất lượng tri thức mà họ tiếp thu.
Từ đó có thể rút ra định nghĩa quá trình dạy học như sau: Quá trình dạy học
là quá trình mà dưới sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển của người giáo viên, người
học tự giác, tích cực, chủ động tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động của mình nhằm
thực hiện những nhiệm vụ dạy học.
2.Bản chất hoạt động dạy:
Bản chất của quá trình dạy học là quá trình nhận thức độc đáo của học
sinh.
* Trước tiên, ta khẳng định học là một hoạt động nhận thức. Vậy thế nào là hoạt
động nhận thức?
Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào não người – đó là sự phản
ánh tâm lý của con người bắt đầu từ cảm giác đến tư duy, tưởng tượng. Sự học tập
của học sinh cũng là quá trình như vậy. Đó là sự phản ánh đi trước, có tính chất cải
tạo mà mức độ cao nhất là sự sáng tạo. Sự phản ánh đó bị khúc xạ qua lăng kính
chủ quan của mỗi người (như qua kinh nghiệm, nhu cầu, hứng thú…), và đó là sự
phản ánh tích cực của mỗi chủ thể.
– Quá trình học tập của học sinh cũng diễn ra theo công thức của V.I.Leenin
về quá trình nhận thức: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy
trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, nhận
thức hiện thực khách quan”.
* Tuy nhiên, trong quá trình, nhận thức của học sinh còn thể hiện tính độc đáo, cụ
thể như sau:

– Quá trình nhận thức của học sinh không phải là quá trình tìm ra cái mới
cho nhân loại mà chủ yếu là sự tái tạo những tri thức của loài người đã tạo ra.
– Quá trình nhận thức của học sinh không diễn ra theo con đường mò mẫm,
thử và sai như quá trình nhận thức nói chung của loài người, mà diễn ra theo con
đường đã được khám phá, được những nhà xây dựng chương trình, nội dung dạy
học gia công sư phạm. Vì vậy, trong một thời gian nhất định, học sinh có thể lĩnh
hội khối lượng tri thức rất lớn một cách thuận lợi.
6


– Quá trình học tập của học sinh phải tiến hành theo các khâu của quá trình
dạy học
– Quá trình nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học diễn ra dưới vai
trò chủ đạo của người giáo viên cùng với những điều kiện sư phạm nhất định.
Kết luận: Như vậy bản chất của quá trình dạy học là hoạt động nhận thức độc đáo
của học sinh.
3.Biện pháp dạy học tích cực hiệu qủa cho người học:
Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều
nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của người học.
"Tích cực" trong phương pháp dạy học - tích cực được dùng với nghĩa là hoạt
động, chủ động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo
nghĩa trái với tiêu cực.
Phương pháp dạy học tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa
hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực
của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người
dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực
nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học,
nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy.

Chẳng hạn, có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng giáo
viên chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp giáo viên hăng hái áp dụng PPDH
tích cực nhưng không thành công vì học sinh chưa thích ứng, vẫn quen với lối học
tập thụ động. Vì vậy, giáo viên phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần dần
xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp
lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò,
sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công. Như
vậy, việc dùng thuật ngữ "Dạy và học tích cực" để phân biệt với "Dạy và học thụ
động".
3.1:Mối quan hệ giữa dạy và học, tích cực với dạy học lấy học sinh làm
trung tâm.
Từ thập kỉ cuối cùng của thế kỷ XX, các tài liệu giáo dục ở nước ngoài và
trong nước, một số văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo thường nói tới việc cần
thiết phải chuyển dạy học lấy giáo viên làm trung tâm sang dạy học lấy học sinh
làm trung tâm.
7


