1
Xuân Diệu không chỉ nổi tiếng là "Ông Hoàng thi ca" của Thơ Mới, mà còn là "Vua thơ
tình". Cái ngai thơ ấy liệu có sụp đổ, nếu giờ đây người đọc biết rằng nàng thơ của thi
nhân lại là một đấng mày râu? Những cặp tình nhân dị giới yêu thơ ông liệu có cảm thấy
mình bị phản bội? Hơn nữa, liệu đây có phải là "chuyện cá nhân" của nhà thơ, mà luật
bảo vệ quyền được riêng tư cấm mọi xâm phạm?
Năm 1985. Một sáng đầu đông. Se lạnh. Bầu trời như một tấm màn xám rũ xuống thành
phố. Một đám tang từ từ tiến dọc phố Trần Hưng Đạo. Xe tang chất đầy hoa trắng cho
biết người chết là một trai tân, nhưng sau xe, cạnh quan tài, lại có một thiếu phụ chít
khăn trắng theo kiểu trở tang chồng. Đó là đám tang nhà thơ Xuân Diệu.
2
Thế hệ tôi, học sinh nông thôn những năm 60 thế kỷ trước, trừ bài Ngói mới trong sách
giáo khoa, hầu như không biết gì về thơ Xuân Diệu, đặc biệt là thơ tình của thi nhân.
Thời ấy, tình yêu lãng mạn gần như một cấm kỵ.
Chỉ mãi đến cuối thập niên này, khi đã quen với Nguyễn Đăng Mạnh ở nơi sơ tán
trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội, tôi mới được ông cho xem cuốn sổ tay
chép đầy thơ tình Xuân Diệu sau 45. Những bài thơ chưa (hoặc không) được xuất bản.
Tôi đặc biệt ấn tượng với những bài Đời anh em đã đi qua, Ngọn đèn bên cửa sổ... Rồi
bài Biển do chính tay nhà thơ chép tặng nhà phê bình, có kèm theo lời ghi chú: "Đây
mới chính là Xuân Diệu!".
Đầu năm 1970, khi trường từ Thanh Miện, Hải Dương chuyển về Cầu Giấy, mỗi buổi
chiều tôi đều đạp xe sang Thanh Xuân, vào thư viện khoa Văn Tổng hợp, đọc nhờ "sách
đọc hạn chế": Thơ Mới và văn xuôi Tự lực Văn đoàn. Thế là tôi được tiếp xúc Thơ Thơ
và Gửi hương cho gió của Xuân Diệu.
Cả một thế giới đầy ánh sáng, âm thanh, màu sắc, hình khối, nhịp điệu ùa vào không
gian hoang dã hồn tôi. Điều sốc nhất, với những chàng sinh viên yêu thơ Ônga Becgôn
và văn Pautôpxki thuở ấy, là những bài tình được Xuân Diệu tỏ bày một cách trực tiếp
bằng một giọng điệu van vỉ, thiết tha. Tôi mường tượng đến những trang tuyệt sắc giai
nhân đã từng là cội nguồn sáng tạo của thi nhân...
3
Người đàn bà trên xe tang ấy là nữ đạo diễn Bạch Diệp. Người hâm mộ thơ Xuân Diệu,
cảm thương cuộc đời thi nhân, đã tình nguyện sống với nhà thơ như một người tình,
người vợ. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, Bạch Diệp rút lui. Xuân Diệu rất đau khổ:
Từ nay anh lại trên đời
Bữa cơm lại với một đôi đũa cầm,
Giường kia một chiếu anh nằm,
Phòng văn một bóng đăm đăm sớm chiều.
Muôn ngàn cảm tạ em yêu
Chất cho anh được bao nhiêu ân tình,
Cho hay anh đã để dành
Nén hương một thuở thơm thanh suốt đời,
Sống bằng nhớ lại nguồn vui.
Nhớ khi ôm cả đất trời cùng em.
Vụt qua cuộc đời Xuân Diệu như một luồng sáng, Bạch Diệp đã để lại cho thi nhân một
chiếc lá vĩnh cửu. Vậy mà, về sau, tôi lại nghe nói khúc thương tâm này của Xuân Diệu
không phải dành cho Bạch Diệp, mà Hoàng Cát.
