Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

quan hệ thương mại giữa việt nam và trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (982.37 KB, 24 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG CƠ SỞ II
******************

BÀI TIỂU LUẬN
Môn học: Kinh tế phát triển

ĐỀ TÀI: QUAN HỆ THƢƠNG MẠI
GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

Giảng viên: Huỳnh Hiền Hải
Nhóm 5

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2015


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
Khái quát về quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Trung Quốc.......................... 2

I.
1.

Quan hệ thƣơng mại Việt Nam – Trung Quốc trƣớc năm 1991 .............................................2

2.

Quan hệ thƣơng mại Việt Nam – Trung Quốc từ năm 1991 đến nay.....................................2

II.

Thực trạng và các vấn đề đặt ra trong quan hệ Việt Nam–Trung Quốc ........... 4



1.

Chính sách về phát triển kinh tế đối ngoại của hai nƣớc ........................................................4

2.

Quan hệ xuất nhập khẩu Việt Nam- Trung Quốc ....................................................................7

3.

Hoạt động nhà thầu của Trung Quốc tại các dự án lớn của Việt Nam ............................... 13

4.

Vấn đề biển Đông và những tác động của nó đến quan hệ giữa hai nƣớc .......................... 14

5.

Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ và sự tác động đến kinh tế Việt Nam .................... 15

III. Định hướng và giải pháp phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Trung
Quốc trong thời gian tới ................................................................................................ 17
1. Bối cảnh mới tác động đến quá trình phát triển quan hệ thƣơng mại Việt Nam – Trung
Quốc trong thời gian tới .................................................................................................................. 17
2. Định hƣớng phát triển quan hệ thƣơng mại giữa Việt Nam – Trung Quốc trong nhƣng
năm tới .............................................................................................................................................. 17
3.

Giải pháp phát triển quan hệ thƣơng mại Việt Nam – Trung Quốc trong thời gian tới ... 19


IV- Kết luận .................................................................................................................... 21


LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại hiện nay, quá trình hội nhập và tăng cường hóa quốc tế là xu thế
chung của các quốc gia trên thế giới. Và việc có mối quan hệ tốt với một nước có vị trí
đáng kể trên trường quốc tế như Trung Quốc và cũng là nước láng giềng là điều cần
thiết và tất yếu đối với Việt Nam. Đối với Việt Nam, trong suốt quá trình lịch sử của
mình, việc nghiên cứu và thiết lập quan hệ với Trung Quốc đã được lãnh đạo Đảng và
Nhà nước hết sức quan tâm. Tuy nhiên, do lịch sử và chính sách của hai nước có những
khác biệt nên dẫn đến mâu thuẫn, bất đồng và mãi đến năm 1991 mới có thể bình
thường hóa mối quan hệ hai nước. Năm 1991 là sự khởi đầu cho quan hệ hai nước phát
triển trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế và tạo điều kiện để phát triển
hơn nữa ở những giai đoạn sau. Từ đó đến nay, quan hệ hai nước nói chung và trên lĩnh
vực thương mại nói riêng đã phát triển ngày càng mạnh và bền vững và đang trở thành
một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Bài tiểu luận sẽ tập
trung tìm hiểu thực trạng trong mối quan hệ thương mại giữa Việt-Trung, đặc biệt
trong lĩnh vực xuất - nhập khẩu, cũng như những hạn chế còn tồn tại để từ đó có những
giái pháp, định hướng để thúc đẩy, phát triển hơn nữa quan hệ kính tế thương mại giữa
Việt Nam -Trung Quốc trong tương lai.
Do kiến thức còn hạn hẹp cũng như điều kiện khách quan nên trong quá trình
thực hiện tiểu luận khó tránh khỏi những sai sót và hạn chế, vì vậy nhóm rất mong
nhận được ý kiến đóng góp từ giảng viên để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

1


Khái quát về quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Trung Quốc


I.
1.

Quan hệ thƣơng mại Việt Nam – Trung Quốc trƣớc năm 1991

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, Việt Nam và Trung Quốc đã có mối quan hệ chính
trị, văn hóa xã hội cũng như thương mại rất lâu đời. Vào thế kỉ X, XI, Việt Nam giao
lưu kinh tế với Trung Quốc và các nước Đông Nam Á tại Kinh Kỳ (Thăng Long), Phố
Hiến (Hưng Yên) và Hội An. Trong thời kì phong kiến, tiêu biểu là các triều đại Lý,
Trần, Lê, Nguyễn, hoạt động buôn bán qua biên giới hai nước Việt – Trung chỉ là sự
thông thương nhằm bổ sung cho nhau với hình thức chủ yếu là cống nạp.
Bước vào thời kì cận đại, hai nước trở thành thuộc địa của các nước tư bản phương
Tây, hai nước đã ký kết “Điều ước Việt Nam” (1885) và “Chương trình hợp tác biên
giới” (1896) quy định 25 điểm đồn trú tuần tra dọc biên giới chung giữa hai nước cũng
chính là điểm họp chợ chung cho dân cư hai bờ biên giới.
Sau khi hai nước giành được độc lập, Việt Nam và Trung Quốc đã thiết lập quan
hệ ngoại giao. Điều đó đã tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ trong quan hệ kinh
tế - buôn bán giữa hai nước. Trên tinh thần “Vừa là đồng chí, vừa là anh em”, hai nước
đã ký các bản Nghị định thư buôn bán tiểu ngạch biên giới Việt- Trung (1955) và Nghị
định thư trao đổi hàng hóa biên giới Việt Trung (1957).
Trong giai đoạn 1966-1976, Trung Quốc tiến hành cuộc cải cách và hầu như đóng
cửa hoàn toàn với thế giới bên ngoài nên đã ảnh hưởng tới hoạt động buôn bán qua
biên giới với Việt Nam.
Cuối năm 1978, Trung Quốc đưa ra quốc sách cải cách mở cửa tuy nhiên chưa chú
trọng đến mở cửa khu vực biên giới. Từ năm 1979 đến hết thập kỉ 80, quan hệ giữa hai
nước bước vào thời kỳ không bình thường do chiến tranh biên giới Việt – Trung làm
gián đoạn hoạt động buôn bán qua biên giới giữa hai nước.
2.