Dạy học lấy học sinh làm trung tâm còn có một số thuật ngữ tương đương
như: dạy học tập trung vào người học, dạy học căn cứ vào người học, dạy học
hướng vào người học… Các thuật ngữ này có chung một nội hàm là nhấn mạnh
hoạt động học và vai trò của học sinh trong qúa trình dạy học, khác với cách tiếp
cận truyền thống lâu nay là nhấn mạnh hoạt động dạy và vai trò của giáo viên.
Lịch sử phát triển giáo dục cho thấy, trong nhà trường một thầy dạy cho một
lớp đông học trò, cùng lứa tuổi và trình độ tương đối đồng đều thì giáo viên khó có
điều kiện chăm lo cho từng học sinh nên đã hình thành kiểu dạy "thông báo - đồng
loạt". Giáo viên quan tâm trước hết đến việc hoàn thành trách nhiệm của mình là
truyền đạt cho hết nội dung quy định trong chương trình và sách giáo khoa, cố
gắng làm cho mọi học sinh hiểu và nhớ những điều giáo viên giảng. Cách dạy này
đẻ ra cách học tập thụ động, thiên về ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ, cho nên đã hạn chế

chất lượng, hiệu quả dạy và học, không đáp ứng yêu cầu phát triển năng động của
xã hội hiện đại. Để khắc phục tình trạng này, các nhà sư phạm kêu gọi phải phát
huy tính tích cực chủ động của học sinh, thực hiện "dạy học phân hóa" * quan tâm
đến nhu cầu, khả năng của mỗi cá nhân học sinh trong tập thể lớp. Phương pháp
dạy học tích cực, dạy học lấy học sinh làm trung tâm ra đời từ bối cảnh đó.
Trên thực tế, trong qúa trình dạy học người học vừa là đối tượng của hoạt
động dạy, lại vừa là chủ thể của hoạt động học. Thông qua hoạt động học, dưới sự
chỉ đạo của thầy, người học phải tích cực chủ động cải biến chính mình về kiến
thức, kĩ năng, thái độ, hoàn thiện nhân cách, không ai làm thay cho mình được. Vì
vậy, nếu người học không tự giác chủ động, không chịu học, không có phương
pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy sẽ rất hạn chế.
Như vậy, khi đã coi trọng vị trí hoạt động và vai trò của người học thì đương
nhiên phải phát huy tính tích cực chủ động của người học. Tuy nhiên, dạy học lấy
học sinh làm trung tâm không phải là một phương pháp dạy học cụ thể. Đó là một
tư tưởng, quan điểm giáo dục, một cách tiếp cận quá trình dạy học chi phối tất cả
qúa trình dạy học về mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức, đánh
giá… chứ không phải chỉ liên quan đến phương pháp dạy và học.
3.2Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực.
a. Dạy và học không qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
Trong phương pháp dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt động
"dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt động
học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều
mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên
sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp
quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của
mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp "làm ra"
8


kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn mâu sẵn có, được bộc lộ và

phát huy tiềm năng sáng tạo.
Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn
hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học sinh biết hành
động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng.
b. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh
không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy
học.
Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin, khoa
học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão - thì không thể nhồi nhét vào đầu óc
học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho học sinh
phương pháp học ngay từ bậc Tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải
được chú trọng.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện
cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho
họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ
được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học
trong qúa trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự
học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ
tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo
viên.
c. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể đồng
đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân
hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được
thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập.
áp dụng phương pháp tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này càng
lớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp
ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học
sinh.

Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được
hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp
thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường
chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến
mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên
một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của
người thầy giáo.
Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ,
lớp hoặc trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác trong
9


nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc
phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuát hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa
các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ
không thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ,
uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Mô hình hợp tác
trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho các thành viên quen dần với
sự phân công hợp tác trong lao động xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia,
liên quốc gia; năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà nhà
trường phải chuẩn bị cho học sinh.
d. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định
thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện
nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp
tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự
điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi
để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt

động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường
phải trang bị cho học sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con người
năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá không
thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà phải
khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống
thực tế.
Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là
một công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời hơn
để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò
đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ
chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực
chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ
theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính, giáo viên có
vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án, giáo viên đã phải đầu tư công
sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện bài
lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các
hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của học sinh. Giáo viên phải có trình
độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng
dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo
viên.
10


