BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------
HÀ DIỆU LINH
HÀNH VI GIAO TIẾP TRÊN MẠNG XÃ HỘI
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHÁNH HÒA
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60310401
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TÂM LÝ
Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Anh Phước
HÀ NỘI – 2017
0
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan thực hiện đề tài này hoàn toàn độc lập, theo đúng hướng
dẫn của Nhà trường và Giảng viên hướng dẫn.
Tôi cam đoan số liệu trong kết quả nghiên cứu là trung thực, chính xác và
được thực hiện tại địa điểm nghiên cứu.
Học viên
Hà Diệu Linh
1
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu đề tài “Hành vi giao tiếp trên mạng xã hội của
sinh viên Trường Đại học Khánh Hòa”, đến nay luận văn đã hoàn thành. Với tình cảm
chân thành, tôi xin cảm ơn các thầy giáo, cô giáo và Hội đồng khoa học khoa Tâm lý Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tham gia giảng dạy, tư vấn, giúp đỡ, tạo
điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Hoàng Anh Phước đã tận
tình chỉ bảo, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận
văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của Trường Đại học Khánh Hòa đã giúp
đỡ, tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ tình cảm sâu sắc tới gia đình và người thân đã ủng hộ, động viên,
tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này.
Dù đã có nhiều cố gắng trong học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn,
song luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các quý thầy, cô giáo,
bạn bè góp ý để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2017
Tác giả
Hà Diệu Linh
2
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ....................................................................Error! Bookmark not defined.
MỤC LỤC ........................................................................................................................... 1
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI GIAO TIẾP TRÊN MẠNG XÃ HỘI
CỦA SINH VIÊN ............................................................................................................. 10
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề .................................................................................... 10
1.1.1. Những nghiên cứu về giao tiếp .............................................................................. 10
1.1.2. Những nghiên cứu về hành vi giao tiếp trên mạng xã hội ...................................... 14
1.2. Các khái niệm cơ bản ................................................................................................. 17
1.2.1. Hành vi giao tiếp trên mạng xã hội ......................................................................... 17
1.2.2. Hành vi giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên ................................................... 34
CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................... 48
2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu ................................................................................ 48
2.2. Tổ chức nghiên cứu .................................................................................................... 50
2.2.1. Tổ chức nghiên cứu lí luận ...................................................................................... 50
2.2.2. Tổ chức nghiên cứu thực trạng ............................................................................... 51
2.2.3. Đề xuất biện pháp và tổ chức thử nghiệm............................................................... 52
2.3. Các phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 53
2.3.1. Các nguyên tắc phương pháp luận .......................................................................... 53
2.3.2. Các phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 55
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG HÀNH VI GIAO TIẾP TRÊN MẠNG XÃ HỘI CỦA
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHÁNH HÒA .......................................................... 66
3.1. Kết quả thực trạng ...................................................................................................... 66
3.1.1. Nội dung giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Khánh Hòa .... 66
3
3.1.2. Cách sử dụng các phương tiện giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên trường
Đại học Khánh Hòa ........................................................................................................... 70
3.1.3. Cách thức thể hiện trong giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên trường Đại học
Khánh Hòa......................................................................................................................... 79
3.1.4. Ảnh hưởng của việc giao tiếp trên mạng xã hội đến bản thân và đối tượng giao
tiếp của sinh viên trường Đại học Khánh Hòa .................................................................. 82
3.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên trường
Đại học Khánh Hòa ........................................................................................................... 86
3.2. Kết quả thử nghiệm .................................................................................................... 91
3.2.1. Sự thay đổi về nhận thức của sinh viên về hành vi giao tiếp trên mạng xã hội ...... 92
3.2.1. Sự thay đổi về thái độ của sinh viên về hành vi giao tiếp trên mạng xã hội ........... 94
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ......................................................................................... 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 105
PHỤ LỤC ........................................................................................................................ 109
4
MỤC LỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
1. MỤC LỤC BẢNG
Bảng 3.1 Nội dung giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Khánh Hòa66
Bảng 3.2 Cách sử dụng các phương tiện giao tiếp với bạn bè trên mạng xã hội của sinh
viên trường Đại học Khánh Hòa ....................................................................................... 70
Bảng 3.3 Việc sử dụng các phương tiện giao tiếp với người lớn tuổi trên mạng xã hội
của sinh viên trường Đại học Khánh Hòa ......................................................................... 73
Bảng 3.4 Việc sử dụng các phương tiện giao tiếp trên mạng xã hội với người lạ của
sinh viên trường Đại học Khánh Hòa................................................................................ 76
Bảng 3.5 Các cách thức thể hiện trong giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên trường
Đại học Khánh Hòa ........................................................................................................... 79
Bảng 3.6 Ảnh hưởng của việc giao tiếp trên mạng xã hội đến bản thân của sinh viên
trường Đại học Khánh Hòa ............................................................................................... 82
Bảng 3.7 Ảnh hưởng của việc giao tiếp trên mạng xã hội đến đối tượng giao tiếp của
sinh viên trường Đại học Khánh Hòa................................................................................ 85
Bảng 3.8 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên
trường Đại học Khánh Hòa ............................................................................................... 87
Bảng 3.9 Các giá trị sinh viên nhận được về hành vi giao tiếp trên mạng xã hội ............ 92
Bảng 3.10 Thái độ sẵn sàng thay đổi hành vi giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên .. 94
Bảng 3.11 Các dự định thay đổi hành vi giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên .......... 96
2. MỤC LỤC BIỂU ĐỒ
5
Biểu đồ 1: Nội dung giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Khánh
Hòa .................................................................................................................................... 67
Biểu đồ 2: Các cách thức thể hiện trong giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên trường
Đại học Khánh Hòa ........................................................................................................... 80
Biểu đồ 3: Các yếu tố ảnh hưởng đến việc giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên
trường Đại học Khánh Hòa ............................................................................................... 88
Biểu đồ 4 Các giá trị sinh viên nhận được về hành vi giao tiếp trên mạng xã hội ........... 93
Biểu đồ 5 Thái độ sẵn sàng thay đổi hành vi giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên ... 95
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử hình thành và phát triển con người, giao tiếp là một nhu cầu cơ
bản, không thể thiếu. Giao tiếp, cùng với lao động và ngôn ngữ, giúp chuyển biến lối
sống bầy đàn của loài vượn cổ sang cuộc sống của con người, hình thành nên xã hội
loài người. Giao tiếp gắn liền với mỗi cá nhân từ khi lọt lòng đến khi kết thúc cuộc đời.
