Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tiểu luận QUYỀN ĐƯỢC PHÁP LUẬT ĐẢM BẢO QUYỀN HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.19 KB, 19 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
CƠ SỞ TP HỒ CHÍ MINH


TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: LUẬT SƯ VÀ NGHỀ LUẬT SƯ
HỌC PHẦN: KIẾN THỨC CHUNG VỀ LUẬT SƯ VÀ
NGHỀ LUẬT SƯ
ĐỀ TÀI:

QUYỀN ĐƯỢC PHÁP LUẬT ĐẢM BẢO
QUYỀN HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

TP. Hồ Chí Minh, tháng 12/2016
1/16


MỤC LỤC
Trang
Danh mục văn bản pháp luật viết tắt
TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ................................................................. 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƯỢC PHÁP LUẬT ĐẢM BẢO
QUYỀN HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ ........................................................................ 2
1. Nội dung về quyền hành nghề luật sư .................................................................. 2
2. Quy định của pháp luật về đảm bảo quyền hành nghề luật sư .............................. 3
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VÀ THỰC TRẠNG
QUYỀN HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ HIỆN NAY .................................................... 5
1. Thực tiễn hành nghề của luật sư hiện nay ............................................................ 5
2. Thực trạng quyền hành nghề của luật sư hiện nay ................................................ 8
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VÀ


BIỆN PHÁP THỰC HIỆN ................................................................................... 14
1. Các giải pháp bảo đảm quyền hành nghề luật sư ................................................ 14
2. Biện pháp cụ thể thực hiện các giải pháp trên .................................................... 15
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 16

2/16


DANH MỤC VĂN BẢN PHÁP LUẬT VIẾT TẮT

1. Hiến pháp năm 2013

Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam ngày 28/11/2013

2. Luật Luật sư năm 2012

Luật luật sư số 65/2006/QH11 ngày
29/6/2006, sửa đổi, bổ sung một số điều theo
Luật số 20/2012/QH13 ngày 20/11/2012

3. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003

Bộ luật Tố tụng Hình sự số 19/2003/QH11
ngày 26/11/2013

4. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015

Bộ luật Tố tụng Hình sự số 101/2015/QH13
ngày 27/11/2015


5. Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004

Bộ luật Tố tụng Dân sự số 24/2004/QH11
ngày 15/6/2004

6. Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015

Bộ luật Tố tụng Dân sự số 92/2015/QH13
ngày 25/11/2015

7. Luật Tố tụng Hành chính năm 2015

Luật Tố tụng Hành chính số 93/2015/QH13
ngày 25/11/2015

3/16


TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời gian vừa qua, tình trạng xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của luật sư có
chiều hướng gia tăng với mức độ ngày càng nghiêm trọng và đáng báo động, cụ thể là hành
vi nhũng nhiễu, hạch sách luật sư trong việc tiếp cận các thông tin, gây khó khăn trong việc
cấp giấy chứng nhận bào chữa, cản trở luật sư gặp gỡ, trao đổi với những người có liên
quan trong vụ án hoặc thậm chí có hành vi ngăn cản bằng bạo lực, đe dọa bằng tinh thần tới
luật sư để ngăn cản hoạt động nghề nghiệp chính đáng của luật sư. Nếu tình hình này tiếp
diễn sẽ có tác hại chung đến hình ảnh nhà nước pháp quyền, gây tổn hại cho nền công lý
nước nhà.
Chính vì vậy, học viên chọn đề tài “Quyền được pháp luật đảm bảo quyền hành nghề

luật sư ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp” nhằm làm rõ thực trạng hành nghề
luật sư hiện nay có những khó khăn trở ngại gì, pháp luật đảm bảo quyền hành nghề luật sư
như thế nào và đưa ra giải pháp nâng cao hoạt động nghề nghiệp của luật sư.
2. Đối tượng nghiên cứu
- Quyền hành nghề luật sư quy định trong Luật Luật sư năm 2012, Bộ luật Tố tụng Dân sự
2004 và Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 có so sánh với Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 và
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
- Pháp luật về bảo đảm quyền hành nghề luật sư quy định trong Luật Luật sư năm 2012 và
Hiến pháp năm 2013.
- Thực trạng vi phạm, cản trở quyền hành nghề luật sư nêu trên các phương tiện thông tin
đại chúng và tại các Hội thảo khoa học.
3. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền được pháp luật đảm bảo quyền hành nghề luật sư.
Chương 2: Thực tiễn hành nghề luật sư và thực trạng hiện nay.
Chương 3: Giải pháp đảm bảo quyền hành nghề luật sư và biện pháp thực hiện.

4/16


CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƯỢC PHÁP LUẬT ĐẢM BẢO
QUYỀN HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ
3. Nội dung về quyền hành nghề luật sư:
Điều 22 Luật Luật sư năm 2012 quy định phạm vi hành nghề luật sư bao gồm:
-

Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo

hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người

có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự.
-

Tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về
tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính,
việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ,
việc khác theo quy định của pháp luật.
-

Thực hiện tư vấn pháp luật.

