Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Rối nhiễu trầm cảm ở học sinh trung học cơ sở trên địa bàn Hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 131 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------

ĐỖ BÍCH NGỌC

RỐI NHIỄU TRẦM CẢM Ở HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TÂM LÝ

HÀ NỘI – 2017

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------

ĐỖ BÍCH NGỌC

RỐI NHIỄU TRẦM CẢM Ở HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60310401

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TÂM LÝ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Khúc Năng Toàn


HÀ NỘI – 2017

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan thực hiện đề tài này hoàn toàn độc lập, theo đúng
hướng dẫn của Nhà trường và Giảng viên hướng dẫn.
Tôi cam đoan số liệu trong kết quả nghiên cứu là trung thực, chính
xác và được thực hiện tại địa điểm nghiên cứu.

Học viên

Đỗ Bích Ngọc

3


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu đề tài “Rối nhiễu trầm cảm ở học sinh
trung học cơ sở trên địa bàn Hà Nội”, đến nay luận văn đã hoàn thành. Với
tình cảm chân thành, tôi xin cảm ơn các thầy giáo, cô giáo và Hội đồng khoa
học khoa Tâm lý - Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tham gia
giảng dạy, tư vấn, giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học
tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Khúc Năng Toàn đã
tận tình chỉ bảo, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của Trường THCS Nguyễn Bỉnh
Khiêm, THCS Hà Thành, THCS Bế Văn Đàn đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện

để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ tình cảm sâu sắc tới gia đình và người thân đã ủng hộ,
động viên, tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này.
Dù đã có nhiều cố gắng trong học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận
văn, song luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các quý
thầy, cô giáo, bạn bè góp ý để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 06 năm 2017
Tác giả
Đỗ Bích Ngọc

4


DANH MỤC VIẾT TẮT
STT
1

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

BASC3

Behavioral Assessment Systems for
Children, Third Edition

2

BDI-2


Beck Depression Inventtory

3

ICD10

International Classification Diseases

4

DSM5

Diagnostic and Statistical Manual of Mental
Disorders)

5

THCS

Trung học cơ sở

6

THPT

Trung học phổ thông

7


WHO

Tổ chức Y tế thế giới

5


MỤC LỤC
1.

Lý do chọn đề tài ................................................................................. 10

2.

Mục đích nghiên cứu ........................................................................... 12

3.

Khách thể và đối tượng nghiên cứu .................................................... 12

4.

Giả thuyết khoa học ............................................................................ 12

5.

Nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 13

6.


Giới hạn phạm vi nghiên cứu .............................................................. 13

7.

Phương pháp nghiên cứu..................................................................... 13

8.

Đóng góp của đề tài............................................................................. 15

9.

Cấu trúc luận văn ................................................................................ 15

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA RỐI NHIỄU TRẦM CẢM Ở HỌC
SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ............................................................................... 16
1.1.

Tổng quan các nghiên cứu về trầm cảm .......................................... 16

1.1.1.

Một số nghiên cứu về trầm cảm trên thế giới ................................. 16

1.1.1.

Một số nghiên cứu về trầm cảm ở Việt Nam .................................. 18

1.2.


Khái quát về rối nhiễu trầm cảm ..................................................... 20

1.2.1. Khái niệm trầm cảm ............................................................................ 20
1.2.2. Những biểu hiện triệu chứng của rối nhiễu trầm cảm ..................... 24
1.2.3. Phân loại trầm cảm ............................................................................. 28
1.2.4. Các nguyên nhân gây rối nhiễu trầm cảm........................................... 30
1.2.5.

Các tiêu chí chẩn đoán rỗi nhiễu trầm cảm ở học sinh trung học. .. 33

1.2.5.1. Các tiêu chí chẩn đoán rối nhiễu trầm cảm theo DSM-5 .... 33
1.2.5.2. Các tiêu chí chẩn đoán rối nhiễu trầm cảm theo ICD10..... 35
6


1.3. Trầm cảm ở học sinh trung học cơ sở .................................................. 38
1.3.1. Đặc điểm phát triển độ tuổi của học sinh THCS ................................ 38
1.3.2. Những yếu tố độ tuổi liên quan đến rối nhiễu trầm cảm ở học sinh
THCS 43
1.3.3. Đặc điểm của rối nhiễu trầm cảm ở học sinh trung học cơ sở............ 48
Tiểu kết chương 1........................................................................................ 51
CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU .................................................................................................................... 53
2.1.

Tổ chức nghiên cứu ......................................................................... 53

2.1.1.

Tổng quan các nghiên cứu về trầm cảm và trầm cảm ở học sinh


THCS 53
2.1.2.

Tổ chức nghiên cứu thực trạng ....................................................... 54

2.1.3.

Giới thiệu địa bàn nghiên cứu ......................................................... 56

2.2.

Phương pháp nghiên cứu ................................................................. 59

2.2.1.

Các nguyên tắc phương pháp luận .................................................. 59

2.2.2.

Phương pháp nghiên cứu................................................................. 61

Tiểu kết chương 2........................................................................................ 63
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG RỐI NHIỄU TRẦM CẢM CỦA HỌC SINH
THCS TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI....................................................................... 64
3.1.

Mức độ biểu hiện các triệu chứng rối nhiễu trầm cảm ở học sinh

THCS trên địa bàn Hà Nội. ......................................................................... 64

3.1.1.

Tỷ lệ học sinh đáp ứng chẩn đoán trầm cảm theo mức độ biểu

hiện triệu chứng............................................................................................. 64

7


3.1.2. Mức độ biểu hiện các triệu chứng rối nhiễu trầm cảm của học sinh
THCS trên địa bàn Hà Nội ............................................................................ 70
3.2.