Giao tiếp giúp các cá nhân thiết lập nên mối quan hệ xã hội – yếu tố quan trọng giúp
củng cố và phát triển xã hội loài người nói chung và từng thành viên trong xã hội nói
riêng. Thông qua giao tiếp, cá nhân học hỏi được những hành vi xã hội thích hợp, hiểu
được vai trò và ý nghĩa của những hành vi đó trong điều kiện xã hội mà họ đang sống,
đảm bảo cho sự hợp tác, cùng chung sống của các cá nhân trong xã hội. Nhờ có giao
tiếp, cá nhân được thể hiện bản thân trước cộng đồng, từ đó, tạo động lực để cá nhân
phát triển các tiềm năng và tự hoàn thiện bản thân.
Theo sự phát triển của xã hội, các hình thức và phương tiện giao tiếp cũng được
mở rộng, phát triển, trong đó, phải kể đến hình thức giao tiếp trên mạng xã hội. Giao
tiếp trên mạng xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối các cá nhân với nhau
bất kể không gian, thời gian. Nhờ đó, con người có thể trao đổi những suy nghĩ, tình
cảm, thái độ, quan điểm sống, sở thích, nhu cầu,… mà không cần tiếp xúc trực tiếp.
Giao tiếp trên mạng xã hội là công cụ giúp các cá nhân tiếp thu, học hỏi thêm những tri
thức mới bất cứ lúc nào mình muốn. Đồng thời, nhờ giao tiếp trên mạng xã hội, mỗi
người có thể tiến hành mua bán, giao dịch mà không phải đến tận cửa hàng. Như vậy,
giao tiếp trên mạng xã hội càng ngày càng thiết yếu và là hình thức giao tiếp tiện lợi
đối với con người, đặc biệt là giới trẻ.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng đề
cập rất nhiều đến các biểu hiện giao tiếp trên mạng xã hội của giới trẻ. Đó là những
biểu hiện xuống cấp, một bộ phận bạn trẻ có cách ứng xử đi ngược lại với giá trị văn
7
hóa dân tộc và các chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực xã hội. Đó là các hiện tượng nói tục
chửi thề, sử dụng các ngôn ngữ mang tính chất khiêu dâm, hiện tượng anh hùng bàn
phím, hiện tượng bạo lực giao tiếp, hiện tượng sai lệch thông tin, xuyên tạc sự thật, làm
tổn hại thanh danh và nhân phẩm của người khác… Những hành vi giao tiếp ấy đem lại
những hệ lụy tiêu cực: Làm thui chột những giá trị tốt đẹp vốn luôn được đề cao, ảnh
hưởng đến sự phát triển nhân cách của cả một thế hệ và làm xấu đi hình ảnh con người
Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. Những hành vi giao tiếp ấy khiến xã hội phải nhức
nhối và cần phải có các biện pháp làm thay đổi chúng.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu “Hành vi giao
tiếp trên mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Khánh Hòa”.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng hành vi giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên trường Đại
học Khánh Hòa và các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi giao tiếp này. Trên cơ sở đó, đề
xuất một số biện pháp tác động nhằm cải thiện hành vi giao tiếp trên mạng xã hội của
sinh viên trường Đại học Khánh Hòa và thử nghiệm một biện pháp.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
-
Khách thể nghiên cứu: 100 sinh viên năm nhất và 100 sinh viên năm hai trường
Đại học Khánh Hòa.
-
Đối tượng nghiên cứu: Biểu hiện hành vi giao tiếp của sinh viên trường Đại học
Khánh Hòa.
4. Giả thuyết khoa học
Đa số sinh viên trường Đại học Khánh Hòa có hành vi giao tiếp tích cực trên
mạng xã hội. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận sinh viên có biểu hiện hành vi giao tiếp
chưa đúng mực trên mạng xã hội do bị chi phối bởi một số yếu tố khách quan và chủ
quan. Nếu có các biện pháp tác động phù hợp trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng và
nguyên nhân của các hành vi giao tiếp chưa đúng mực của sinh viên sẽ cải thiện hành
vi giao tiếp trên mạng xã hội của các em.
8
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về hành vi giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên
5.2. Khảo sát thực trạng hành vi giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên trường
Đại học Khánh Hòa và các yếu tố ảnh hưởng
5.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm cải thiện hành vi giao tiếp trên mạng xã hội
của sinh viên trường Đại học Khánh Hòa và thử nghiệm
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu: Biểu hiện hành vi giao tiếp trên mạng xã hội của
sinh viên thông qua nội dung giao tiếp; phương tiện giao tiếp và các cách thức thể hiện
trong giao tiếp.
