Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Quan niệm của j locke về quyền sở hữu trong tác phẩm khảo luận thứ hai về chính quyền và ý nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.41 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
--------

ĐẶNG THỊ LOAN

QUAN NIỆM CỦA J. LOCKE VỀ QUYỀN SỞ HỮU
TRONG “KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN”
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thị Hạnh

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Em xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, phòng Sau đại học và các phòng
ban khác của trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện cho em được
học tập, nghiên cứu tại trường. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Triết
học đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn em trong suốt thời gian qua.
Em xin chân thành cám ơn Ban giám hiệu, các phòng ban trường Cao đẳng
Công nghệ và Kinh tế Hà Nội đã tạo điều kiện cho e m công tác và học tập nâng
cao kiến thức chuyên môn.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến T.S Hoàng
Thị Hạnh, người đã tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực
hiện và hoàn thành Luận văn Thạc sĩ Triết học của mình.


Xin gửi lời cảm ơn tới bạn bè, đồng nghiệp, đã hết lòng quan tâm giúp đỡ
và động viên tác giả luận văn trong quá trình học tập, nghiên cứu. Cảm ơn gia
đình đã luôn là điểm tựa vững chắc cả về mặt vật chất và tinh thần để em có thể
học tập, công tác và hoàn thành Luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 06 năm 2017
Tác giả

Đặng Thị Loan


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của T.S Hoàng Thị Hạnh, có kế thừa một số kết quả nghiên cứu liên
quan đã được công bố. Các số liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo
tính khách quan và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận văn của
mình.
Hà Nội, tháng 06 năm 2017
Tác giả

Đặng Thị Loan

[Type text]

Page 2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu ............................................................................................ 3
3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 8
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu .................................................................. 8
5. Giả thuyết khoa học........................................................................................... 8
6. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................ 9
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 9
8. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 9
9. Kết cấu của luận văn ......................................................................................... 9
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn................................ 9
NỘI DUNG......................................................................................................... 11
CHƢƠNG 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM
CỦA J. LOCKE VỀ QUYỀN SỞ HỮU VÀ KHÁI QUÁT “KHẢO LUẬN
THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN” ..................................................................... 11
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội hình thành quan niệm của J. Loke về quyền sở
hữu ....................................................................................................................... 11
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội các nước Tây Âu thế kỷ XVII ........................... 11
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội nước Anh thế kỷ XVII....................................... 12
1.2. Tiền đề lý luận hình thành quan niệm của J. Loke về quyền sở hữu ........... 16
1.3. Khái quát “Khảo luận thứ hai về chính quyền” ........................................... 20
1.3.1. Thân thế và sự nghiệp của J.Locke ........................................................... 20
1.3.2. Khái quát “Khảo luận thứ hai về chính quyền” ....................................... 22
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................... 32
CHƢƠNG 2: QUAN NIỆM CỦA J. LOKE VỀ QUYỀN SỞ HỮU
TRONG “KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN” VÀ Ý NGHĨA
CỦA NÓ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................... 33
2.1. Quan niệm của J. Loke về quyền sở hữu ........................................................ 33
2.1.1. Quan niệm của J. Loke về nguồn gốc, bản chất quyền sở hữu ...................... 33
[Type text]


Page 3


2.1.2. Quan niệm của J.Loke về cách thức đảm bảo quyền tư hữu trong xã hội
dân sự .................................................................................................................. 48
2.1.3. Giá trị và hạn chế trong quan niệm của J.Locke về quyền sở hữu ........... 60
2.2. Ý nghĩa quan niệm của J. Locke về quyền sở hữu đối với Việt Nam hiện
nay ....................................................................................................................... 67
2.2.1. Ý nghĩa lý luận........................................................................................... 67
2.2.2. Ý nghĩa thực tiễn ....................................................................................... 78
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................... 87
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 91

[Type text]

Page 4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, vấn đề quyền con người luôn được
Đảng Cộng Sản và Nhà nước Việt Nam đặt lên hàng đầu. Trong các văn kiện Đại
hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, đặc biệt là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII
khẳng định rõ mục tiêu nhất quán là: Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân theo tinh thần của Hiến Pháp năm 2013, gắn quyền với
trách nhiệm và nghĩa vụ. Nhà nước có cơ chế, chính sách bảo vệ và bảo đảm thực
hiện tốt quyền con người, quyền công dân, chăm lo cho con người, tôn trọng và bảo
vệ quyền con người, quyền tự do của công dân và xây dựng Nhà nước Việt Nam
thành nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.

Trong bối cảnh chính trị quốc tế đang có nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt
hiện nay một số lực lượng chính trị bá quyền đang lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân
quyền như một ngọn cờ tập hợp lực lượng với luận điệu “nhân quyền cao hơn chủ
quyền” để can thiệp vào công việc nội bộ các nước khác. Nhân quyền trở thành
một vấn đề nhạy cảm và phức tạp trong quan hệ quốc tế, để có thái độ ứng xử đúng
đắn, chủ động, giữ vững chủ quyền đất nước, ổn định chính trị, phát triển kinh tế
thì việc nắm vững lý luận về quyền con người là một yêu cầu cấp bách.
Mầm mống tư tưởng quyền con người đã xuất hiện từ thời cổ đại, nhưng
tư tưởng về “quyền con người” thực sự xuất hiện ở thời cận đại, trong quan
niệm của nhiều triết gia, trong số đó, có thể nhắc tới John Locke, ông là một triết
gia lớn người Anh, một nhà trí thức đa tài và được xem là một trong những cội
nguồn tri thức của phong trào Khai Sáng. Ông đã để lại nhiều tác phẩm có ý
nghĩa cả về triết học, chính trị học lẫn kinh tế học, trong đó có “Khảo luận thứ
hai về chính quyền”. Trong tác phẩm này, J. Locke đã đề cập đến các quyền con
người như: quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền sở hữu, ông cho
rằng quyền sở hữu của con người là quan trọng nhất.
1