Nhà báo trẻ, điển trai này cũng rất hâm mộ Xuân Diệu và được thi nhân thâu nhận làm
em nuôi. Sau sự cố Cây táo ông Lành đụng đến đại gia thơ Tố Hữu, nên anh bị/được đi
B. Xuân Diệu có nhiều bài thơ tiễn Cát đã đăng báo, chỉ riêng bài này là còn ém ở sổ
tay. Kể từ lúc hai người quen nhau đến lúc Cát đi chiến trường là đúng bốn năm.
Bốn năm, nhưng cũng qua mau,
Cõi trần ai được ở lâu thiên đường.
Giã từ, từ biệt, đôi phương,
Đôi nơi, đôi ngả, đôi đường, khổ anh
Bốn năm lại khép trời xanh
Nhớ em như một mộng lành mà thôi...
Thế là, bài thơ tình ai cũng tưởng là nam nữ bây giờ thành nam nam; và người em nuôi
của Xuân Diệu hóa ra người bạn trai của nhà thơ. Nhưng Hoàng Cát, có lẽ, chỉ là một
trong nhiều vì sao nhỏ bị hút vào ngôi sao lớn Xuân Diệu.
Còn một hành tinh khác, cùng tầm cỡ, cặp với Xuân Diệu là nhà thơ Huy Cận, bạn và
em rể thi nhân. Họ trở thành một ngôi sao đôi, vừa tự quay quanh mình vừa quay xung
quanh nhau, cứ thế đi suốt quỹ đạo đời mình.
Trong một xã hội ít thông tin, hoặc nếu có lại là thông tin miệng, nghe thì nghe vậy mà
tôi vẫn bán tin. Chỉ mãi đến khi đọc hồi ký Cát bụi chân ai của nhà văn Tô Hoài, tôi mới
tin hẳn. Cùng sống với nhau ở Việt Bắc, Xuân Diệu đã quyện Tô Hoài. "Dịu dàng âu
yếm, Xuân Diệu cầm cổ tay tôi, nắm chặt rồi vuốt lên vuốt xuống. Bốn mắt nhìn nhau
đắm đuối. Xuân Diệu gắp thức ăn cho tôi. Cử chỉ thân thiện quá, hơi lạ với tôi, nhưng
mà tôi cảm động... Thỉnh thoảng Xuân Diệu lên nhà tôi... Xuân Diệu yêu tôi" (tr. 168,
169).
Rồi "...hằng đêm Xuân Diệu hay sang giường các bạn trai của ông để tỏ tình âu yếm.
Các bạn của ông ấy rất sợ, vì vậy cứ đêm đêm họ lại đi tỵ nạn sang nhà khác, không ai
dám ở chung với Xuân Diệu" (tr. 171). Còn Tô Hoài thì, có lẽ, không sợ. Bởi thế, đêm
đêm ở cái "U Tì Quốc" ấy (chữ của Xuân Diệu) mới diễn ra cái cảnh làm tình ma quái
cho đến khi nhà thơ bị kiểm điểm.
4
Câu chuyện Xuân Diệu có phải là đồng tính không đến đây hẳn không còn là vấn đề
nữa. Vấn nạn To be or not to be đã được giải quyết. Nhưng ở tôi lại nảy sinh một vấn đề
mới: Với tư cách một nhà phê bình, liệu tôi có nên viết về điều đó? Còn nhớ, khi Tô
Hoài công bố những dòng hồi ức trên của ông thì rất nhiều người đã phê phán ông nhẫn
tâm.
Nhưng với người viết hồi ký điều quan trọng là sự thật, mà đây lại là một sự thật hấp
dẫn. Hơn nữa, chính Tô Hoài cũng đã không ngại ngần đem mình ra làm kép chính
trong những trò chơi tình ái ấy của Xuân Diệu. Vậy nên, người ta cũng dễ thể tất cho
ông. Còn tôi, đã không có cái thuận của nhà văn, lại phải hứng thêm cái nghịch của nhà
phê bình.
Viết điều đó, liệu tôi có gieo thất vọng cho người đọc như chính tôi trước đây đã từng
thất vọng? Xuân Diệu không chỉ nổi tiếng là "Ông Hoàng thi ca" của Thơ Mới, mà còn
là "Vua thơ tình". Cái ngai thơ ấy liệu có sụp đổ, nếu giờ đây người đọc biết rằng nàng
thơ của thi nhân lại là một đấng mày râu? Những cặp tình nhân dị giới yêu thơ ông liệu
có cảm thấy mình bị phản bội? Hơn nữa, liệu đây có phải là "chuyện cá nhân" của nhà
thơ, mà luật bảo vệ quyền được riêng tư cấm mọi xâm phạm?