Các biểu hiện triệu chứng rối nhiễu trầm cảm và những rối nhiễu

liên quan ở học sinh THCS Hà Nội. ........................................................... 83
Tiểu kết chương 3........................................ Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................... 93
10. Tài liệu tham khảo .............................................................................. 97

8


DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
Danh mục bảng
Bảng 1: Tỷ lệ học sinh đáp ứng chẩn đoán trầm cảm theo mức độ biểu hiện
triệu chứng................................................................................................... 66
Bảng 2: Mức độ biểu hiện các rối nhiễu trầm cảm ở học sinh Trung Học Cơ
Sở trên địa bàn Hà Nội ................................................................................ 71
Bảng 3: Khác biệt giới tính về mức độ biểu hiện các triệu chứng trầm cảm

ở học sinh THCS Hà Nội ............................................................................ 78
Bảng 4: Khác biệt bậc học về mức độ biểu hiện các triệu chứng trầm cảm ở
học sinh THCS trên địa bàn Hà Nội ........................................................... 81
Bảng 5: Mức độ biểu hiện các triệu chứng trầm cảm của học sinh THCS Hà
Nội theo các thang đo khác nhau. ............................................................... 84
Bảng 6: Tương quan mức độ biểu hiện triệu chứng trầm cảm theo các thang
đo khác nhau................................................................................................ 87
Bảng 7: Các biểu hiện triệu chứng rối nhiễu ở học sinh THCS trên địa bàn
Hà Nội ......................................................................................................... 89
Danh mục biểu đồ
Biểu đồ 1: Khác biệt giới tính về tỷ lệ đáp ứng chẩn đoán theo mức độ biểu
hiện triệu chứng........................................................................................... 68
Biểu đồ 2: Khác biệt bậc học về tỷ lệ đáp ứng chẩn đoán trầm cảm theo
mức độ biểu hiện triệu chứng...................................................................... 69

9


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội hiện đại tỉ lệ người gặp các vấn đề về sức khỏe tinh thần như
stress, lo âu, trầm cảm ngày càng nhiều. Theo dự báo của tạp chí “The Global
Burden of Disease Study”, đến năm 2020, trầm cảm sẽ trở thành nguyên
nhân hàng đầu gây gánh nặng về bệnh tật trên toàn thế giới, và tới năm 2030
trầm cảm sẽ là nguyên nhân hàng đầu làm giảm tuổi thọ, cũng như giảm tỉ lệ
sinh. Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO), 3 đến 5% dân số thế giới hiện nay
(khoảng 200 triệu người) có các triệu chứng trầm cảm ở một giai đoạn nào đó
trong cuộc đời. Các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tái phát của trầm cảm là 50%
đến 80%. Khoảng 45% - 70% những người tự sát có rối loạn trầm cảm và
15% số bệnh nhân trầm cảm chết do tự sát. Ở nước ta, con số 10% người bị

trầm cảm chỉ tính riêng ở thành phố Hà Nội cho thấy Việt Nam cũng không
ngoại lệ.
Trầm cảm là một loại rối nhiễu về cảm xúc, được đặc trưng bởi một số
triệu chứng như buồn chán, mất sự hung thú, cảm thấy tội lỗi hoặc giảm giá
trị bản thân, khó ngủ hoặc sự ngon miệng, khả năng làm việc kém và khó tập
trung. Trầm cảm có thể trở thành mãn tính hoặc tái phát và làm giảm khả
năng của cá nhân trong thích ứng với cuộc sống, nhiều trường hợp trầm cảm
có thể dẫn tới nguy cơ tự sát ở người bệnh. Các nghiên cứu cho thấy, trầm
cảm có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi. Tuy nhiên, tuổi có nguy cơ cao mắc phải
thường là những người trẻ tuổi, đặc biệt là độ tuổi vị thành niên. Báo cáo Sức
khỏe vị thành niên Thế giới 2014 nêu rõ trầm cảm là nguyên nhân phổ biến
nhất của bệnh tật và tàn tật ở độ tuổi vị thành niên (10 – 19 tuổi). Theo Viện
hàn lâm Tâm thần Nhi khoa Mỹ, khoảng 2% trẻ nhỏ và 4 – 8% trẻ vị thành

10


niên mắc chứng trầm cảm, nghĩa là khoảng 6 – 10% trẻ em nói chung mắc
chứng bệnh này.
Học sinh trung học cơ sở hay còn gọi là lứa tuổi thiếu niên là lứa tuổi có
nhiều biến đổi cả về thể chất và tâm thần. Trước những tác động của môi
trường không thuận lợi mà trẻ chưa thích nghi được, dễ dẫn đến những phản
ứng cảm xúc - hành vi lệch lạc, mà nổi bật là trầm cảm.Trầm cảm ở trẻ vị
thành niên ảnh hưởng rất lớn đến năng lực học tập, giao tiếp, phát triển các
mối quan hệ xã hội, sự phát triển hoàn thiện thể chất và tinh thần, tính cách
của trẻ. Nếu rối loạn trầm cảm không được phát hiện và điều trị kịp thời sẽ
tăng gánh nặng cho gia đình và xã hội. Ngược lại, việc phát hiện và điều trị
sớm mang lại hiệu quả cao, cải thiện đáng kể tình trạng sức khỏe, đem lại cho
trẻ sự hoàn thiện nhân cách và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Một số nghiên cứu về trầm cảm ở trẻ vị thành niên ở Việt Nam đã cho