Có thể so sánh đặc trưng của dạy học cổ truyền và dạy học mới như sau:
Dạy học cổ truyền
Các mô hình dạy học mới
Quan niệm Học là qúa trình tiếp thu và lĩnh Học là qúa trình kiến tạo; học
hội, qua đó hình thành kiến thức, sinh tìm tòi, khám phá, phát

kĩ năng, tư tưởng, tình cảm.
hiện, luyện tập, khai thác và xử
lý thông tin,… tự hình thành
hiểu biết, năng lực và phẩm chất.
Bản chất
Truyền thụ tri thức, truyền thụ Tổ chức hoạt động nhận thức
và chứng minh chân lí của giáo cho học sinh. Dạy học sinh cách
viên.
tìm ra chân lí.
Mục tiêu
Chú trọng cung cấp tri thức, kĩ Chú trọng hình thành các năng
năng, kĩ xảo. Học để đối phó
lực (sáng tạo, hợp tác,…)
với thi cử. Sau khi thi xong
dạy phương pháp và kĩ thuật lao
những điều đã học thường bị bỏ động khoa học, dạy cách
quên hoặc ít dùng đến.
học. Học để đáp ứng những yêu
cầu của cuộc sống hiện tại và
tương lai. Những điều đã học cần
thiết, bổ ích cho bản thân học
sinh và cho sự phát triển xã hội.
Nội dung
Từ sách giáo khoa + giáo viên Từ nhiều nguồn khác nhau:
SGK, GV, các tài liệu khoa học
phù hợp, thí nghiệm, bảng tàng,
thực tế…: gắn với:
- Vốn hiểu biết, kinh nghiệm và
nhu cầu của HS.
- Tình huống thực tế, bối cảnh và

môi trường địa phương.
- Những vấn đề học sinh quan
tâm.
Phương pháp

Hình thức tổ
chức

Các phương pháp diễn giảng, Các phương pháp tìm tòi, điều
truyền thụ kiến thức một chiều tra, giải quyết vấn đề; dạy
học tương tác.
Cố định: Giới hạn trong 4 bức Cơ động, linh hoạt: Học ở lớp, ở
tường của lớp học, giáo viên đối phòng thí nghiệm, ở hiện trường,
diện với cả lớp.
trong thực tế…, học cá nhân, học
đôi bạn, học theo cả nhóm, cả
lớp đối diện với giáo viên.
11


3.3:Một số phương pháp dạy học tích cực cần phát triển ở trường Trung học
phổ thông
a. Phương pháp vấn đáp
Vấn đáp ( đàm thoại ) là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh
trả lời, hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên; qua đó học
sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức,
người ta phân biệt các loại phương pháp vấn đáp:
- Vấn đáp tái hiện: giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã
biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Vấn đáp tái hiện không được
xem là phương pháp có giá trị sư phạm. Đó là biện pháp được dùng khi cần đặt

mối liên hệ giữa các kiến thức vừa mới học.
- Vấn đáp giải thích – minh hoạ : Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài nào đó,
giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để học
sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ của
các phương tiện nghe – nhìn.
- Vấn đáp tìm tòi (đàm thoại Ơxrixtic): giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi được
sắp xếp hợp lý để hướng học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật,
tính quy luật của hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết.
Giáo viên tổ chức sự trao đổi ý kiến – kể cả tranh luận – giữa thầy với cả lớp, có
khi giữa trò với trò, nhằm giải quyết một vấn đề xác định. Trong vấn đáp tìm
tòi, giáo viên giống như người tổ chức sự tìm tòi, còn học sinh giống như người
tự lực phát hiện kiến thức mới. Vì vậy, khi kết thúc cuộc đàm thoại, học sinh có
được niềm vui của sự khám phá trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy.
b. Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề.
Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt
thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một
năng lực đảm bảo sự thành công trong cuộc sống, đặc biệt trong kinh doanh. Vì
vậy, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp
phải trong học tập, trong cuộc sống của cá nhân, gia đình và cộng đồng không chỉ
có ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà phải được đặt như một mục tiêu giáo
dục và đào tạo.
c. Phương pháp hoạt động nhóm
Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tuỳ mục đích, yêu cầu
của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được
duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng một
nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.
Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi người
một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không
thể ỷ lại vào một vài người hiểu bết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm
12