Quan hệ thƣơng mại Việt Nam – Trung Quốc từ năm 1991 đến nay

Sau sự kiện bình thường hóa giữa Việt Nam – Trung Quốc vào đầu tháng 11-1991,
quan hệ thương mại giữa hai nước đã mở ra một trang sử mới. Từ đó đến nay, nhiều
văn bản hiệp đinh liên quan đến thương mại được ký kết giữa hai nước nhằm đẩy mạnh
2


quan hệ thương mại giữa hai nước trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Năm 1995 Việt Nam chính thức trở thành hội
viên của ASEAN, thông qua cầu nối giữa Trung Quốc với ASEAN, Việt Nam và
Trung Quốc còn phát triển thêm nhiều loại hình kinh doanh. Bên cạnh việc thúc đẩy
hợp tác song phương, Chính phủ hai nước cũng chú trọng đến hợp tác đa phương.
Tháng 11 – 1995, Ủy ban hỗn hợp kinh tế - khoa học kỹ thuật Việt – Trung
được thành lập và đã có những đóng góp nhất định vào việc phát triển kinh tế giữa hai
nước.
Năm 2001 Trung Quốc chính thức gia nhập WTO, Trung Quốc đã dành cho các
nước đang phát triển được hưởng quy chế tối huệ quốc, trong đó có Việt Nam. Tạo cơ
hội cho Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và thị trường Trung Quốc.Bên cạnh
đó hệ thống chính sách của Trung Quốc cũng phải điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu
của WTO. Đặc biệt là hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn đối với
hàng nhập khẩu vào thị trường Trung Quốc yêu cầu ở mức cao hơn trước đây. Một số
chính sách ưu đãi đối với biên mậu cũng được chính phủ Trung Quốc loại bỏ dần.Điều
này đã gây tổn hại cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Tháng 5/2004, chính phủ hai nước chủ trương xây dựng “hai hành lang và một
vành đai kinh tế”, đây được coi là chương trình hợp tác trung và dài hạn giữa hai nước
nhằm thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển.
Năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, điều này khẳng
định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Như vậy, Việt Nam và Trung Quốc đều
là thành viên của WTO, hệ thống hành lang pháp lý khá hoàn chỉnh tạo điều kiện thuận

lợi cho phát triển quan hệ thương mại hàng hóa giữa hai nước. Kể từ năm 2008, hai
bên nhất trí phát triển “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”.
Nhìn chung, từ năm 1991 đến nay, quan hệ kinh tế thương mại Trung Quốc –
Việt Nam được khôi phục và phát triển nhanh chóng. Kim ngạch thương mại giữa hai
nước từ hơn 30 triệu USD năm 1991 lên 22,5 tỷ USD năm 2009, tăng gấp gần 700 lần.
3


Trung Quốc đã trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam. Nhưng cùng với thương mại
song phương liên tục tăng trưởng, vấn đề mất cân bằng trong thương mại giữa hai nước
đã ngày càng bộc lộ, đặc biệt là vấn đề nhập siêu trong thương mại của Việt Nam với
Trung Quốc.
Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam ngày càng
tăng. Tính đến nay, Trung Quốc đã đầu tư vào Việt Nam 107 dự án còn hiệu lực với
tổng số vốn đầu tư theo đăng ký là 214,1 triệu USD, vốn thực hiện là 68,7 triệu USD.
Tuy nhiên, tình hình căng thẳng ở biển Đông trong những năm gần đây cũng ảnh
hưởng ít nhiều đến quan hệ thương mại giữa hai nước.

II.

Thực trạng và các vấn đề đặt ra trong quan hệ Việt Nam–Trung Quốc
1. Chính sách về phát triển kinh tế đối ngoại của hai nƣớc
a. Chính sách phát triển kinh tế - thương mại của Việt Nam đối với Trung
Quốc
Trong những năm đầu sau khi hai nước Việt Nam - Trung Quốc bình thường

hoá quan hệ (năm 1991), hoạt động giao lưu buôn bán hàng hoá đã bắt đầu có sự tăng
trưởng nhưng còn ở qui mô nhỏ, không ổn định. Về chính sách quản lý hoạt động kinh
tế đối ngoại của nhà nước ta còn nhiều bất cập chưa phù hợp với thực tiễn của hoạt
động kinh tế thương mại giữa hai nước; chính sách quản lý xuất nhập khẩu còn dựa

trên cơ chế cấp giấy phép chuyến đối với hoạt động xuất nhập khẩu do đó đã làm hạn
chế hoạt động giao lưu thương mại, không khuyến khích được các thành phần kinh tế
tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, khiến các thành phần kinh tế tham gia vào
hoạt động xuất nhập khẩu còn ở phạm vi hẹp. Thực tiễn cho thấy, cơ chế này một mặt
đã làm hạn chế phương thức kinh doanh xuất nhập khẩu theo thông lệ và tập quán quốc
tế mặt khác lại khuyến khích các thành phần kinh tế kinh doanh theo phương thức tiểu
ngạch biên giới, phương thức này lại hoàn toàn phù hợp với chiến lược phát triển kinh
tế biên mậu biên giới của Trung Quốc
4


Nhìn chung trong giai đoạn đầu sau khi hai nước bình thường hoá quan hệ, Nhà
nước ta chưa ban hành đầy đủ chính sách khung về buôn bán qua biên giới nên chưa có
cơ chế, chính sách cụ thể để quản lý điều hành hoạt động xuất nhập khẩu ở các cửa
khẩu biên giới. Trong điều kiện như vậy, hoạt động giao lưu kinh tế thương mại qua
biên giới Việt - Trung ta còn chịu thua thiệt hơn so với Trung Quốc.
Để đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế đối ngoại nói chung và phát
triển quan hệ kinh tế - thương mại với Trung Quốc nói riêng, ngày 15/12/1995, Chính
phủ đã ban hành nghị định số 89/NĐ về bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép chuyến đối với
hoạt động xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp được tự do kinh doanh xuất nhập khẩu
theo phạm vi ngành hàng trong giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do Bộ Thương
Mại cấp. Quyết định này tuy đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động xuất nhập
khẩu nhưng chưa thực sự khuyến khích được các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt
động xuất nhập khẩu. Đứng trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, năm
1997 Chính phủ đã ban hành luật thương mại và hàng loạt các văn bản pháp qui khác
nhằm điều chỉnh cơ chế quản lý hoạt động kinh tế, đặc biệt là kinh tế đối ngoại. Trong
đó nghị định số 57/NĐ-TTg của Chính phủ ban hành năm 1997 đã khuyến khích mọi
thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, tháo gỡ mọi trở ngại pháp
lý đối với hoạt động xuất nhập khẩu, từ thời điểm này các thành phần kinh tế đều được
tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, đồng thời, Nhà nước đã ban hành các chính