thấy tỷ lệ khá cao học sinh tại các thành phố lớn mà cụ thể là Hà Nội – khu
vực học sinh chịu áp lực lớn từ việc học hành thi cử và các mối quan hệ xã
hội đáp ứng các tiêu chí chẩn đoán trầm cảm. Nghiên cứu của Nguyễn Cao
Minh và Đăṇg Hoàng Minh (2011), trên lứa tuổi 12 đến 16 ở một số tỉnh miền
Bắc cho thấy, tỷ lệ trẻ có các dấu hiệu trầm cảm chiếm 6,6%. Nghiên cứu của
Nguyễn Bá năm 2003 trên 566 học sinh của 4 trường trung học phổ thông trên
địa bàn Hà Nội: Phan Đình Phùng, Đinh Tiên Hoàng, Yên Hòa, Việt Nam –
Ba Lan đã xác nhận 8,8% học sinh có dấu hiệu trầm cảm. Bên cạnh đó rất
nhiều các báo cáo khoa học tại hội thảo Tâm lý học đường lần thứ 4 do Liên
hiệp phát triển tâm lý học đường quốc tế (CASP-I) và trường Đại học Giáo
dục (Đại học Quốc gia Hà Nội) tổ chức ngày 14 và 15-8 năm 2016 tại Hà Nội
cho thấy tại Việt Nam số lượng trẻ em trong độ tuổi học sinh mắc rối loạn lo
âu và trầm cảm có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây.

11


Những lý do trên cho thấy rằng, việc nghiên cứu các triệu chứng trầm cảm
và những yếu tố liên quan đến loại rối nhiễu này ở học sinh trung học cơ sở
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong giải quyết các vấn đề sức khỏe tinh thần
học đường ở Việt Nam hiện nay. Trong khuôn khổ hạn hẹp về thời gian và
các điều kiện nghiên cứu, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Rối nhiễu
trầm cảm ở học sinh trung học cơ sở trên địa bàn Hà Nội”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá những biểu hiện triệu chứng trầm cảm và một số rối nhiễu liên
quan ở học sinh trung học cơ sở trên địa bàn Hà Nôi, từ đó đề xuất những
kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả phòng ngừa và hỗ trợ tâm lý đối với học
sinh ở nhóm độ tuổi này.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu

Các biểu hiện triệu chứng liên quan đến rối nhiễu trầm cảm ở học sinh
trung học cơ sở trên địa bàn Hà Nội
b. Khách thể nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trên 120 học sinh, 120 phụ huynh và 24 giáo viên trung
học cơ sở trên địa bàn Hà Nội
4. Giả thuyết khoa học
- Tỷ lệ học sinh trung học cơ sở trên địa bàn Hà Nội có biểu hiện triệu
chứng trầm cảm tương đối cao.
- Có sự khác biệt về loại triệu chứng và mức độ biểu hiện của các triệu
chứng trầm cảm ở học sinh trung học cở sở trên địa bàn Hà Nội tùy
theo bậc học, địa bàn sinh sống, giới tính và học lực.
- Các triệu chứng trầm cảm và mức độ biểu hiện của các triệu chứng này
ở học sinh trung học cơ sở trên địa bàn Hà Nội có mối liên hệ khác

12


nhau với các triệu chứng rối nhiễu tâm lý khác có liên quan đến trầm
cảm ở học sinh.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về trầm cảm ở học sinh nói chung
và học sinh trung học cơ sở nói riêng.
- Khảo sát thực trạng rối nhiễu trầm cảm ở học sinh trung học cơ sở trên
địa bàn Hà Nội; đánh giá mức độ các triệu chứng rối nhiễu và xác định
các rối nhiễu liên quan.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm ngăn ngừa các triệu chứng trầm cảm và
tăng cường sự hỗ trợ của nhà trường, gia đình đối với những học sinh
có các triệu chứng của rối nhiễu trầm cảm.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
a. Giới hạn nội dung nghiên cứu

Có nhiều vấn đề liên quan đến trầm cảm nói chung và thực trạng trầm
cảm ở học sinh trung học nói riêng. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ
tập trung đánh giá mức độ biểu hiện của những triệu chứng trầm cảm và một
số rối nhiễu khác có liên quan đến trầm cảm ở học sinh một số trường trung
học cơ sở trên địa bàn Hà Nội.
b. Khách thể nghiên cứu
Do những hạn chế về điều kiện và thời gian nghiên cứu, đề tài này được
tiến hành trên 120 học sinh, 120 phụ huynh và 24 giáo viên thuộc 3 trường
THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm, THCS Hà Thành, THCS Bế Văn Đàn trên địa
bàn Hà Nội.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận:

13


Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về trầm cảm, học sinh trung học, nguy
cơ trầm cảm và các biểu hiện triệu chứng trầm cảm ở học sinh THCS để xây
dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
7.2 Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
▪ Phương pháp phỏng vấn: Tiến hành phỏng vấn sâu nhằm thu thập các
thông tin cá nhân (tình hình học tập, các mối quan hệ, gia đình, lựa chọn
nghề...) của học sinh.
▪ Phương pháp quan sát: Tiến hành quan sát các biểu hiện của học sinh
thông qua hoạt động học ở trên lớp, mối quan hệ với bạn bè và gia đình...
▪ Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Sử dụng thang đo BASC3
(Behavioral Assessment Systems for Children, Third Edition) để sàng lọc các
triệu chứng rối nhiễu hành vi và cảm xúc của học sinh. Sử dụng thang đo các
triệu chứng trầm cảm của Beck (Beck Depression Inventory – BDI-2 ) để
đánh các biểu hiện và mức độ của từng biểu hiện triệu chứng trầm cảm ở học