giúp đỡ nhau tìm hiêu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác.
Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp.
Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại
diện hoặc phân công mỗi thành viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ giao cho
nhóm là khá phức tạp.
d. Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành một số cách ứng xử
nào đó trong một tình huống giả định.
Phương pháp đóng vai có những ưu điểm sau :
- Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ
trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.
- Gây hứng thú và chú ý cho học sinh
- Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh
- Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành vi đạo
đức và chính trị – xã hội
- Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai
diễn.
e. Phương pháp động não
Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được
nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó.
Thực hiện phương pháp này, giáo viên cần đưa ra một hệ thống các thông tin làm
tiền đề cho buổi thảo luận.

Câu 2.Những phẩm chất cần có của người giáo viên, hãy tự đánh giá và
nêu những biện pháp để hình thành, rèn luyện những phẩm chất đó cho bản
thân.
1:Khái niệm phẩm chất
13



Nhân cách hay phẩm chất là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng mối
quan hệ giữa con người với con người từ những chuyện bình thường, mối quan hệ
gia đình, kết giao đến mối quan hệ xã hội, công tác, kinh doanh. Nhân cách thể
hiện qua cách ứng xử của con người đối với người khác cũng như đối với sự việc
trong cuộc sống, đồng thời nhân cách thể hiện trình độ văn hóa, nhân tính và
nguyên tắc sống của con người. Con người là một thực thể xã hội, vì vậy chất
lượng mối quan hệ xã hội có ảnh hưởng quyết định đối với chất lượng cuộc sống.
Nhân cách được định hình bởi hệ thống những phẩm giá thể hiện qua các mối quan
hệ của con người xuất phát từ tâm lý, tình cảm, nhân sinh quan, nhận thức về bản
thân và xã hội. Nhân cách là đặc trưng của từng cá nhân, là bản chất thực của con
người. Phía trước mọi người, trong cuộc đời, luôn có nhiều con đường. Người
thiếu nhân cách sẽ mất phương hướng khi chọn con đường chính đáng cho mình.
Những khiếm khuyết về nhân cách của con người có thể che giấu nhất thời đối với
một số người nào đó, nhưng không thể che giấu suốt đời. Quan chức có thể che
giấu những khiếm khuyết nhân cách của mình đối với cấp trên quan liêu, thích xu
nịnh, nhưng không dễ gì che giấu đối với quần chúng.
Không thể nhìn bề ngoài để đánh giá nhân cách con người. Nhân cách là phẩm chất
bên trong, vô hình, nhưng được thể hiện qua tính chính trực và các kỹ năng sống
của con người. Người có nhân cách tốt dễ thu nhận được cảm tình, lòng tin, sự tôn
trọng và hợp tác của người khác, vì vậy họ có nhiều bạn đồng hành tốt trong cuộc
đời. Ngược lại, người thiếu nhân cách là con người thiếu những kỹ năng sống thiết
yếu, dẽ gặp thất bại.

2:Những phẩm chất cần có của người giáo viên
• Vai trò nhiệm vụ của người giáo viên:
Trong mọi giai đoạn lịch sử, người giáo viên (hay người thầy) bao giờ cũng
được xã hội tôn vinh và kính trọng. Nghề giáo được coi là một trong những nghề
cao quý nhất trong những nghề cao quý. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Nhiệm vụ

thầy giáo rất vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục…Không có
giáo dục thì nói gì đến kinh tế, văn hóa. Bác xem việc dạy học là một nghề đào
14