7. Các phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
7.2.2. Phương pháp đàm thoại
7.2.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
7.2.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
7.2.5. Phương pháp thử nghiệm
7.3. Phương pháp xử lý số liệu điều tra bằng SPSS
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Kiến nghị, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ
lục, luận văn gồm ba chương sau đây
Chương 1: Cơ sở lí luận về hành vi giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng hành vi giao tiếp trên mạng xã hội của sinh viên trường Đại học
Khánh Hòa và thử nghiệm
9
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI GIAO TIẾP
TRÊN MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu về giao tiếp
*Nghiên cứu về giao tiếp ở nước ngoài
Vấn đề về giao tiếp đã được nghiên cứu từ rất sớm trên thế giới. Thời cổ đại, các
nhà triết học như Socrate (470 – 339 TCN), Platon (428 – 347 TCN) đã đề cập đến vấn
đề giao tiếp, coi sự đối thoại là sự giao tiếp trí tuệ của những con người biết suy nghĩ,
là sự phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người (14).
Bước vào thời kỳ Phục Hưng, giao tiếp được coi như là một phương thức ứng
xử có văn hóa của con người và được các nhà nghệ thuật coi là đối tượng nghiên cứu.
Trong đó, tiêu biểu là họa sĩ thiên tài người Ý Leonardo do Vinci (1452 - 1512) đã
miêu tả sự giao tiếp mẹ - con thông qua các bức tranh nổi tiếng của mình (45).
Thế kỷ XIX, K. Mark (1818 - 1833) đã có những nghiên cứu sâu sắc về giao
tiếp trong “Bản thảo Kinh tế - Triết học”, thể hiện ở những quan điểm “Giao tiếp với
những người khác đã trở thanh khí quan biểu hiện sinh hoạt của tôi và một trong những
phương thức chiếm hữu sinh hoạt của con người” hay “Thông qua giao tiếp với người
khác mà có thái độ với chính bản thân mình, mỗi người tự soi mình” hoặc “Con người
chỉ trở thành con người khi có những quan hệ hiện thực với người khác, có quan hệ
trực tiếp với những người khác” (24).
10
Bước sang thế kỷ XX, giao tiếp đã được các nhà khoa học quan tâm với tư cách
là một khoa học và được nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực: triết học, xã hội học, đặc biệt
là tâm lý học với các nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống.
Nhà phân tâm học S.Freud (1856 - 1939) đã nghiên cứu về mối liên hệ giữa giao
tiếp và giấc mơ và khẳng định cơ chế đồng nhất hóa đảm bảo mối liên hệ qua lại giữa
các chủ thể trong nhóm xã hội, từ đó tạo ra sự đồng nhất cảm xúc, thấu cảm, tiếp thu
tình cảm của người khác (31).
Tâm lý học Gestalt quan tâm đến hiện tượng giao tiếp như một cấu trúc trọn
vẹn. Họ phân tích giao tiếp thành các yếu tố và đặt chúng trong hệ thống các yếu tố
rộng hơn, các quan hệ xã hội. Khi nghiên cứu các yếu tố giao tiếp, nhà tâm lý học Pháp
Bateson đã phân biệt thành hai hệ thống giao tiếp là giao tiếp đối xứng và giao tiếp bổ
sung. Theo ông, mọi giao tiếp đều biểu hiện ra ở một trong những phương thức ấy, nó
thể hiện tính hệ thống khi thiết lập được sự bình đẳng hay sự tương hỗ và tính bổ sung
khi thể hiện sự khác nhau (31).
Ngành Tâm lý học của Liên Xô (cũ) cũng nghiên cứu vấn đề giao tiếp nhưng
theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau, các hướng nghiên cứu này được tác giả Huỳnh
Văn Sơn tóm tắt trong cuốn “Giáo trình tâm lí học giao tiếp” như sau (33):
Hướng thứ 1: Nghiên cứu lý luận chung về giao tiếp như bản chất, cấu trúc, cơ
chế giao tiếp, phương pháp luận nghiên cứu giao tiếp, mối quan hệ giữa giao tiếp và
hoạt động... Hướng nghiên cứu này thể hiện trong nhiều công trình nghiên cứu của các
nhà tâm lý học Liên Xô (cũ) như “Về bản chất giao tiếp người” (1973) của Xacopnhin,
“Tâm lý học về các mối quan hệ qua lại trong nhóm nhỏ” (1976) của I.L.Kolominxki,
“Tâm lý học giao tiếp” (1978) của A.A.Leonchiev, “Giao tiếp trong tâm lý học” (1981)
của K.Platonov, “Phạm trù giao tiếp và hoạt động trong tâm lý học” của B.P.Lomov.
Hướng nghiên cứu này tồn tại hai luồng quan điểm khác nhau:
11
- Quan điểm thứ nhất cho rằng giao tiếp có thể là một dạng hoạt động hoặc có
thể là một phương thức, điều kiện của hoạt động. Đại diện cho quan điểm theo xu
hướng này là A.A.Leonchiev.
- Quan điểm thứ hai cho rằng hoạt động và giao tiếp là những phạm trù tương
đối độc lập trong quá trình thống nhất của đời sống con người. Phạm trù “hoạt động”
phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể - khách thể, phạm trù “giao tiếp” phản ánh mối
quan hệ chủ thể - chủ thể.
Hướng thứ 2: Nghiên cứu các dạng giao tiếp nghề nghiệp trong đó giao tiếp sư
phạm là một loại giao tiếp nghề nghiệp được nhiều nhà tâm lý học quan tâm nghiên
cứu. Có thể kể đến một vài tác giả có những nghiên cứu về giao tiếp sư phạm như A.A.
Leonchiev với “Giao tiếp sư phạm” (1979), A.V.Petropxki với “Tâm lý học lứa tuổi và
tâm lý học sư phạm”... và một số tác giả khác tập trung nghiên cứu về mối quan hệ
giữa giáo viên và học sinh trong giao tiếp trường học.