sinh trung học
BASC3 là hệ thống sàng lọc các rối nhiễu hành vi, cảm xúc dành cho trẻ
em được thực hiện thông qua đánh giá của giáo viên, phụ huynh và bản thân
học sinh. Bảng hỏi BASC3 dành cho giáo viên bao gồm 165 mục hỏi; bảng
hỏi dành cho phụ huynh gồm 173 mục hỏi; và bảng hỏi dành cho học sinh
gồm 189 mục hỏi. Kết quả sàng lọc bằng BASC3 cho phép nhận biết các triệu
chứng của hầu hết các rối nhiễu hành vi, cảm xúc, cũng như các vấn đề học
tập của học sinh.
Thang đo trầm cảm của Beck (BDI-2) gồm 21 mục tương ứng với 21 triệu
chứng lâm sàng cơ bản của rối loạn trầm cảm, bao gồm: buồn, bi quan, sự thất
bại trong quá khứ, mất vui, cảm giác tội lỗi, cảm giác bị trừng phạt, tự ghét
mình, tự chỉ trích, tự tử, khóc, cảm giác bồn chồn, mất hứng, thiếu quyết
đoán, cảm giác vô dụng, thiếu năng lượng, thay đổi về giấc ngủ, cáu kỉnh,
14


thay đổi về ăn uống, khó tập trung chú ý và những thay đổi về ham muốn tình
dục. Từng triệu chứng trầm cảm được đánh giá theo 4 mức, tùy theo tần xuất
biểu hiện hoặc mức độ nghiêm trọng của triệu chứng. Nghiệm thể (người trả
lời) được yêu cầu đọc cẩn thận tất cả các mục và chọn ra một câu mô tả sát
nhất cảm nhận của mình về bản thân mình trong phạm vi 15 ngày gần nhất(
tính cả ngày trả lời).
7.3.Phương pháp xử lý số liệu.
Kết quả thu thập được qua điều tra thực trạng được xử lý bằng phần mềm
thống kê SPSS. Các phương pháp thống kê mô tả (vd, trung bình, độ lệch
chuẩn, tần suất) và thống kê suy luận (vd, t-test, ANOVA) được sử dụng để
phân tích số liệu, đánh giá thực trạng và kiểm định giả thuyết.
8. Đóng góp của đề tài
- Làm rõ các biểu hiện triệu chứng cơ bản và mức độ biểu hiện của các
triệu chứng trầm cảm ở học sinh trung học cơ sở trên địa bàn thành phố

Hà Nội
- Chỉ ra được những rối nhiễu khác có liên quan và một số yếu tố liên
quan đến trầm cảm ở học sinh trung học cơ sở trên địa bàn Hà Nội.
- Đề xuất một số kiến nghị giúp ngăn chặn và làm giảm các nguy cơ trầm
cảm cho học sinh trung học cơ sở Hà Nội hiện nay.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về rối nhiễu trầm cảm ở học sinh trung học
Chương 2: Tổ chức nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu

15


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA RỐI NHIỄU TRẦM CẢM Ở
HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Tổng quan các nghiên cứu về trầm cảm
1.1.1. Một số nghiên cứu về trầm cảm trên thế giới
Thuật ngữ rối loạn trầm cảm được dùng đầu tiên trong học thuyết thể dịch
của Hypocrate. Tiếp đó, Pinet mô tả trầm uất là một trong bốn loại loạn thần.
Đến năm 1896, Kraepelin đã thống nhất các quan điểm xếp 2 trạng thái trầm
cảm và hưng cảm trong một bệnh lý chung và đặt tên là loạn thần hưng trầm
cảm (psychose maniaco – depressive). [10]
Sang thế kỷ XX rối loạn trầm cảm được nghiên cứu và hoàn thiện về
khái niệm bệnh họcvà hình thái. Trong Bảng Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ
10 (ICD-10) của Tổ chức Y tế Thế giới trầm cảm được xếp trong nhóm các
rối loạn cảm xúc, mục F30 - F39.
Trong lĩnh vực tâm lý học nói chung và tâm lý học trị liệu, tâm lý học lâm
sàng, tâm bệnh học nói riêng, trầm cảm được nghiên cứu dưới nhiều góc độ

khác nhau, như xã hội, hành vi và nhận thức, liên nhân cách… Các nghiên
cứu chủ yếu tập trung theo các hướng như nghiên cứu thực trạng, khảo sát
trên một lượng lớn dân số để có số liệu thống kê cụ thể về thực trạng trầm
cảm; và nghiên cứu thực nghiệm về các liệu pháp tâm lý chữa trị trầm cảm.
Đã có nhiều công trình khảo sát trên diện rộng ở một số nơi trên thế giới
về thực trạng rối nhiễu trầm cảm. Ở Canada, theo Scott B Patten (2006), tỷ
lệ trầm cảm chung được xác định vào khoảng 12,2%, Tỷ lệ nữ, được chẩn
đoán trầm cảm (5%) cao hơn so với nam giới (2,9%). Tỷ lệ mắc trầm
cảm cao nhất ở nhóm tuổi từ 15 đến 25 tuổi. Trầm cảm nặng không
liên quan đến trình độ học vấn nhưng có liên quan đến tình trạng bệnh mãn
tính (4,9% so với người không có bệnh là 1,9%), thất nghiệp (4,6% so với

16


người không thất nghiệp là 3,5%), và thu nhập (TC ở người nghèo nhất
là 8,5%, người giàu nhất 3,2%).
Ở các nước châu Á – Thái Bình Dương, theo tác giả Chiu E (2004), tỷ lệ
mắc trầm cảm trung bình là 3,7%, thấp hơn nhiều khu vực khác trên thế
giới [20]. Ở Australia thì tỷ lệ trầm cảm cao hơn một số nước khác
(20 - 30% dân số), trong đó 3 - 4% là trầm cảm vừa và nặng. Ở một số
nước châu Á như Trung Quốc, theo tác giả Chen R, tỷ lệ trầm cảm ở
người già trên 60 tuổi khu vực nông thôn là 6%, ở khu vực đô thị là 3,6%.
Có nhiều quan niệm khác nhau về nguyên nhân của trầm cảm như:
Lewinsohn và cộng sự (1979) đã chỉ ra rằng trầm cảm là kết quả của tỉ lệ thấp
các củng cố xã hội tích cực; lý thuyết về sự tuyệt vọng tập nhiễm Seligman
cho rằng trầm cảm bắt nguồn từ việc người ta được học rằng môi trường sinh
lý và xã hội nằm ngoài khả năng kiểm soát của cá nhân; hay do hậu quả của
sự nuôi dưỡng trong sự ghẻ lạnh và cách ly môi trường (Carnelly,
Pietomonaco và Jaffe, 1994) .... Tuy nhiên đặc biệt phải kể đến Beck Aaron