luyện những thế hệ con người xây dựng xã hội. Tuy sự cống hiến của thầy giáo là
rất thầm lặng nhưng nếu trở thành một người thầy giáo tốt là điều vô cùng hữu ích
và rất mực vẻ vang. Vì thế, Người dạy: Người thầy giáo tốt là người vẻ vang nhất.
Dù tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những
người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh.
Nhiệm vụ của người thầy giáo không chỉ là sự truyền bá tri thức, phương
pháp, tay nghề cho người học mà thầy giáo cũng như học trò, tất cả đều phải tham
gia vào các công việc xã hội một cách thật tích cực. Nhà trường phải gắn liền với
thực tiễn xã hội, gắn liền với đời sống của nhân dân. Đồng thời, Bác Hồ còn chỉ ra
bản chất ưu việt của nền giáo dục trong xã hội mới là hoàn toàn khác với giáo dục
trong xã hội cũ: Động cơ của người làm nghề thầy giáo không phải là mục đích
kinh tế thuần túy mà là động cơ giáo dục gắn liền với mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể
theo nhu cầu của xã hội, phải đáp ứng được lợi ích của nhân dân, vì sự mưu cầu
hạnh phúc cho con người.
Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ, người làm thầy giáo phải luôn là tấm
gương không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; phải
thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức để làm tấm gương sáng cho học trò noi
theo, để đáp ứng yêu cầu của thời đại mới trên mọi phương diện.
Người thầy giáo phải luôn gương mẫu trong học tập, trau dồi trình độ
chuyên môn, tri thức khoa học, phải là tấm gương tự học với quan niệm “Sự học
không bao giờ cùng” để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời đại trong quá
trình xây dựng và phát triển đất nước trước tình hình mới. Đặc biệt là trong bối
cảnh khoa học-công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay thì tấm gương tự học của
người thầy càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Người thầy giáo luôn tự rèn
luyện và trở thành tấm gương sáng về đạo đức cách mạng cho người học nói riêng

và mọi người nói chung noi theo. Hình ảnh người thầy giáo luôn được xã hội xem
là biểu tượng của văn hóa, là đại diện cho văn minh thời đại.
• Những phẩm chất cần có của người giáo viên:
Trong Điều lệ trường Trung học, điều 29 chương IV nêu rõ vai trò trách
nhiệm của người giáo viên: "Giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo,
gương mẫu trước học sinh, thương yêu, tôn trọng học sinh, đối xử công bằng với
học sinh". Như vậy vai trò của giáo viên rất quan trọng trong việc giáo dục học
sinh và giữ gìn phẩm chất đạo đức của mình.
Chúng ta đều biết rằng, tuổi học trò luôn có tâm hồn trong sáng, ngây thơ, các em
là những mầm non, tương lai của đất nước. Giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ là một
chiến lược quan trọng của quốc gia “Vì lợi ích trăm năm trồng người”. Đó thật sự
là một việc làm vừa hợp ý Đảng và Nhà nước lại vừa hợp lòng dân, mà trọng trách
15


lớn được đặt trên vai những nhà giáo. Vì vậy, thầy cô giáo chính là tấm gương để
học sinh soi vào. Khi tấm gương ấy thực trong sáng, thì những tiêu cực sẽ hạn chế
và sớm bị loại trừ. Để nâng cao phẩm chất nhà giáo theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh, mỗi một thầy cô giáo phải hiểu, thấm nhuần tư tưởng và đạo đức của
Bác Hồ về giáo dục; mỗi người phải không ngừng rèn luyện để hoàn thiện lối sống,
nhân cách của mình; sống có tấm lòng nhân ái, làm việc có trách nhiệm với chính
mình và xã hội. Bác Hồ kính yêu đã từng dạy: “Có tài mà không có đức là người
vô dụng. Có đức mà không có có tài thì làm việc gì cũng khó”. Vì thế mỗi người
nói chung và mỗi nhà giáo nói riêng cần phải tu dưỡng và rèn luyện để có đủ tài
lẫn đức để phục vụ tốt sự nghiệp giáo dục và đào tạo của đất nước.
Về cái “Tâm” đối với nghề giáo là một yêu cầu quan trọng không thể thiếu
được. Người thầy phải có tâm huyết với nghề mới có hứng thú, say mê chăm chút
từng bài giảng, từng nội dung tiết giảng; mới thường xuyên tìm tòi, nghiên cứu,
chỉnh lý, bổ sung nội dung và phương pháp giảng dạy để đem lại hiệu quả cao nhất
cho người học. L.N.Tônxtôi đã nói: Để đạt được thành tích trong công tác, người