Những quan điểm trên mặc dù có cách tiếp cận khác nhau nhưng đều khẳng
định vai trò quyết định của giao tiếp trong sự phát triển của loài người nói chung và
trong sự phát triển nhân cách của từng cá nhân nói riêng.
*Nghiên cứu về giao tiếp ở trong nước
Các công trình nghiên cứu về giao tiếp ở nước ta khá đa dạng, phong phú và
chia làm nhiều hướng khác nhau.
Hướng đầu tiên nghiên cứu vấn đề giao tiếp với các khía cạnh khác nhau về bản
chất của giao tiếp, vai trò, vị trí của giao tiếp trong sự hình thành nhân cách.Có thể đề
cập đến một số tác giả như Bùi Văn Huệ “Bàn về phạm trù giao tiếp” (1981); Nguyễn
Sinh Huy, Trần trọng Thủy với “Nhập môn khoa học giao tiếp” (2006).
12
Hướng thứ hai đề cập đến giao tiếp trong nhà trường với khái niệm giao tiếp,
chức năng, vai trò của giao tiếp, phong cách giao tiếp, hệ thống phân loại giao tiếp,….
Và các nguyên tắc, quy trình ứng xử trong giao tiếp sư phạm, cung cấp cái nhìn hệ
thống về các vấn đề lý luận và thực tiễn trong giao tiếp sư phạm như “Giao tiếp và ứng
xử sư phạm” (1992) của tác giả Ngô Công Hoàn, “Giao tiếp sư phạm” (1997) của tác
giả Hoàng Anh, “Đặc điểm giao tiếp sư phạm” (1985) của tác giả Trần Trọng Thủy.
Hướng thứ ba tập trung vào nghiên cứu các kỹ năng giao tiếp trong nhiều lĩnh
vực khác nhau như Trần Trọng Thủy với bài “Tình người, giao tiếp và văn hóa giao
tiếp” (1998) đã đề cập đến một số kỹ năng giao tiếp như kỹ năng chỉnh sửa các ấn
tượng ban đầu của mình về người khác khi mới quen họ, kỹ năng bước vào giao tiếp
với người khác một cách không có định kiến. Tác giả Nguyễn Văn Đính đề cập đến
một số kỹ năng giao tiếp mà người hướng dẫn viên cần có khi tiếp xúc với khách du
lịch trong “Giáo trình tâm lý và nghệ thuật giao tiếp ứng xử trong kinh doanh du lịch”
(1997) như kỹ năng định hướng, kỹ năng định vị, kỹ năng điều khiển giao tiếp (8).
Một số công trình nghiên cứu thực tiễn:
- Bùi Thị Nguyên Hảo (2013) “Thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo
viên mầm non với trẻ ở thị xã Dĩ An” đã nghiên cứu về thực trạng nhận thức của giáo
viên mầm non về sự cần thiết của kỹ năng giao tiếp sư phạm, đánh giá kỹ năng giao
tiếp sư phạm của các giáo viên mầm non trong hoạt động chăm sóc và giáo dục trẻ, tìm
hiểu các khó khăn của họ, lí giải nguyên nhân và đề ra các biện pháp nhằm nâng cao kỹ
năng giao tiếp sư phạm của các giáo viên này (15).
- Nguyễn Ngọc Trinh (2013) “Thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo
viên với trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh”
đã đưa ra các tiêu chí và thang đánh giá kỹ năng giao tiếp sư phạm của các giáo viên
đối với trẻ 4 – 5 tuổi. Dựa vào đó, tác giả tiến hành khảo sát và đánh giá thực trạng kỹ
13
năng giao tiếp của các giáo viên tại một số trường mầm non trên địa bàn thành phố
(39).
- Nguyễn Huy Toàn (2011) với “Kỹ năng giao tiếp của học viên Trường Trung
cấp Cảnh sát nhân dân II” đã khái quát một số vấn đề cơ bản về lý luận giao tiếp, kỹ
năng, kỹ năng giao tiếp. Từ đó, nghiên cứu thực trạng kỹ năng giao tiếp của học viên
trường Trung cấp Cảnh sát nhân dân II trong hoạt động học tập gồm kỹ năng điều
khiển quá trình giao tiếp, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng diễn đạt. Đồng thời, đề ra các
biện pháp và tổ chức thực nghiệm nhằm đảm bảo tính khả thi của các biện pháp ấy
(37).
1.1.2. Những nghiên cứu về hành vi giao tiếp trên mạng xã hội
*Ở nước ngoài
Newcomb và Svehla đã nghiên cứu Thuyết hành vi giao tiếp ABX. Theo họ,
hành vi giao tiếp là sự truyền đạt thông tin từ phần truyền đến phần nhận. Hành vi giao
tiếp xảy ra trong tình huống tác động trực tiếp của các cá nhân; hành vi giao tiếp là
hành vi có chủ định; hành vi giao tiếp nhằm mục đích hướng đến sự lĩnh hội; các thành
viên của nhóm trong tâm trạng liên kết với nhau (22).
Tác giả Erhard Thiel trong cuốn “Hành vi giao tiếp” đã cho rằng: con người có
nhiều cách thể hiện mình. Dù muốn hay không, những suy nghĩ, tình cảm hay khát
vọng, ý muốn của chúng ta đều thể hiện qua từng động tác của đôi bàn tay, đôi chân,
của đôi mắt, cái nhìn. Những hành động đó cho chúng ta biết về những con người mà
chúng ta tiếp xúc nhiều hơn ngàn lần những câu nói (8).
Trong cuốn “Hành vi giao tiếp của người Nga”, hai tác giả J.Prokhorov và
I.Cternin đưa ra các dạng thức biểu hiện hành vi giao tiếp của người Nga như: giao tiếp
14
nội ngôn ngữ, giao tiếp giao ngôn ngữ, giao tiếp phi ngôn ngữ và các loại trắc nghiệm
khảo cứu hành vi lời nói của người Nga trong giao tiếp (36).