Đối diện với ngần ấy những câu hỏi, ai không bối rối. Nhưng, thi nhân khác với người
thường ở chỗ cuộc đời họ, nhất là sau khi đã khuất, thuộc về công chúng. Cũng có nghĩa
là khi chúng ta được quyền gọi Xuân Diệu một cách xách mé bằng cái tên trần trụi, thì
Xuân Diệu là đã thuộc về nghệ thuật. Bởi lẽ, ngoài thi nghiệp, cuộc đời nhà thơ cũng là
những giá trị thơ. Vì thế, người ta có quyền biết và tìm biết mọi bí mật riêng tư.
Không phải để thỏa tò mò, mà chủ yếu để chiêm nghiệm một cuộc đời với tất cả những
thánh thiện và phàm tục của nó, với tất cả những biểu hiện đa dạng của nó. Hơn nữa,
với nhà phê bình, điều quan trọng hơn là từ cuộc đời ấy lý giải, soi sáng cho một sự
nghiệp thi ca. Bởi lẽ, thi ca bao giờ cũng là sự thách đố. Và, với trường hợp Xuân Diệu,
đó là thách đố của con quái Sphinx.
5
Tình yêu đồng giới, xét từ nguồn gốc và bản chất, là tự nhiên, sản phẩm hoặc một dạng
thức của tự nhiên. Platon, một hiền triết Hy Lạp cổ đại, trong luận văn Bữa tiệc cho
rằng, loài người tự cổ xưa có ba giới là nam - nam, nữ - nữ và nam nữ. Họ có bốn tay,
bốn chân, hai đầu và, vì thế, rất khỏe nên nảy sinh ý định chống lại thần Zeus.
Vị thần của các vị thần này bèn nổi giận và cắt đôi họ ra thành hai nửa riêng biệt. Các
nửa này suốt đời kiếm tìm nhau để hợp một. Những nửa trước đây vốn là hợp thể nam -
nữ thì chỉ tìm người dị giới, còn các nửa trước đây là nam - nam hoặc nữ - nữ thì chỉ say
mê với cái nửa đồng giới kia của mình. Tình yêu đồng giới khởi nguồn là như vậy.
Huyền thoại trên khẳng định rằng con người, về mặt sinh học, vừa là đồng giới vừa là dị
giới. Điều này rất phù hợp với những phát hiện của bào thai học. Đứa trẻ khởi nguyên là
một thể lưỡng tính.
Chỉ khi phát triển đến một giai đoạn nào đó thì nó cũng mới trở thành phái tính. Nhưng
dù là trai hay gái hoặc sau này là đàn ông hay đàn bà thì nó cũng không bao giờ xóa bỏ
hết được dấu vết của nửa kia của nó, cả ở cạnh khía giải phẫu lẫn cạnh khía tâm lý. Bởi
thế, C.G. Jung cho rằng trong chiều sâu tâm lý, con người có cả hai yếu tố nam nữ.
Trong người đàn ông thì có linh âm (anima), còn trong người đàn bà thì có linh dương
(animus). Suốt đời người đàn ông sẽ đi tìm ở những người đàn bà cái anima của mình,
tức Người Đàn Bà Vĩnh Cửu (V.Soloviev), Nữ Tính Vĩnh Hằng (A.Blok), hoặc Gái
Muôn Đời (Đinh Hùng). Còn người đàn bà thì thường đi tìm animus của mình ở một
người đàn ông nào đó.
Nhưng nếu linh âm ở người nam không may (hoặc may?) lại mang đậm nam tính, hoặc
linh dương ở người nữ lại mang đậm nữ tính, thì họ sẽ đi tìm nửa kia của mình ở những
người đồng giới.
S. Freud thì lại cho rằng, đứa trẻ sau khi vượt qua được giai đoạn Oedipe, tức tình yêu
của bé (trai hoặc gái) hướng tới thân sinh khác giới (mẹ hoặc cha) của mình và trước khi
đứa trẻ ấy biết hướng tình yêu của mình vào những đứa trẻ khác giới cùng lứa để trở
thành một nhân cách hoàn chỉnh, thì trong thời gian trung chuyển đó nó rất thích những
người cùng giới.