sách ưu đãi đặc biệt đối xuất khẩu và hạn chế dần nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng,
những mặt hàng mà trong nước đã sản xuất được.
Cùng với sự cải cách mạnh mẽ trong cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại, Chính
phủ đã ban hành một số chính sách ưu đãi đối với khu vực kinh tế cửa khẩu biên giới.
Đặc biệt, các quyết định 53/QĐ-TTg ngày 19/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về
chính sách đối với khu kinh tế cửa khẩu; Quyết định 186/2001/QĐ-TTg ngày
7/12/2001 về phát triển kinh tế-xã hội ở 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi biên giới
phía Bắc thời kỳ 2001 - 2005 là những cơ sở tiền đề quan trọng cho việc phát triển
quan hệ kinh tế thương mại Việt - Trung. Theo nội dung của quyết định 53/2001/QĐTTg của Chính phủ, nhà nước đặc biệt ưu đãi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu vực
5


cửa khẩu bằng nguồn vốn vay ưu đãi nhà nước, cho phép các tỉnh biên giới có số thu
ngân sách dưới 50 tỷ đồng/năm thì được đầu tư trở lại 100% để xây dựng cơ sở hạ
tầng, có số thu từ 50 tỷ đồng trở lên thì được đầu tư trở lại 50 tỷ đồng và 50% số thu
còn lại. Đối với thương mại du lịch cũng được đặc biệt quan tâm, các hoạt động thương
mại được hưởng các ưu đãi về buôn bán biên giới theo các văn bản nhà nước ta đã ký
kết với các nước láng giềng.
b) Chính sách phát triển kinh tế - thương mại của Trung Quốc đối với việt Nam
Trung Quốc có một hệ thống chính sách đối ngoại khá chặt chẽ, đặc biệt là chính
sách biên giới mềm, coi nặng lợi ích cục bộ, dân tộc. Hoạt động mậu dịch biên giới đối
với các nước có chung đường biên giới đặc biệt là Việt Nam được quản lý một cách
chặt chẽ và hệ thống từ Chính phủ cho tới các địa phương, có sự phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan hữu quan theo đúng tinh thần mà Quốc Vụ Viện đưa ra là
-

Khẩn trương định ra biện pháp quản lý đồng bộ, tích cực ủng hộ mậu dịch biên

giới.
-


Tăng cường sự lãnh đạo và quản lý dối với mậu dịch biên giới, thúc đẩy mậu

dịch
biên giới phát triển lành mạnh.
-

Điều chỉnh, quy phạm hoá các biện pháp chính sách mậu dịch biên giới theo

hướng thể chế hoá kinh tế thị trường Xã hội Chủ Nghĩa
-

Thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế khu vực biên giới, tăng cường đoàn kết

dân tộc, phồn vinh và ổn định vùng biên giới, củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị
láng giềng với các nước xung quanh.
Trong quan hệ buôn bán với các nước láng giềng, đặc biệt là với Việt Nam,
Trung Quốc xây dựng chiến lược biên mậu biên giới, đồng thời tiến hành hai hình thức
buôn bán chính ngạch và biên mậu, áp dụng các chính sách ưu đãi về thuế, nhằm phát
huy mọi lợi thế về địa lý để phát triển kinh tế vùng biên giới. Với chính sách thương
mại trên, vào đầu những năm 1990, Trung Quốc bắt đầu có sự thay đổi về chính sách
đối ngoại với Việt Nam. Tiếp theo sự tăng cường về quan hệ chính trị, Trung Quốc bắt
6


đầu coi trọng hợp tác kinh tế và thương mại với Việt Nam, nhất là sau khi Việt Nam ra
nhập ASEAN thì Trung Quốc coi Việt Nam là đối tác quan trọng trong khu vực.
Tóm lại, Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống chính sách điều hành hoạt động
kinh tế thương mại với Việt Nam theo các định hướng cơ bản sau:
-


Triệt để áp dụng hình thức buôn bán biên mậu, Chính phủ Trung Quốc dành

nhiều ưu đãi về thuế quan cho các Tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam. Hàng
hoá của các doanh nghiệp mậu dịch tiểu ngạch biên giới được miễn 50% thuế nhập
khẩu và thuế giá trị gia tăng; hàng hoá của cư dân biên giới nhập khẩu qua biên giới.
-

Xây dựng hoàn chỉnh chiến lược khai thác kinh tế Vịnh Bắc Bộ với dự kiến xây

dựng vòng cung kinh tế kết nối Dương Phố - Khâm Châu( Quảng Tây) với Hải Phòng
(Việt Nam ). Trung Quốc xây dựng mạng lưới giao thông đường sắt, đường bộ kết nối
toàn khu vực, tăng cường thăm dò, khai thác Vịnh Bắc Bộ.
-

Trung Quốc chủ trương sử dụng thị trường Việt Nam để bổ sung cho Tây Nam,

đồng thời sử dụng “chính sách biên giới mềm“ để kìm hãm kinh tế Việt Nam với các
nội dung như sau:
-

Lợi dụng biên giới trên bộ, trên biển để xuất hàng tồn kho, hàng kém phẩm chất

vào Việt Nam, đồng thời thu hút nguyên liệu, khoáng sản, lương thực, thực phẩm.
-

Một mặt Trung Quốc khuyến khích, tạo mọi điều kiện để xuất khẩu hàng hoá

(chủ yếu là hàng tiêu dùng chất lượng bình thường và thấp) sang Việt Nam. Mặt khác
lại sử dụng các biện pháp hạn chế bằng hạn ngạch, ép giá để gây sức ép với hàng xuất

khẩu của Việt Nam.