-

Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp

luật.
-

Thực hiện dịch vụ pháp lý khác.
Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 đã quy định các quyền cho luật sư mà từ đó họ có thể

thực hiện nhiệm vụ của mình như: tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn
nào trong quá trình tố tụng dân sự, tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm nếu được
Tòa cho phép; quyền xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Toà án,
nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ
vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ; giúp thân chủ trình
bày về yêu cầu của họ; tham gia hỏi tại phiên tòa, …
Điều 58 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 cũng quy định các quyền của luật sư trong

vụ án hình sự như sau:
-

Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên

đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác;

5/16


xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng
liên quan đến người mà mình bào chữa;
-

Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt

khi hỏi cung bị can;
-

Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy

định;
-

Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị

can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo
yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công
tác;
-


Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

-

Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;

-

Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa

sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
-

Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;

-

Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố

tụng;
-

Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc

người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định.
Trong các quyền hành nghề luật sư nêu trên thì quyền hành nghề luật sư trong vụ án
hình sự là đối tượng thường bị gây khó khăn và vi phạm nghiêm trọng quyền hành nghề
hợp pháp, vì vậy đề tài tập trung nhấn mạnh thực trạng quyền hành nghề luật sư trong tố
tụng hình sự.

4. Quy định của pháp luật về đảm bảo quyền hành nghề luật sư:
Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
được bảo đảm”, đây lần đầu tiên Hiến pháp khẳng định tòa án xét xử phải bảo đảm nguyên
tắc tranh tụng, có nghĩa là phải có người bào chữa, phải có luật sư.
Theo quy định tại Điều 3 Luật Luật sư năm 2012 về chức năng xã hội của luật sư thì :
“Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của
công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế – xã hội,
6/16


xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh.” Chính vì vậy, quyền hành nghề luật sư chính là quyền lợi của xã hội.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Luật Luật sư năm 2012: “Nghiêm cấm cơ quan, tổ
chức, cá nhân có hành vi cản trở hoạt động hành nghề của luật sư.”
Hành vi cản trở ở đây có thể hiểu là những hành vi nhũng nhiễu, hạch sách luật sư trong
việc tiếp cận các thông tin, gây khó khăn trong việc cấp giấy chứng nhận bào chữa, cản trở
luật sư gặp gỡ, trao đổi với những người có liên quan trong vụ án hoặc thậm chí có hành vi
ngăn cản bằng bạo lực, đe dọa bằng tinh thần tới các luật sư để ngăn cản hoạt động nghề
nghiệp chính đáng của luật sư.
Những hành vi như vậy bị nghiêm cấm và tùy vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của
hành vi, đối tượng thực hiện hành vi có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị xử phạt hành chính, nếu
có cơ sở thì có thể truy cứu trách nhiệm hình sự theo các quy định của pháp luật.
Điều 21 Luật Luật sư năm 2012 cũng có nhiều quy định về quyền, nghĩa vụ của luật sư,
trong đó có nêu rõ: “1. Luật sư có các quyền sau đây: Được pháp luật bảo đảm quyền hành
nghề luật sư theo quy định của Luật này và quy định của pháp luật có liên quan.”
Luật sư là nghề góp phần bảo vệ công lý, công bằng, dân chủ và văn minh. Việc bảo
đảm quyền hành nghề của luật sư là cần thiết và phù hợp với thực tế. Ngoài ra, luật sư
không tự thân hoạt động một cách độc lập vô tổ chức mà có sự quản lý của Liên đoàn luật
sư và thấp hơn là các Đoàn luật sư.
Theo quy định tại điều 61 Luật Luật sư năm 2012 về nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn luật

sư thì Đoàn luật sư có trách nhiệm đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư
trong hành nghề.
Như vậy, khi có các hành vi xâm hại đến quyền hành nghề của luật sư, thì bản thân luật
sư không phải “đơn thương độc mã” chống chọi một mình với hành vi đó mà sẽ có sự bảo
vệ của Đoàn luật sư trực tiếp quản lý và cao hơn là Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Yếu tố này
cho thấy tính đoàn kết trong nghề nghiệp, mục đích chính là đảm bảo sự hoạt động bình
thường của luật sư và xa hơn là kết nối các luật sư tạo thành một sức mạnh chung trong
nhiệm vụ bảo vệ công lý của bản thân mình.

7/16


CHƯƠNG II:
THỰC TIỄN HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VÀ
THỰC TRẠNG QUYỀN HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ HIỆN NAY
3. Thực tiễn hành nghề của luật sư hiện nay:
Trong những năm gần đây, bên cạnh bước chuyển rất cơ bản trong nhận thức xã hội và
quan niệm của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với vị trí, vai trò của luật sư, vẫn còn
những cản ngại, khó khăn nhất định trong quá trình luật sư tham gia tố tụng trong các vụ án
hình sự và một số hoạt động tố tụng khác.
Bên cạnh việc nâng cao trách nhiệm khi hành nghề của luật sư, ở một phạm vi hẹp, có
hiện tượng trật tự, kỷ cương xã hội không nghiêm, thiếu cơ chế bảo vệ, nên một số luật sư
đã bị đương sự tố cáo sai sự thật, rượt đuổi đánh ngay tại phiên toà, bị xâm phạm trực tiếp
và gây thương tích trên thân thể, bị đe doạ, hành hung, tung tin ác ý, thậm chí đặt vòng hoa,
đưa quan tài… đến tận Văn phòng luật sư để đe doạ, nhục mạ. Điển hình là một số vụ việc
sau đây:
Lúc 8 giờ sáng ngày 7/8/2012, tại số 352 Trường Chinh, phường Quán Trữ, quận Kiến
An, thành phố Hải Phòng. Luật sư Trần Hồng Lĩnh (VPLS Lĩnh Chính Thắng thuộc Đoàn
luật sư thành phố Hải Phòng) đang đi đến cổng văn phòng luật sư của mình để làm việc thì
có 2 thanh niên đi xe máy áp sát ông. Đối tượng ngồi sau xe liền nhảy xuống và hất thẳng