thầy giáo phải có một phẩm chất - đó là tình yêu. Người thầy giáo có tình yêu trong
công việc là đủ cho họ trở thành người giáo viên tốt.
Cái “Tâm” người thầy giáo tốt không phải chỉ lòng yêu ngành, yêu nghề mà
phải được biểu hiện thành những hành động cụ thể:
Thứ nhất, phải biết hiến thân cho nghề dạy học, biết hi sinh vì lợi ích tương
lai, vì học sinh thân yêu.
Thứ hai, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm với nghề nghiệp. Phải cảm thấy
sung sướng, hạnh phúc khi được đứng lớp. Không có thái độ miễn cưỡng khi được
phân công lên lớp.
Thứ ba, luôn tìm tòi, học hỏi, sáng tạo để đem lại chất lượng cao nhất khi
giảng dạy, thầy giáo không bị giới hạn không gian (lớp học) và thời gian (08 giờ
vàng ngọc), không phải bước ra khỏi lớp học là chấm dứt hoạt động sư phạm mà
vẫn tiếp tục suy nghĩ về nội dung, phương pháp giảng, về thái độ tiếp nhận bài học
của sinh viên để tự đổi mới.
Thứ tư, nhiệt tình trong xây dựng đơn vị, chân thành trong giúp đỡ đồng
nghiệp.
Về cái “Tài” của người thầy, “Tài” ở đây thể hiện tài năng về trí tuệ và tài
năng nghiệp vụ sư phạm. Tài năng sẽ giúp cho người dạy nắm vững và nhuần
nhuyễn nội dung hệ thống các kiến thức cơ bản của môn học, khả năng phát hiện
vấn đề bổ sung vào nội dung bài giảng; tài năng nghiệp vụ sư phạm thể hiện ở việc
áp dụng các phương pháp giảng dạy, khả năng trình bày và khả năng xử lý các tình
huống sư phạm trong quá trình giảng dạy. Kết hợp được giữa nội dung và phương
16


pháp sẽ làm cho bài giảng thêm phong phú, sinh động, hấp dẫn và có hiệu quả cao,
làm cho người học hứng thú, say mê, tránh nhàm chán, từ đó chủ động, tích cực
nghiên cứu, tìm hiểu trong học tập. Để thỏa mãn các điều đó, người thầy phải hội
tụ đủ các năng lực sau đây:
Một là, có năng lực về tri thức và tầm hiểu biết.

Đây là năng lực trụ cột của năng lực sư phạm, là điều kiện để giảng dạy, “biết
mười dạy một”. Ngày nay, người học không nhất nhất cái gì cũng tuân thủ, phục
tùng thầy vô điều kiện. Họ được tiếp cận rất nhiều thông tin, hiểu biết rất nhiều, là
thầy, phải chinh phục trò bằng kiến thức sâu rộng của mình, điều đó còn có tác
dụng tạo uy tín cho người thầy.
Hai là, có năng lực chế biến tài liệu học tập từ chương trình khung
Thầy giáo phải gia công về mặt sư phạm đối với tài liệu học tập cho phù hợp với
đặc điểm từng lớp học, đối tượng, chuyên ngành đào tạo. Thực trạng cho thấy, vẫn
còn nhiều giáo án trong tình trạng “chết”, không được bổ sung cập nhật, giáo án sử
dụng chung cho tất cả các hệ học. Cho nên, người thầy giỏi là người thầy hiểu học
sinh, đặt mình vào vị trí người học để chế biến, trình bày tài liệu đúng với đối
tượng. Người thầy có khả năng phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa được kiến thức,
thấy được cái gì là cơ bản nhất và mối quan hệ với cái thứ yếu. Ngoài ra, người
thầy phải có sự sáng tạo trong cung cấp kiến thức cho người học, bên cạnh kiến
thức tinh tế và chính xác, đòi hỏi phải liên hệ được nhiều mặt giữa kiến thức cũ và
mới, kiến thức bộ môn này với bộ môn khác, liên hệ thực tiễn gắn với từng chuyên
ngành đào tạo.
Ba là, có năng lực dạy học tốt
Người thầy tốt không chỉ truyền kiến thức cho người học mà có nhiệm vụ tổ chức
và điều khiển hoạt động của họ, hướng họ đi tìm kiếm và lĩnh hội tri thức.
Disterwey - một nhà sư phạm người Đức đã nhấn mạnh: “Người thầy giáo tồi là
người mang chân lý đến sẵn, còn người thầy giáo giỏi là người biết dạy học sinh đi
tìm chân lý”. Chính vì vậy người thầy phải: Nắm vững và sử dụng hợp lý các
phương pháp dạy học tiên tiến; rèn luyện năng lực ngôn ngữ truyền đạt kiến thức
rõ ràng, dễ hiểu, vừa sức.
Ngoài ra, người thầy còn phải có cái “Đức”, “Đức” là yêu cầu không thể thiếu đối
với mỗi giáo viên. Có “Tâm”, có “Tài” cũng chưa là người thầy tốt. Bác Hồ đã
từng nói: “Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có
đức là người vô dụng”. Càng quan trọng đối với lĩnh vực giáo dục, để tạo ra nhân
cách người học thì trước hết người thầy phải biết thuyết phục học sinh bằng chính