2. Quan hệ xuất nhập khẩu Việt Nam- Trung Quốc
a) Thương mại với Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thương mại Việt
Nam
-

Tình hình: Thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc gia tăng liên tục, mạnh

mẽ trong mười năm qua. Trong tổng thể, kim ngạch thương mại với Trung Quốc chiếm
20% tổng thương mại của Việt Nam. Trung Quốc chiếm 25% kim ngạch nhập khẩu và
10% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
7


Đánh giá: Việc Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thương mại của Việt

-

Nam không phải là trường hợp ngoại lệ và cũng không đương nhiên gắn với những
nguy cơ phụ thuộc. Theo thống kê thì Trung Quốc chiếm tới 24% tổng thương mại của
Hàn Quốc và 40% tổng thương mại của Đài Loan. Với Đài Loan, Hàn Quốc, với năng
lực cạnh tranh mạnh, dù Trung Quốc có chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thương mại, các
khu vực này vẫn không phải quan ngại về vấn đề phụ thuộc kinh tế với Trung Quốc.
Tuy nhiên, Việt Nam lại có năng lực cạnh tranh thấp, và do đó mức độ ảnh hưởng của
một thị trường chiếm 20% thương mại Việt Nam lớn hơn và khả năng thoát khỏi ảnh
hưởng của Việt Nam cũng thấp hơn tương ứng. Những biến động từ đối tác này, nếu
có, sẽ ảnh hưởng trực tiếp và tức thời tới thương mại Việt Nam, với mức độ lớn nhỏ
khác nhau tùy thuộc vào từng ngành kinh tế.
Kim ngạch XNK hàng hoá Việt Nam – Trung Quốc giai đoạn 2010-2014 (Đơn vị

tính: Triệu USD)
Chỉ tiêu

So sánh

2010

Kim

Tổng số

157.075

203.654 228.309 263.475 283.400

ngạch Trung Quốc

24.947

36.479

41.144

49.907

58.500

XNK Tỷ trọng(%)

17,8


17,9

18,0

18,9

20,6

72.236

96.905

114.529 132.175 150.200

7.743

11.613

12.388

13.105

14.800

Tỷ trọng(%)

10,7

11,9


10,8

9,9

9,8

Tổng số

84.839

106.749 113.780 131.300 133.200

20.204

24.866

28.786

36.802

43.700

23,8

23,3

25,3

28,1


32,8

Kim

Tổng số

ngạch Trung Quốc

2011

2012

2013

2014

xuất
khẩu
Kim

ngạch Trung Quốc
nhập
khẩu

Tỷ trọng(%)

(Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ công thương, tính toán theo số liệu Thời báo kinh tế
Việt Nam)


8


b) Tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc

Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chủ yếu là nhóm hàng
nông - lâm - thủy sản, chiếm tỷ trọng 31,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam sang Trung Quốc và chiếm tỷ trọng 20,9% trong tổng kim ngạch xuất
khẩu nhóm hàng này của cả nước. Năm 2013, Việt Nam bán xấp xỉ 2,2 triệu tấn gạo
chính ngạch, chiếm tới 33% trong tổng số 6,6 triệu tấn sang Trung Quốc. Nếu cộng
thêm khoảng 1,4 triệu tấn đi qua đường biên giới thì Trung Quốc trở thành thị trường
nhập gạo số 1 của Việt Nam, với gần 50% sản lượng.
Tiếp đến là nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, chiếm 15,9%.
Nhóm hàng dệt may, giày dép các loại chiếm gần 13,0%.
Nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản chiếm khoảng 10,0%; còn lại là các nhóm
hàng hóa khác.
Thực tế cho thấy, xuất khẩu nông sản của Việt Nam đang phụ thuộc rất nhiều vào
thị trường Trung Quốc. Trong thời gian qua, nhiều loại nông sản của Việt Nam xuất
9


khẩu sang Trung Quốc gặp khó khi các thương nhân Trung Quốc đột ngột ngừng thu
mua nhằm mục đích ép giá hoặc thực hiện chỉ đạo của Chính phủ Trung Quốc nhằm
gây khó khăn và tạo sức ép về kinh tế đối với Việt Nam. Nói cách khác, khi cần thiết,
các hoạt động kinh tế - thương mại này sẽ được sử dụng như đòn đánh về kinh tế để hỗ
trợ cho các yêu sách về lãnh thổ.
c) Nhập siêu từ Trung Quốc

Biểu đồ 1: Tỉ trọng xuất khẩu, nhập khẩu với Trung Quốc trong tổng xuất khẩu
và nhập khẩu của Việt Nam qua các năm

Biều đồ 1 cho thấy, Việt Nam chưa cải thiện được nhiều về xuất khẩu sang
Trung Quốc nhưng lại gia tăng mạnh về nhập khẩu từ quốc gia này. Nói cách khác,
Việt Nam đang phụ thuộc ngày càng nhiều vào nhập khẩu từ Trung Quốc. Trong giai
đoạn 2000 - 2013, tỉ trọng xuất khẩu sang Trung Quốc chỉ dao động trong khoảng trên
dưới 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, nhưng tỉ trọng nhập khẩu đã tăng
từ 10% lên mức 28% trong cùng thời gian. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt
Nam, trong năm 2013 Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc khoảng 13 tỉ USD và
10


nhập khẩu trở lại gấp gần 3 lần với con số 37 tỷ USD, sự chênh lệch này được dự tính
sẽ lớn hơn trong tương lai. Năm 2013, tỉ trọng nhập khẩu và xuất khẩu của Việt Nam
sang Trung Quốc lần lượt là 10,2% và 28%.

Biểu đồ 2: Tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam – Trung Quốc giai đoạn 2010 đến
2014
Trên thực tế, từ năm 2001 Việt Nam bắt đầu nhập siêu từ Trung Quốc với quy
mô không ngừng tăng qua các năm với tốc độ chóng mặt, từ xấp xỉ 200 triệu đô la Mỹ
năm 2001 lên 23,7 tỉ đô la Mỹ năm 2013. Cần lưu ý, tổng nhập siêu của Việt Nam, sau
khi đạt đỉnh 18 tỉ đô la Mỹ vào năm 2008, bắt đầu xu thế giảm xuống từ năm 2009 đến
nay, thậm chí năm 2012 và 2013 Việt Nam còn chuyển sang xuất siêu. Trong khi đó,
chỉ riêng nhập siêu từ Trung Quốc 3 không những không giảm mà vẫn tiếp tục tăng
mạnh. Theo các số liệu từ Hải quan Việt Nam, trong năm 2013, Việt Nam đã nhập
khẩu lượng hàng hóa trị giá 36,95 tỷ USD từ Trung Quốc, tương đương 28% tổng giá
trị hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam. Năm 2013, Việt Nam đã xuất khẩu lượng hàng
hóa trị giá 13,3 tỷ USD sang Trung Quốc – tương đương 10% tổng giá trị hàng xuất
khẩu của Việt Nam. Trong khi đó, theo nhận định của Tổ chức Thương mại Thế giới
11



(WTO), nếu một nước chiếm quá 10 - 11% thị phần của nước khác thì còn có nguy cơ
bị nước đó kiện về việc làm lũng đoạn thị trường hoặc chiếm lĩnh thị phần quá lớn.