T. (1997) đã thiết lập mô hình nhận thức về nguyên nhân trầm cảm với 3 nhân
tố chính: suy nghĩ tiêu cực về bản thân, về người khác và về tương lai; quá
trình xử lý thông tin sai lệch; hình ảnh về bản thân bị bóp mép. Trên cơ sở đó,
Beck A.T. dùng liệu pháp nhận thức tác động làm thay đổi nhận thức cũng
như chỉnh sửa quá trình xử lý thông tin bị sai lệch để đưa cá nhân thoát khỏi
trầm cảm. Như vậy, theo ông, cái cốt lõi của trầm cảm chính là những suy
nghĩ, nhận thức tiêu cực, Mặc dù Beck A.T. đã bỏ qua một số yếu tố quan
trọng khác trong trầm cảm như cảm xúc, nhưng mô hình nhận thức của ông
được rất nhiều nhà tâm lý học chấp nhận và phát triển thêm. Đóng góp rất lớn
khác của Beck, A.T. là xây dựng thang đo trầm cảm (viết tắt là BDI) được
xuất bản đầu tiên vào năm 1961. Đây là bảng câu hỏi gồm nhiều lựa chọn đo
lường mọi phương diện của trầm cảm: cơ thể, nhận thức, cảm xúc và hành vi.
17


Sau 2 lần chỉnh sửa, cải tiến BDI, năm 1996, BDI – II ra đời và trở thành
thang đo trầm cảm được sử dụng phổ biến trên thế giới hiện nay.
Nghiên cứu rối nhiễu trầm cảm ở lứa tuổi thanh thiếu niên, có thể kể đến
các công trình nghiên cứu của các tác giả người Pháp. Điều tra năm 1994 về
sức khỏe của các thanh thiếu niên trên 14.000 học sinh phổ thông trung học ở
Choquetcho thấy, các rối loạn tâm thể (đau đầu, đau bụng, đau lưng, rối loạn
giấc ngủ, thức đêm) và các rối nhiễu xã hội khác (giảm đột ngột kết quả học
tập, trốn học, cắt đứt đột ngột quan hệ bạn bè…) cho phép xác định một cách
có hiệu quả tính trầm cảm và mức độ trầm cảm ở thanh thiếu niên cũng như
cá rối loạn khác có liên quan đến vấn đề tự sát. thiếu niên cũng như các rối
loạn khác có liên quan đến vấn đề tự sát.
Tóm lại, các nghiên cứu về trầm cảm trên thế giới đã cho thấy một tỷ lệ
khá lớn (2,6 – 8%) dân số mắc chứng trầm cảm. Đây là một loại rối nhiễu khá
phổ biến, có thể xuất hiện ở bất kì lứa tuổi nào, ở bất cứ ai. Đặc biệt lứa tuổi
thanh thiếu niên được xác định là giai đoạn độ tuổi tương đối nhạy cảm với

loại rối nhiễu cảm xúc này. Trầm cảm lứa tuổi thanh thiếu niên có thể liên
quan đến các rối nhiễu tâm lý khác và có dẫn đến nhiều nguy cơ khác nhau ở
trẻ.
1.1.1. Một số nghiên cứu về trầm cảm ở Việt Nam
Ở nước ta, trầm cảm thường được các phương tiện truyền thông nhắc đến
như là một hiện tượng xã hội. Nhiều nghiên cứu về trầm cảm cũng đã được
tiến hành ở những vùng dân cư khác nhau, với những độ tuổi và ngành nghề
khác nhau. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Siêm (2010) tại xã Quất Động,
Thường Tín, Hà Tây cho thấy tỷ lệ mắc rối loạn trầm cảm trong nhóm dân số
trên 15 tuổi ở địa phương này là 8,35%. [27]
Nghiên cứu của Hồ Ngọc Quỳnh (2009) trên nhóm sinh viên điều dưỡng
và y tế công cộng tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, tỷ lệ mắc trầm cảm ở
18


sinh viên y tế công cộng lên tới 17,6%, ở sinh viên điều dưỡng là 16,5%; trầm
cảm ở nhóm sinh viên này liên quan tới một số yếu tố như sự quan tâm của
cha mẹ, gắn kết với nhà trường, thành tích học tập, quan hệ xã hội, tự nhận
thức về bản thân.
Khá nhiều nghiên cứu về trầm cảm ở lứa tuổi thanh thiếu niên đã được
thực hiện ở nhiều địa phương khác nhau: Tại thành phố Đã Nẵng, nghiên cứu
của bác sĩ Nguyễn Văn Thọ (1998-2000) cho thấy lo âu – trầm cảm chiến 10
– 21% trong số những học sinh có vấn đề về sức khỏe tâm thần. Tại thành
phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu của bác sỹ Cao Văn Tuân (2002) cho biết tình
trạng trầm cảm ở lứa tuổi thanh thiếu niên chiếm tỷ lệ 5 – 7%, trong khi đó
theo TS. Hoàng Cẩm Tú, tỷ lệ này là 10%, theo TS, Ngô Thanh Hồi, tỷ lệ này
chiếm hơn 15%. Trong khi đó tại Hà Nội, theo công trình nghiên cứu của
Đặng Thanh Tùng “Trầm cảm ở thanh thiếu niên và một số yếu tố tâm lý xã
hội có liên quan” (2002) nghiên cứu tại 3 trường THPT trên địa bàn Hà Nội
với 377 khách thể (THPT Trần Phú, THPT Ngọc Hồi, THPT Phan Đình