Edward T. Hall, nhà nhân văn học đã nhấn mạnh khái niệm hành vi không gian
giao tiếp. Đó là cách thức sử dụng không gian trong giao tiếp giữa các cá nhân. Nghiên
cứu này được tác giả kỳ vọng ứng dụng không chỉ vào trong giao tiếp giữa các cá nhân
mà còn ứng dụng trong việc thiết kế, xây dựng, quy hoạch các tòa nhà (46).
Vào năm 1955 Adam Kendon, Albert Scheflen và Ray Birdwhistell đã nghiên
cứu về hành vi giao tiếp phi ngôn ngữ thông qua phương pháp phân tích bối cảnh. Từ
đó, mở đường cho những nghiên cứu về giao tiếp phi ngôn ngữ như nghiên cứu về mối
quan hệ giữa giao tiếp bằng mắt và khoảng cách khi đối thoại của Argyle và Dean,
nghiên cứu về những hành vi phi ngôn ngữ trong các tình huống đàm phán của
Nierenberg và Calero, nghiên cứu về phương thức sử dụng giao tiếp phi ngôn ngữ thu
hút những người khác của Fast… (46)
Bên cạnh đó, cũng có những nghiên cứu về mô hình hành vi giao tiếp như mô
hình của Weiner, mô hình chức năng của Jacobson, mô hình của Bird Whistell,
Perdonici, Shanon, Weaver,… Những nghiên cứu này chỉ ra cách thức hoạt động và
các thành tố của hành vi giao tiếp. Mặc dù các tác giả xây dựng các mô hình khác
nhau, tuy nhiên đều chỉ ra trong đó các thành tố chung như bộ phát, bộ thu, bản thông
điệp. Càng về sau, các mô hình có thêm nhiều yếu tố hơn như môi trường truyền
thông, kênh,… (6)
*Ở trong nước
Các nghiên cứu về hành vi giao tiếp của nước ta chủ yếu đi sâu vào hành vi giao
tiếp có văn hóa hay văn hóa giao tiếp. Có thể kể một số các công trình nghiên cứu như:
15
Tác giả Hồ Sỹ Hùng (2014) với bài viết “Thực trạng giáo dục hành vi giao tiếp
có văn hóa cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi” đã tìm hiểu về hành vi giao tiếp có văn hóa của
trẻ thông qua các nhóm hành vi là hành vi giao tiếp ứng xử lịch sự, lễ phép, hành vi
tham gia vào hội thoại và giao tiếp có văn hóa, hành vi biểu đạt nhu cầu với người
khác, hành vi chia sẻ sự cảm thông, giúp đỡ người khác và hành vi tôn trọng trong giao
tiếp. Từ đó, đề ra các nhóm biện pháp nhằm nâng cao hành vi ở trẻ gồm nhóm biện
pháp giáo dục tình cảm, tổ chức môi trường hoạt động, luyện tập và đánh giá (21).
Tác giả Hoàng Thị Phương (2002) với luận án “Một số biện pháp giáo dục hành
vi giao tiếp có văn hóa cho trẻ 5 – 6 tuổi” đã nghiên cứu thực trạng các hành vi giao
tiếp có văn hóa của trẻ 5 – 6 tuổi thông qua các biểu hiện như biểu hiện tôn trọng lẫn
nhau, biểu hiện thiện chí trong giao tiếp, biểu hiện quan tâm đến người khác, hiểu hiện
nhân hậu, biểu hiện trung thực và các kỹ năng là kỹ năng cư xử lịch sự, kỹ năng cư xử
khéo léo và kỹ năng nhận biết, thể hiện tình cảm trong giao tiếp. Từ đó đưa ra các biện
pháp nhằm cải thiện hành vi là giáo dục tình cảm, tổ chức luyện tập và giáo dục ý thức
và thực nghiệm thăm dò, diện hẹp và diện rộng (31).
Tác giả Trịnh Thị Xinh (2010) với luận án “Biểu hiện về hành vi giao tiếp có
văn hóa của sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội” nghiên cứu về nhận thức của
sinh viên về hành vi giao tiếp có văn hóa, các biểu hiện hành vi giao tiếp có văn hóa
của sinh viên với bạn bè, thầy cô và ở nơi công cộng và mức độ tự đánh giá của sinh
viên về các hành vi của mình. Từ đó, đưa ra các giải pháp nhằm cải thiện hành vi cho
sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội và tiến hành xây dựng các bài tập thử
nghiệm tác động cho sinh viên (45).
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn với bài viết “Quan niệm về hành vi giao tiếp có văn
hóa của tuổi trẻ” đã phân tích khái niệm về văn hóa, hành vi văn hóa và văn hóa giao
tiếp, từ đó, xây dựng khái niệm hành vi giao tiếp có văn hóa, cấu trúc của hành vi giao
tiếp có văn hóa và các biểu hiện hành vi giao tiếp có văn hóa của tuổi trẻ (43).
16
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về hành vi giao tiếp có văn hóa, văn
hóa giao tiếp. Tuy nhiên, vẫn chưa có đề tài nghiên cứu về hành vi giao tiếp trên mạng
xã hội. Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Hành vi giao tiếp trên mạng xã
hội của sinh viên trường Đại học Khánh Hòa”.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Hành vi giao tiếp trên mạng xã hội
1.2.1.1. Hành vi
Khái niệm hành vi được J. Watson (1878 – 1958) xây dựng trên nền móng
thực chứng luận và chỉ dựa trên những biểu hiện có thể quan sát được từ bên ngoài.