Nguyên nhân của tình trạng nhập siêu từ Trung Quốc gia tăng mạnh
-

Thứ nhất, hàng Trung Quốc (từ máy móc thiết bị đến nguyên phụ liệu hay hàng

tiêu dùng), hầu hết đều có giá rất rẻ do chi phí nhân công của Trung Quốc thuộc vào
loại thấp nhất thế giới. Bên cạnh đó, Trung Quốc vẫn duy trì chính sách hỗ trợ xuất
khẩu dưới nhiều hình thức khác nhau. Với giá rẻ, mẫu mã và chủng loại phong phú, đa
dạng, hàng tiêu dùng Trung Quốc được nhiều người tiêu dùng Việt Nam, đặc biệt
người thu nhập thấp chấp nhận. Nguyên phụ liệu từ Trung Quốc được nhập khẩu nhiều
cũng do giá rẻ, nhất là khi Việt Nam chưa có ngành công nghiệp phụ trợ đủ mạnh để
cung cấp nguyên phụ liệu cho các ngành gia công xuất khẩu. Máy móc thiết bị giá rẻ
của Trung Quốc được nhiều doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn, nhất là các doanh
nghiệp nhỏ và vừa do khả năng tài chính hạn chế của họ.
-

Thứ hai, khả năng cạnh tranh kém của hàng Việt Nam. Xét cả về giá cả và chất

lượng, nhiều sản phẩm của Việt Nam khó thâm nhập được vào thị trường Trung Quốc.
Ngoài ra, hầu hết hàng Việt Nam chưa có tên tuổi và thương hiệu trên thị trường quốc
tế, nên lại càng khó cạnh tranh.
-

Thứ ba, trong cơ cấu sản phẩm trong thương mại Việt - Trung, Việt Nam chủ

yếu xuất sang Trung Quốc khoáng sản, nông lâm thủy sản (chiếm trên 70% tổng kim
ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc). Đây là các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp, giá cả

lại bấp bênh và thường có xu hướng giảm, giá so sánh tương đối thấp so với các sản
phẩm chế biến - chế tạo. Trong khi đó, các sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc chủ
yếu là hóa chất, sản phẩm chế tác cơ bản, máy móc thiết bị, chiếm trên 80% tổng nhập
khẩu từ Trung Quốc.
-

Thứ tư, Việt Nam hầu như không có hàng rào kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu

Trung Quốc, từ yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với phẩm đến các tiêu chuẩn
kỹ thuật, an toàn sử dụng đối với máy móc, thiết bị, đồ gia dụng. Do đó, hàng hóa của
12


Trung Quốc bất kể chất lượng, phẩm cấp thế nào vẫn có thể nhập khẩu dễ dàng vào
Việt Nam. Trong khi đó, ngoài hàng rào kỹ thuật, Trung Quốc còn yêu cầu hàng Việt
Nam xuất sang Trung Quốc buộc phải qua một số cửa khẩu do Trung Quốc chỉ định để
dễ kiểm soát (như hải sản chỉ được đi qua Móng Cái; cao su chỉ được đi qua Móng Cái,
Lục Lầm; hoa quả tươi chỉ được qua Lào Cai, Lạng Sơn).
3. Hoạt động nhà thầu của Trung Quốc tại các dự án lớn của Việt Nam
-

Tình hình: Theo thống kê thì các nhà thầu Trung Quốc đang là tổng thầu EPC

(là Hợp đồng thiết kế, cung cấp thiết bị công nghệ và thi công xây dựng công trình) của
5/6 dự án hóa chất, 2/2 dự án khai thác chế biến bô-xít, 49/62 dự án xi măng… Riêng
trong lĩnh vực nhiệt điện, có 21/36 dự án mà nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu EPC
với công suất lắp đặt chiếm khoảng 55,3% tổng công suất các nhà máy lắp đặt theo các
dự án này.
-


Đánh giá: Các dự án mà doanh nghiệp Trung Quốc làm tổng thầu EPC là những

dự án lớn, hiệu quả của các dự án này có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến nền kinh tế,
đặc biệt là các dự án liên quan tới năng lượng. Điều này khiến cho một phần đáng kể
trong nguồn cung năng lượng và các hoạt động của nền kinh tế nước ta phụ thuộc vào
năng lực, chất lượng và hiệu quả hoạt động của các nhà thầu Trung Quốc.
Cũng từ hiện trạng này, các doanh nghiệp Việt Nam mất cơ hội tham gia vào
các dự án lớn này. Phần lớn các dự án mà doanh nghiệp Trung Quốc làm tổng thầu sử
dụng toàn bộ vật tư, nguyên liệu, máy móc thiết bị Trung Quốc với công nghệ, công
suất và hiệu quả hạn chế. Tình trạng này một mặt làm trầm trọng hơn tình trạng nhập
siêu từ Trung Quốc vào Việt Nam, mặt khác mang tới những rủi ro về chất lượng và
hiệu quả vận hành của các nhà máy sau khi xây dựng. Ngoài ra, việc giao tổng thầu
EPC cho nước ngoài cũng khiến cho các doanh nghiệp ngành cơ khí của Việt Nam mất
đi cơ hội được tham gia vào các dự án lớn, kéo theo đó là mất đi cơ hội lợi nhuận, việc
làm cho người lao động và sự phát triển của ngành cơ khí. Nhiều dự án mà doanh
nghiệp Trung Quốc làm tổng thầu sử dụng hàng ngàn lao động Trung Quốc, trong đó
đa phần là các lao động phổ thông. Tình trạng này vi phạm nghiêm trọng pháp luật lao
13


động của Việt Nam về các điều kiện đối với lao động nước ngoài, đồng thời làm mất đi
cơ hội việc làm và thu nhập của hàng ngàn người lao động Việt Nam.