Phùng) đã chỉ ra rằng có tới >18% học sinh bị mắc trầm cảm. Theo nghiên
cứu của Nguyễn Bá Đạt, tỷ lệ học sinh trung học phổ thông Hà Nội bị trầm
cảm trong năm học 2001 – 2002 ở mức độ trung bình (8,8%). Trong đó có
6,7% trầm cảm nhẹ; 1,7% trầm cảm vừa; 0,5% trầm cảm nặng [7]
Như vậy, đã có khá nhiều các nghiên cứu về trầm cảm nói chung và trầm
cảm ở học sinh nói riêng, được tiến hành ở Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên
cứu chủ yếu được tiến hành ở các tỉnh thành phía Nam hoặc các địa phương
lân cận Hà Nội. Các nghiên cứu tập trung nhiều hơn vào độ tuổi học sinh
THPT. Tỷ lệ trầm cảm được xác định hết sức đa dạng tùy theo địa bàn nghiên
cứu và độ tuổi và mức độ rối nhiễu. Nghiên cứu của chúng tôi tập trung đánh
giá các biểu hiện triệu chứng trầm cảm của học sinh THCS trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
19


1.2. Khái quát về rối nhiễu trầm cảm
1.2.1. Khái niệm trầm cảm
Thuật ngữ, “trầm cảm” được sử dụng để mô tả tâm trạng buồn bã, chán
nản, mệt mỏi. Trong từ điển Tiếng Việt trầm cảm được định nghĩa là “trầm
uất, buồn và u uất trong lòng.” Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đã dùng từ “trầm
nhược” thay cho từ “trầm cảm”, theo đó, trầm nhược không chỉ là một trạng
thái tâm lý, mà còn trạng thái suy nhược về thể chất. Ông định nghĩa như sau:
“Trầm là chìm xuống, mất hào hứng, sôi nổi; tính khí buồn bã, chán chường,
bi quan”, còn “nhược là suy yếu, uể oải, không muốn cử động, chân tay mỏi
mệt, mặc dù không có bệnh gì rõ rệt”. GS.TS Nguyễn Đăng Dung và bác sĩ
Nguyễn Văn Siêm đã định nghĩa về trầm cảm như sau: “Trầm cảm là trạng
thái giảm khí sắc, giảm năng lượng và giảm hoạt động. Trong các cơn điển
hình, có biểu hiện ức chế toàn bộ hoạt động tâm thần. Bệnh nhân có khí sắc
buồn rầu, ủ rũ, giảm hứng thú và quan tâm, thấy tương lai ảm đạm, tư duy
chậm chạp, liên tưởng khó khăn, tự cho mình là hèn kém, giảm sút lòng tự tin,

thường hoang tưởng bị tội, dẫn đến tự sát, giảm vận động, ít nói, thường nằm
hoặc ngồi lâu ở một tư thế, kèm theo sự rối loạn các chức năng sinh học (mất
ngủ, chán ăn, mệt mỏi…) [6]
Theo Tiến sĩ, Bác sĩ Hoàng Cẩm Tú: “Trầm cảm là một trạng thái rối loạn
cảm xúc biểu hiện sự buồn rầu, chán nản, thất vọng quá mức bình thường làm
ức chế toàn bộ các quá trình hoạt động tâm thần. Rối loạn đặc trưng bởi khí
sắc trầm, giảm hoặc mất mọi quan tâm thích thú, mất năng lượng, dễ mệt mỏi,
hoạt động giảm, khó tập trung chú ý, tư duy chậm, kèm theo mặc cảm tội lỗi,
giảm giá trị hoặc hoang tưởng bị tội lỗi, chán đời … và đi kèm các triệu
chứng cơ thể khác như rối loạn giấc ngủ, ăn…” [24]
Theo từ điển tâm lý học của Tiến sĩ Vũ Dũng cho rằng trầm cảm là “trạng
thái xúc cảm xuất hiện trên cơ sở cảm xúc âm tính, thay đổi động cơ, trí tuệ
20


(gắn với nhận thức) và sự thụ động nói chung của hành vi”, bao gồm một số
biểu hiện về cảm xúc, nhận thức và hành vi như: cảm xúc nặng nề, đau khổ và
u uất, hứng thú, say mê, nỗ lực ý chí giảm, xuất hiện cảm giác tội lỗi, bất lực,
vô vọng; tự đánh giá giảm sút; chậm chạp, mệt mỏi. Như vậy, tác giả đã xem
trầm cảm là một trạng thái tâm lý về mặt xúc cảm và nó ảnh hưởng đến hành
vi, nhận thức, xét trầm cảm trong cấu trúc toàn vẹn của 3 khía cạnh tâm lý con
người: nhận thức – hành động – tình cảm.
Các nhà tâm thần học trước đây mô tả trầm cảm là một giai đoạn u sầu
điển hình (melancholia). Rối loạn phản ánh sự ức chế nặng nề các mặt hoạt
động tâm thần, song chủ yếu là tam chứng cổ điển: khí sắc giảm, buồn; các
quá trình tư duy bị chậm lại; sự ức chế tâm thần vận động nhiều khi đến sững
sờ, bất động.
S.Freud cho rằng trầm cảm là một quá trình tương tự như đau buồn. Khi
quá đau buồn, cá nhân có thể thoái lui về giai đoạn môi miệng của sự phát
triển, như là một cơ chế phòng vệ chống lại những nỗi buồn quá lớn. Phản