Theo J. Watson, mỗi người được xác định bởi một tập hợp những hành vi của người
đó. Hành vi được xem như là tổng hợp các phản ứng của cơ thể trước các kích thích
của môi trường bên ngoài theo công thức S – R (Kích thích – Phản ứng). Điều này có
nghĩa là bất kỳ hành vi nào của con người và động vật đều diễn ra theo cơ chế: có kích
thích thì có phản ứng chứ không liên quan gì đến ý thức, đến những yêu cầu và chuẩn
mực xã hội. Như vậy, theo J. Watson, hành vi của con người không khác gì hành vi của
con vật và chỉ có khả năng phản ứng thụ động, hoàn toàn lệ thuộc vào kích thích tác
động lên con người, mọi yếu tố tâm lý, ý thức đều bị triệt tiêu và hoàn toàn không có
vai trò gì giữa kích thích và phản ứng (27).
Theo Từ điển Tâm lý học do J. Corsini chủ biên, hành vi là “những hành động
phản ứng, những tương tác đáp lại kích thích bên trong và bên ngoài, bao gồm những
cử chỉ quan sát được một cách khách quan, những cử chỉ nội tâm và những quá trình
thuộc về vô thức” (27). Hành vi có hai phạm trù là hành vi biểu hiện ra bên ngoài và
hành vi diễn ra bên trong. Hành vi bộc lộ ra bên ngoài là những hành động mà người
khác có thể quan sát trực tiếp được. Hành vi diễn ra bên trong đầu là những gì chúng ta
làm mà người khác không thể quan sát trực tiếp được nhưng có thể nhận biết thông qua
17
suy luận. Chủ nghĩa hành vi cổ điển chỉ quan tâm đến những hành vi bộc lộ ra bên
ngoài, bỏ qua những gì diễn ra trong đầu thuộc bình diện nhận thức. Tuy nhiên, đến
chủ nghĩa hành vi hiện đại, cả hai phạm trù này đều được quan tâm.
J. Piaget (1896 - 1960) – nhà tâm lý học người Thụy Sĩ lại nhấn mạnh tính tích
cực của hành vi con người và cho rằng hành vi còn là sự tìm kiếm hoàn cảnh hay đối
tượng còn thiếu hay chưa tồn tại. Hành vi được hiểu là tính tích cực có định hướng
(27).
Trong Tâm lý học Hoạt động, hành vi của con người được xem như hoạt
động, tuy ít nhiều mang yếu tố bẩm sinh, nhưng chủ yếu chịu sự chi phối từ phía xã hội
thông qua ngôn ngữ và hệ thống các tín hiệu ý nghĩa khác.
Theo L.X. Vugotxki (1896 - 1934), “Hành vi của con người văn minh hiện đại
không những là sản phẩm của tiến hóa lịch sử, không những là kết quả phát triển trong
thời thơ ấu, mà còn là sản phẩm phát triển của lịch sử”. Đồng thời, L.X. Vugotxki chỉ
ra rằng ranh giới giữa hành vi người và động vật nằm ở chỗ chúng có các cấu trúc hoàn
toàn khác nhau. Ở động vật, các dạng hành vi chủ yếu được hợp thành bởi hai nhóm
phản ứng. Đó là nhóm phản ứng bẩm sinh (vô điều kiện) và nhóm tự tạo (có điều kiện).
Ở con người, cấu trúc hành vi bao gồm kinh nghiệm lịch sử, kinh nghiệm xã hội và
kinh nghiệm kép. Kinh nghiệm lịch sử là kinh nghiệm được các thế hệ trước truyền lại
cho các thế hệ sau, nhưng không theo con đường di truyền sinh vật mà theo con đường
di truyền xã hội. Kinh nghiệm xã hội được hiểu là những tri thức nhận được từ người
khác cùng sống, cùng hoạt động truyền lại cho nhau. Đây là một trong những thành
phần rất quan trọng trong hành vi của con người – thành phần xã hội của hành vi con
người. Kinh nghiệm kép là kinh nghiêm được hình thành trong hoạt động lao động
thực tiễn của con người. Có nghĩa là khi con người tham gia vào hoạt động lao động
thực tiễn, lặp lại lao động ở chân tay và biến đổi vật liệu theo một biểu tượng đã hình
thành trong đầu từ trước. Các kinh nghiệm này có điểm chung là nội dung của chúng
18
đều xuất phát từ quá trình lao động, từ quá trình truyền đạt kinh nghiệm từ thế hệ này
sang thế hệ khác, từ người này tới người khác và từ việc mỗi người tự lĩnh hội các kinh
nghiệm. Quá trình này không thể thực hiện được nếu không có tâm lý và ý thức giữ
chức năng định hướng và tích cực hóa.Vì vậy L.X. Vugotxki đã khẳng định “ý thức
hóa ra là một cấu trúc rất phức tạp của hành vi, nếu nói riêng thì là cấu trúc rất phức tạp
của quá trình phân đôi của hành vi. Hành vi được hiểu ngầm là hoạt động của con
người. Và cả ý thức với tư cách là một bộ phận cấu thành của hành vi, ý thức được coi
là một thực tại khách quan có chức năng điều chỉnh đối với hành vi, và cùng hành vi, ý
thức là một thành phần của hoạt động” (17).
A.N. Leonchiev (1903 - 1979) khẳng định hành vi không phải là những phản
ứng máy móc của một cơ thể sinh vật, mà hành vi phải được hiểu là hoạt động (28).
Theo Từ điển Tâm lý học do A.V. Petropxki và M.G. Iarosepxki chủ biên,
hành vi là “sự tác động qua lại giữa cơ thể sống, thông qua hoạt tính bên ngoài (vận
động) và bên trong (tâm lý). Thuật ngữ hành vi được sử dụng để chỉ hành vi của các cá
thể riêng lẻ, các cá nhân cũng như của nhóm loài (hành vi của một loài sinh vật hay của
nhóm xã hội)” (27).