4. Vấn đề biển Đông và những tác động của nó đến quan hệ giữa hai nƣớc
a) Tóm tắt tình hình Biển Đông
Tình hình Biển Đông trong thời gian qua diễn biến rất phức tạp. Có thể thấy, các
hành động quá đáng của Trung Quốc đối với các quốc gia trên vùng Biển Đông mà cụ
thể là Việt Nam trong thời gian qua như: Vạch đường lưỡi bò chiếm khoảng 80% diện
tích vùng Biển Đông; thành lập thành phố Tam Sa có trụ sở đóng trên đảo Phú Lâm
thuộc quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm vào năm 1974;

gọi thầu những lô thăm dò dầu khí ngay trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam;
ngang nhiên cắt cáp tàu Bình Minh và Viking II; rượt bắt tàu thuyền của ngư dân Việt
Nam đang đánh bắt trên vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia; cấm đánh cá có thời
hạn (từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm) trên vùng Biển Đông. Các sự kiện nguy hiểm
gần đây là việc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trên vùng biển thuộc chủ quyền của
Việt Nam; đâm va tàu kiểm ngư của Việt Nam; xuất bản bản đồ lãnh thổ Trung Hoa
khổ dọc thể hiện đường lưỡi bò gồm 10 đoạn bao trùm gần như toàn bộ vùng Biển
Đông; khởi công xây dựng trường học, nhà ở trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng
Sa của Việt Nam; tiếp tục mở rộng, xây dựng và thay đổi nguyên trạng một số điểm tại
quần đảo Trường Sa của Việt Nam…
b) Tác động của vấn đề Biển Đông đến quan hệ thương mại Việt Trung và
nền kinh tế Việt Nam
Việc Trung Quốc hạ đặt trái phép vào vùng biển của Việt Nam đã tác động lớn
đến đời sống kinh tế của Việt Nam, chúng ta mất từ 1 – 1,5 tỷ USD, tương ứng khoảng
0,7% GDP của đất nước Tác động của sự kiện này không có tính trực tiếp mà chủ yếu
gián tiếp đến các ngành và lĩnh vực trong đó nặng nề nhất là ngành du lịch và nông,
thủy hải sản xuất khẩu. Đặc biệt, lĩnh vực du lịch chịu tổn thất lớn do lo ngại từ khách
du lịch quốc tế bởi tình hình bất ổn tại biển Đông. Theo thống kê, từ tháng 5 – 6/2014,
14


18 khách sạn lớn nhất ở Việt Nam, số lượng khách du lịch hủy tour là 10%, từ tháng 6
– 7/2014 là 30%, gây thiệt hại khoảng 18 triệu USD cho ngành du lịch
Với quy mô nền kinh tế nhỏ hơn và bất lợi khi phụ thuộc thị trường với Trung
Quốc ở 1 số ngành chúng ta rõ ràng bị ảnh hưởng. Chúng ta bị ảnh hưởng lớn từ mậu
dịch khi tâm lý doanh nghiệp hai nước nghi ngại và một số đơn hàng bị hủy. Tuy
nhiên, đây chỉ là vấn đề “thời vụ” vì rất nhiều DN Trung Quốc đã trở lại giao thương
ngay sau đó với DN Việt Nam.
Bên cạnh đó, tác động của việc hạ đặt giàn khoan Hải dương 981 có ảnh hưởng
nhiều đến hoạt động của một số doanh nghiệp sản xuất của Hồng Kông, Đài Loan,

Singapore tại Việt Nam khi một số cơ sở sản xuất tại các Khu công nghiệp của các
doanh nghiệp này bị đập phá. Tuy nhiên, sau đó chúng ta đã có những biện pháp khắc
phục kịp thời và được nhiều tổ chức quốc tế và chuyên gia đánh giá cao. Góc nhìn của
các nhà đầu tư nước ngoài vẫn đánh giá tốt về tiềm năng của Việt Nam và coi vấn đề
này chỉ ngắn hạn.
Xét về tổng thể, Việt Nam chỉ ảnh hưởng ở thương mại, còn đầu tư, chúng ta
không bị ảnh hưởng nhiều bởi vốn FDI của Trung Quốc vào Việt Nam không nhiều và
Trung Quốc cũng chỉ thặng dư với Việt Nam lớn ở mậu dịch.
5. Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ và sự tác động đến kinh tế Việt
Nam
Mới đây, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) đã bất ngờ giảm giá đồng
nội tệ của nước này xuống 2% so với USD sau một loạt số liệu cho thấy nền kinh tế
đang tăng trưởng giảm sút, đồng thời đưa giá đồng nhân dân tệ xuống đáy 3 năm.
Ngày 11/8, PBOC đã có thông báo tăng tỷ giá trung bình USD-CNY (cố định)
từ 6,1162 lên 6,2298, tương đương mức tăng giá gần 2% của đồng nhân dân tệ. Đây là
đợt điều chỉnh mà thị trường đã chờ đợi từ lâu và động thái này sẽ giúp tỷ giá phản ánh
đúng hơn cung cầu thực do giá USD đã tăng mạnh trong thời gian qua.
Điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh tế của Trung Quốc,
nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Những đồng tiền của các nền kinh tế mới nổi khác
15


cũng đang giảm giá trị, vì thế việc cạnh tranh về giá của những nhà xuất khẩu Trung
Quốc là điều không phải dễ dàng. Xuất khẩu Trung Quốc giảm một cách đáng ngạc
nhiên và bị đình trệ, hàng triệu người công nhân, và hàng nghìn công ty đang phải chịu
nỗi đau trước hậu quả của sự giảm sút kinh tế, khi doanh số trượt dốc, thu nhập cũng
sụt giảm. Thị trường chứng khoán Trung Quốc sụt giảm mạnh sau nhiều năm hình
thành bong bóng và dòng vốn đầu tư bị rút ra ồ ạt.
Tại Việt Nam, ngày 12/8/2015, Ngân hàng nhà nước Việt Nam (NHNN) đã điều
chỉnh tăng biên độ tỷ giá từ mức +/-1% lên +/-2%. Tuy nhiên, ngày 19/8/2015, NHNN