ca axít vào mặt ông rồi bỏ chạy khiến cơ thể bị bỏng nặng, có nguy cơ hỏng hai mắt. Được
biết, thời gian gần đây, luật sư Lĩnh liên tục nhận được tin nhắn lạ qua điện thoại đe dọa sẽ
cho giang hồ thanh toán, sau khi ông Lĩnh tham gia bào chữa một vụ án nổi cộm ở Hải
Phòng.
(Nguồn vụ việc: />
Hay gần đây là vụ 2 luật sư bị 8 đối tượng côn đồ đánh: vào đầu giờ chiều ngày
3/11/2015, luật sư Trần Thu Nam và luật sư Lê Văn Luân (Đoàn luật sư thành phố Hà Nội)
đến nhà bà Đỗ Thị Mai, là mẹ của nạn nhân Đỗ Đăng Dư (nạn nhân bị đánh chết trong trại
tạm giữ công an, vụ án đang được công an Hà Nội điều tra) tại xã Đông Phương Yên, huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội để làm việc liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi cho gia
đình bà Mai. Sau khi làm việc xong, vừa rời khỏi nhà bà Mai đi được hơn 100m, luật sư
Nam và luật sư Luân bị 8 thanh niên đi xe máy chặn đầu ô tô, rồi mở cửa xe hành hung.
8/16


(Nguồn vụ việc: />
Qua các vụ việc trên chúng ta thấy được rằng tình trạng xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của luật sư có chiều hướng gia tăng với mức độ ngày càng nghiêm trọng.
Ngoài những vụ việc xâm phạm quyền hành nghề luật sư do các đối tượng bên ngoài
gây ra, theo báo cáo của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, tính từ năm 2009 đến nay, Liên đoàn
Luật sư đã nhận được 167 đơn yêu cầu bảo vệ quyền lợi hợp pháp của luật sư bị cản trở từ
phía cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong đó tập trung liên quan đến thủ
tục và thời hạn cấp giấy chứng nhận người bào chữa hoặc bị từ chối cấp giấy không có lý
do rõ ràng và không được tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tham gia tố tụng. Cá biệt
có trường hợp sáu tháng cơ quan điều tra mới cấp giấy chứng nhận bào chữa, chín tháng
mới cho gặp bị can lần đầu tiên, thậm chí có nơi hơn một năm vẫn không cấp giấy chứng
nhận bào chữa cho luật sư. Được cấp giấy chứng nhận người bào chữa đã khó, việc đăng ký
gặp mặt người bị tạm giữ, bị can, bị cáo còn khó hơn. Thống kê nói trên của Liên đoàn Luật
sư chỉ là phần nổi, bởi thực tế có rất nhiều trường hợp luật sư bị làm khó đã không nhờ Liên
đoàn can thiệp mà tự tìm cách giải quyết. Có thể họ không muốn làm to chuyện vì sợ thân

chủ bị “ghét”, cũng có thể họ không muốn làm cơ quan tố tụng, cán bộ tố tụng mất lòng vì
còn phải lui tới cơ quan tố tụng nhiều, trong những vụ án khác.
Một số vụ việc điển hình luật sư bị cản trở khi hành nghề như trường hợp luật sư Lê
Quang Y (Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai) được cấp giấy chứng nhận người bào chữa đã sáu
tháng nhưng không được công an và giám thị nhà tạm giữ thành phố Mỹ Tho cho phép gặp
bị can. Cả ba Cơ quan công an, Viện kiểm sát và Tòa án thành phố Mỹ Tho đùn đẩy, không
giải quyết, luật sư phải đi lại nhiều lần, buộc Liên đoàn Luật sư VN phải trực tiếp liên hệ và
báo cáo đồng chí bí thư Thành ủy thành phố Mỹ Tho đề nghị can thiệp thì mới được giải
quyết. Nhưng điều đáng nói là những cán bộ đã gây khó khăn, cản trở hoạt động hành nghề
của các luật sư trước đó đều không bị xử lý gì cả.
Tại hội thảo khoa học “Hoạt động của luật sư trong quá trình giải quyết các vụ án hình
sự” do Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội tổ chức, nhiều luật sư cũng chia sẻ thường được
điều tra viên gọi vào cùng gặp bị can khi mà họ cần luật sư giải thích, tác động để bị can
hiểu hành vi phạm tội, có cán bộ của cơ quan điều tra cho rằng luật sư vào chỉ “vẽ đường
cho hưu chạy”. Thậm chí còn quan niệm rằng luật sư chỉ có chạy án, thông cung nhưng trên
9/16