Sở hữu là vấn đề của mọi quốc gia, mọi dân tộc nên thu hút sự quan tâm
của nhiều nhà tư tưởng, trong đó có các nhà Mácxit. C. Mác đã đánh giá tầm
quan trọng của quyền sở hữu khi ông viết: “Quyền sở hữu là điều kiện sinh sống
cơ bản của con người” [30,765]. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
(1948) tại điều 17 ghi rõ: Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản của riêng mình
hoặc tài sản sở hữu chung với người khác, không ai bị tước đoạt tài sản một
cách tùy tiện.
Ở Việt Nam tại điều 58 Hiến pháp năm 1992 thừa nhận quyền sở hữu của
mọi công dân: “công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để
dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh
nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”. “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu

hợp pháp và quyền thừa kế hợp pháp của công dân” [19,98]. Nước ta trong một
thời gian dài trước đổi mới tiến hành công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu nhằm
nhanh chóng xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản song chế
độ công hữu chưa phát huy được tác dụng. Vì vậy, Đảng và Nhà nước Việt Nam
đã quyết định đổi mới toàn diện đất nước, đổi mới tư duy lý luận mà trước hết là
tư duy kinh tế trong đó quan trọng là đổi mới về sở hữu. Từ chỗ chỉ thừa nhận
chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu đến thừa nhận chế độ tư hữu, thừa
nhận sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Hiện nay,
cả nước đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
thì vấn đề sở hữu càng trở nên nóng bỏng và càng có ý nghĩa quan trọng, bởi lẽ
lịch sử đã chứng minh chỉ có giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu chúng ta mới
thoát khỏi khủng hoảng, đưa nền kinh tế phát triển.
Như vậy, lý luận về quyền con người trong đó có quyền sở hữu là giá trị
mang tính phổ biến toàn nhân loại mà quan niệm của J. Locke là một trong
những cội nguồn tư tưởng của lý luận đó.

2


Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài: “Quan niệm của J. Locke về
quyền sở hữu trong “Khảo luận thứ hai về chính quyền” và ý nghĩa của nó ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Triết học của J. Locke từ lâu đã có sức lôi cuốn, thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu trong nước và nước ngoài, điều đó được thể hiện qua các
sách chuyên khảo, luận văn, các bài viết trên các tạp chí…
Ở Việt Nam cuốn Khảo luận thứ hai về chính quyền của J. Locke do dịch
giả Lê Tuấn Huy dịch sang tiếng Việt được nhà xuất bản Tri thức xuất bản năm
2007 đã dành được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Để đáp ứng nhu cầu

của đông đảo độc giả năm 2013 nhà xuất bản Tri thức đã cho tái bản lần thứ hai
cuốn sách Khảo luận thứ hai về chính quyền, điều đó chứng tỏ sức hút to lớn của
cuốn sách này. Liên quan đến hướng nghiên cứu của đề tài có thể chia thành các
nhóm nghiên cứu như sau:
*Nhóm thứ nhất: nghiên cứu triết học J.Locke nói chung:
Các công trình nước ngoài nghiên cứu triết học J. Locke được dịch sang
tiếng Việt:
Tác phẩm 100 cuốn sách ảnh hưởng khắp thế giới do Đăng Thục Sinh
chủ biên, được dịch bởi Tùng Giang do Nhà xuất bản Hội nhà văn xuất bản năm
2002. Tác phẩm này là kết quả tuyển chọn dựa theo tiêu chí của cuộc bình chọn
“Những kiệt tác thế giới được dịch ra chữ Hán” do Bộ văn hóa Trung Quốc tổ
chức năm 1980 – 1981. Trong đó từ cuốn sách số 1 đến số 24 phản ánh những
diễn biến tư tưởng của nhân loại về quy chế chính trị, tổ chức nhà nước suốt
2000 năm lịch sử từ Đông sang Tây. Tác phẩm đã trình bày khái quát những nội
dung chủ yếu trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền của J. Locke và
cũng đã khẳng định giá trị to lớn của quyền con người trong tiến trình phát triển
của nhân loại.

3


Cuốn sách 106 nhà thông thái của P.S. Taranop, do dịch giả Đỗ Minh
Hợp dịch, xuất bản năm 2000, trong đó trình bày khái quát về cuộc đời, sự
nghiệp và tư tưởng triết học chính trị cơ bản của J. Locke.
Công trình Lịch sử triết học và các luận đề của Samuel Enoch Stumpt,
dịch giả Đỗ Văn Thuấn, Lưu Văn Hy, nhà xuất bản Lao Động, năm 2004. Trong
đó giới thiệu khái quát về cuộc đời, các tác phẩm tiêu biểu, các quan niệm triết
học cơ bản: về nhận thức luận, đạo đức, chính trị của J. Locke.
Các công trình trong nước nghiên cứu triết học J. Locke:
Lịch sử triết học (2004) do Nguyễn Hữu Vui chủ biên, trong đó đã trình

bày các quan niệm triết học của J. Locke nhưng chủ yếu tập trung phương diện
nhận thức luận.
Tác giả Lưu Kiểm Thanh và Phạm Hồng Thái với Lịch sử các học thuyết
chính trị (2006); Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh với Lịch sử tư tưởng
chính trị (2001); Nguyễn Tiến Dũng với Lịch sử triết học phương Tây (2006);
Trần Văn Phòng và Dương Minh Đức với Lịch sử triết học phương Tây trước
Mác (2003)…Nhìn chung các công trình trên chủ yếu bàn về quan niệm chính
trị, xã hội của J.Locke như một phần không thể thiếu trong tư tưởng chính trị, xã
hội cận đại ở phương Tây.
*Nhóm thứ hai: nghiên cứu trực tiếp quan niệm của J. Locke trong tác
phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền:
Một số tư tưởng triết học chính trị của John Locke: Thực chất và ý nghĩa
lịch sử của Đinh Ngọc Thạch, Tạp chí Triết học (số 1), năm 2007. Trong bài viết
này, tác giả đã chỉ ra và luận giải thực chất và ý nghĩa lịch sử trong một số tư tưởng
triết học chính trị của J. Locke trên cơ sở so sánh quan điểm của J. Locke với quan
điểm của các nhà triết học trước và sau ông. Đó là những tư tưởng về nhà nước
pháp quyền, về quyền con người, về mối quan hệ giữa quyền và luật pháp.
John Locke – nhà tư tưởng lớn của phong trào Khai sáng của Phạm Văn
Đức, Tạp chí Triết học (số 2), năm 2008. Trong bài viết này, tác giả đã trình bày
4