công bố điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng Việt Nam và USD
áp dụng cho ngày 19/8/2015 từ mức 21.673 VND/USD lên 21.890 VND/USD (mức
điều chỉnh tăng 1%), đồng thời điều chỉnh tăng biên độ tỷ giá từ +/-2% lên +/-3%. Diễn
biến thị trường trong nước, quốc tế và ngay tại Trung Quốc những ngày sau đó cho
thấy đây là một giải pháp kịp thời, phù hợp với tình hình thực tế và được dư luận đánh
giá tích cực. Sau hai lần điều chỉnh tỷ giá, đồng Việt Nam có dư địa đủ lớn để linh hoạt
trước các diễn biến bất lợi trên thị trường quốc tế và trong nước không chỉ từ nay đến
cuối năm mà cả những tháng đầu năm 2016, tạo sự ổn định vững chắc cho thị trường
ngoại tệ và đảm bảo khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.
Về cán cân thương mại, Trung Quốc là nước có tỷ trọng thương mại lớn nhất
của Việt Nam. Hiện nay thâm hụt cán cân thương mại của Trung Quốc đối với Việt
Nam là rất lớn (-~17 tỷ USD). Do đó, việc điều chỉnh này của NHNN có tác động tích
cực đến xuất khẩu, hạn chế việc gia tăng thâm hụt cán cân thương mại với Trung Quốc
cũng như cán cân thương mại chung.
Mặt khác, sự phá giá đồng Nhân Dân Tệ của Trung Quốc cũng ảnh hưởng tới
nền kinh tế của Việt Nam. Ảnh hưởng lớn nhất là xuất khẩu của Việt Nam vào Trung
Quốc. Hàng hóa Việt Nam trở nên đắt hơn tại Trung Quốc, sức cạnh tranh của hàng
Việt Nam tại Trung Quốc giảm, ảnh hưởng nhất định đến xuất khẩu của Việt Nam
nhưng những nhà nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc lại được lợi. Ta đang nhập khẩu
nhiều công nghệ, thiết bị từ Trung Quốc. Tuy nhiên nếu xuất khẩu sang các nước châu
Á thì bất lợi vì không chỉ Trung Quốc, các nước châu Á khác cũng buộc phải phá giá
16


đồng tiền, do đó ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam. Thâm hụt thương mại giữa
Việt Nam và Trung Quốc có thể tăng lên. Việc điều chỉnh này của Trung Quốc chưa có
ảnh hưởng lớn đến dòng vốn đầu tư.

III.


Định hướng và giải pháp phát triển quan hệ thương mại Việt Nam –
Trung Quốc trong thời gian tới

1. Bối cảnh mới tác động đến quá trình phát triển quan hệ thƣơng mại Việt
Nam – Trung Quốc trong thời gian tới
Trong thập niên thứ hai của thế kỷ XXI (2011 – 2020), hòa bình, hợp tác và
phát triển vẫn là xu hướng chủ đạo trên thế giới, tuy nhiên sẽ có những diễn biến ngày
càng phức tạp, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường… Cục diện thế giới đa cực ngày càng
rõ hơn, xu thế dân chủ hóa trong quan hệ kinh tế tiếp tục phát triển, nhưng các nước
lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ kinh tế quốc tế
Có thể dự báo là trong 10 năm tới, Trung Quốc vẫn cần một thế giới hòa bình
hợp tác, cùng phát triển, đó vẫn sẽ là xu hướng chủ đạo trong việc Trung Quốc lợi
dụng thế giới để vươn lên thành siêu cường thế giới. Biển Đông sẽ vẫn là vấn đề nóng
trong quan hệ Việt – Trung. Mặc dù vậy, Trung Quốc chưa dám manh động dùng vũ
lực với Biển Đông vì như vậy sẽ phá hủy tất cả các thành quả mà Trung Quốc đã đạt
được sau 30 năm cải cách và mở cửa, đồng thời phá hủy tương lai “phát triển hòa bình”
để dành quyền lãnh đạo thế giới thay Mỹ. Do vậy, tuy có những bất đồng trên Biển
Đông nhưng trong những năm tới, quan hệ thương mại Việt Nam – Trugn Quốc vẫn sẽ
tiếp tục phát triển.
2. Định hƣớng phát triển quan hệ thƣơng mại giữa Việt Nam – Trung Quốc
trong nhƣng năm tới
Với phương châm là tận dụng tối đa cơ hội từ sự phát triển của Trung Quốc để
tăng kim ngạch xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, xử lý tốt các vấn đề tranh chấp thương
17


mại, trao đổi thương mại trên cơ sở quan hệ kinh doạnh thương mại bình đẳng theo
đúng khuôn khổ WTO, những định hướng lớn phát triển thương mại Việt Nam với
Trung Quốc là:
a. Định hướng xuất khẩu

Thứ nhất, năm 2014, mức tăng trưởng của Trung Quốc xuống mức thấp nhất
trong vòng 24 năm trở lại đây. Việc nền kinh tế này chậm bước lại, đồng thời với xu
hướng chuyển dịch của GDP theo hướng tăng tiêu dùng hộ gia đình sẽ có ảnh hưởng
mạnh tới các nhà xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, đặc biệt là đối với nguyên liệu
thô.
Tận dụng sự thiếu hụt về nguyên liệu và một số hàng hóa khác như nông sản,
thủy sản để tăng cường xuất khẩu sang thị trường này.
Một số mặt hàng xuất khẩu trọng điểm: Xơ, sợi dệt các loại, Sắn và các sản
phẩm từ sắn, Gạo, Gỗ và sản phẩm gỗ, Cao su, Giày dép các loại, Hàng thủy sản, Hàng
dệt, may, Hàng rau quả, Hạt điều, Thức ăn gia súc và nguyên liệu, Túi xách, ví, vali,
mũ, ô, dù, Cà phê, Sản phẩm từ cao su, Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc
Thứ hai, định hướng các khu vực, thị trường xuất khẩu quan trọng:
-

Quảng Tây, Vân Nam và các tỉnh/ thành phố miền Tây Trung Quốc (Tứ
Xuyên, Trùng Khánh, Quý Châu)

-

Các tỉnh miền Đông Trung Quốc như: Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam,
Thượng Hải, Bắc Kinh, Chiết Giang, Sơn Đông

-

Đại Liên, Thành Đảo (đối với thủy sản)

