Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Thứ tự ưu tiên thanh toán cho các chủ nợ theo pháp luật phá sản 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.81 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN HOÀNG LINH

THỨ TỰ ƢU TIÊN THANH TOÁN
CHO CÁC CHỦ NỢ THEO PHÁP LUẬT PHÁ SẢN 2014

Chuyên ngành
Mã số

: Luật kinh tế
: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Đức Minh

Hà Nội - 2016


LỜI CÁM ƠN
Trước tiên, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS Nguyễn Đức Minh – người
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể các thầy cô giáo, giảng viên của
Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội – những người đã giảng dạy tôi trong những năm
học vừa qua, giúp tôi có được vốn kiến thức như ngày hôm nay.
Tôi cũng xin cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè đã luôn quan tâm, động viên và
giúp đỡ trong suốt quá trình hoàn thành luận văn
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn



Nguyễn Hoàng Linh

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong
luận văn được trích dẫn theo nguồn đã công bố. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.


Hà Nội, ngày ...... tháng ..... năm 2016
Tác giả

Nguyễn Hoàng Linh

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục


MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 6
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỨ TỰ ƢU TIÊN THANH TOÁN
TÀI SẢN CHO CÁC CHỦ NỢ TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN ...................................... 11
1.1. Khái niệm thanh toán tài sản phá sản .................................................................... 11
1.2. Thủ tục thanh toán tài sản trong thủ tục phá sản .................................................. 12
1.3. Chủ nợ - Chủ thể của quan hệ thanh toán tài sản phá sản ................................... 13
1.3.1. Khái niệm chủ nợ ............................................................................................... 13
1.3.2. Phân loại chủ nợ ................................................................................................ 15
1.4. Đối tượng và phạm vi thanh toán tài sản phá sản ................................................. 19

1.5. Thứ tự ưu tiên trong thanh toán tài sản phá sản và căn cứ xác định ................... 23
1.6. Mục đích, ý nghĩa, vai trò của việc xác định thứ tự ưu tiên trong thanh toán
tài sản phá sản ................................................................................................................ 24
1.6.1. Mục đích, ý nghĩa............................................................................................... 24
1.6.2. Vai trò ................................................................................................................ 24
Kết luận chương 1............................................................... Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT PHÁ SẢN VỀ THỨ TỰ ƢU TIÊN THANH TOÁN CHO CÁC CHỦ NỢError! Bookmark n

2.1. Thực trạng quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán tài sản cho các chủ nợError! Bookmark n
2.1.1. Thực trạng quy định về đối tượng thanh toán ..... Error! Bookmark not defined.
2.2. Thực trạng quy định về các biện pháp bảo toàn tài sảnError! Bookmark not defined.
2.2.1. Giao dịch vô hiệu ................................................. Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Tạm đình chỉ, đình chỉ thực hiện hợp đồng đang có hiệu lựcError! Bookmark not defined.
2.2.3. Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời ........... Error! Bookmark not defined.
2.3. Thực trạng quy định về chủ nợ ................................... Error! Bookmark not defined.
2.4. Thực trạng quy định về thứ tự thanh toán ................. Error! Bookmark not defined.
2.5. Thực trạng quy định về thủ tục phân chia tài sản phá sảnError! Bookmark not defined.
2.5.1.Thủ tục tuyên bố phá sản ...................................... Error! Bookmark not defined.
2.5.2. Thi hành quyết định tuyên bố phá sản ................. Error! Bookmark not defined.
2.5.3. Phân chia tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sảnError! Bookmark not defined.
2.5.4. Đình chỉ thi hành quyết định tuyên bố phá sản ... Error! Bookmark not defined.

2.6. Thứ tự ưu tiên thanh toán trong trường hợp phá sản tổ chức tín dụngError! Bookmark not def


2.7. Quan điểm hoàn thiện pháp luật phá sản về thứ tự ưu tiên thanh toán tài sản
cho các chủ nợ .................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.7.1. Quy định của pháp luật phá sản về thứ tự ưu tiên thanh toán tài sản cho các

chủ nợ phải đáp ứng yêu cầu của thực tiễn ................... Error! Bookmark not defined.
2.7.2. Quy định của pháp luật phá sản về thứ tự ưu tiên thanh toán tài sản cho các

chủ nợ phải dựa trên cơ sở hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật phá sảnError! Bookmark not d
2.8. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thứ tự ưu tiên thanh toán tài sản cho các
chủ nợ .................................................................................. Error! Bookmark not defined.

2.8.1. Về xử lý tài sản còn lại của doanh nghiệp bị phá sản nằm ở nước ngoàiError! Bookmark no
2.8.2. Việc giải phóng nghĩa vụ trả nợ cho chủ doanh nghiệp tư nhân và các thành
viên hợp danh của công ty hợp danh ............................. Error! Bookmark not defined.

2.8.3. Về quyền lợi của người lao động khi phân chia tài sản phá sảnError! Bookmark not define
Kết luận chương 2............................................................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ............................................................................. Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 27


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Phá sản là một hiện tượng tất yếu tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Phá sản tồn
tại cùng cạnh tranh. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh càng gay gắt thì nguy cơ phá
sản càng lớn. Ở Việt Nam, phá sản xuất hiện từ đã lâu, nhưng phá sản thực sự được chú ý
và phản ánh đúng tính chất của nó kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Trong
thời kì kế hoạch hóa tập trung, có nhiều quan điểm cho rằng phá sản là một hiện tượng
bất bình thường, thể hiện sự trì trệ và suy thoái của đời sống kinh tế xã hội và thường bị
phủ nhận. Khi có công ty, xí nghiệp làm ăn thua lỗ thì có cơ quan cấp trên bù lỗ bằng tiền
ngân sách, đình chỉ hoạt động hoặc giải thể. Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm thay đổi quan
niệm về phá sản. Luật phá sản năm 1993 và sau này được thay thế bằng luật phá sản năm
2004 đã phần nào thể hiện được vai trò là một trong những công cụ pháp lý quan trọng

thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong việc cụ thể hóa những chính sách kinh
tế của nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, hợp tác xã đang trong tình
trạng sản xuất kinh doanh khó khăn, thua lỗ có cơ hội để rút khỏi thị trường một cách có
trật tự, góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, làm lành mạnh hóa nền kinh tế, thúc đẩy
hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn, thúc đẩy sự lưu thông vốn trong nền kinh
tế thị trường, thu hút đầu tư và tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh cho các nhà đầu
tư. Pháp luật phá sản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và các chủ nợ
cũng như lợi ích hợp pháp cho các doanh nghiệp mắc nợ. Đồng thời pháp luật phá sản
còn là công cụ răn đe, buộc các doanh nghiệp phải luôn tự hoàn thiện mình để tồn tại và
phát triển.
Tuy nhiên, theo tổng kết thi hành luật phá sản cho thấy, qua 9 năm thực hiện, với luật
phá sản doanh nghiệp năm 1993, toàn ngành tòa án chỉ thụ lý 151 đơn yêu cầu tuyên bố phá
sản doanh nghiệp, trong đó chỉ tuyên bố được 46 doanh nghiệp bị phá sản. Với luật phá sản
năm 2004, tòa án thụ lý tổ ng số 336 đơn yêu cầ u tuyên bố phá sản, ra quyết định mở thủ tục
phá sản 236 trường hợp, và cũng chỉ quyế t đinh
̣ tuyên bố phá sản được83 trường hợp. Năm
2012, có 69.874 doanh nghiệp đăng ký, trong khi đó có 44.906 doanh nghiệp dừng hoạt