ứng như thế, nhìn chung chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, nhưng nếu cá nhân
tiếp tục trong một thời gian dài sẽ dẫn đến tự căm ghét bản thân và trầm cảm.
[11]
Lewinsohn và cộng sự (1979) đã chỉ ra rằng trầm cảm là kết quả của tỉ lệ
thấp các củng cố xã hội tích cực. Cá nhân tự tách mình ra khỏi các liên hệ xã
hội, điều này có thể tạo ra củng cố khác, trong đó cá nhân được tán thưởng
nhờ những hành vi có trầm cảm của mình. Tuy nhiên, giai đoạn này lại
thường đi kèm với sự thu hẹp về chú ý (tần suất tán thưởng có giá trị từ phía
môi trường giảm đi) và khí sắc.
Lý thuyết về sự tuyệt vọng tập nhiễm Seligman cho rằng trầm cảm bắt
nguồn từ việc người ta được học rằng môi trường sinh lý và xã hội nằm ngoài
khả năng kiểm soát của cá nhân. Nhiều nghiên cứu đã tìm ra sự tuyệt vọng do
21


học tập/tập nhiễm ở con người biểu hiện những triệu chứng tương tự như
những bệnh nhân trầm cảm bệnh lí, bao gồm việc thiếu động cơ hoạt động, bi
quan và quá trình tiếp thu bị phá vỡ.
Beck (1997) đưa ra ý kiến rằng trầm cảm bắt nguồn từ nhận thức sai lệch
trước những sự kiện ảnh hưởng tới chúng ta. Ứng với những sự kiện này là ý
nghĩ tiêu cực tự động. Đó là sự khái quát hóa thái quá, sự trừu tượng hóa có
chọn lọc và những suy nghĩ không dứt khoát. Chúng có vẻ tức thời, hợp lý và
trên thực tế thường được chấp nhận. Tuy nhiên, chúng ta lại giải thích sai các
sự kiện và vì thế ảnh hưởng đến niềm tin về bản thân, sự kiện hoặc cá nhân
khác có ảnh hưởng đến chúng ta và tương lai của chúng ta.
Thuyết liên cá nhân đề cập đến những khía cạnh hành vi của người bị
trầm cảm, bao gồm tổng thể mối quan hệ giữa người trầm cảm với người
khác. Những người trầm cảm có mạng lưới giao tiếp xã hội thưa thớt và coi
chúng như là nguồn nâng đỡ. Sự nâng đỡ xã hội giảm sút có thể làm yếu đi
năng lực của cá nhân trong việc phản ứng với những sự kiện tiêu cực trong

cuộc sống, và làm cho cá nhân dễ cảm ứng với trầm cảm (Billings, Cronkite
và Moos 1983). Người trầm cảm cũng có thể tiếp nhận được những phản ứng
tiêu cực từ phía người khác (Coyne, 1976).
Theo Andrew M.Colman định nghĩa: “Trầm cảm là một trạng thái buồn
bã, vô vọng và những ý nghĩ bi quan cùng với sự mất hứng thú hoặc mất sự
thỏa mãn, hài lòng trong hoạt động trước đậy”. Ông nhấn mạnh thêm trong
trường hợp trầm cảm nghiêm trọng, nghĩa là vượt sang mức bệnh lý, có thể
xảy ra “chứng biếng ăn và hậu quả là sụt cân, mất ngủ (đặc biệt là chứng mất
ngủ vào khoảng giữa hoặc tối của giấc ngủ) hoặc chứng ngủ nhiều, suy
nhược, cảm giác vô giá trị hoặc tội lỗi, mất khả năng suy nghĩ hoặc tập trung,
những ý nghĩ tái diễn về cái chết hoặc tự tử. Nó xuất hiện như nhiều triệu
chứng của rối loạn tâm thần.
22


Năm 1975 Nhà tâm lý học Martin Seligman cho rằng, trầm cảm phần lớn
là phản ứng đối với tình trạng không tự lực đã học tập trước đó.
Theo quan điểm của các nhà phân tâm học thì cho rằng trầm cảm là kết
quả của sự giận dữ về chính bản thân mình. Theo quan điểm này, con người
cảm thấy có trách nhiệm với những điều xấu xảy ra cho mình và khiến sự giận
dữ của mình hướng nội. [11]
Theo Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 (ICD-10) về các rối loạn tâm
thần và hành vi, trầm cảm là một hội chứng bệnh lý của cảm xúc biểu
hiện đặc trưng bởi khí sắc trầm, mất mọi quan tâm thích thú, giảm năng lượng
dẫn tới tăng sự mệt mỏi và giảm hoạt động, phổ biến là mệt mỏi rõ rệt chỉ sau
một cố gắng nhỏ. Các triệu chứng này tồn tại trong một khoảng thời gian tối
thiểu là 2 tuần liên tục. Những biểu hiện này được coi là các triệu chứng có ý
nghĩa lâm sàng nhất trong việc chẩn đoán. [21]
Theo WHO: “Trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ biến, đặc trưng bởi
sự buồn bã, mất đi hứng thú hoặc khoái cảm, cảm thấy tội lỗi hoặc tự hạ thấp