Và, nếu vì một lý do tâm - sinh lý nào đó, đứa trẻ không vượt qua được bước đi ngắn
ngủi mà quan trọng này thì suốt đời nó sẽ bị cầm tù trong tình yêu đồng giới.
Như vậy, tình yêu đồng giới nhìn chung là bẩm sinh, là tự nhiên. Nhưng cũng có thứ
tình yêu đồng giới do văn hóa. Những gia đình hiếm muộn con trai thường bắt con gái
mặc giả trai, giáo dục kiểu con trai, dần dà em bé tập nhiễm nam tính nên khi trưởng
thành đâm ra yêu con gái. Hoặc trong những thế giới khép kín chỉ toàn nam hoặc toàn
nữ như trường học nội trú, nhà tu, nhà tù, quân đội thì tình yêu đồng giới càng dễ nảy
sinh.
Trong tiểu thuyết Hồng lâu mộng có hai cô gái Ngẫu quan và Nhụy quan thường một
đóng vai đào một đóng vai kép nên đã yêu nhau. Hiện tượng này lại được đạo diễn điện
ảnh Trần Khải Ca dựng lại trong Bá vương biệt cơ, nhưng lần này thì cả hai đều kép,
một vào vai Sở Bá vương và một vào vai ái thiếp Ngu Cơ.
Tình yêu đồng giới do hoàn cảnh, thì khi hoàn cảnh mất đi tình yêu cũng mất. Nhưng
cũng có khi hoàn cảnh thay đổi mà tình yêu vẫn còn, ấy là vì hoàn cảnh ấy không phải là
nguyên nhân mà chỉ là điều kiện, là cái cớ cho xuất hiện một xung lực bản năng mạnh
mẽ hơn, bền lâu hơn.
Tình yêu đồng giới ban đầu được xã hội thừa nhận, coi đấy như một bản chất tự nhiên
của con người. ở thời cổ Hy Lạp đồng tính nam phát triển rất mạnh, thậm chí còn được
tôn vinh. Các hiền triết như Socrate, Platon, Aristote đều có bồ trai là học trò. Điêu khắc
Hy Lạp, vì thế, rất tôn sùng cơ thể đàn ông. Sau thời phóng dục này lại đến thời cấm
dục Cơ đốc giáo, đồng tính luyến ái bị coi là phản tự nhiên, bệnh hoạn và bị xử phạt
nghiêm khắc.
Rồi đến thời Phục hưng với chủ nghĩa nhân văn, tình yêu đồng giới lại được nới lỏng. ở
Trung Hoa cũng vậy, thời Thương Chu quan niệm về tình dục rất gần với tự nhiên, nên
con người được buông thả, nhiều tư liệu có ghi chép các hiện tượng luyến ái đồng tính.
Thậm chí, đến đời Hán, dù Nho giáo đã trở thành chính thống, các hoàng đế đều vẫn
chọn một số trai đẹp làm đối tượng tình dục. Nhưng từ đời Tống trở đi thì vấn đề tính
dục nói chung và đồng tính luyến ái nói riêng lại bị thít chặt. Như vậy, tình yêu đồng
giới từ xưa đến nay, từ Tây sang Đông điều có và giao động theo con lắc lỏng - chặt -
lỏng - chặt.
6
Xuân Diệu sống trong một thời kỳ chặt. Xã hội Việt Nam tuy bước vào buổi Âu hóa,
những ảnh hưởng của Nho giáo còn rất nặng nề. Tống nho phân biệt chính tà rất nghiêm
ngặt. Đặc biệt trong lĩnh vực tình yêu, tình dục. Tình dục chỉ được coi là chính dâm khi
thực hành trong hôn nhân và nhằm mục đích sinh con đẻ cái. Còn hết thảy đều là tà
dâm. Tình yêu cũng vậy. Chỉ chính đáng trong hôn nhân và giữa vợ với chồng.
Tình yêu đồng giới, vì thế, là không được phép. Trái với tự nhiên đã đành, mà trái cả
với xã hội. Thậm chí, ngay châu Âu lúc này hãy còn rất bảo thủ về mặt tình dục. Nhiều
tiểu thuyết của H. Miller và D.H. Lawrence chỉ được phát hành ở Cựu Lục Địa sau cuộc
Cách mạng Tình dục tháng Năm 1968. Bởi thế, tình yêu đồng giới bị đặt ra ngoài lề.