động và 9.355 doanh nghiệp giải thể. Trong khi đó, qua tổng kết thi hành luật phá sản của
63 tòa án nhân dân cấp tin̉ h thì có 49 tòa án có nhận đơn và giải quyế t tổng số 336 đơn yêu
cầ u tuyên bố phá sản và 14 tòa án không nhâ ̣n đơn và giải quyế t đơn yêu cầ u tuyên bố phá
sản gồm các tòa án: Cao Bằng, Bắc Ka ̣n, Điê ̣n Biên, Hà Giang, Hà Nam, Lào Cai, Ninh
Thuận, Hòa Bình, Thái Nguyên, Bình Phước, Tuyên Quang, Hưng Yên, Kiên Giang, Lai
Châu [5].
Thực tiễn áp dụng luật phá sản năm 2004 còn tồn tại một số vướng mắc và chưa
đáp ứng được những yêu cầu đặt ra. Một trong những hạn chế còn tồn tại của luật là trình
tự, thứ tự ưu tiên thanh toán cho các chủ nợ khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá
sản còn chưa đầy đủ và phù hợp. Thực tiễn cho thấy việc giải quyết thanh toán tài sản còn
lại của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản để phân chia cho các chủ nợ còn nhiều bất cập.

Qua số liệu các vụ việc phá sản của các tòa án trên toàn quốc nêu trên, chiếm số lượng
không nhỏ các vụ việc phá sản chưa giải quyết được do có liên quan đến vấn đề thanh
toán cho các chủ, điều đó đã dẫn đến hiệu quả áp dụng quy định luật phá sản năm 2004
vào thực tiễn không cao. Chính vì vậy việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định
trong luật phá sản về thanh lý tài sản, thứ tự ưu tiên thanh toán cho các chủ nợ là một
trong những yêu cầu quan trọng đặt ra nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể
có liên quan, giúp cho vụ phá sản được giải quyết nhanh chóng, chính xác, qua đó nâng
cao hiệu quả của luật phá sản. Điều này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách toàn diện
về thủ tục này cả về lý luận cũng như thực tiễn hoạt động nhằm có sự đối chiếu, so sánh
với pháp luật các nước, để thấy rõ được những ưu điểm cũng như bất cập trong các quy
định của pháp luật và đưa ra những giải pháp cần thiết nhằm xây dựng những quy định
hợp lý, đáp ứng yêu cầu thực thi luật phá sản ở nước ta. Đây chính là lý do để tôi chọn đề
tài “Thứ tự ưu tiên thanh toán cho các chủ nợ theo pháp luật phá sản 2014”

2. Tổng quan tài liệu


Kể từ khi ban hành luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 đến nay đã có rất nhiều
công trình khoa học về phá sản cũng như pháp luật về phá sản nói chung do các nhà khoa
học cũng như những người hoạt động về thực tiễn thực hiện.
Nhìn chung các công trình trên thường chủ yếu tập trung vào việc phân tích, đánh
giá các quy định về điều kiện, phạm vi và trình tự, thủ tục giải quyết vụ phá sản trong luật
phá sản nói chung mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và
có hệ thống về thủ tục, thứ tự thanh toán tài sản cho các chủ nợ, vì vậy nằm trong yêu cầu
sửa đổi bổ sung các quy định của luật phá sản thì việc nghiên cứu đề tài này là rất cần
thiết và bổ ích. Có thể kể đến một số các công trình nghiên cứu như:
- Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của TS. Nguyễn Văn Dũng về “Cơ sở lý
luận và thực tiễn của việc áp dụng các quy định của Luật phá sản về thủ tục phá sản” năm
2004;
- Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện các quy định liên quan đến quản lý và thanh lý tài

sản phá sản” của Nguyễn Thị Hồng Vân, được bảo vệ thành công tại khoa luật, Đại học
quốc gia Hà Nội năm 2008. Đây là một công trình nghiên cứu rất chuyên sâu về các hạn
chế, yếu kém trong các quy định của pháp luật có liên quan đến công tác quản lý và thanh
lý tài sản phá sản và tổ quản lý, thanh lý tài sản. Như vậy, các nội dung khác của luật phá
sản chưa được đề cập đến trong luận án này;
- Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ “ Thực trạng pháp luật về phá sản và
việc hoàn thiện môi trường pháp luật kinh doanh tại Việt Nam” của Bộ Tư pháp bảo vệ
năm 2009
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đăng trên các tạp chí, các
báo cáo chuyên đề, hội thảo chuyên đề về phá sản và pháp luật về phá sản như:
- “Tài sản phá sản và phân chia tài sản của con nợ bị phá sản” của Hà Thị Thanh
Bình, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 5/2003;
- “Về thực trạng pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay” của TS. Dương Đăng Huệ,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2003;
- “Phá sản doanh nghiệp - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Tấn
Hơn, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, năm 2005...


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm rõ thực trạng quy định của luật phá sản năm 2014 và
các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành về thứ tự ưu tiên thanh toán cho các chủ nợ; từ
đó xây dựng luận cứ khoa học cho việc đưa ra các giải pháp hoàn thiện chế định pháp
luật này. Để đạt được mục đích đó, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về đối tượng và thứ tự ưu tiên thanh toán các
khoản nợ khi doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Mối quan hệ giữa thủ
tục này với các thủ tục còn lại trong quá trình phá sản.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng của pháp luật phá sản hiện hành và các văn bản
hướng dẫn thực hiện, chỉ ra những điểm đã đạt được và những khó khăn, vướng mắc cần
tháo gỡ và giải quyết.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật phá sản Việt Nam về đối tượng