Theo tác giả Phạm Minh Hạc, hành vi là “những biểu hiện ra bên ngoài của
hoạt động gắn liền với động cơ và mục đích” (16).
Trong cuốn Từ điển Tâm lý học của tác giả Vũ Dũng, hành vi là “sự tương tác
với môi trường trên cơ sở tính tích cực bên ngoài (vận động) và bên trong (tâm lý), tính
tích cực có định hướng của cơ thể sống đảm bảo thực hiện các tiếp xúc với thế giới bên
ngoài” (12).
Như vậy, từ những quan điểm ở trên, chúng tôi cho rằng hành vi có những nội
dung sau:
19
- Hành vi con người là biểu hiện bên ngoài của hoạt động, được điều chỉnh bởi
các cấu trúc tâm lý bên trong của chủ thể. Điều này đảm bảo cho con người tồn tại và
phát triển.
- Hành vi con người lúc nào cũng chịu sự quy định xã hội và đặc trưng bởi tính
mục đích, tính ý nghĩa, tính lựa chọn và tính sáng tạo.
- Hành vi con người nảy sinh khi có nhu cầu và hoàn cảnh thỏa mãn nhu cầu ấy.
1.2.1.2. Giao tiếp
Nhà tâm lý học xã hội người Anh M.Argule lại mô tả giao tiếp như quá trình
ảnh hưởng lẫn nhau qua các hình thức tiếp xúc khác nhau. Giao tiếp thông tin được
biểu hiện bằng lời hay bằng phi ngôn ngữ từ nhiều người đến một người giống như
việc tiếp xúc thân thể của con người trong quá trình tác động qua lại về mặt vật lý và
chuyển dịch không gian (33).
David K.Berlo định nghĩa: “Giao tiếp của con người là một quá trình có chủ
định hay không có chủ định, có ý thức hay không có ý thức mà trong đó các cảm xúc
và tư tưởng được diễn đạt trong các thông điệp bằng ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ.
Giao tiếp của con người diễn ra ở các mức độ: trong con người, giữa con người với con
người và công cộng. Giao tiếp của con người là một quá trình năng động, bất thuận
nghịch, tác động qua lại và có tính chất ngữ cảnh” (33).
Trong cuốn “Tâm lí học giao tiếp”, tác giả Nguyễn Văn Đồng (14) đã đề cập
đến các khái niệm giao tiếp của các tác giả trên thế giới dưới các cách tiếp cận khác
nhau:
Đề cập giao tiếp ở góc độ tiếp cận nhận thức, L.X.Vưgotxki cho rằng giao tiếp
là quá trình chuyển giao tư duy và cảm xúc. K.K.Platonov cho rằng: “Giao tiếp là
những mối liên hệ có ý thức của con người trong cộng đồng loài người”.
20
Xem xét giao tiếp là sự thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người hay
giữa nhân cách này với cách khác trong mối quan hệ liên nhân cách, B.Ph.Lomov cho
rằng: “Giao tiếp là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người với tư cách chủ thể”.
Dưới góc độ nhân cách, V.N.Miaxixev cho rằng: “Giao tiếp là một quá trình
quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các nhân cách cụ thể”. Theo Ia.L.Kolôminxki
thì “giao tiếp là sự tác động qua lại có đối tượng và thông tin giữa con người với con
người, trong đó những quan hệ nhân cách được thực hiện, bộc lộ và hình thành”.
Ở góc độ tiếp cận về chức năng giao tiếp, theo B.Parưgin thì: “Giao tiếp là quá
trình quan hệ tác động giữa các cá thể, là quá trình thông tin quan hệ giữa con người
với con người, là quá trình hiểu biết lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và trao đổi xúc cảm
lẫn nhau”.
Ở góc độ xem xét giao tiếp là một dạng hoạt động, định nghĩa của
A.N.Leonchiev đã chỉ ra: “Giao tiếp là một hệ thống những quá trình có mục đích và
động cơ trong hoạt động tập thể, thực hiện các quan hệ xã hội và nhân cách, các quan
hệ tâm lý và sử dụng những phương tiện đặc thù, mà trước hết là ngôn ngữ”.
Tiếp cận ở khía cạnh hệ thống, Georgen Thiner cho rằng: “Giao tiếp là sự truyền
đạt thông tin, qua đó các trạng thái của hệ thống phát thông tin phát huy ảnh hưởng tới
trạng thái của hệ nhận thông tin”.
Định nghĩa về giao tiếp, tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “Giao tiếp là hoạt
động xác lập và vận hành các quan hệ người - người để hiện thực hóa các quan hệ xã
hội giữa người ta với nhau” (16).
Tác giả Trần Trọng Thủy thì quan niệm: “Giao tiếp của con người là một quá
trình chủ đích hay không có chủ đích, có ý thức hay không có ý thức trong đó các cảm
21
xúc và tư tưởng được diễn đạt trong các thông điệp bằng ngôn ngữ hoặc phi ngôn
ngữ”. (42).
Tác giả Vũ Dũng cho rằng: “Giao tiếp là quá trình hình thành và phát triển sự
tiếp xúc giữa người với người được phát sinh từ nhu cầu trong hoạt động chung, bao
gồm sự trao đổi thông tin, xây dựng chiến lược tương tác thống nhất tri giác và tìm
hiểu người khác” hay “Giao tiếp là sự tác động tương hỗ của các chủ thể phát sinh từ
nhu cầu hoạt động chung được thực hiện bằng những công cụ quen thuộc và hướng đến
những thay đổi có ý nghĩa trong trạng thái, hành vi và cấu trúc ý - cá nhân của đối tác”
(12).