hệ thống triết học của J. Locke nhưng chủ yếu tập trung đi sâu vào làm rõ tư
tưởng của ông về nhận thức luận và có đi vào phân tích quan niệm về quyền tự
nhiên, về khế ước xã hội của ông. Qua sự phân tích, tác giả đề cập đến quan
niệm của J.Locke về quyền sở hữu như những quyền tự nhiên.
Locke và triết lý về con người của Lê Công Sự, Tạp chí Nghiên cứu Con
người (số 3) năm 2009. Trong bài viết này, tác giả nêu ra quan niệm của J.
Locke về quyền sở hữu trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền, tác
giả chỉ ra rằng, theo J. Locke lao động chính là nguồn gốc trực tiếp tạo nên

quyền sở hữu, sự xuất hiện quyền sở hữu là bước đột phá căn bản làm phát sinh
xã hội dân sự.
Nguyễn Thị Dịu với Luận văn Thạc sĩ Triết học Quan niệm chính trị - xã hội
của John Locke (2009), đã đi sâu vào phân tích quan niệm của J. Locke về con
người, quyền con người và quyền lực nhà nước, trong đó tác giả cũng có đề cập
đến quan niệm của J. Locke về quyền sở hữu trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về
chính quyền xem đó như là một trong những quyền cơ bản của con người.
Đinh Thị Hồng Vững với Luận văn Thạc sỹ Triết học Quan niệm của
J.Locke về nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”
(2013), đã đi sâu vào phân tích quan niệm của J.Loccke về nguồn gốc, bản chất
của quyền lực nhà nước, về giới hạn và sự phân chia quyền lực, về cơ chế hoạt
động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Trong đó, tác giả cũng đề cập đến
quan niệm của J.Locke về quyền sở hữu nhưng với tư cách là một trong những
quyền cơ bản của con người, và mục đích của nhà nước là đảm bảo quyền tư
hữu, chứ chưa đi sâu phân tích cụ thể quan niệm của J.Locke về quyền sở hữu.
Quan niệm của John Locke về quyền sở hữu trong tác phẩm “Khảo luận
thứ hai về chính quyền” của Nguyễn Thị Thanh Huyền, Tạp chí Khoa học Đại
học quốc gia Hà Nội, chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn số 3 năm 2012.
Ở bài viết này, tác giả đã chỉ ra nguồn gốc của sở hữu, từ đó khẳng định mục
đích của nhà nước là bảo toàn sở hữu của con người. Tác giả chưa làm rõ quan
5


niệm của J. Locke về cách thức đảm bảo quyền tư hữu và cũng chưa chỉ ra ý
nghĩa quan niệm về quyền sở hữu của J.Locke trong tác phẩm Khảo luận thứ hai
về chính quyền đối với vấn đề sở hữu ở Việt Nam hiện nay.
*Nhóm thứ ba: nghiên cứu về vấn đề sở hữu ở Việt Nam:
Tính đa dạng, sự liên kết và tính chất đan xen của các hình thức sở hữu
trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay của Lương Minh Cừ đăng trên Tạp chí Triết học số 6 (94), tháng 12 năm

1996 đã chỉ ra tính tất yếu của sự đa dạng, đan xen giữa các hình thức sở hữu
trong thời kỳ quá độ ở nước ta đồng thời chỉ ra những tiến bộ, đổi mới và phát
triển của nền kinh tế nước ta sau khi giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu so với
thời kỳ trước đổi mới.
Đổi mới về sở hữu ở Việt Nam: một số cơ sở lý luận của Phạm Văn Đức
đăng trên Tạp chí Triết học số 2 (165) tháng 2 năm 2005 đã chỉ ra cơ sở lý luận
căn bản của việc đổi mới về sở hữu ở Việt Nam là: sự đổi mới quan niệm về chủ
nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; sự thay đổi quan niệm về
sở hữu, coi sở hữu vừa là mục đích vừa là phương tiện. Từ đó, xây dựng nền
kinh tế nhiều thành phần với các loại hình sở hữu khác nhau là chiến lược lâu
dài và tối ưu nhằm phát triển lực lượng sản xuất.
Vấn đề công hữu trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Lê Xuân Tùng
đăng trên tạp chí Cộng sản số 6 (150) năm 2008 đã đưa ra những lý giải theo tư
duy mới về chế độ công hữu, xem đó không phải là yếu tố duy nhất, không thể
thay đổi trong nền sản xuất ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cũng như ở
thời kỳ chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng xong.
Luận án tiến sĩ triết học Nguyễn Thị Huyền với đề tài Các hình thức sở
hữu và vai trò của chúng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay đã chỉ ra vai trò của các hình thức sở hữu trong nền
kinh tế thị trường, từ đó đề ra quan điểm và các giải pháp nhằm phát huy vai trò
của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
6


Bài viết Một số vấn đề về sở hữu tư liệu sản xuất ở Việt Nam qua 30 năm
đổi mới của Nguyễn Thị Như Hà đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 2 năm
2015 đã nêu ra nhận thức về vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất, sự chuyển biến về
sở hữu trong nền kinh tế thời kỳ đổi mới.
Lê Công Sự và Hoàng Thị Hạnh trong Học thuyết phạm trù trong triết

học Mác – Lênin, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia năm 2009 khi chỉ ra những
biểu hiện tư duy siêu hình, chủ quan duy ý chí, giáo điều và kinh nghiệm chủ
nghĩa trong việc xây dựng, nhận thức, vận dụng các khái niệm, phạm trù triết
học Mác – Lênin ở nước ta thời kỳ trước đổi mới đã cho rằng, Đảng ta đã có sự
đồng nhất, lẫn lộn giữa phạm trù “xã hội xã hội chủ nghĩa” với phạm trù “thời
kỳ quá độ” từ đó dẫn đến quan điểm đồng nhất một loạt các hệ vấn đề khác:
đồng nhất khái niệm cải tạo quan hệ sản xuất với khái niệm xóa bỏ quan hệ sản
xuất, đồng nhất phạm trù quan hệ sản xuất với phạm trù quan hệ về sở hữu tư
liệu sản xuất… Do vậy nên trước thời kỳ đổi mới Đảng và Nhà nước ta đã tiến
hành xóa bỏ sạch trơn quan hệ sản xuất của xã hội cũ, xóa bỏ sở hữu tư nhân và
xác lập sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, coi đó là mô hình quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa thuần khiết (như ý).
Hoàng Thị Hạnh với Xây dựng nhà nước pháp quyền trong điều kiện đặc
thù ở Việt Nam, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, năm 2016, khi nêu ra
những giải pháp về phương diện kinh tế để xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã cho rằng tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, thực
hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, coi các thành
phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là một trong những giải pháp chủ yếu.
Nhìn chung, ở Việt Nam hầu hết các công trình nghiên cứu về triết học J.
Locke nêu trên chỉ giới thiệu tổng quan triết học của J. Locke. Các công trình
nghiên cứu chuyên sâu về tư tưởng triết học của J.Locke nói chung và quan niệm
của ông về quyền sở hữu nói riêng còn khá khiêm tốn, trong số đó có rất ít công
7