thực tế khi vào cùng tham gia lấy cung, luật sư chỉ được hỏi khi Điều tra viên đồng ý. Các
luật sư cũng bức xúc trước việc bị “hành” bởi thủ tục, hiện chưa có văn bản nào hướng dẫn
việc tiếp nhận giấy tờ, thủ tục để luật sư vào từ quá trình điều tra nên khi cần gặp thân chủ
luật sư phải tìm khắp các trại tạm giam vì không cán bộ điều tra nào trả lời về nơi thân chủ
bị tạm giam. Chuyện photocopy tài liệu cũng được đưa lên bàn hội thảo: khi vào Tòa án
photocopy tài liệu, nơi thì bảo phải làm đơn, nơi lại yêu cầu làm danh mục tài liệu cần
photocopy, có nơi còn yêu cầu luật sư mang máy đến tự phô tô, có luật sư mang được máy
photo mini đến thì họ nói luật sư mang điện đến mà chạy máy.
Bên cạnh những hành vi cản trở, xâm phạm quyền hành nghề luật sư đã xảy ra trên thực
tế thì không thể không nhắc đến việc có những văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến
hoạt động hành nghề của luật sư không phù hợp và vi phạm quy định của pháp luật. Ví dụ
như Thông tư 28/2014/TT-BCA được ban hành ngày 7/7/2014, có hiệu lực từ 25/8/2014

quy định Điều 38 về Trách nhiệm của Điều tra viên trong việc xử lý vi phạm đối với người
bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự hoặc trợ giúp viên pháp lý. Theo đó, “khi
phát hiện thấy người bào chữa có hành vi cản trở, gây khó khăn cho hoạt động điều tra như:
cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, ngăn cản việc khai báo, tiết lộ bí mật,
cung cấp tài liệu sai sự thật, khiếu nại, kiến nghị không có căn cứ hoặc có hành vi trái pháp
luật khác thì Điều tra viên tiến hành lập biên bản sự việc trên, có thể ghi âm, ghi hình hoặc
tiến hành biện pháp khác nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi cản trở, gây
khó khăn cho hoạt động điều tra của họ. Tùy theo mức độ vi phạm, Điều tra viên báo cáo
Thủ trưởng hoặc Phó thủ trưởng cơ quan điều tra ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận
người bào chữa, Giấy chứng nhận người bảo vệ quyền lợi của đương sự hoặc đề xuất biện
pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật”.
Theo Liên đoàn Luật sư Việt Nam, nhiều hành vi bị coi là vi phạm của người bào chữa
không được định lượng rõ ràng, dễ dẫn đến nhận thức không đầy đủ, thậm chí có thể bị lạm
dụng, gây khó khăn, cản trở cho hoạt động bào chữa của luật sư trong tố tụng hình sự, ngoài
ra cũng có sự bất bình đẳng trong quan hệ tố tụng giữa Điều tra viên với người bào chữa.
Nội dung Khoản 1 Điều 38 cũng quy định Điều tra viên có quyền đánh giá và xác định dấu
hiệu và căn cứ cho rằng người bào chữa có hành vi “ngăn cản việc khai báo”, “khiếu nại,
kiến nghị không có căn cứ hoặc có hành vi trái pháp luật khác”... nhưng lại không được
định lượng một cách rõ ràng, tùy thuộc hoàn toàn vào nhận định, suy diễn chủ quan của
10/16


Điều tra viên nên khó tránh lạm quyền, tiêu cực. Bên cạnh đó, hoạt động tố tụng phải được
tiến hành công khai, phù hợp với các qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự và các biện pháp
áp dụng trong hoạt động tố tụng phải là các biện pháp hợp pháp nhưng quy định tại Điều 38
Thông tư 28 dành cho Điều tra viên quyền “ghi âm, ghi hình hoặc tiến hành biện pháp khác
nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi cản trở, gây khó khăn cho hoạt động
điều tra của họ” là không phù hợp với các quy định của pháp luật, quy định trên tạo lợi thế
cho Điều tra viên, tạo sự bất bình đẳng giữa Điều tra viên với luật sư, bởi theo Quy chế của
các Nhà tạm giữ, Trại tạm giam của Bộ Công an quản lý đều có những qui định nghiêm

cấm người bào chữa được mang hoặc sử dụng điện thoại, máy ảnh, máy tính, thiết bị ghi âm
trong khi làm việc hoặc tham dự hỏi cung.
Sau khi Liên đoàn Luật sư Việt Nam có kiến nghị về nội dung Thông tư 28, ngày
17/8/2014 Bộ Công an đã ký ban hành Quyết định số 4740/QĐ - BCA về việc đính chính
Thông tư số 28/2014/TT-BCA ngày 7/7/2014, sự việc trên cho thấy các cơ quan nhà nước
đã kịp thời ghi nhận, sửa chữa, đính chính văn bản quy phạm pháp luật chưa phù hợp, tạo
môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho việc hành nghề của luật sư trong tố tụng hình
sự.
4. Thực trạng quyền hành nghề của luật sư hiện nay:
Hiến pháp năm 2013 và Luật Luật sư năm 2012 đều có quy định bảo đảm quyền hành
nghề hợp pháp của luật sư và quy định vị trí của luật sư trong xã hội rất xác đáng nhưng khi
luật sư đi hành nghề thì có những tổ chức, cá nhân coi thường luật sư, có những hành vi tấn
công, hành hung luật sư.
Thực tế cho thấy, luật pháp quy định bảo đảm quyền hành nghề, tính mạng, tài sản của
luật sư trong quá tình hành nghề tương đối tốt nhưng việc thực thi tương đối kém. Trong đó,
thể hiện khi luật sư bị hành hung, tạt axit,... thì sự phản ứng của cơ quan chức năng, đặc biệt
cơ quan điều tra quá chậm chạm và không có hiệu quả. Ví dụ: Trường hợp luật sư Trần
Hồng Lĩnh bị tạt axit đã nêu trên xảy ra từ năm 2012 hay trường hợp Văn phòng luật sư Bùi
Đình Ứng bị đổ xăng đốt tại Hà Nội tuy đã được Liên đoàn can thiệp, nhưng đến nay cơ
quan chức năng vẫn chưa khởi tố điều tra nhằm truy tìm thủ phạm.
Về phía các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự cũng
gây ra nhiều cản trở, khó khăn cho quá trình tác nghiệp của luật sư làm ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng hoạt động hành nghề luật sư đó là:
11/16