và thứ tự ưu tiên thanh toán cho các chủ nợ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: các quy định hiện hành của pháp luật phá sản về thứ tự ưu
tiên thanh toán cho các chủ nợ và thực tiễn thực hiện chế định này.
- Phạm vi nghiên cứu: từ khi luật phá sản năm 2014 có hiệu lực đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin và
một số phương pháp cụ thể như: Phân tích, so sánh, tổng hợp…để tìm ra những điểm đã
đạt được và chưa đạt được pháp luật hiện hành.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Hiện nay, mặc dù đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu pháp luật phá sản
nhưng thường chỉ tập trung nghiên cứu một cách khái quát về trình tự, thủ tục giải quyết
yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Đề tài “Thứ tự ưu tiên thanh toán cho các chủ
nợ theo pháp luật phá sản 2014” nghiên cứu một vấn đề mang tính cụ thể hơn, và có ý
nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết yêu cầu thanh toán các tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản. Trong khi pháp luật phá sản ở Việt Nam nói
chung cũng như những quy định về thủ tục thanh lý tài sản nói riêng hiện nay đã có hiệu


lực nhưng thực tiễn đòi hỏi những kiến giải nhằm hoàn thiện và phát huy hơn nữa hiệu
lực của nó. Luận văn đạt được những điểm mới sau đây:
- Luận văn đưa ra khái niệm về thứ tự ưu tiên cho các chủ nợ khi thanh lý tài sản,
các khoản nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán dựa trên cơ sở phân tích các dấu
hiệu pháp lý của thủ tục này, cũng như tham khảo có chọn lọc kinh nghiệp của các quốc
gia trên thế giới có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng với Việt Nam.
- Luận văn phân tích những nội dung của pháp luật về thứ tự thanh lý tài sản, các
khoản nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, đồng thời chỉ ra một số quy định
còn hạn chế, bất cập trong các văn bản pháp luật hiện hành của nước ta.
- Luận văn đã đánh giá thực trạng áp dụng các quy định về thứ tự ưu tiên thanh
toán cho các chủ nợ, đồng thời đi sâu nghiên cứu những hạn chế, vướng mắc trong thực

tiễn áp dung các quy định về thủ tục này, trên cơ sở đó tìm ra những nguyên nhân của
thực trạng đó.
- Luận văn đề ra một số định hướng cơ bản nhằm hoàn thiện các quy định pháp
luật về thứ tự ưu tiên thanh toán, các khoản nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán. Đồng thời đề xuất, kiến nghị một số giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện các quy
định của pháp luật về thứ tự ưu tiên thanh toán, các khoản nợ của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài lời nói đầu, mục lục, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 2 Chương
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thứ tự ưu tiên thanh toán tài sản cho các chủ
nợ trong thủ tục phá sản.
Chương 2: Thực trạng quy định và giải pháp hoàn thiện pháp luật phá sản về thứ
tự ưu tiên thanh toán cho các chủ nợ.


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỨ TỰ ƢU TIÊN THANH TOÁN TÀI
SẢN CHO CÁC CHỦ NỢ TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN
1.1. Khái niệm thanh toán tài sản phá sản
Khi phá sản, các doanh nghiệp, hợp tác xã thuộc đối tượng bị phá sản sẽ phải thực
hiện hoạt động thanh lý tài sản của mình để thanh toán các khoản nợ cho các chủ nợ có
bảo đảm, không có đảm bảo hoặc đảm bảo một phần thì mới có thể rút lui có trật tự khỏi
thương trường.
Có thể nhận thấy sự khác nhau giữa việc thanh lý các tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã phá sản với việc thanh toán tài sản cho các chủ nợ. Theo đó, thanh lý có thể
hiểu là bán tài sản nhằm thu về một khoản tiền hoặc hủy bỏ những tài sản cố định không
dùng nữa, còn thanh toán là việc hoàn tất việc thực hiện một nghĩa vụ về tài sản của một
chủ thể đối với chủ thể khác. Ở trong một vụ việc phá sản, thanh toán tài sản phá sản
được hiểu là việc thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với các chủ thể có liên quan trong vụ việc

phá sản.
Thanh toán tài sản phá sản thực chất là việc doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản
thanh lý các tài sản còn lại của mình để thanh toán cho các chủ nợ của mình theo trình tự
và quy định của pháp luật phá sản. Theo đó, việc thanh toán tài sản phá sản phải đảm bảo
mọi nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phải được đề cập giải quyết khi
doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản, qua đó bảo vệ đầy đủ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên liên quan.
Có thể thấy, thanh toán tài sản phá sản là một hoạt động đặc thù, chỉ phát sinh
trong quan hệ phá sản. Nó có những nét giống và khác so với hoạt động thanh toán trong
giao dịch dân sự và thanh toán trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Điểm giống: Cả thanh toán tài sản phá sản, thanh toán trong giao dịch dân sự và
thanh toán trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đều là hoạt động nhằm mục đích
thu về tiền hoặc các giá trị vật chất khác, và nó dùng để thực hiện các nghĩa vụ được giao
kết giữa các bên.


- Điểm khác:
+ Thanh toán tài sản phá sản, thanh toán trong giao dịch dân sự và thanh toán
trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau.
Thanh toán tài sản và sản được áp dụng trong quan hệ phá sản, còn thanh toán trong giao
dịch dân sự và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được áp dụng trong quan hệ dân sự.
+ Thanh toán tài sản phá sản là một hoạt động được áp dụng chỉ khi một doanh
nghiệp bị tuyên bố phá sản và do chủ thể có thẩm quyền thực hiện theo quy định của
Pháp luật, ở đây là thẩm phán, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
Thanh toán tài sản trong giao dịch dân sự được thực hiện do các chủ thể có nghĩa vụ
thực hiện được quy định trong hợp đồng hoặc do hành vi pháp lí đơn phương gây ra. Thanh
toán tài sản trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do các chủ thể có trách nhiệm thực
hiện do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, tài sản
hoặc lợi ích hợp pháp của cá nhân hoặc pháp nhân.
1.2. Thủ tục thanh toán tài sản trong thủ tục phá sản

Thủ tục phá sản là một thủ tục tư pháp đặc biệt, một trong những dấu hiệu đặc biệt
chính là cấu trúc đặc thù của thủ tục phá sản. Nếu như tố tụng hình sự, tố tụng dân sự là
một quá trình hoạt động của Tòa án và những người tham gia tố tụng hình thành từ những
giai đoạn nối tiếp nhau, giai đoạn trước là nền tảng cho giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm
tra tính hợp pháp, khắc phục những thiếu sót của giai đoạn trước thì thủ tục phá sản là
một quá trình hoạt động có cấu trúc hoàn toàn khác. Theo đó, thủ tục phá sản là một thủ
tục lớn bao gồm nhiều thủ tục cấu thành (thủ tục nhỏ) và giữa những thủ tục cấu thành đó
có mối liên hệ với nhau theo những nguyên tắc khác nhau. Tính thứ tự, nối tiếp nhau
không phải là yếu tố bắt buộc giữa các thủ tục cấu thành.
Theo luật phá sản 2014, thủ tục phá sản gồm hai thủ tục chính, đó là thủ tục phục
hồi hoạt động kinh doanh và thủ tục tuyên bố phá sản.
Trong các thủ tục này, thủ tục thanh toán các khoản nợ là thủ tục cuối cùng, kết
thúc quy trình giải quyết một vụ việc phá sản. Việc các chủ nợ có đòi được các khoản nợ
của mình hay không phụ thuộc vào giai đoạn này của thủ tục phá sản.