trình lớn đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống quan niệm của J.Locke về quyền sở
hữu, nếu có chỉ dừng lại ở dạng bài viết đăng trên tạp chí. Các công trình nghiên
cứu về vấn đề sở hữu ở Việt Nam có khá nhiều nhưng chủ yếu nêu nên thực trạng
và giải pháp phát triển vấn đề sở hữu, vai trò của các hình thức sở hữu và các thành

phần kinh tế mà chưa có sự kết nối với các quan niệm về sở hữu của các nhà tư
tưởng tiền bối, đặc biệt là quan niệm về quyền sở hữu của J. Locke.
Do vậy, tác giả luận văn sẽ đi sâu khai thác quan niệm của J.Locke về
quyền sở hữu trong Khảo luận thứ hai về chính quyền, từ đó chỉ ra ý nghĩa của
quan niệm đó đối với vấn đề sở hữu ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề lý luận hình
thành quan niệm của J. Locke về quyền sở hữu và tác phẩm Khảo luận thứ hai
về chính quyền, chỉ ra quan niệm của J.Locke về quyền sở hữu trong Khảo luận
thứ hai về chính quyền, từ đó thấy được ý nghĩa của quan niệm đó đối với vấn
đề sở hữu ở Việt Nam hiện nay.
4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
- Triết học của J. Locke.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
- Quan niệm của J. Locke về quyền sở hữu trong tác phẩm Khảo luận thứ
hai về chính quyền.
5. Giả thuyết khoa học
- Nếu phân tích, làm rõ quan niệm của J. Locke về quyền sở hữu trong tác
phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền sẽ giúp chúng ta thấy đầy đủ hơn hệ
thống triết học của J.Locke, đặc biệt là quan niệm về quyền sở hữu, ý nghĩa của
quan niệm đó đối với vấn đề sở hữu ở nước ta hiện nay.

8


6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tác giả luận văn thực hiện những
nhiệm vụ sau:
+ Phân tích những điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề lý luận hình thành

quan niệm của J.Locke về quyền sở hữu.
+ Phân tích quan niệm của J.Locke về nguồn gốc, bản chất và cách thức
đảm bảo quyền sở hữu của con người trong Khảo luận thứ hai về chính quyền.
+ Ý nghĩa quan niệm của J.Locke về quyền sở hữu đối với vấn đề sở hữu
ở Việt Nam hiện nay.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Với mục đích và nhiệm vụ nêu trên, tác giả luận văn tập trung nghiên
cứu dưới góc độ triết học quan niệm cơ bản của J.Locke về quyền sở hữu trong
Khảo luận thứ hai về chính quyền và ý nghĩa của nó đối với vấn đề sở hữu ở
Việt Nam hiện nay.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Tác giả luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp luận duy vật biện chứng và
phương pháp luận duy vật lịch sử. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp:
phương pháp khái quát hóa và trừu tượng hóa, phương pháp thống nhất lôgic và lịch
sử, phương pháp phân tích và tổng hợp...
9. Kết cấu của luận văn
- Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm hai chương, 5 tiết.
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
10.1. Những luận điểm cơ bản
- J. Locke là nhà triết học tiêu biểu của nước Anh thế kỷ XVII, ông đã để
lại cho nhân loại một kho tàng lý luận phong phú qua các tác phẩm tiêu biểu, trong
đó đặc biệt nhất là Khảo luận thứ hai về chính quyền.

9


- Trong Khảo luận thứ hai về chính quyền J. Locke đã đề cập đến các
quyền của con người, trong đó ông cho rằng quyền sở hữu là quan trọng nhất.
- Quan niệm về quyền sở hữu trong Khảo luận thứ hai về chính quyền của

J. Locke không chỉ có ý nghĩa lịch sử lúc bấy giờ mà đến nay nó vẫn còn giá trị
không chỉ trên thế giới mà còn ở Việt Nam.
10.2. Đóng góp mới của luận văn
- Về mặt lý luận, luận văn làm rõ quan niệm của J. Locke về quyền
sở hữu trong “Khảo luận thứ hai về chính quyền”.
Luận văn chỉ ra ý nghĩa quan niệm của J.Locke về quyền sở hữu đối với
vấn đề sở hữu ở Việt Nam hiện nay.
- Về mặt thực tiễn, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc học
tập, nghiên cứu lịch sử triết học nói chung cũng như cho những người tiếp tục đi
sâu nghiên cứu hệ thống tư tưởng triết học của J. Locke.

10


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM CỦA J. LOCKE
VỀ QUYỀN SỞ HỮU VÀ KHÁI QUÁT “KHẢO LUẬN
THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN”
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội hình thành quan niệm của J. Loke về quyền
sở hữu
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội các nước Tây Âu thế kỷ XVII
Từ thế kỷ XVI ở các nước châu Âu đã diễn ra những biến chuyển phức
tạp và sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Sự phát triển của khoa
học kỹ thuật đã làm cho công cụ sản xuất được cải tiến và ngày càng hoàn thiện.
Việc sáng chế ra máy kéo sợi, máy in, các loại đồng hồ cơ học đã làm cho bộ
mặt nền sản xuất và năng suất lao động thay đổi theo hướng ngày càng tiến bộ.
Qúa trình công nghiệp hóa diễn ra mạnh mẽ ở châu Âu đã làm thay đổi
căn bản cách thức sản xuất chủ yếu từ lao động thủ công sang sản xuất bằng
máy móc và từng bước hình thành cơ cấu công nghiệp hoàn chỉnh, từ sản xuất