Thứ nhất: Mặc dù luật quy định luật sư có quyền tham gia vào hoạt động tư pháp từ khi
có quyết định khởi tố vụ án nhưng thực trạng hiện nay, luật sư rất ít khi được tham gia
chứng kiến quá trình lấy lời khai của bị can dẫn đến nhiều vụ án khi xét xử bị cáo thường
khai với Hội đồng xét xử là do bị ép cung, nhục hình.

Thứ hai: Về việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Hiện tại luật quy định trong thời
hạn 3 ngày người bào chữa sẽ được cấp giấy chứng nhận bào chữa, tuy nhiên, quy định này
chỉ đúng với thực tiễn các vụ án được chỉ định theo yêu cầu của cơ quan điều tra.
Thứ ba: Khi luật sư muốn tiếp cận bị can thì điều tra viên thường trả lời như: Án phức
tạp nên chưa gặp được bị can hoặc điều tra viên đang đi công tác chưa gặp được bị can. Quá
trình lấy lời khai của bị can ở những giai đoạn quan trọng thường không có sự chứng kiến
của luật sư vì cơ quan điều tra không có nghĩa vụ thông báo cho luật sư biết thời gian lấy lời
khai của bị can. Do vậy, có những vụ án sau khi gần kết thúc quá trình lấy lời khai của bị
can thì luật sư mới tiếp cận được thân chủ của họ.
Thứ tư: Trong quá trình luật sư muốn gặp bị can trong trại tạm giam thì thủ tục hành
chính tư pháp còn nhiều bất cập, phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân thì trại
tạm giam, tạm giữ mới có quyền cho luật sư gặp bị can, đây là mầm mống của cơ chế xin
cho trong hành chính tư pháp hiện nay.
Thứ năm: Pháp luật cho phép luật sư được tiếp cận tài liệu chứng cứ có trong vụ án
dưới hình thức sao chụp hồ sơ vụ án, tuy nhiên thực trạng hiện nay ở một số vụ án luật sư
rất khó khăn để tiếp cận hồ sơ và thường được cơ quan tiến hành tố tụng trả lời do hồ sơ
chưa được hoàn thiện, vụ án có tính phức tạp, Viện kiểm sát chưa phúc cung.
Thứ sáu: Vấn đề chứng cứ trong tranh tụng, hiện nay, tất cả những chứng cứ mà Viện
kiểm sát giữ quyền công tố đều do cơ quan điều tra cung cấp để làm cơ sở buộc tội cho bị
cáo. Tòa án cũng chỉ dựa vào các bút lục do cơ quan điều tra cung cấp để xét xử - “buộc
tội”. Luật sư cũng chỉ có thể dựa vào những chứng cứ do cơ quan điều tra kết luận để bảo
vệ quyền lợi cho thân chủ của mình - “gỡ tội”. Do vậy, có thể thấy, chứng cứ cho quá trình
“buộc tội” và “gỡ tội” cho bị cáo còn hạn chế, chủ yếu là nguồn chứng cứ của quan điều tra.
Như vậy, các chứng cứ này chưa thể phản ánh hết tính khách quan của vụ án. Trong thực
tiễn xét xử, nếu bị cáo khai giống với bút lục có trong hồ sơ vụ án thì Hội đồng xét xử đánh
giá là bị cáo đã thành khẩn khai báo, sẽ là cơ sở để Hội đồng xét xử cân nhắc khi nghị án.