Tuy nhiên, thời Xuân Diệu còn là thời của chủ nghĩa lãng mạn. Thời đề cao cái tôi cá
nhân cá thể. Hứng khởi lãng mạn đã khuyến khích con người sống hết mình. Để khẳng
định bản ngã, người thời ấy không chỉ nương theo xã hội, mà còn dám bất chấp xã hội.
Là đứa con của thời đại, Xuân Diệu trước hết là người lãng mạn. Ông có khát vọng
thành thực, trước hết là thành thực với bản thân. Bởi thế, hẳn ông dám nói về tình yêu
đồng giới của mình.
Thực ra, tình yêu đồng giới là tự nhiên và bình thường. Nhưng vì xưa nay, số người
đồng tính bao giờ cũng ít hơn số người dị tính, nên họ bị coi là thiểu số. Mà thiểu số thì
bao giờ cũng chịu áp lực của đa số.
Thế là, dưới áp bức của số đông, số ít ấy trở nên không bình thường, tức bệnh hoạn.
Người ta sợ, ghét và xa lánh họ. Nhưng người đồng tính hẳn không nghĩ thế, vì họ coi
mình là tự nhiên, là bình thường. Họ đòi quyền được bình đẳng với đa số. Bởi thế,
những kẻ thiểu số này có nhu cầu phải nói ra để được cảm thông và được thừa nhận. Và
Xuân Diệu đã nói!
Khát vọng nói ra một sự thật, dù cái sự thật ấy, trong mắt kẻ khác, là sự bất toàn của
chính người nói. Viết đến đây, tôi chợt nhớ đến câu chuyện một anh thợ cắt tóc phát
hiện ra ông vua nọ có cái tai lừa. Nhà vua cấm anh ta không được nói cho ai biết. Cất
giữ sự thật trong im lặng, anh ta không chịu nổi, nhưng nói ra thì lại sợ mất đầu.
Người thợ cắt tóc bèn đào một cái hố dưới một khóm cây ven đường, rồi nấp vào đó nói
vọng ra: "Nhà vua có đôi tai lừa! Nhà vua có đôi tai lừa!" để người qua đường biết được
điều ấy nhưng sẽ tưởng cây nói. Như vậy, biết được một sự thật, tức một thông tin quan
trọng nào đó, thì không thể không nói cho người khác biết. Thông tin, đó là nhu cầu
sống còn của mọi vật sống, huống hồ con người còn có một công cụ truyền thông tuyệt
vời là ngôn ngữ.
Xuân Diệu lại là một nhà thơ. Mà với nhà thơ thì ngôn ngữ không chỉ là công cụ giao
tiếp, mà còn là một tồn tại. Làm thơ để vừa khám phá bản thân vừa thể hiện bản thân:
một phương thức tồn tại kép. Nhất là với các nhà lãng mạn. Nhất là với Xuân Diệu.
Một trong những nhà thơ Việt Nam đi khá xa trong việc phơi mở ý thức cá nhân của
mình. Và, biết đâu, nhu cầu phải nói và nói bằng một ngôn ngữ đặc biệt đó chẳng đã
khiến Xuân Diệu trở thành Xuân Diệu, một Xuân Diệu - nhà thơ như ta biết?
7
Mở đầu cho tập Gửi hương cho gió, Xuân Diệu coi mình là con chim đến từ núi lạ ngứa
cổ hót chơi. Rõ ràng nhà thơ đã khẳng định mình từ nơi khác đến, thuộc về một niềm
khác. Đó là thế giới của thiểu số, của núi lạ, của thơ xa lạ đến với thế giới quen thuộc
của số đông. Chứng kiến tất cả những gì là khuôn mòn, là lối quen, nên ngứa cổ hót
chơi.
Tiếng hót chơi, hót không vì mục đích bên ngoài, vụ lợi nào đó của chim, hót chỉ vì
ngứa cổ, vì nhu cầu bộc bạch một cái gì đó sâu thẳm ở bên trong, là tiếng lòng Xuân
Diệu muốn bộc phát một sự thật bấy lâu bị che kín của mình. Nhu cầu phải nói ra ("Anh
phải nói và phải nói"; "Phải nói yêu trăm bận đến ngàn lần"...) cái tình yêu đồng giới
của mình.
Xuân Diệu đã nói về điều khó nói ấy bằng cả những lời trực tiếp, hiển ngôn, lẫn những
lời gián tiếp, hàm ngôn, Sự chói lòa của hữu thức lẫn sự tối tăm của vô thức ở thi nhân
đều căng một sức mạnh như nhau, nhưng sự bùng nổ ngôn từ thì lại khác nhau.