Thực chất của việc giải quyết phá sản là việc xử lý mối quan hệ về lợi ích tài sản
giữa các chủ nợ với con nợ. Về cơ bản, thứ tự thanh toán từ tài sản phá sản của con nợ
được pháp luật các nước trên thế giới quy định như sau:
- Các chủ nợ được ưu tiên trên hết gồm: chủ nợ có bảo đảm.
- Các chủ nợ được ưu tiên khác bao gồm tổ chức và cá nhân được hưởng các chi
phí giải quyết phá sản; thuế, tiền công, tiền lương cho người lao động và các chi phí
khác;
- Các chủ nợ được thanh toán theo tỷ lệ. Thông thường, nhóm chủ nợ này bao gồm
các chủ nợ không có đảm bảo của doanh nghiệp phá sản;
- Các chủ nợ được trả chậm, bao gồm người cho vay có thứ tự thanh toán sau cùng
trong một hợp đồng vay hợp vốn (syndicated loan);
- Cổ đông của công ty cổ phần bị phá sản;
Giải quyết nợ theo thủ tục phá sản là việc giải quyết nợ một cách tập thể, sau khi
phá sản thì quan hệ nợ giữa doanh nghiệp bị phá sản và tất cả các chủ nợ sẽ chấm dứt dù

cho doanh nghiệp đó có hay không có đủ tài sản để thanh toán cho các khoản nợ. Do đó,
các chủ nợ nếu làm đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp thì rất có khả
năng là họ không thu hồi được nợ hoặc nếu có thu hồi được thì cũng chẳng đáng là bao vì
tài sản của doanh nghiệp mắc nợ thường là còn rất ít mà chủ nợ thường lại rất đông, thêm
vào đó tài sản còn lại của doanh nghiệp mắc nợ được thanh toán theo thứ tự ưu tiên nên
hy vọng được thanh toán rất mỏng manh. Xuất phát từ bản chất đó của thủ tục phá sản
nên theo suy nghĩ của các chủ nợ thì việc đòi nợ theo thủ tục phá sản là phương thức đòi
nợ kém hiệu quả nhất và chỉ được sử dụng trong trường hợp bất đắc dĩ, khi mà các biện
pháp đòi nợ khác không đạt được hiệu quả. Vì vậy, thông thường, các chủ nợ sau khi gửi
giấy đòi nợ mà không được doanh nghiệp thanh toán thì họ sẽ tự mình tìm các biện pháp
khác để thu hồi nợ mà không nộp đơn yêu cầu ngay. Chính vì vậy cần có một cơ chế giải
quyết thích hợp để đảm bảo quyền lợi của các chủ nợ trong quá trình giải quyết phá sản,
khuyến khích các chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.[1]
1.3. Chủ nợ - Chủ thể của quan hệ thanh toán tài sản phá sản
1.3.1. Khái niệm chủ nợ


Theo quy định tại khoản 3, điều 4 luật phá sản 2014, chủ nợ được định nghĩa là
“cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện nghĩa vụ
thanh toán khoản nợ, bao gồm chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và
chủ nợ có bảo đảm”
Như vậy, khái niệm chủ nợ đã được xác định bởi quyền yêu cầu doanh nghiệp,
hợp tác xã trả nợ, cách hiểu này đã bao hàm được cả những cá nhân, tổ chức có khoản nợ
đối với doanh nghiệp, hợp tác xã phát sinh trước, trong và cả sau khi có quyết định mở
thủ tục phá sản, tránh bỏ sót những chủ thể có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Có thể thấy, các chủ nợ là những người có quyền lợi bị ảnh hưởng nhiều nhất
trong bất kì một vụ phá sản nào. Bởi lẽ họ chính là các nhà đầu tư, quyền và lợi ích hợp
pháp của họ bị ảnh hưởng nhiều nhất khi mà con nợ bị phá sản. Chính điều này sẽ gây
một tâm lý hoang mang cho những người đã, đang và sẽ đầu tư vào doanh nghiệp. Do đó,
chủ nợ được pháp luật quy định các quyền để họ có thể tham gia bảo vệ lợi ích của mình,

tránh tâm lý mạnh ai nấy lo. Về phía doanh nghiệp, phần lớn các doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản đều không có đủ tài sản để trả nợ, chính chủ doanh nghiệp cũng có
nguy cơ mất toàn bộ tài sản đã đầu tư vào doanh nghiệp. Chính vì thế mà họ cũng có tâm
lý chung là tìm cách tẩu tán tài sản của doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp còn câu
kết với một số chủ nợ hoặc người thứ ba nhằm trốn tránh các khoản nợ. Khi đó, các chủ
nợ khác sẽ không hưởng được những quyền lợi mà đáng ra họ được nhận.[2]
Một trong những mục tiêu quan trọng mà pháp luật phá sản hướng đến là bảo vệ
quyền và các lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Về nguyên tắc, trong thủ tục phá sản, các
chủ nợ đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ. Tuy nhiên, tùy thuộc vào tính chất
của các khoản nợ mà quyền lợi của các chủ nợ cũng khác nhau, từ đó sẽ dẫn đến vai trò
của họ cũng khác nhau. Việc phân loại chủ nợ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác
định vai trò cũng như trách nhiệm của từng loại chủ nợ ở mỗi giai đoạn tố tụng phá sản,
từ đó góp phần thúc đẩy việc giải quyết phá sản doanh nghiệp đạt được hiệu quả thiết
thực. Để phân loại các chủ nợ, cần dựa vào các tiêu chí nhất định, cụ thể là căn cứ vào
tương quan giữa giá trị tài sản bảo đảm và giá trị khoản nợ, đây là tiêu chí mà luật phá
sản 2014 đã dùng để phân loại chủ nợ, cơ sở phân loại theo tiêu chí này chính là sự xuất


hiện của tài sản bảo đảm của doanh nghiệp cho khoản nợ của mình, theo đó, chủ nợ được
phân làm 2 loại cơ bản: Chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ không có bảo đảm.
1.3.2. Phân loại chủ nợ
Ở hầu hết các quốc gia chủ nợ được chia ra làm hai loại: loại chủ nợ có bảo đảm
và chủ nợ không có bảo đảm. Từ đó pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của hai loại
chủ thể này cũng khác nhau.
Theo luật phá sản có hai nhóm chủ nợ có địa vị pháp lý khác nhau là: chủ nợ
không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm.
Nhóm thứ nhất, nhóm chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần.
Theo khoản 4 điều 4 luật phá sản nước ta “Chủ nợ không có bảo đảm là cá nhân,
cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ
thanh toán khoản nợ không được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc

của người thứ ba”. Pháp luật quy định cho nhóm này có quyền quyết định những vấn đề
quan trọng, ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ nợ và số phận của doanh nghiệp, hợp tác
xã lâm vào tình trạng phá sản như: quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, quyền
tham gia Hội nghị chủ nợ và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội nghị
chủ nợ.
Nợ không có bảo đảm là các khoản nợ không được đảm bảo bằng tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba. Các khoản nợ không có bảo đảm sẽ
được thanh toán nợ theo trình tự và thủ tục được quy định trong luật phá sản.
Việc phân biệt như trên một mặt giúp Tòa án sớm xác định được dấu hiệu phá sản
của doanh nghiệp mắc nợ (khi doanh nghiệp có số nợ không có bảo đảm lớn và không có
khả năng thanh toán số nợ đến hạn), mặt khác Tòa án sẽ sớm xác định được quyền và
nghĩa vụ của các chủ nợ, cũng như cách thức xử lý các khoản nợ nhằm đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ nợ và của doanh nghiệp mắc nợ.
Căn cứ vào thời điểm phát sinh nghĩa vụ thanh toán, có thể chia thành: Nợ đến hạn
thanh toán và nợ chưa đến hạn thanh toán.
Nợ đến hạn thanh toán là khoản nợ theo đó doanh nghiệp mắc nợ phải có nghĩa vụ
thanh toán ngay cho chủ nợ khi họ có yêu cầu


Nợ chưa đến hạn thanh toán là khoản nợ mà theo đó doanh nghiệp chưa phát sinh
nghĩa vụ thanh toán. Khi giải quyết phá sản, tòa án không được coi các khoản nợ chưa
đến hạn thanh toán là căn cứ để xác định doanh nghiệp đã mất khả năng thanh toán.
Tuy nhiên, trong trường hợp Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý đối với
doanh nghiệp, hợp tác xã thì các khoản nợ chưa đến hạn vào thời điểm mở thủ tục thanh
lý được xử lý như các khoản nợ đến hạn, nhưng không được tính lãi đối với thời gian
chưa đến hạn.
Việc phân biệt nợ đến hạn thanh toán và nợ chưa đến hạn thanh toán giúp Tòa án
có thể xác định chính xác doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn hay chưa. Doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là mất khả năng thanh toán khi mà
doanh nghiệp có các khoản nợ đến hạn, các khoản nợ này là các khoản nợ không có bảo

đảm hoặc có bảo đảm một phần đã được các bên xác nhận, có đầy đủ chứng cứ chứng
minh các khoản nợ này là có thật và không có tranh chấp. Đồng thời với đó là chủ nợ đã
có yêu cầu thanh toán nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán.
Yêu cầu của chủ nợ thanh toán các khoản nợ đến hạn phải có căn cứ chứng minh là chủ
nợ đã có yêu cầu nhưng không được doanh nghiệp thanh toán.
Nhóm thứ hai, chủ nợ có bảo đảm.
Theo khoản 5 điều 4 luật phá sản nước ta “Chủ nợ có bảo đảm là cá nhân, cơ quan,
tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán
khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ
ba”. Nhóm chủ nợ có bảo đảm sẽ luôn được đảm bảo dù có mở thủ tục phá sản hay
không, nên pháp luật quy định họ bị hạn chế một số quyền như quyền nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản, không có quyền biểu quyết thông qua nghị quyết của Hội nghị chủ
nợ…
Chủ nợ có bảo đảm là chủ thể của các khoản nợ có bảo đảm. Nợ có bảo đảm là các
khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ
ba. Căn cứ vào thời hạn thanh toán nợ trước thời điểm tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản có nợ đến hạn và nợ chưa đến hạn. Những tài sản này được đảm bảo dưới
hình thức cầm cố, thế chấp, bảo lãnh hoặc các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ


khác theo quy định của pháp luật. Trong đó, những biện pháp được sử dụng rộng rãi và
phổ biến nhất phải kể đến như biện pháp cầm cố, thế chấp và bảo lãnh. Những quy định
trong luật phá sản năm 2004 đã có những bước tiến bộ hơn so với luật phá sản doanh
nghiệp năm 1993 khi xác định nghĩa vụ tài sản có đảm bảo không chỉ là khoản nợ được
đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ mà còn được bảo đảm bằng
tài sản của người thứ ba. Quy định này đã mở rộng quan niệm với loại nợ này góp phần
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ nợ, đặc biệt là các chủ nợ nhận bảo lãnh.
Luật Phá sản phân biệt chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ có bảo đảm toàn bộ.
Theo khoản 6 điều 4 luật phá sản “Chủ nợ có bảo đảm một phần là cá nhân, cơ quan, tổ
chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản

nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba mà giá
trị tài sản bảo đảm thấp hơn khoản nợ đó”. Nợ có bảo đảm một phần là các khoản nợ được
đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba mà giá trị tài sản
bảo đảm ít hơn khoản nợ đó. Việc xác định rõ chủ nợ có bảo đảm hay bảo đảm một phần
đến nay còn gặp rất nhiều khó khăn mà nguyên nhân chủ yếu là do sự biến động của giá trị
tài sản bảo đảm. Thực tiễn giải quyết phá sản doanh nghiệp những năm qua cho thấy Tòa
án thường lúng túng khi xác định nghĩa vụ tài sản có bảo đảm bởi giá trị tài sản thường
xuyên biến động tăng lên hoặc hạ xuống. Việc xác định chủ nợ có bảo đảm hay có bảo đảm
một phần phải căn cứ vào ý chí của hai bên tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm và căn
cứ vào giá trị tài sản bảo đảm từ thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm và căn cứ vào giá trị
tài sản bảo đảm từ thời điểm chủ nợ yêu cầu doanh nghiệp thanh toán nợ. Nếu tại thời điểm
chủ nợ yêu cầu thanh toán nợ mà giá trị tài sản bảo đảm không đủ để thanh toán nợ thì
khoản nợ đó được coi là nợ có bảo đảm một phần, phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong
quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp.
Các chủ nợ thực hiện quyền của mình thông qua hội nghị chủ nợ. Đây là cơ quan
đại diện cao nhất cho ý chí của các chủ nợ, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng
nhất liên quan đến lợi ích của các chủ nợ như: quyết định sẽ áp dụng thủ tục phục hồi hay
áp dụng thủ tục thanh lý, việc chấp nhận phương án phục hồi của hội nghị chủ nợ sẽ là căn
cứ để mở thủ tục phục hồi. Nghị quyết của hội nghị chủ nợ được thông qua khi có quá nửa


số chủ nợ không có bảo đảm có mặt tại Hội nghị đại diện cho từ hai phần ba trở lên tổng số
nợ không có bảo đảm biểu quyết tán thành.
Bên cạnh những quyền trên, các chủ nợ có nghĩa vụ giám sát việc thực hiện
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chấp hành Nghị quyết của
Hội nghị chủ nợ sau khi đã được Tòa án công nhận, kể cả trong trường hợp không đồng ý
với nghị quyết đó.
Ngoài hai nhóm chủ nợ nêu trên, trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản đã làm xuất hiện một loại chủ nợ mới.
Luật phá sản 2004 đề cập đến các khoản nợ mới nhưng luật lại không nói về chủ nợ mới.