b. Định hướng nhập khẩu
Định hướng nhập khẩu một số mặt hàng chủ đạo
-


Nhóm hàng nguyên nhiên liệu, vật tư

-

Nhóm hàng công nghiệp

-

Nhóm hàng tiêu dùng

18


c. Định hướng về xử lý nhập siêu
Thứ nhất, phát hiện quan hệ thương mại Việt -Trung theo hướng cân bằng kim
ngạch xuất nhập khẩu. Hiện nay Việt Nam vẫn nhập siêu từ Trung Quốc rất lớn (2013:
nhập siêu 23,7 tỷ USD, 2014: 28,9 tỷ USD), dường như toàn bộ kim ngạch nhập siêu
của Việt Nam đều từ Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam cần chủ động đàm phán với
Trung Quốc về việc cân bằng cán cân thương mại này theo hướng Trung Quốc sẽ phải
gia tăng nhập khẩu thêm các hàng nông sản, hàng công nghiệp của Việt Nam. Đồng
thời, Trung Quốc tăng đầu tư trực tiếp vào Việt Nam để sản xuất và xuất khẩu hàng
hoá trở lại Trung Quốc, điều chỉnh tỷ giá theo hướng có lợi cho hàng xuất khẩu của
Việt Nam sang Trung Quốc. Cần thoả thuận với Trung Quốc về các giải pháp khắc
phục các hoạt động thương mại không lành mạnh (buôn gian bán lận, hàng giả, hàng
nhái, hàng kém chất lượng, hàng rau quả, thực phẩm có chất độc hại,..)
Thứ hai, tăng cường và nâng cao hiệu quả liên kết hợp tác giữa các doanh
nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp của Trung Quốc và các nước khác trong sản
xuất và xuất khẩu nhằm thúc đẩy Việt Nam chuyển đổi nhanh từ mô hình gia công, lắp
ráp theo mô đun sang mô hình tích hợp sản xuất và phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ
trong chế biến hàng nông, lâm, thuỷ sản, công nghiệp dệt may, ôtô, xe máy, điện tử,…

và do đó sẽ hướng tới giảm nhập siêu từ Trung Quốc trong tương lai gần.
3. Giải pháp phát triển quan hệ thƣơng mại Việt Nam – Trung Quốc trong
thời gian tới
-

Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi
mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước, duy trì ổn định kinh
tế xã hội

-

Giải quyết những bất đồng trên Biển Đông với Trung Quốc

-

Tăng tốc xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là khu vực cửa khẩu biên giới, từ đó
ngăn chặn tối đa hiện tượng buôn lậu, lành mạnh hóa hoạt động thương mại.
Để thực hiện tốt giải pháp này, ta cần thực hiện ít nhất các nội dung sau:
19


 Xây dựng khẩn cấp cơ chế kiểm soát buôn lậu hiệu quả
 Tăng cường lực lượng và nguồn lực cho việc kiểm soát tình trạng
buôn lậu (cả xuất – nhập khẩu)
 Cải cách thủ tục hành chính triệt để về thuế, hải quan, đảm bảo thông
quan nhanh chóng, thuận lợi cho hàng hóa xuất khẩu
 Xử lý nghiêm, triệt để các trường hợp vi phạm (cả thương nhân và
cán bộ Nhà nước)
 Các địa phương khu vực biên giới tạo điều kiện giải quyết việc làm
cho một bộ phận cư dân biên giới hiện đang bị các đối tượng buôn lậu

lợi dụng để “buôn lậu” hợp pháp bằng việc sử dụng thẻ cư dân biên
giới để vận chuyển hàng thuê qua biên giới.
-

Triệt để cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động xuất nhập khẩu giúp
tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó nâng cao sức
cạnh tranh của doanh nghiệp; đồng thời khuyến khích việc xuất nhập khẩu
với các thị trường khác (chứ không chỉ tập trung ở thị trường Trung Quốc
với cơ chế tiểu ngạch dễ dàng) nhờ thủ tục thuận lợi, nhanh chóng hơn.

-

Xem xét lại chính sách nhập khẩu tiểu ngạch
Chính sách về xuất nhập khẩu tiểu ngạch trước đây được thiết kế với mục
tiêu tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, mua bán hàng hóa nhỏ giữa người
dân hai biên giới. Tuy vậy, cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế và
hội nhập kinh tế quốc tế, cơ chế xuất nhập khẩu tiểu ngạch đã không giữ
được mục tiêu ban đầu do tình trạng lạm dụng cơ chế này để trốn thuế của
các thương nhân trong khi nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt của người dân biên
giới lại hoàn toàn có thể thỏa mãn được thông qua các khu vực thương mại
tập trung thông thường

-

Đa dạng các mặt hàng xuất khẩu, ưu tiên đầu tư phát triển các mặt hàng xuất
khẩu chủ lực. Giải pháp này cần được triển khai bằng cách:
 Điều chỉnh cơ chế xuất nhập khẩu tiểu ngạch theo hướng hạn chế dần
(thắt chặt các điều kiện được phép sử dụng cơ chế tiểu ngạch)
20



 Tiến tới xóa bỏ hoàn toàn cơ chế tiểu ngạch, chỉ còn duy nhất và
thống nhất cơ chế xuất nhập khẩu thông thường
-

Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa, hỗ trợ và khuyến khích xuất
khẩu

-

Chủ động thực hiện tốt công tác thị trường, thông tin, xúc tiến thương mại

-

Thanh tra kiểm tra việc thực hiện quy định của pháp luật Việt Nam của nhà
thầu nước ngoài (đặc biệt là nhà thầu Trung Quốc). Bên cạnh đó, xử lý
nghiêm khắc các trường hợp vi phạm theo đúng quy định của pháp luật (đặc
biệt đối với các trường hợp vi phạm pháp luật lao động)

IV- Kết luận
-

Quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc trong thời gian vừa qua đã đạt
được những thành tựu đáng ghi nhận trong kim ngạch thương mại hai chiều.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập khó giải quyết:
cán cân thương mại mất cân đối, tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại chưa
được ngăn chặn, cơ cấu hàng xuất nhập khẩu chưa hợp lý,…

-


Mặc dù có những hạn chế lớn trong quan hệ thương mạ giữa hai nước nhưng
dưới sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế cũng như
những tiến trình cải cách kinh tế của hai nước trong thời gian qua cho phép
chúng ta tin tưởng rằng trong tương lai quan hệ thương mại Việt Nam – Trung
Quốc sẽ phát triển lành mạnh theo chiều sâu. Có như vậy mới đáp ứng nhu cầu,
nguyện vọng của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước đặt ra.
Tóm lại, hai nước cần phải thúc đẩy phát triển quan hệ thương mại song phương

bằng thái độ tích cực. Phía Việt Nam cần có thái độ và cái nhìn khach squan, lý tính,
toàn diện và dài lâu để nhìn nhận vấn đề mất cân bằng trong thương mại giữa hai nước
Việt – Trung, khai thách hết tiềm lực của mỗi bên, tăng cường hợp tác, chứ không phải
21


là hạn chế hoặc khống chế nhập khẩu từ Trung Quốc để tránh bỏ lỡ cơ hội làm ăn do
nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng nhanh mang lại. Từ nay trở đi, cùng với sự hợp tác
song phương sâu rộng, sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam sẽ được nâng cao. Vấn
đề nhập siêu thương mại với Trung Quốc và thế giới nói chung của Việt Nam được giải
quyết.

22



×