quy mô nhỏ lên sản xuất quy mô lớn. Nền sản xuất công trường thủ công đã dần
thay thế cho nền kinh tế tự nhiên ở các nước ven Địa Trung Hải và nhanh chóng
lan rộng ra các nước Anh, Pháp…
Những phát kiến về địa lý như việc tìm ra châu Mỹ, tìm ra đường hàng hải
vòng quanh châu Phi càng tạo điều kiện cho thương nghiệp phát triển, thị trường
trao đổi hàng hóa giữa các nước được mở rộng. Các nước tư bản phát triển sớm
như Anh, Pháp, Tây Ban Nha thi nhau tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược
thuộc địa, nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên và để mở rộng thị trường tiêu
thụ hàng hóa của mình.
Đồng thời, với sự phát triển của sản xuất, sự phát triển thương nghiệp và
công nghiệp là sự phân hóa giai cấp trong xã hội châu Âu thời kì này ngày càng
rõ rệt. Lúc này, cùng với sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai
11


cấp tư sản đang trưởng thành và ngày càng lớn mạnh. Giai cấp nông dân bị địa
chủ phong kiến bóc lột nặng nề, không có ruộng đất, đời sống ngày càng cùng
cực, hàng loạt nông dân đã phải rời bỏ quê hương di cư đến thành phố, trở thành
người làm thuê cho các công trường, xưởng thợ.
Lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ đã làm cho quan hệ sản xuất
phong kiến không còn phù hợp và trở thành “xiềng xích”, kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất, ngăn cản sự phát triển của xã hội. Giai cấp tư sản ngày
càng có vai trò to lớn trong sự phát triển của xã hội nhưng lại không có quyền
lực về chính trị, không chấp nhận được những đạo luật hà khắc của chế độ
phong kiến đã lỗi thời, lạc hậu. Điều đó dẫn đến việc giai cấp tư sản cùng kết
hợp với những giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội đứng lên đấu tranh nhằm xoá
bỏ chế độ phong kiến và thiết lập bình đẳng pháp luật, đảm bảo tự do an ninh cá
nhân và quyền sở hữu tư nhân, bằng cách tạo ra những sự bảo đảm cần thiết về
chính trị và pháp lý. Vì vậy, thời kỳ này đã diễn ra hàng loạt các cuộc cách
mạng tư sản ở các nước như: Hà Lan (1560 – 1570), Anh (1642 – 1648), Pháp

(1789 -1794)….
Những sự biến đổi phức tạp và sâu sắc của các nước Tây Âu trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội thời kỳ này đã có sự tác động mạnh mẽ đến
điều kiện kinh tế - xã hội nước Anh thế kỷ XVII.
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội nước Anh thế kỷ XVII
Hòa cùng bối cảnh châu Âu lúc đó, bước sang nửa sau của thế kỉ XVII,
nước Anh đã đạt tới sự phát triển cao về kinh tế - xã hội, Anh đã trở thành một
trong những cường quốc tư bản lớn bấy giờ.
Những phát minh mới về kỹ thuật của thế giới đã được nước Anh áp dụng
thành công vào sự nghiệp phát triển đất nước, làm cho năng suất lao động tăng lên.
Đặc biệt là ngành sản xuất len dạ - ngành sản xuất có truyền thống lâu đời ở Anh,
đến thế kỷ XVII đã mở rộng ra cả nước, đã cung cấp một lượng hàng xuất khẩu lớn
chiếm khoảng 80% toàn bộ hàng xuất khẩu của nước Anh sang bên ngoài.
12


Công nghiệp phát triển đã thúc đẩy thương nghiệp Anh phát triển, thương
nhân Anh mở rộng buôn bán với thị trường thế giới, thành lập các công ty
thương nghiệp hoạt động từ biển Ban Tích đến châu Phi, từ Trung Quốc đến
châu Mỹ…. Các ngành công nghiệp, thương nghiệp, hàng hải…phát triển tới
mức độ chưa từng có, tạo nên những yếu tố cách mạng trong lòng xã hội phong
kiến đang tan rã một quan hệ sản xuất mới – quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
dần dần hình thành. Ở nước Anh lúc đó đã xuất hiện những công trường thủ
công tập trung với hàng trăm ngàn lao động làm thuê.
Đầu thế kỉ XVII nước Anh mặc dù đã đạt được một số thành tựu về công
nghiệp, thương nghiệp nhưng vẫn là một nước nông nghiệp. Trong số 2,5 triệu
dân chỉ có 1/5 sống ở thành thị, số còn lại sống ở nông thôn. Quan hệ sản xuất
phong kiến vẫn còn thống trị, nông dân làm ruộng phải nộp tô cho địa chủ theo
kỳ hạn và theo mức quy định. Cho nên xét về thân phận, mặc dù họ được tuyên
bố là tự do, chế độ nông nô được bãi bỏ nhưng địa chủ vẫn có quyền xét xử và

quyền quản lý về hành chính đối với những người sống trong trang viên, lãnh
địa của họ. Ngoài phần đất của địa chủ chiếm làm tư hữu, nước Anh lúc đó vẫn
còn phần ruộng đất công xã như đất hoang, rừng núi, đồng cỏ thuộc quyền sở
hữu chung, tất cả mọi người được sử dụng để chăn nuôi. Để duy trì vị thế kinh tế
của mình giai cấp tư sản Anh càng mở rộng các hoạt động thương nghiệp: cho
vay nặng lãi, thậm chí xâm nhập cả vào lĩnh vực nông nghiệp. Do sự phát triển
của ngành công nghiệp len dạ, nên nghề nuôi cừu ở Anh trở thành nghề đem lại
lợi nhuận cao nhất, để có được lợi nhuận cao nhất, giai cấp tư sản không từ một
thủ đoạn nào để tước đoạt ruộng đất của nông dân. Giai cấp tư sản Anh thu được
nhiều lợi nhuận từ việc tước đoạt ruộng đất, mở rộng thị trường, có tiềm lực
kinh tế ngày càng lớn mạnh nhưng lại dẫn đến một mâu thuẫn mới là họ không
có quyền lực chính trị, do quyền lực chính trị vẫn nằm trong tay các thế lực
phong kiến.