12/16



Còn nếu bị cáo khai khác so với bút lục có trong vụ án thì thường sẽ bị Hội đồng xét xử
nhận định không ăn năn, hối cải. Đây là điều bất lợi cho bị cáo khi định khung và định hình.
Kể từ khi được thành lập tháng 5/2009, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã thiết lập cơ chế
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của luật sư, của các Đoàn luật sư thành viên. Thế
nhưng, hiệu quả giải quyết, bảo vệ luật sư khi phát sinh các sự việc mới dừng ở bề nổi,
thiếu sự theo đuổi đến tận cùng. Đặc biệt, đối với một số vụ việc có tính chất nghiêm trọng,
mặc dù Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã phối hợp với các cơ quan liên quan nhưng vẫn chưa
có kết quả cụ thể.
Theo Luật sư Phan Trung Hoài, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Chủ nhiệm
Ủy ban bảo vệ quyền lợi luật sư cho rằng: “Nếu luật sư không bảo vệ quyền hành nghề và
các quyền lợi hợp pháp khác của mình thì cũng sẽ không bảo vệ được quyền lợi ích hợp
pháp cho các chủ thể trong xã hội”. Chính vì vậy nhiệm vụ trọng tâm của Liên đoàn Luật
sư trong thời gian qua là đại diện bảo vệ quyền lợi luật sư, quyền hành nghề hợp pháp của
luật sư.
Bên cạnh những mặt hạn chế về quyền hành nghề của luật sư hiện nay còn phải kể đến
những mặt tích cực và cơ hội cho quyền hành nghề luật sư:
Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 đã xác định vị trí, vai trò quan trọng của luật sư trong việc mở rộng tranh tụng. Những
nội dung cải cách tư pháp đang được triển khai một cách tích cực cả về chiều rộng và chiều
sâu là điều kiện thuận lợi để luật sư được tham gia vào tiến trình cải cách tư pháp; tham gia
thực chất hơn vào quá trình giải quyết các vụ án, đặc biệt là trong việc tranh tụng tại phiên
toà.
Về quy định pháp luật, Hiến pháp năm 2013 khẳng định tòa án xét xử phải bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng, có nghĩa là phải có luật sư. Điều này đã nói lên vai trò của luật sư
trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động tư pháp, tiến tới ban hành những quy định bảo đảm
hơn nữa quyền hành nghề luật sư.
Thứ hai, quyền được mời luật sư bào chữa đã được mở rộng ra một cách đáng kể theo
quy định của Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, cụ thể là người bị
bắt, kể cả bắt quả tang, người bị giữ, tạm giữ, người bị tạm giam, người bị điều tra đều có
quyền mời luật sư bào chữa. Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định “Người bị bắt,

13/16


tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc
người khác bào chữa”. Chế định người bào chữa cũng được dành hẳn 1 chương riêng
(Chương V Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Đây là cơ sở quan trọng để quyền hành nghề
luật sư tham gia sâu rộng trong vụ án hình sự cũng như hạn chế việc gây khó khăn cản trở
từ cơ quan tiến hành tố tụng.
Bên cạnh đó Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và
Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 cũng đã bỏ quy định cấp giấy chứng nhận bào chữa,
giấy chứng nhận người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự và thay bằng thủ tục đăng
ký bào chữa, đăng ký người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp đương sự. Đây là bước tiến lớn
khiến nhiều luật sư kỳ vọng sẽ xóa bỏ “giấy phép con”, đảm bảo kịp thời quyền hành nghề
luật sư.
Về phía cơ quan tiến hành tố tụng, ngày 1/4/2016 Tòa án nhân dân tối cao đã có công
văn hỏa tốc số 88/TANDTC-PC về việc triển khai thực hiện mô hình phòng xử án 2016,
theo đó đại diện VKS và luật sư bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo, các
đương sự ngồi đối diện nhau trên cùng mặt phẳng. Đây là kết quả đáng mừng cho sự đấu
tranh bền bỉ của giới luật sư, góp phần nâng cao vị thế và bảo đảm quyền hành nghề luật sư.
Về tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư là Liên đoàn luật sư Việt Nam cũng đã thành
lập Ủy ban bảo vệ quyền lợi luật sư là đầu mối thống nhất đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các Đoàn luật sư, các luật sư, đặc biệt là góp phần bảo đảm cho luật sư thực
hiện tốt quyền, nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật, là chỗ dựa tin cậy cho
giới luật sư cả nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các luật sư, đấu tranh
chống những biểu hiện tiêu cực của luật sư và hoạt động luật sư. Nhiệm vụ của Ủy ban bảo
vệ quyền lợi luật sư đã được quy định cụ thể là: tư vấn, tham mưu, đề xuất kế hoạch, biện
pháp triển khai thực hiện chức năng, nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi luật sư; tiến hành xác minh
vụ việc, đề xuất cách thức giải quyết lên Thường trực Liên đoàn; phối, kết hợp hoạt động
với các cơ quan giúp việc, đơn vị trực thuộc của Liên đoàn giải quyết các yêu cầu bảo vệ
quyền lợi luật sư; xây dựng các Quy chế, tiêu chuẩn hành nghề trong các phạm vi hành

nghề luật sư nhằm từng bước hạn chế, phòng ngừa các rủi ro và hành vi xâm phạm quyền
lợi luật sư.
Trước những thực tiễn trong hành nghề luật sư và thực trạng quyền hành nghề luật sư
hiện nay, có thể rút ra một số nguyên nhân sau:
14/16