Luật thừa nhận sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản mọi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp vẫn tiến hành bình thường nhưng phải chịu sự giám sát, kiểm tra của thẩm
phán, tổ quản lý tài sản. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp có thể giao kết hợp đồng mới
và xuất hiện những chủ nợ mới, các khoản nợ mới. Đây là sự thiếu lôgic và không chặt
chẽ của Luật. Về lý thuyết, các chủ nợ mới (khác với các chủ nợ cũ - những chủ nợ xuất
hiện trên cơ sở các hợp đồng giao kết trước khi có quyết định mở thủ tục phá sản) phải có
quyền được ưu tiên thanh toán trong mọi trường hợp. Chỉ có như vậy các quy định của
Luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mới có tính khả thi. Nếu
không có sự bảo đảm của luật về quyền ưu tiên thanh toán thì không một chủ nợ nào lại
giao kết hợp đồng với một con nợ đã có quyết định mở thủ tục phá sản và mọi cố gắng
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chỉ là mong
muốn chủ quan của nhà lập pháp mà thôi.
Một vấn đề được đặt ra là: Các chủ nợ mới có quyền tham gia vào danh sách chủ
nợ hay không? Câu hỏi này không được trả lời rõ ràng trong luật. Các chủ nợ có bảo đảm
mặc dù có quyền ưu tiên thanh toán nhưng vẫn phải có tên trong danh sách chủ nợ để có
quyền đòi nợ, có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ. Tuy nhiên theo quy định tại Điều
51,52 luật phá sản năm 2004, danh sách chủ nợ được lập trong thời hạn 75 ngày kể từ
ngày cuối cùng đăng báo quyết định của tòa án mở thủ tục phá sản. Sau 13 ngày niêm yết
và giải quyết khiếu nại nếu có thì danh sách này được đóng lại. Trong khi đó doanh
nghiệp có quyết định mở thủ tục phá sản vẫn tồn tại, vẫn hoạt động kinh doanh, vẫn phải


ký kết các giao dịch mới, có các chủ nợ mới và chỉ chấm dứt hoạt động kinh doanh khi có
quyết định thanh lý tài sản.
1.4. Đối tƣợng và phạm vi thanh toán tài sản phá sản
Đối tượng của hoạt động thanh toán tài sản phá sản là tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã bị tuyên bố phá sản. Tài sản ở đây được hiểu theo nghĩa chung nhất gồm động
sản và bất động sản. Việc xác định phạm vi khối tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán có ý nghĩa rất quan trọng, bởi điều này không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi
của các chủ nợ mà còn là cơ sở để tòa án quyết định phương hướng giải quyết phá sản và

có thể tiến hành xử lý nợ một cách triệt để. Việc xác định khối tài sản của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán được quy định khác nhau ở những quốc gia khác nhau dựa trên
tiêu chí như thời điểm tiến hành các thủ tục giải quyết phá sản, phạm vi không gian tài
sản hiện hữu hay nguồn tài sản…
Theo luật phá sản của Nhật Bản, phạm vi khối tài sản phá sản bao gồm tất cả các
tài sản còn lại của con nợ. Khối tài sản này bao gồm tài sản của con nợ và quyền phủ
nhận về tài sản. Luật phá sản của Nhật Bản quy định “Bất kỳ tài sản nào và tất cả những
tài sản do bên bị phá sản giữ tại thời điểm tuyên bố phá sản” đều thuộc khối tài sản phá
sản. Tuy nhiên luật phá sản của Nhật Bản lại có quy định về một loại tài sản được miễn
trừ khỏi khối tài sản phá sản đó là “tài sản tự do”, tham khảo quy định tại Điều 34 Luật
phá sản Nhật Bản, điều 131 và 132 Luật thực thi dân sự Nhật Bản, theo đó tài sản tự do
được xác đinh là tài sản mới thiết lập quyền sở hữu, tài sản không được phép cho vào
danh sách tịch thu, tiền dưới 100 yên Nhật, tài sản không phải là tài sản tự do nhưng được
xếp làm tài sản tự do và tài sản mà người làm thủ tục thanh lý xếp ở ngoài danh sách
thanh lý [14].
Bên cạnh đó, Luật phá sản của Nhật Bản cũng có quy định những tài sản có được
sau khi tuyên bố phá sản thì không được tính vào khối tài sản của doanh nghiệp mà được
xếp vào loại tài sản mở rộng với lý do là: nếu đưa vào loại tài sản phát sinh này sẽ tạo ra
sự phức tạp cũng như khó khăn trong tính toán và đồng thời cũng tạo ra tính không công
bằng trong việc xác định quyền và trách nhiệm của các bên có liên quan đến khối tài sản
đó. Một điều đặc biệt được quy định trong Luật phá sản của Nhật Bản đó là: Những tài


sản nào ở ngoài phạm vi lãnh thổ Nhật Bản không được coi là một bộ phận của khối tài
sản phá sản. Bởi vì người Nhật cho rằng khả năng giám sát, đánh giá và thu hồi khối tài
sản này rất khó khăn, thậm chí là không thể thu hồi được.[12]
Ngoài ra, pháp luật phá sản của Nhật Bản lại có những quan niệm của riêng mình
khi cho rằng những tài sản con nợ có được trong giai đoạn giữa thời điểm đơn yêu cầu
tuyên bố phá sản đối với con nợ và ngày ban hành quyết định giải quyết đơn thuộc về
khối tài sản phá sản, còn tài sản con nợ có được sau khi bắt đầu vụ kiện phải được miễn