Sợi chỉ đỏ này xuyên suốt toàn bộ nghiệp thơ Xuân Diệu và nổi lên rõ nhất bài Tình trai.
Có thể nói, bài thơ - chìa khóa này chứa đựng nhiều "tuyên ngôn" của thi nhân: Công
khai nói về tình yêu đồng giới của mình ở mặt hữu thức; những chuyển vị của nó ở cảnh
giới vô thức; và, cuối cùng, khẳng định một cách tân thơ. Dưới đây, xin nói trước về
diện thứ nhất của thi phẩm.
Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine,
Hai chàng thi sĩ choáng hơi men.
Say thơ xa lạ, mê tình bạn,
Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen.
Những bước song song xéo dặm trường,
Đôi hồn tươi đậm, ngát hoa hương,
Họ đi tay yếu trong tay mạnh,
Nghe hát ân tình giữa gió sương.
Kể chi chuyện trước với ngày sau;
Quên ngó môi son với áo màu;
Thây kệ thiên đường và địa ngục!
Không hề mặc cả, họ yêu nhau.
Sự "tự thú" của thi nhân ngay ở nhan đề bài thơ. Nếu Hàn Mặc Tử có Gái quê, Nguyễn
Bính có Gái xuân, Đinh Hùng có Gái muôn đời như là những biểu tượng của tình yêu
tình dục, thì ở Xuân Diệu lại là Tình trai. Và người trai đó là Huy Cận.
Sở dĩ tôi nói đến Huy Cận, vì trong bài thơ này có câu Họ đi tay trong tay mạnh làm liên
tưởng tới một bài thơ khác Xuân Diệu viết tặng chàng Huy: Với bàn tay ấy ở trong
tay/Tôi đã nguôi quên hận tháng ngày. Hoặc thơ Huy Cận cũng có nhiều những đồng
vọng như Ngủ chung, Vạn lý tình...
Rồi sau này khi hai người đã sống chung, ở 24 Cột cờ, Huy Cận tả sự song đôi, song
hành trên/dưới của hai người: Đêm đêm trên gác đèn chong, /Cận ngồi cặm cụi viết
dòng thơ hay/; Dưới nhà bút chẳng rời tay, /Bên bàn Diệu cũng miệt mài trang thơ/; Bạn
từ lúc tuổi còn tơ, /Hai ta hạt chín trong mùa nắng trong/; Ánh đèn trên gác dưới phòng/
Cũng là đôi kén nằm trong kén trời. Rồi còn cả Hồi ký song đôi nữa. Nhưng thôi, ta hãy
trở lại với thực chứng của bài Tình trai.
Thi phẩm nói rõ ràng về hai người đàn ông yêu nhau. Những từ chỉ sự cặp đôi được
dùng rất nhiều: hai "hai chàng", đôi "đôi hồn", những "những bước", họ "họ đi, họ yêu",
song song... ám chỉ tình cảm yêu nhau; còn các từ choáng (hơi men), say, mê, tay (yếu)
trong tay (mạnh), không hề mặc cả...
Chứng tỏ tình cảm của họ rất mãnh liệt, không tính toán. Nếu những từ môi son, áo màu
chỉ phụ nữ, thì quên ngó môi son với áo màu khẳng định đây là tình yêu đồng giới, là
"tình trai". Bài thơ kể lại hành trình của hai thi sĩ từ mê thơ, mê rượu đến mê tình bạn
rồi mê tình yêu, không hề mặc cảm, họ yêu nhau.
Nhưng xã hội không tán thành cái chất thơ xa lạ này. Nó lên án và ngăn trở. Xuân Diệu
gọi sự ngăn trở đó là dặm trường, một không gian khó khăn cho sự đi lại, một khoảng
cách tâm lý khó vượt qua; là gió sương, một tiểu khí hậu "ngoài trời" lạnh lẽo đối lập
với "trong nhà" ấm áp, dễ chịu.
Bởi thế, những hành nhân phải vượt qua dặm dài đầy gió sương đó thấy được tình yêu
của họ là tiếng hát, tiếng hát ân tình. Đó cũng là động lực để họ bất chấp mọi dư luận,
thành kiến. Thái độ khẳng định tình yêu đồng giới của họ được nhà thơ thể hiện qua một
loạt những từ phủ định để khẳng định như khinh rẻ (khuôn mòn), bỏ (lối quen), quên
(ngó môi son với áo màu), thây kệ (thiên đường và địa ngục), không hề (mặc cả, họ yêu
nhau)...