13


Những biến động kinh tế đã kéo theo những biến đổi sâu sắc về mặt xã
hội, trong giai cấp quý tộc Anh có sự phân hóa sâu sắc: Quý tộc cũ đại diện cho
thế lực phong kiến, họ có nhiều đặc quyền đặc lợi nên họ chủ trương bảo vệ
ngôi vua và duy trì sự tồn tại vĩnh viễn của chế độ phong kiến. Trong khi đó
tầng lớp quý tộc mới hình thành – tức quý tộc đã tư sản hóa, có quyền lợi gắn
chặt với giai cấp tư sản, tầng lớp này đại diện cho chế độ Nghị viện, họ là những
người có quyền lực về kinh tế nhưng lại không có quyền lực chính trị. Do vậy,
họ có thái độ thù địch với nhà vua, trở thành tầng lớp tư sản tích cực trong cuộc
đấu tranh chống phong kiến.
Đến giữa thế kỷ XVII, chế độ phong kiến Anh ngày càng trở nên phản
động, kìm hãm sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Do sự phát triển của lực
lượng sản xuất, giai cấp tư sản Anh dần dần lớn mạnh, họ mong muốn nhanh
chóng xoá bỏ chế độ phong kiến. Trong lúc đó vua Charles I âm mưu phục hồi

chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến và lợi dụng những tranh chấp giữa phái
Trưởng lão và phái Độc lập trong Nghị viện để tiến hành cuộc phản kích, dẫn
đến bùng nổ cuộc nội chiến lần II năm 1648. Cromwell (1599 – 1658) là một
trong những lãnh tụ xuất sắc của phái Độc lập, tiêu biểu cho tầng lớp quý tộc
mới loại vừa, ông là người có sức lực dồi dào, một nhà tổ chức và một nhà chỉ
huy giỏi. Ông vốn là một tín đồ Thanh giáo, phấn đấu cả đời vì sự nghiệp Thanh
giáo, phẩm chất con người ông rất cao thượng và không có dục vọng quyền lực,
song sóng gió của cách mạng đã đẩy ông đến đỉnh cao của quyền lực. Cromwell
đã tập hợp quần chúng nhân dân và giai cấp tư sản, quý tộc mới chống lại chế độ
phong kiến nhằm thủ tiêu vương quyền, xoá bỏ cơ quan quyền lực của giới quý
tộc cha truyền con nối. Cuộc cách mạng thành công, phe cách mạng thắng lợi,
Charles I bị xử tử đánh dấu một bước tiến mới của cách mạng và thiết lập nền
bảo hộ của Cromwell. Cromwell trở thành “Nhà bảo hộ” độc tài, nắm trong tay
mọi quyền hành và có quyền hạn tuyệt đối, Cromwell xây dựng một chính
quyền có “bàn tay sắt”, vừa có khả năng trấn áp phong trào đấu tranh của quần
14


chúng nhân dân trong nước vừa có khả năng chiến thắng những quốc gia bên
ngoài. Tuy nhiên, chính quyền bảo hộ cũng không thoát khỏi những khó khăn
ngày càng trầm trọng, trong khi đó làn sóng căm phẫn của nhân dân vẫn không
ngừng bùng lên và lan trong toàn quốc. Sự sụp đổ của chế độ bảo hộ sau cái chết
của Cromwell được nối tiếp bằng sự phục hồi của Charles II, với việc trở về với
nền quân chủ, viện quý tộc và giáo hội. Điều này đã đe doạ giai cấp tư sản và
quý tộc mới, đồng thời khiến nước Anh tiếp tục có những xung đột mới giữa
quốc vương với nghị viện.
Bên cạnh những mâu thuẫn về mặt chính trị, ở nước Anh xảy ra những
tranh cãi về sự khoan dung tôn giáo diễn ra trong thời gian 1660 – 1688 giữa
người Tin lành, người Anh giáo và người Công giáo. Thực chất cuộc tranh luận
tôn giáo này là sự phản ánh mâu thuẫn giữa hai luồng tư tưởng tư sản và phong

kiến, phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội Anh khi chế độ phong kiến
đang suy tàn và chế độ tư sản hình thành và lớn mạnh.
Thời kỳ này kết thúc bằng cuộc cách mạng Vinh quang năm 1688 mà
James II bị trục xuất khỏi nước Anh và vương vị được thay vào William III và
vợ là Mary II, định hình nền quân chủ lập hiến. Có thể nói, cách mạng Vinh
quang đã làm nên một bước ngoặt lịch sử của nước Anh. Thành quả lớn nhất của
cuộc cách mạng Vinh quang chính là ở chỗ nó đã làm thay đổi chính thể nước
Anh, xây dựng ở Anh nền quân chủ lập hiến, chuyển quyền lực từ tay quốc
vương sang tay quý tộc. Vào thời kỳ này, J. Locke là thành viên của “Hiệp hội
hoàng gia Anh”, điều đó tạo điều kiện để ông tham dự tích cực vào sự kiện trên.
J. Locke cho rằng, giữa người bị thống trị và người thống trị tồn tại một quan hệ
“khế ước xã hội”, quyền lực của người thống trị có được là do sự đồng ý của
người bị trị và một khi “khế ước xã hội” bị vi phạm thì người bị thống trị không
có nghĩa vụ phải phục tùng nữa. Chính những quan điểm trên của J. Locke đã
cung cấp những cơ sở lý luận hợp lý cho cuộc cách mạng Vinh quang, mặc dù
khi ông đề xuất tư tưởng này thì cách mạng Vinh quang chưa nổ ra.Thực chất
15


cuộc cách mạng Vinh Quang là sự thoả hiệp giữa giai cấp tư sản đang lên và giai
cấp địa chủ phong kiến đang suy tàn. Những địa chủ đó thường xuất thân từ
những dòng họ quyền quý cũ nhưng lại có xu hướng tư sản hơn là phong kiến.
Vì vậy mà không thể coi sự kiện 1688 là một cuộc cách mạng đúng nghĩa, mà
chỉ là một cuộc chính biến, một sự thoả hiệp của những tập đoàn trong giai cấp
tư sản nhằm thiết lập chế độ quân chủ lập hiến ở Anh.
Những điều kiện kinh tế - chính trị, xã hội nước Anh thế kỷ XVII đã ảnh
hưởng trực tiếp đến tư tưởng của J. Locke, đặc biệt với sự thoả hiệp của giai cấp
tư sản trong cuộc cách mạng năm 1688 đã để lại dấu ấn lên toàn bộ thế giới quan
của J. Locke, Ph. Ăngghen nhận xét, trong tôn giáo cũng như trong chính trị, J.
Locke là người con của sự thoả hiệp giai cấp năm 1688. Với tư cách là một