trừ khỏi khối tài sản phá sản với mong muốn của các nhà làm luật là nhằm tạo cho con nợ
một sự khởi đầu mới.
Cũng trong pháp luật phá sản của Nhật Bản, khối tài sản phá sản bao gồm tài sản
của con nợ tại thời điểm tuyên bố phá sản là đối tượng của thủ tục tư pháp. Những tài sản
mà người được ủy thác thu hồi được thông qua quyền phủ nhận cũng thuộc về khối tài
sản phá sản. Quyền chủ sở hữu cũng là một loại tài sản thuộc khối tài sản phá sản. Tài
sản này không nhất thiết phải nhìn thấy được và không nhất thiết phải được thể hiện trên
sổ sách hoặc tài khoàn của con nợ. Tài sản cầm cố cũng là một tài sản trong khối tài sản
phá sản.[13]
Luật phá sản của Hoa Kỳ tại Điều 401 lại ghi nhận “Tài sản phá sản là khối sản
nghiệp của doanh nghiệp”, theo đó, tài sản phá sản bao gồm:
(1) Tất cả số tài sản của con nợ (bao gồm quyền và nghĩa vụ tài sản) mà không
được miễn trừ tại thời điểm bắt đầu vụ phá sản đó;
(2) Tài sản phá sản còn bao gồm những tài sản mà con nợ có được trong vòng 180
ngày sau khi vụ án bắt đầu bằng việc thừa kế những lợi ích từ chính sách bảo hiểm và bất
kỳ một lợi ích nào đối với tài sản có được sau khi vụ án bắt đầu;
(3) Tài sản phá sản cũng bao gồm những tài sản do Tín thác viên thu hồi được theo
thẩm quyền do luật định trong các trường hợp sau:
- Quy định xiết nợ (đại diện cho chủ nợ): Tín thác viên có quyền xiết nợ đối với
con nợ của doanh nghiệp mà không cần sự đồng ý của con nợ - Khoản 544a;
- Các tài sản có được từ những giao dịch ưu tiên trả nợ bị vô hiệu: Tín thác viên có
quyền thu hồi bất kỳ một sự chuyển nhượng, thanh toán bằng bất kỳ tài sản nào của con


nợ trước ngày phá sản nhằm bảo toàn tài sản của doanh nghiệp và bảo đảm sự phân chia
công bằng khối tài sản này (trừ những giao dịch mà pháp luật thừa nhận theo Điều 574);
- Các tài sản có được do Tín thác viên đã thực hiện việc xiết nợ người khác đối với
tài sản của doanh nghiệp mà người tín thác này đang quản lý.
Bên cạnh đó, pháp luật phá sản của Hoa Kỳ còn quy định tài sản phá sản bao gồm
cả những tài sản có được trong vòng 180 ngày kể từ ngày có đơn khởi kiện do thừa kế

qua chúc thư, được chia, được thừa kế; là kết quả của một phán quyết về hôn nhân; giải
quyết vụ việc đối với người hôi phối; hay theo một hợp đồng bảo hiểm hoặc những thỏa
thuận tương tự [8]
Luật Phá sản doanh nghiệp của Nga lại xác định tài sản phá sản bao gồm:
- Tất cả tài sản của người mắc nợ thể hiện trong bảng cân đối kế toán hoặc các tài
liệu kế toán thay thế là cơ sở để xác định tài sản phả sản;
- Trong tài sản phá sản còn bao gồm đối tượng thuộc lĩnh vực công cộng nằm
trong bảng cân đối của người mắc nợ, trừ quỹ nhà ở, các trường mẫu giáo và các công
trình sản xuất hạ tầng quan trọng đối với đối sống khu vực, cần được đưa vào bảng cân
đối của các cơ quan tự quản địa phương hoặc cơ quan quyền lực Nhà nước hữu quan, nếu
pháp luật của Liên bang quy định khác…
- Tài sản phá sản không bao gồm tài sản là vật bảo đảm. Tài sản phá sản không
bao gồm tài sản không thuộc quyền sở hữu của người mắc nợ, trong đó có: tài sản do mắc
nợ thuê; tài sản mà người mắc nợ có trách nhiệm bảo quản; tài sản riêng của công nhân
doanh nghiệp mắc nợ; trừ tài sản mà theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của doanh
nghiệp có thể được thu hồi để thực hiện các nghĩa vụ của người mắc nợ (theo duy định tại
Điều 26, Luật phá sản Nga).
Trong hệ thống pháp luật về phá sản của Đức cũng có cách xác định tài sản phá
sản theo hướng toàn bộ tài sản mà con nợ có được vào thời điểm Tòa án ra quyết định
thụ lý và những tài sản con nợ có thêm được từ thời điểm thụ lý được gọi là khối tài sản
phá sản. Nước này thừa nhận những tài sản cầm cố của các chủ nợ có bảo đảm cũng
thuộc khối tài sản phá sản. Ngoài ra, pháp luật phá sản của Đức cũng quy định những
tài sản thuộc diện loại trừ ra khỏi khối tài sản phá sản bao gồm:


- Những tài sản không thuộc phạm vi tài sản bị cưỡng bức tịch thu (các quyền liên
quan đến cá nhân như sức lao động); các tài sản nhất định theo quy định của Luật tổ tụng
dân sự và Luật gia đình thì không thuộc khối tài sản phá sản;
- Các tài sản của con nợ nằm ở nước nước ngoài là thuộc phạm vi khối tài sản phá
sản;

- “Tài sản loại trừ” là tài sản của chủ nợ đang cho con nợ sử dụng mà không thuộc
về khối tài sản phá sản và phải hoàn trả lại cho chủ nợ; “tài sản tách ra” là các khoản nợ
có đảm bảo.
Ngoài ra pháp luật phá sản của Đức không có sự phân biệt các khái niệm “tài sản
của doanh nghiệp mắc nợ” và “tài sản còn lại của doanh nghiệp mắc nợ”.[8]
Pháp luật phá sản Việt Nam sử dụng phương pháp liệt kê loại hình tài sản để xác
định khối tài sản phá sản.
Để liệt kê đầy đủ các loại hình tài sản phục vụ cho việc thanh lý khối tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, trước tiên cần phải định nghĩa rõ các nghĩa vụ về tài
sản của chúng.
- Nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã được xác lập trước khi Tòa án
nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản được xác định vào thời điểm ra quyết định mở
thủ tục phá sản.
- Nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã được xác lập sau khi Tòa án
nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản được xác định vào thời điểm ra quyết định
tuyên bố phá sản.
- Trường hợp nghĩa vụ về tài sản không phải là tiền thì Tòa án nhân dân xác định
giá trị nghĩa vụ về tài sản đó bằng tiền.
Có thể thấy rằng việc xác định khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản
không đặt ra sự phân biệt giữa các khoản nợ có bảo đảm và các khoản nợ không có bảo
đảm, mà chỉ phân biệt hai thời điểm phải xác định nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã. Theo đó, không chỉ nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã được
xác lập trước khi tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản sẽ được xác định tại
thời điểm ra quyết định mở thủ tục phá sản sẽ được xác định tại thời điểm ra quyết định


mở thủ tục phá sản, mà những nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã được xác
lập sau khi tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản sẽ được xác định vào thời điểm ra
quyết định tuyên bố phá sản. Điều này có nghĩa, trên cơ sở kiểm kê tài sản, các yêu cầu
đòi nợ của chủ nợ, danh sách chủ nợ, thì cần thiết phải thống kê, kiểm kê đầy đủ tất cả