Về môi trường pháp lý: Chưa có quy định pháp luật cụ thể xử lý các hành vi cản trở,
xâm phạm quyền hành nghề luật sư. Hành lang pháp lý chưa thật sự thuận lợi cho luật sư, tổ
chức hành nghề luật sư hoạt động, phát huy vai trò của luật sư ngay từ trong giai đoạn điều
tra nhằm bảo đảm mọi công dân có nhu cầu đều được luật sư trợ giúp pháp lý và được bào
chữa khi bị xét xử.
Về mặt xã hội: Sự mất lòng tin vào pháp luật, công lý của một bộ phận trong xã hội
khiến cho giới luật sư không được coi trọng, về lâu dài sự đổ vỡ niềm tin vào luật pháp có
thể kéo theo sự bất ổn, xói mòn các giá trị mà xã hội đang dựa vào để tồn tại và phát triển.
Về phía các cơ quan tiến hành tố tụng:
Đối với cơ quan Công an, phần đông cán bộ công an có tâm lý dè dặt đối với luật sư vì
thường có suy nghĩ là có luật sư tham gia tố tụng sẽ trở ngại cho công tác điều tra, dễ bị
thông cung… Đây là nhận thức pháp luật chưa đúng và là thành kiến cố hữu ở một bộ phận
cán bộ công an.
Đối với Viện kiểm sát, tình hình có được cải thiện hơn, quan hệ giữa cán bộ kiểm sát
với luật sư cởi mở hơn, tuy nhiên vẫn còn có tâm lý dè dặt, bất hợp tác; ở một bộ phận nhỏ
có tâm lý rằng luật sư là kẻ phá bĩnh, đối kháng với Viện kiểm sát.
Đối với Toà án, do tham gia tố tụng tại tòa thường xuyên, nên quan hệ giữa luật sư với
cán bộ tòa án khá cởi mở. Tuy nhiên do đặc điểm trong thực tế án thường được duyệt trước,
nên thẩm phán có tâm lý ngại có luật sư sẽ mất nhiều thời gian, nhất là trong tình trạng án
quá tải như hiện nay. Do đó, không phải lúc nào, vụ án nào, khi tham gia tố tụng, luật sư
cũng được tạo điều kiện thuận lợi, không phải mọi ý kiến phát biểu của luật sư được thẩm
phán lắng nghe, các đề xuất của luật sư được Tòa án xem xét giải quyết. Cá biệt, có những
trường hợp thẩm phán trong lúc xét xử đã thiếu kiềm chế, xúc phạm đến luật sư, khiến

người dự toà bất bình.
Về phía luật sư: do có không ít luật sư còn bị hạn chế về kiến thức, kỹ năng và phong
cách ứng xử,… nên chưa có được quan điểm pháp lý tốt, các luận cứ chưa đủ sức thuyết
phục trước tòa, trước các cơ quan tiến hành tố tụng, chưa tạo được hiệu quả hoạt động nghề
nghiệp. Nhiều luật sư ngại va chạm, chỉ lo an phận thủ thường, nên ít khi lên tiếng đấu
tranh, góp ý xây dựng, không quan tâm góp phần xác lập, cải thiện, củng cố mối quan hệ
với các cơ quan tiến hành tố tụng trên tinh thần tôn trọng và bình đẳng. Lại có một số ít luật
sư có quan điểm lệch lạc, thái độ cực đoan, chỉ biết chạy theo việc tranh thủ riêng với một
15/16


số công chức ở cơ quan tiến hành tố tụng để được việc cho mình mà bỏ qua nguyên tắc tố
tụng, đánh mất quan điểm pháp lý cần thiết của nghề nghiệp, qua đó đã vi phạm pháp luật
và đạo đức nghề nghiệp luật sư, làm xoáy mòn lòng tin của công chúng vào cơ quan pháp
luật và vị thế luật sư.

16/16


CHƯƠNG III:
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VÀ
BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
3. Các giải pháp bảo đảm quyền hành nghề luật sư:
Mặc dù nghề luật sư ở Việt Nam với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đang có cơ
hội phát triển với những cải thiện rõ rệt về môi trường pháp lý, vị thế và vai trò của luật sư
trong đời sống và trong hoạt động tư pháp bước đầu được tôn trọng và nâng cao như thời
điểm hiện nay, nhưng trên thực tế vẫn còn những biểu hiện một số cá nhân, tổ chức cản
ngại, gây khó khăn và đặc biệt là xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của luật sư trong
quá trình hành nghề. Để nâng cao hoạt động hành nghề luật sư, trong thời gian tới cần thực
hiện các giải pháp sau:

Một là, các cơ quan có thẩm quyền cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường
pháp lý an toàn cho việc hành nghề của luật sư; Đơn giản hóa thủ tục hành chính tư pháp,
quy định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo cho luật sư được
hoạt động nghề nghiệp một cách bình thường và thuận lợi, cụ thể hóa các chế tài đối với các
hành vi xâm phạm, cản trở luật sư hành nghề.
Hai là, khi hành nghề luật sư cần thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật tố
tụng, nhã nhẵn nhưng cương quyết trong tranh tụng. Có thái độ tôn trọng và thiện chí đối
với các cơ quan tiến hành tố tụng và các công chức trong các cơ quan tiến hành tố tụng,
người có quyền lợi đối lập với thân chủ, tạo được không khí quan hệ hợp tác, cởi mở, chân
tình giữa trong hoạt động hành nghề. Tóm lại, bản chất mối quan hệ giữa luật sư với công
chức ở các cơ quan tiến hành tố tụng là mối quan hệ giữa những đồng nghiệp, bình đẳng,
tôn trọng và hỗ trợ nhau. Xác lập được mối quan hệ đúng đắn, tích cực giữa luật sư với các
cơ quan tiến hành tố tụng là cách cải thiện môi trường pháp lý lành mạnh, giúp thúc đẩy
hoạt động luật sư đi lên, tạo ra không khí làm việc thuận lợi, hài hòa ở các cơ quan tiến
hành tố tụng, góp phần xây dựng pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Ba là, đội ngũ luật sư phải không ngừng phấn đấu nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, cần
có bản lãnh nghề nghiệp và phong cách riêng của luật sư, nêu cao tinh thần tôn trọng sự thật
khách quan, trung thực, dũng cảm đấu tranh bảo vệ lẽ phải và công lý, lấy Quy tắc đạo đức
và ứng xử nghề nghiệp làm nền tảng khi hành nghề. Giới luật sư phải đoàn kết với nhau vì
17/16