nhân cách của mình...
Muốn xây dựng được nhân cách cho người học, người thầy trước hết phải có
“Đức” thể hiện ở thái độ, tác phong chuẩn mực khi thực hiện giảng dạy và trong lối
sống, trở thành tấm gương, vừa là người thầy, vừa là người cán bộ ưu tú, chuẩn
17


mực cho người học noi theo. Phải làm sao để mỗi người thầy không những là nhà
sư phạm mà còn là nhà mô phạm.
Cái “Đức” của người thầy thể hiện ở sự hi sinh vô tư “tất cả vì học sinh thân yêu”,
giúp đỡ người học một cách chân thành, không vì vụ lợi, không phân biệt đối xử,
giúp đỡ trong hỗ trợ kiến thức phải đến nơi đến chốn; giúp đỡ không có nghĩa là
cho điểm cao, dễ dãi đối với người học trong học tập. Cái “Đức” ấy còn được biểu
hiện ở sự kiên quyết đấu tranh chống những cái xấu, cái sai trong xã hội, trong
chính bản thân mình và trong đồng sự. Bác Hồ dạy: Thầy giáo và học sinh phải
thật thà. Sống thật, nói thật, làm thật để cống hiến thật sự, để lời nói đi đôi với việc
làm, làm có ích cho Tổ quốc, cho nhân dân và cho xã hội, cho chính bản thân
mình.
Ngoài hững phẩm chất trên, người giáo viên còn cần có:
Thế giới quan khoa học: người giáo viên là người giác ngộ chế độ xã hội chủ
nghĩa gắn liền với tư tưởng nghề nghiệp trong sáng, luôn say xưa học tập không
ngừng nâng cao kiến thức, trình độ cách mạng, có năng lực tổ chức, thực hiện
thành công quá trình dạy học và giáo dục.
Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ: của người thầy giáo biểu hiện ra ngoài bằng
niềm say mê nghề nghiệp, lòng yêu trẻ, lương tâm nghề nghiệp, tận tụy hi sinh
với công việc, tác phong làm việc cần cù, trách nhiệm, lối sống giản dị và thân
tình...Những cái đó sẽ tạo nên sức mạnh giúp thầy vượt qua mọi khó khăn về
tinh thần và vật chất, hoàn thành nhiệm vụ đào tạo thế hệ trẻ xây dựng và bảo vệ
tổ quốc Việt Nam. Những cái đó cũng sẽ để lại dấu ấn đậm nét trong tâm trí học
sinh, nó có tác dụng hướng dẫn, điều khiển quá trình hình thành và phát triển