giá trị bản thân, bị rối loạn giấc ngủ hoặc ăn uống và kém tập trung”. “Trầm
cảm có thể kéo dài hoặc tái phát nhiều lần, làm suy giảm đáng kể khả năng
làm việc, học tập hoặc khả năng đương đầu với cuộc sống hàng ngày. Trường
hợp nặng nhất, trầm cảm có thể dẫn đến tự tử. Ở mức độ nhẹ, bệnh có thể
được hỗ trợ chữa trị không cần thuốc. Mức độ vừa và nặng, người bệnh cần
hỗ trợ điều trị bằng thuốc kết hợp liệu pháp tâm lý”.
Tóm lại: Từ các định nghĩa ở trên, qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu
tài liệu, chúng tôi xin đưa ra định nghĩa về rối nhiễu trầm cảm như sau: Rối
nhiễu trầm cảm là một loại rối nhiễu cảm xúc được đặc trưng bởi sự suy
giảm về khí sắc, giảm hứng thú, và suy giảm năng lượng dẫn tới sự mệt
mỏi và suy giảm hoạt động. Các triệu chứng suy giảm này thường tồn tại
trong một khoảng thời gian nhất định (tối thiểu là 2 tuần, theo DSM-5) và
23


làm đình trệ các hoạt động chức năng (vd, sinh hoạt, học tập, lao động,
giao tiếp..) của cá nhân.
1.2.2. Những biểu hiện triệu chứng của rối nhiễu trầm cảm
Trước đây, trầm cảm thường được hiểu dưới góc độ những ức chế toàn bộ
đối với hoạt động tâm thần. Theo đó, các triệu chứng trầm cảm thường được
mô tả bao gồm, ức chế cảm xúc, ức chế tư duy, và ức chế vận động. Hiện nay,
các biểu hiện triệu chứng của trầm cảm cũng thường được mô tả theo 3 nhóm
cơ bản, bao gồm các triệu chứng về giảm khí sắc, các triệu chứng về giảm
quan tâm, hứngthú, và các triệu chứng suy giảm năng lượng. Tuy nhiên, 3
nhóm triệu chứng này thường được mô tả dưới hình thức các triệu chứng lâm
sàng cụ thể, bao gồm:
1.2.2.1. Khí sắc trầm:
Các biểu hiện giảm khí sắc là biểu hiện thường gặp nhất ở các trạng thái
trầm cảm. Mức độ của biểu hiện này thay đổi tuỳ theo mức độ trầm cảm.
Trong trường hợp điển hình bệnh nhân biểu hiện sự đau khổ, chán nản, buồn

rầu một cách rõ ràng thông qua lời nói, thái độ và dáng điệu. Khí sắc trầm
thường gặp là uể oải, cảm giác khó chịu, bất an, với nét mặt ủ rũ. Hoặc là biểu
hiện một nét mặt có những nét đặc trưng như nếp nhăn ở khoé miệng, trán,
cung lông mày đều cụp xuống, mắt luôn nhìn xuống hoặc đôi khi là nét mặt
thờ ơ, vô cảm. Sự bế tắc trong suy nghĩ với một nỗi buồn bao phủ mà không
giải thích được có thể dẫn đến hành vi tự sát ở bệnh nhân trầm cảm. Tuy
nhiên có một số bệnh nhân vẫn giữ được nụ cười bên ngoài để che dấu khí sắc
giảm, bởi có 10-15% số bệnh nhân phủ định cảm xúc của mình. [10][19][23]
Khi nghiên cứu rối nhiễu trầm cảm ở những người có bệnh lý dạ dày - ruột,
Trần Hữu Bình thấy 87% biểu hiện khí sắc giảm.[4] Theo Đinh Thị Hoan
nghiên cứu rối loạn trầm cảm người tiền mãn kinh thì rối loạn khí sắc chiếm

24


87,7%. Lâm Tường Minh nghiên cứu về các triệu chứng cơ thể trong rối loạn
trầm cảm ở người cao tuổi cho thấy tỷ lệ khí sắc giảm 87,2%.
1.2.2.2. Mất quan tâm thích thú:
Mất quan tâm thích thú là một triệu chứng luôn song hành với giảm khí
sắc nhưng ở các mức độ khác nhau. Các nghiên cứu đều cho kết quả 80-100%
có rối loạn này. [4][15] Bệnh nhân cảm thấy quá khứ, hiện tại và tương lai của
mình không sáng sủa đôi khi người bệnh không thể mô tả được trạng thái của
mình. Người bệnh phàn nàn rằng họ ít hoặc không còn thích thú với các
hoạt động, sinh hoạt hàng ngày. Mọi vận động đều làm người bệnh tăng cảm
giác chán nản, không có được cảm giác vui vẻ và hài lòng với thực tại dẫn
đến không muốn tham gia các thú vui, giải trí, ngại tiếp xúc, mất các sở thích
trước đây, không hoàn thành các công việc mình làm, do dự khó quyết định,
vì vậy người bệnh thường né tránh, ngại các hoạt động xã hội, ngại giao tiếp
với mọi người.
1.2.2.3. Giảm năng lượng tâm thần:

Đây cũng là một triệu chứng đặc trưng của trầm cảm, các biểu hiện là
người bệnh luôn uể oải, mệt mỏi, mất sinh lực, cảm thấy nặng nhọc khi làm
việc kể cả một công việc trước đây người bệnh dễ dàng thực hiện. Do vậy
người bệnh làm việc kém hiệu quả. Người bị rối nhiễu trầm cảm thường
không hoàn thành công việc được giao phó hoặc bỏ dở công việc, hoặc rút lui
vì mình cảm thấy không thể đảm đương. Triệu chứng này trong các công trình
nghiên cứu về trầm cảm chiếm tỷ lệ cao từ 85-100%. [19][23]
1.2.2.4. Biểu hiện lo âu:
Lo âu là một triệu chứng song hành với trầm cảm. Bệnh nhân thường có
cảm giác lo lắng, bồn chồn bất an, sợ hãi cho tình trạng sức khoẻ, các dự định
và tương lai của mình... Bệnh nhân có thể có các biểu hiện rối loạn thần kinh
thực vật như cảm giác hồi hộp, khó thở, đánh trống ngực, mạch nhanh, đau
25


×