chứng nhân lịch sử, J. Locke đã thể hiện rất sinh động những biến cố lịch sử của
nước Anh trong một số tác phẩm của mình, trong đó tiêu biểu là tác phẩm Khảo
luận thứ hai về chính quyền.
1.2. Tiền đề lý luận hình thành quan niệm của J. Loke về quyền sở hữu
Trong tác phẩm “Logic học biện chứng”, E.V.Ilencov đã nói rằng: không
có bất kỳ một lý thuyết nào xuất hiện trên mảnh đất trống, không có sự tiếp thu,
phê phán và kế thừa những tư tưởng của các nhà triết học tiền bối. Quan niệm về
quyền sở hữu nói riêng và tư tưởng triết học của J. Locke nói chung cũng không
nằm ngoài quy luật đó. Thực chất tư tưởng về “quyền con người” thực sự xuất
hiện ở thời kỳ cận đại, nhưng mầm mống của tư tưởng đó đã hình thành ngay từ
thời cổ đại. Vì vậy, có thể coi những tư tưởng sơ khai của các nhà triết học trước
J. Locke là tiền đề tư tưởng cho quan niệm của ông về quyền sở hữu.
Vào thời cổ đại, Xenophon (430-345 TCN) đã đưa ra quan niệm về quyền
sở hữu, ông cho rằng chỉ giai cấp chủ nô mới có quyền sở hữu của cải vật chất,
của cải đóng vai trò quan trọng trong việc con người xác định vị thế xã hội của
mình. Giai cấp chủ nô muốn có được nhiều của cải thì họ cần có nhiều sản phẩm
dư thừa rút ra từ việc chỉ thoả mãn ở mức tối thiểu những nhu cầu của nô lệ.
16


Xenophon còn cho rằng, nhu cầu của con người về vàng, bạc là không giới hạn,
con người càng tích trữ được nhiều vàng bạc thì càng trở nên giàu có, quyền sở
hữu của con người càng lớn.
Platon (427-347 TCN) trong lý thuyết về nhà nước lý tưởng của mình,
chia xã hội thành 3 tầng lớp: tầng lớp vàng gồm các nhà triết học, các chính trị
gia; tầng lớp bạc gồm các vệ quân; tầng lớp đồng và sắt gồm những người lao
động chân tay và buôn bán. Trong đó hai giai cấp trên không có quyền sở hữu
bất cứ cái gì, mà chỉ có giai cấp mà ông gọi là “đám dân đen”, những người lao
động chân tay và buôn bán mới có thể có “ruộng đất riêng, nhà cửa và tiền bạc”.
Trong học thuyết của Platon, sự giàu có và lòng từ thiện không thể dung hoà. Do

đó, chỉ có làm cho các nhà triết học và các chiến sỹ thoát khỏi chế độ tư hữu thì
nhà nước mới có thể có lòng từ thiện. Theo Platon hai tầng lớp trên đó phải
đứng ngoài chế độ tư hữu mới có thể tránh khỏi những sự tham lam, thiên vị, ích
kỷ. Platon còn cho rằng, không những chế độ tư hữu mà ngay cả sở hữu cá nhân
cũng đều không thích hợp với hai tầng lớp trên đó: “Không một người nào trong
bọn họ lại nên có một thứ tài sản nào….Không một người nào trong bọn họ lại
có thể có những nhà ở, nhà ăn mà không ai có thể vào được. Họ cần phải đi đến
nhà ăn tập thể theo từng tập đoàn, họ cần phải sống tập thể” [63, 18]. Platon thấy
rằng, sở hữu tư nhân là nguồn gốc sinh ra điều ác, phá hoại tính chỉnh thể và tính
thống nhất của nhà nước, làm cho mọi người bất hoà với nhau. Vì vậy, Platon
chủ trương nhà nước lý tưởng phải xoá bỏ hoàn toàn sở hữu tư nhân. Nhưng
chính ông lại vẫn thừa nhận quyền sở hữu của tầng lớp những người lao động
trực tiếp làm ra của cải vật chất trong xã hội.
Aristotle (384-322 TCN) cho rằng: “không thể hay ít ra khó lòng làm
được điều thiện nếu người ta vô kế khả thi. Vì nhiều hành động đòi hỏi thân
hữu, tiền bạc, ít nhiều quyền hành chính trị làm phương tiện thi hành” [61, 42].
Aristotle đề cao hoạt động tinh thần nhưng không triệt tiêu những giá trị vật
chất, ông “cuồng nhiệt bảo vệ quyền sở hữu cá nhân, bởi ông cho rằng dường
17


như sự thiếu thốn về vật chất, nghèo đói, tự chúng chưa thể sinh ra bạo loạn và
phân tranh. Ông tin vào khả năng màu nhiệm của sở hữu cá nhân sẽ hoà giải và
đoàn kết chặt chẽ mọi thành viên trong xã hội” [56, 70-71]. Aristotle coi một tài
sản cá nhân vừa đủ là một điều kiện đủ để đảm bảo cho cá nhân đó có cuộc sống
hạnh phúc. Ông cho rằng, sở hữu chung sẽ làm cho con người mất đi phẩm
hạnh, nếu như tất cả đều là của chung cho mọi người thì sự quan tâm, chăm lo
của mỗi người đến chúng sẽ không thể bằng được khi chúng là của riêng cá
nhân mỗi người. Theo Aristotle, không phải tự sở hữu cá nhân mà chính sự kiếm
tiền và sở hữu vô độ mới chính là nguyên nhân nảy sinh nhà nước. Ông cho