các tài sản và nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã tại thời điểm khi tòa án
nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản và khi tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố
phá sản. Quy định mới này thỏa mãn thực tế rằng, sau khi ra quyết định tuyên bố mở thủ
tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, thì doanh nghiệp,
hợp tác xã này vẫn thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, tìm cơ hội phục hồi và
vẫn có thể phát sinh những nghĩa vụ mới về tài sản; do đó, phải thống kê đầy đủ để xử lý
khi ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.[2]
1.5. Thứ tự ƣu tiên trong thanh toán tài sản phá sản
Thứ tự ưu tiên thanh toán cho các chủ nợ là nguyên tắc xác định việc quyền lợi
của chủ nợ nào sẽ được giải quyết trước khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. Chủ nợ
nào được ưu tiên giải quyết trước thì có thể coi rằng các chủ thể đó có vai trò quan trọng
và cần được ưu tiên hơn so với các chủ nợ khác.
Thực chất của việc giải quyết phá sản là việc xử lý mối quan hệ về lợi ích tài sản
giữa các chủ nợ với con nợ. Khi con nợ lâm vào tình trạng phá sản thì cũng có nghĩa là
món nợ phải trả thì nhiều mà khả năng thanh toán nợ thì lại ít. Trong hoàn cảnh như vậy,
việc chủ nợ nào được ưu tiên thanh toán trước, chủ nợ nào được thanh toán sau là vấn đề
mà các chủ nợ luôn luôn quan tâm vì thứ tự đó ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích chính đáng
của họ.
Việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán cho các chủ nợ có ý nghĩa quan trọng,
thông thường được xác định theo thứ tự:
- Các chi phí được ưu tiên thanh toán: Các chi phí này là chi phí bỏ ra để thanh
toán các chi phí để bảo quản, bảo toàn tài sản theo điều ước quốc tế (chi phí cứu hộ, cứu
nạn tàu biển, máy bay...) hoặc các khoản nợ đặc biệt được hoàn trả cho ngân hàng nhà
nước hoặc các tổ chức tín dụng cho tổ chức tín dụng vay để phục hồi hoạt động sản xuất
kinh doanh, các chi phí để tiến hành các hoạt động phá sản.


- Sau các chi phí được ưu tiên thanh toán là các chi phí thanh toán tiền lương cho
người lao động, các khoản nợ bảo hiểm xã hội, nợ khác theo hợp đồng lao động và thỏa
ước lao động tập thể đã kí kết...

- Các khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản nhằm mục đích phục hồi hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã; xuất phát từ mục đích tạo cơ hội cho doanh
nghiệp, hợp tác xã có cơ hội để phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh, vượt qua khó
khăn và thoát khỏi nguy cơ bị tuyên bố phá sản.
- Nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho
chủ nợ trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài
sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ. Có thể thấy thứ tự ưu tiên thanh toán cho các chủ
nợ khi doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản đã có sự tương đồng với pháp luật phá sản các
nước trên thế giới khi coi các khoản nợ thuế bình đẳng như các khoản nợ của các chủ nợ
khác. Quy định này đảm bảo được sự bình đẳng giữa các chủ nợ trong quan hệ phá sản
dù chủ nợ đó là nhà nước hay cơ quan, tổ chức cá nhân nào.
1.6. Mục đích, ý nghĩa, vai trò của việc xác định thứ tự ƣu tiên trong thanh toán tài
sản phá sản
1.6.1. Mục đích, ý nghĩa
Khi một doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản, việc xác định thứ tự ưu tiên
thanh toán tài sản phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó có ý nghĩa quan trọng. Nó xác
định mức độ nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản đối với các chủ nợ,
những chủ nợ ở hàng thanh toán đầu được pháp luật ưu tiên, mức độ giảm dần từ các
khoản nợ nhà nước chi phí phá sản, đến các khoản nợ lương đối với cán bộ nhân viên
công ty, cuối cùng là các khoản nợ đối với các chủ nợ không có đảm bảo và đảm bảo một
phần, từ đó đảm bảo không để sót các chủ nợ trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản.
1.6.2. Vai trò
Việc xác định thứ tự ưu tiên trong thanh toán tài sản phá sản có vai trò rất quan
trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan đến việc
phá sản. Mỗi thủ tục ở mức độ nhất định lại có những vai trò không hoàn toàn trùng


khớp nhau và có những nội dung không giống nhau. Vai trò của việc xác định thứ tự ưu
tiên trong thanh toán tài sản phá sản thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ nợ.

Các chủ nợ của là những người có quyền lợi bị ảnh hưởng nhiều nhất trong bất kì
một vụ phá sản nào. Chủ nợ có nguy cơ bị mất một phần thậm chí là toàn bộ tài sản đã đầu
tư vào doanh nghiệp. Chính điều này sẽ gây một tâm lý hoang mang cho những người đã,
đang và sẽ đầu tư vào doanh nghiệp. Do đó, chủ nợ được pháp luật quy định các quyền để
họ có thể tham gia bảo vệ lợi ích của mình, tránh tâm lý mạnh ai nấy lo. Về phía doanh
nghiệp, phần lớn các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đều không có đủ tài sản để
trả nợ, chính chủ doanh nghiệp cũng có nguy cơ mất toàn bộ tài sản đã đầu tư vào doanh
nghiệp. Chính vì thế mà họ cũng có tâm lý chung là tìm cách tẩu tán tài sản của doanh
nghiệp. Trong nhiều trường hợp còn câu kết với một số chủ nợ hoặc người thứ ba nhằm
trốn tránh các khoản nợ. Khi đó, các chủ nợ khác sẽ không hưởng được những quyền lợi
mà đáng ra họ được nhận.
Với vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tối đa quyền lợi cho các chủ nợ, pháp
luật phá sản nói chung và thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản nói riêng sẽ đưa các vụ phá sản đi theo một trình tự nhất định, dẫn
đến sự phân chia tài sản phá sản trong thủ tục thanh lý theo một lộ trình cũng như tỷ lệ
phân chia đảm bảo công bằng và có lợi nhất cho các chủ nợ.
Theo quy định của điều 37 luật phá sản 2004 về thứ tự ưu tiên thanh toán tài sản
còn lại của doanh nghiệp thì chỉ ưu tiên thanh toán phí phá sản; và các khoản nợ lương,
trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác theo
thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết. Các chủ nợ không có bảo đảm
được thanh toán từ phần tài sản còn lại theo tỷ lệ tương ứng với số nợ. Thứ tự ưu tiên
thanh toán này theo luật phá sản 2004 chưa thực sự khuyến khích các chủ nợ nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản. Trên thực tế, mặc dù các chủ nợ đã phát hiện ra doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản nhưng không phải chủ nợ nào cũng đều nộp đơn đến Toà án.
Giải quyết nợ theo thủ tục phá sản là việc giải quyết nợ một cách tập thể, sau khi phá sản
thì quan hệ nợ giữa doanh nghiệp bị phá sản và tất cả các chủ nợ sẽ chấm dứt dù cho


×