nhân cách của trẻ.
Tình yêu với con người: nghề giáo viên là nghề mà ngày ngày chúng ta phải
tiếp xúc với lớp lớp học sinh, mỗi giáo viên phải có được tình yêu thương con
người, yêu thương các em học sinh như chính gia đình của mình, bao dung và vị
tha đối với những bạn hư, ương bướng. Phải như thế người gáo viên mới có thể
đào tạo được một thế hệ học sinh, là mầm non tương lai.
Lòng yêu nghề: Phải có lòng yêu nghề mới có động lực thật sự để nâng cao
chuyên môn. Có người có năng lực, chuyên môn cao nhưng không yêu nghề cũng
không dạy tốt. Có yêu nghề mới luôn luôn có khát vọng tìm kiếm biện pháp cải
tiến giảng dạy.Không có lòng yêu nghề thì không có thầy giỏi, thầy tốt. Không có
thầy tốt, thầy giỏi thì không có học trò giỏi, học trò tốt. Bản thân người thầy tốt,
tận tâm với nghề là tấm gương để học trò học tập, phấn đấu noi theo.

18


3: Tự đánh giá và nêu những biện pháp để hình thành, rèn luyện những phẩm
chất đó cho bản thân
Là một sinh viên sư phạm sắp đi được nửa chặng đường học tập của mình
ở trường Đại học Giáo Dục- Đại học Quốc Gia Hà Nội, từ bây giờ bản thân phải
xác định mục tiêu của mình sau này để xứng đáng trở thành một giáo viên mẫu
mực, là người đưa đò cho học sinh, chắp cánh ước mơ cho các em. Luôn học hỏi
kinh nghiệm của các thầy cô giáo lớp trước để tiếp thêm kiến thức, phương pháp
giảng dạy phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Theo tôi, để trở thành một người giáo viên tốt thì ngay từ bây giờ khi đang
ngồi trên nghế nhà trường ta cần phải rèn luyện bản thân, cố gắng phấn đấu học
tập để trau dồi kiến thức, rèn luyện tu dưỡng đạo đức. Luôn chấp hành tốt các nội
quy của trường của lớp và của bất kì đoàn thể nào mình tham gia.
Tích cực tham gia hoạt động của trường, lớp.
Ngay từ bây giờ rèn cho mình thói quen sống lành mạnh, có kỉ cương giờ

giấc, sống chan hòa, thân ái, yêu thương mọi người.
Hình thành cho bản thân một lí tưởng đào tạo thế hệ trẻ, niềm say mê nghề
nghiệp, lòng yêu trẻ, lương tâm nghề nghiệp, tận tụy hi sinh với công việc, tác
phong làm việc cần cù, trách nhiệm, lối sống giản dị và thân tình.
Có ý thức giác ngộ chế độ xã hội chủ nghĩa gắn liền với tư tưởng nghề
nghiệp trong sáng, luôn say xưa học tập không ngừng nâng cao kiến thức, trình độ
cách mạng, năng lực tổ chức, thực hiện thành công quá trình dạy học và giáo dục.
Yêu nghề giáo viên-là một cô giáo tương lai, em luôn cố gắng hình thành
cho mình òng yêu nghề, phải yêu thì ta mới có thể chấp nhận mọi khó khan, vượt
qua thử thách, chông gai đặt ra phía trước.
Luôn cố gắng hoàn thành, nhiệt tình trong mọi công việc được
giao, thân thiện, giúp đỡ mọi người xung quanh.

19


Tài liệu tham khảo:
* Giáo trình: Tâm lí học đại cương: Đinh Thị Kim Thoa, Trần Văn
Tính, Đặng Hoàng Minh- NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
* Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học Sư phạm: Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan,
Nguyễn Văn Thàng, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (2001).
*Giáo trình: Tâm lí học phát triển: Đinh Thị Kim Thoa, Nguyễn Thị
Mỹ Lộc, Trần Văn Tính- NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
* Từ điển Bách khoa Việt Nam (2001)- NXB Khoa học xã hội, Trung tâm từ
điển tiếng Việt, Hà Nội.
* Báo dân trí

20




×