rằng, việc con người có tài sản phải tuân theo những nguyên tắc của đức hạnh.
Xixeron (106 - 43 TCN), là nhà tư tưởng trong giới quý tộc chủ nô. Ông
luôn muốn bảo vệ các quyền lợi của tầng lớp quý tộc, đại điền chủ và quan chức.
Ông gắn vấn đề nguồn gốc nhà nước với sự giao tiếp vốn có ở người. Theo
Xixeron, nhiệm vụ chính của nhà nước là bảo vệ sở hữu cá nhân. Theo ông, sở
hữu cá nhân được nảy sinh không phải do tự nhiên mà do kết quả thực hiện của
con người. Ông cho rằng, nguyên nhân tạo nên nhà nước là do sự cần thiết phải
bảo vệ tài sản của cá nhân cũng như nhà nước mà nó được coi là tài sản tập thể
của giai cấp chủ nô.
Thời kỳ trung cổ, Augustine (354 - 430) bảo vệ quyền sở hữu của nhà thờ
Thiên chúa giáo, ông nêu lên châm ngôn: “Ai không làm thì không ăn” và kêu
gọi mọi người phải lao động. Về thực chất, điều đó phản ánh nguyện vọng của
nhà thờ là muốn trở nên giàu có hơn bằng cách tăng tài sản của nhà thờ, tài sản
đó dường như để “giúp đỡ những người thân cận”.
Bước sang thời kỳ Phục hưng, nhà tư tưởng tư sản sơ khai người Ý là
Nicolo Macheavelli (1469-1527) đã chú ý đến vai trò của các quyền lợi vật chất
trong đời sống và hành vi con người. Ông nói: Sau sự cần thiết này (tự bảo vệ
khỏi bị diệt vong), con người có khuynh hướng mãnh liệt nhằm trả thù khi bị
18


lăng nhục, bị thiệt hại về tài sản, các vị quân vương cần biết tự kiềm chế khỏi
những điều lăng nhục ấy hơn cả. Đặc biệt cần kiềm chế việc tước đoạt tài sản
của người khác, bởi lẽ người ta dễ quên cái chết của cha mình hơn là bị mất tài
sản thừa kế. Ông cho rằng, chính trên cơ sở các quyền lợi tài sản khác nhau mà
có sự xung đột giữa người giàu và người nghèo. Khi giải thích sự ra đời nhà
nước, Macheaveli chỉ rõ, mục đích của nhà nước là đảm bảo cho mỗi người
được tự do sử dụng tài sản và an toàn. Ông là một trong những người chỉ rõ ý
nghĩa to lớn của các quyền lợi kinh tế trong đời sống chính trị.
Thời kỳ cận đại, Jean Bodin (1530-1596) nói, Platon định thủ tiêu tư hữu

trong nhà nước của mình, do vậy xã hội lý tưởng của ông không thể gọi là nhà
nước. Bodin coi trọng quyền tư hữu, xem quyền tư hữu là có ý nghĩa quan
trọng nhất. Ông khẳng định quốc vương “có quyền đối với tất cả và chỉ có chúa
là cao hơn ông” song ông không có quyền tự ý bắt thần dân của mình nộp thuế
và xâm phạm đến tài sản cá nhân. Luận điểm này của ông đã phản ánh quan
điểm của giai cấp tư sản thời đó: đấu tranh chống tầng lớp đại phong kiến, giai
cấp tư sản bảo vệ chủ quyền của quốc vương, đồng thời cũng không muốn cho
phép nhà nước phong kiến xâm phạm đến cơ sở tồn tại của mình - sở hữu tư
nhân. Ông cho rằng, quyền sở hữu tư nhân của con người là vô cùng thiêng
liêng, bất khả xâm phạm.
Như vậy, mặc dù dưới hình thức sơ khai, các nhà tư tưởng phương Tây
trước J. Locke đã đề cập đến quan niệm về quyền sở hữu gắn liền với các quyền
khác của con người. Tuy nhiên, trong suốt nhiều thế kỷ trước, khái niệm “sở
hữu” đã được dùng với nghĩa “chiếm giữ”. Vì vậy, trên cơ sở tiếp thu các quan
niệm đó và từ thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp tư sản Tây Âu
nói chung và giai cấp tư sản Anh nói riêng chống lại đặc quyền, đặc lợi phong
kiến, J. Locke xây dựng quan niệm của mình về quyền con người nói chung và
quyền sở hữu nói riêng.

19


1.3. Khái quát “Khảo luận thứ hai về chính quyền”
1.3.1. Thân thế và sự nghiệp của J.Locke
J. Locke sinh ngày 29 tháng 8 năm 1632 ở Wrington, một làng nhỏ ở
Somerset nước Anh. Ông xuất thân trong gia đình thương nhân, cha là luật sư
theo Thanh giáo. Gia đình ông không giàu có nhưng trong thời kỳ cách mạng tư
sản cha ông ủng hộ phái Nghị viện (tư sản) nên ông có điều kiện để học hành
chu đáo. Ngay từ tuổi thơ ấu J. Locke đã được gia đình truyền dạy lối sống giản
dị, đức tính cần cù, tình yêu lao động, điều này đã tác động lớn đến sự hình

thành nhân cách của triết gia về sau. Do ảnh hưởng bởi gia đình và đặc biệt là
của người cha, J. Locke luôn đấu tranh bênh vực chế độ Nghị viện.
Mùa thu năm 1647, J. Locke học trung học Westminster School (Luân Đôn),
tại đây ông không chỉ học ngữ văn Hy Lạp mà cả tiếng Do Thái cổ và tiếng Ả Rập.
Ông nhận học vị cử nhân trường Westminster vào tháng 2 năm 1652.
Sau đó ông đến Christ Church College of Oxford, vào thời J. Locke theo
học thì nơi đây vẫn mang nặng tính chất giáo dục trung cổ, nên trong quá trình
học tập tại đây ông không hứng thú với các môn khoa học truyền thống, ông bắt
đầu nghiên cứu khoa học tự nhiên, triết học. Tháng 6 năm 1658, ông nhận học vị
thạc sĩ văn chương tại đại học Christ Church, sau đó, ông được chọn làm giảng
viên tiếng Hy Lạp và giảng viên môn hùng biện tại trường từ năm 1660.
Với lòng say mê khoa học và sự quan tâm đến vấn đề sức khỏe, trạng thái
tâm sinh lý của con người đã dẫn ông đến với y học. Việc lựa chọn theo học
ngành y đã tạo điều kiện để ông kết bạn với bác sĩ David Thomas, từ quan hệ
này, J. Locke lại có dịp tiếp xúc với Lord Ashley – bá tước Shaftesbury, là một
trong những người giàu có nhất nước Anh và có chân trong chính quyền nước
này, từ đây J. Locke càng bị cuốn hút vào các vấn đề chính trị đang rất nóng
bỏng ở nước Anh. Ashley đã mời J. Locke đến Luân Đôn không chỉ với tư cách
một bác sĩ riêng cho ông mà còn là thư ký, người nghiên cứu, người phụ trách
đặc vụ chính trị và là một người bạn. Sống và làm việc cạnh Ashley, J. Locke
20


×