mục tiêu nâng cao vị thế của nghề luật sư, hoàn chỉnh hệ thống các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư từ Trung ương đến địa phương.
4. Biện pháp cụ thể thực hiện các giải pháp trên:
-

Quá trình lấy lời khai của bị can phải có sự chứng kiến của luật sư thì bản bút lục đó

mới có giá trị pháp lý.

-

Cơ quan điều tra cũng như trại tạm giam cần phải tạo điều kiện tốt nhất cho luật sư tiếp

cận bị can, việc báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can phải được xem là nghĩa
vụ của Cơ quan điều tra.
-

Các trại tạm giam, nhà tạm giữ cần phải đầu tư cơ sở vật chất và bố trí thiết kế thích hợp

các phòng làm việc riêng biệt giám sát gián tiếp thông qua hệ thống màn hình camera,
nhưng không đặt chế độ ghi âm hoặc truyền âm để bảo đảm quyền gặp gỡ riêng tư giữa luật
sư với thân chủ của mình.
-

Mở rộng thêm quyền thu thập chứng cứ cho luật sư và chứng cứ hợp pháp do luật sư

cung cấp phải có giá trị tương đương chứng cứ do cơ quan tiến hành tố tụng cung cấp.
-

Luật sư cần phải được quyền miễn trách nhiệm dân sự và hình sự đối với những phát

ngôn thiện chí trong lời bào chữa bằng miệng hay bằng văn bản hay đối với sự xuất hiện
nghề nghiệp của họ trước tòa hay trước cơ quan pháp luật, trừ trường hợp có căn cứ khẳng
định là vu khống hoặc cố ý cung cấp hồ sơ, tài liệu mang tính chất giả mạo. Tài liệu liên
quan vụ án thu thập được trong quá trình thực hiện trách nhiệm bào chữa của người bào
chữa không bị bất cứ cơ quan nào hoặc cá nhân nào kiểm tra, niêm phong, lưu giữ.
-

Xây dựng được cơ chế ổn định phối hợp giữa Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các Đoàn


luật sư. Hiện nay chỉ có Đoàn luật sư Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có ban bảo vệ
quyền lợi luật sư. Trong thời gian tới các Đoàn luật sư cần có các đầu mối giải quyết ngay
từ đầu các vụ việc xâm phạm quyền hành nghề luật sư và đeo bám đến tận cùng để giải
quyết quyền lợi của luật sư thay vì chỉ có văn bản đề nghị với các cơ quan Nhà nước.
-

Bổ sung điều khoản mới về tội danh xâm phạm quyền bào chữa và nhờ người khác bào

chữa của công dân.
-

Thay đổi vị thế cho luật sư với tư cách là “chủ thể tư pháp độc lập”, chứ không giới hạn

trong phạm vi “chủ thể bổ trợ tư pháp”.

18/16


-

Mở rộng, nâng cao chất lượng đào tạo của các trường luật, thành lập thêm các trường

đào tạo nghề luật sư để đáp ứng nhu cầu xã hội, đảm bảo chất lượng, uy tín đội ngũ luật sư
khi tham gia hành nghề.
-

Xây dựng Chương trình đào tạo luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế để có được đội

ngũ luật sư giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, am hiểu pháp luật và tập quán thương mại quốc

tế, thông thạo tiếng Anh, thành thạo kỹ năng hành nghề, có đủ khả năng tư vấn các vấn đề
liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế.

KẾT LUẬN
Có thể thấy rằng, quy định của pháp luật đặt ra cho luật sư một vị trí rất quan trọng
trong việc bảo vệ công lý, đảm bảo lợi ích cho xã hội và đất nước. Nghề luật sư ở Việt Nam
chưa phát triển mạnh và đạt được sự trọng vọng, tôn trọng như đối với nhiều nước phát
triển khác trên thế giới, nhưng không vì thế mà các quyền của luật sư bị bỏ qua hay xem
nhẹ.
Bất cứ nghề nghiệp nào hoạt động một cách hợp pháp cũng là đáng quý và đáng tôn
trọng. Bản thân luật sư khi thực hiện chức năng nghề nghiệp của mình cũng là góp phần
thực hiện chức năng của nhà nước, bảo vệ công lý, bảo vệ xã hội trước những hành vi vi
phạm pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mỗi công dân. Nghề luật sư hướng xã
hội đến những hành vi chuẩn mực, giúp con người tìm ra được công lý mà họ xứng đáng và
pháp luật đã thừa nhận cho họ. Vì thế, với nghề bảo vệ công lý, thì chắc chắn phải được
công lý bảo vệ.

19/16



×