Còn nhiều những chuyển vị khác, tinh vi hơn và, do đó, khó nắm bắt hơn. Trước tiên,
tình yêu đồng giới và dục cảm đồng giới của chủ thể thay vì phóng chiếu vào người
khác lại chuyển vào chính bản thân mình. Bởi thế, nó mang hình thức của thói tự si
(Narcissisme). Xuân Diệu có một từ đặc biệt để chỉ người bạn tình đồng giới của ông,
hoặc đôi khi để chính bản thân ông, nhằm phân biệt với những người yêu dị giới của
thiên hạ. Đó là từ bạn si ("Tiếc thuở say nồng, nhớ bạn si"), người si ("Người si muôn
kiếp là hoa núi/Uống nhị lòng tươi tặng khách hờ"!).
Si vừa khác yêu ở bản thân đối tượng, vừa cao hơn yêu ở sự đam mê, bị lôi cuốn, không
làm chủ được. Bởi thế, si là yêu gần với dục vọng, dục tính, là yêu không có quyền lựa
chọn, bởi quyền đó đã thuộc về bản năng, thiên nhiên. Như bông hoa núi (hoang dã) kia,
người si tự uống lòng mình, ăn thịt mình để lớn lên. Bởi yêu người thì nhiều, nhưng ít
khi được đáp ứng ("Cho rất nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu"), nên Xuân Diệu
thường hay dỗi, ông gọi họ là khách hờ.
Sự hờn dỗi của thi nhân càng tăng khi Huy Cận, người bạn trai của ông đi lấy vợ. (Vốn
là người lưỡng tính (bisexuel), Huy Cận yêu và lấy Xuân Như, em gái Xuân Diệu. Biết
đâu Huy Cận đã chẳng yêu một Xuân Diệu trong Xuân Như?). Thế là thi nhân dỗi. Bắt
chước Ronsard, thi sĩ Pháp thời Phục hưng, vẽ ra cảnh ngày mai tàn úa, để khuyên
người yêu hãy hái đóa hồng ngay hôm nay, Xuân Diệu trong Tặng bạn bây giờ cũng vẽ
ra cảnh đời sống vợ chồng giờ tuy êm đềm, nhưng tẻ nhạt mai sau để cảnh báo:
Chỉ mấy năm thôi, đủ phận chồng,
Chàng trai tơ mởn đã thành ông.
Không còn mộng dễ ngày tươi trẻ,
Mắt sáng phai rồi, má hóp không.
Em ngồi trông vợ, thấy nàng tiên
Là một người thôi, mộng hão huyền!
Ta bước trên đường kêu gọi mãi,
Nhớ người bạn cũ thủa anh niên.
Em nghe tê tái dưới hàng mi,
Tiếc thuở say nồng, nhớ bạn si.
Khép mắt buồn xa, em sẽ bảo:
- Có chàng Xuân Diệu, thuở xưa kia...
Sau này, hẳn biết cái không thể là không thể, người si Xuân Diệu không còn làm thơ dỗi
nữa. Sự hờn dỗi của thi nhân, vì thế nhiều khi được chuyển sang cho người đọc, đặc biệt
là người nghe ông trong những buổi bình thơ, nói chuyện thơ. Và, cũng có thể, lúc này
bạn trai Xuân Diệu là cậu em nuôi đang nuôi mộng văn chương, hiền lành và thụ động.
Còn Xuân Diệu bây giờ lại là người chủ động. Thi nhân đã nhiều lần tự ví mình là biển
"Trời cao trêu nhử chén xanh êm/Biển đắng khôn nguôi nỗi khát thèm", nhưng chỉ có
lần này Biển mới không phải là biển trầm tư nghìn tuổi, mà là biển trẻ trung, phóng túng
đầy sức sống, biểu tượng của khát vọng tự do...yêu.
Anh không xứng là biển xanh
Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng
Bờ cát dài phẳng lặng
Soi ánh sáng pha lê...
Bờ đẹp đẽ cát vàng
- Thoai thoải hàng thông đứng
Như lặng lẽ mơ màng
Suốt ngàn năm bên sóng...
Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em