Trong đề tài này, chúng tôi theo quan điểm về giao tiếp của tác giả Nguyễn
Quang Uẩn: “Giao tiếp là mối quan hệ giữa người và người, thể hiện sự tiếp xúc tâm lý
giữa người và người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm
xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau. Hay nói cách khác, giao
tiếp xác lập và vận hành cá quan hệ người - người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội
giữa chủ thể này với chủ thể khác” (43).
1.2.1.3. Hành vi giao tiếp
Thuyết Hành vi cho rằng mọi hành vi giao tiếp - ứng xử của cá nhân trong xã
hội là quá trình tiếp nhận kích thích ngoại giới và phản ứng đáp lại kích thích của cơ
thể. Thuyết Hành vi quan tâm nhiều hơn tới phương diện ứng xử, tác nhân kích thích
của môi trường quy định tính chất, đặc điểm của hành vi giao tiếp - ứng xử. Hành vi
giao tiếp - ứng xử là một chuỗi phản ứng trước hay sau những thay đổi của môi trường,
điều kiện bên ngoài (24).
Newcomb và Svehla cho rằng hành vi giao tiếp là sự truyền đạt thông tin từ
phần truyền đến phần nhận. Hành vi giao tiếp xảy ra trong tình huống tác động trực
22
tiếp của các cá nhân, là hành vi có chủ định, nhằm mục đích hướng đến sự lĩnh hội
(20).
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Lâm trong cuốn “Khoa học giao tiếp”, hành vi giao
tiếp là một chuỗi hành động được thúc đẩy bởi mục đích muốn thỏa mãn một nhu cầu
nào đó liên quan đến khả năng của chủ thể giao tiếp. Nếu việc thỏa mãn nhu cầu bị cản
trở, chủ thể giao tiếp có thể lập lại hành vi, hoặc thay đổi mục đích, hoặc vỡ mộng,
hoặc lãnh đạm với cuộc sống nếu hành vi duy trì lâu dài (23).
Tác giả Huỳnh Văn Sơn trong cuốn “Nhập môn tâm lý học giao tiếp” đã nhìn
nhận về hành vi giao tiếp như một quá trình truyền thông mang tính chất tâm lý phong
phú và phức tạp (33).
Tác giả Trịnh Thị Xinh trong đề tài “Biểu hiện về hành vi giao tiếp có văn hóa
của sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội” cho rằng hành vi giao tiếp là những
biểu hiện cụ thể bên ngoài của hoạt động những được điều chỉnh bởi cấu trúc tâm lí
bên trong của chủ thể, của nhân cách. Các hành vi giao tiếp được cá nhân thể hiện
trong giao tiếp thông qua ngôn ngữ, hành vi, cử chỉ, nói, viết… của mình với người
khác và xã hội (45).
Tác giả Hoàng Thị Phương trong luận án tiến sĩ giáo dục học “Biện pháp giáo
dục hành vi giao tiếp có văn hóa cho trẻ 5 – 6 tuổi” (31) đã xác định nội hàm của khái
niệm “hành vi giao tiếp” như sau:
- Hành vi giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa các chủ thể, biểu hiện ở ba mặt:
thông tin, bày tỏ thái độ, cảm xúc và tác động lẫn nhau.
- Mối liên hệ giữa các chủ thể trong hành vi giao tiếp là mối liên hệ có ý thức
giữa con người với con người trong cộng đồng xã hội loài người.
23
- Các chủ thể thực hiện hành vi giao tiếp có mục đích phối hợp hành động đảm
bảo sự thống nhất cho hoạt động chung, tạo ra sự biến đổi của họ.
Dựa vào những quan điểm của các tác giả này và các khái niệm về hành vi và về
giao tiếp ở trên, chúng tôi xin đưa ra khái niệm hành vi giao tiếp như sau:
- Hành vi giao tiếp là những biểu hiện ra bên ngoài trong quá trình giao tiếp của
chủ thể với xung quanh. Thông qua đó, phản ánh đặc điểm, tính chất, các mối quan hệ
trong giao tiếp (mối quan hệ bạn bè, mối quan hệ làm ăn, mối quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình,..) cũng như các quá trình tâm lý, đặc điểm tâm lý trong giao tiếp
của chủ thể (thái độ, xúc cảm, nhận thức, mong muốn,…).
- Hành vi giao tiếp được thực hiện một cách có ý thức của chủ thể. Tức là chủ
thể biết rõ được mục đích giao tiếp của mình là gì, mình đang giao tiếp với đối tượng
nào, ở đâu, về nội dung gì và mình cần phải có những cách thức biểu hiện về mặt hành
vi như thế nào. Tính ý thức của chủ thể còn thể hiện ở sự kiểm soát, điều tiết các hành
vi giao tiếp của bản thân sao cho phù hợp trong những hoàn cảnh, môi trường giao tiếp
xác định.
- Hành vi giao tiếp gắn liền với các nhu cầu, động cơ của chủ thể giao tiếp. Hay
nói cách khác, đề tài mà chủ thể giao tiếp lựa chọn phụ thuộc vào hứng thú, sở thích
hoặc mong muốn cá nhân của họ. Nó điều khiển việc chủ thể lựa chọn và triển khai các
nội dung giao tiếp, sử dụng các phương tiện giao tiếp cũng như các cách thức thể hiện
sao cho phù hợp với chính những hứng thú, sở thích, mong muốn của chủ thể giao tiếp.
Các nhu cầu, động cơ, mong muốn này có thể thúc đẩy hành vi giao tiếp của chủ thể
một cách tự phát hoặc tự giác, tùy thuộc vào mức độ tự ý thức của chủ thể.
- Hành vi giao tiếp chịu sự quy định bởi xã hội. Tức là việc chủ thể điều khiển,
điều chỉnh các hành vi giao tiếp chịu sự phụ thuộc vào các quy ước, các yếu tố về văn
hóa – xã hội, vào môi trường sống, gia đình và giáo dục, vào môi trường mà chủ thể
24