Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN lần 1 ĐƯỜNG lối CHÍNH SÁCH của ĐẢNG NHÀ nước VN về các LĨNH vực của đời SÓNG xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.56 KB, 10 trang )

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG - NN
PHẦN VĂN HÓA - XÃ HỘI
Ghi chú
Nội dung
Câu 1:
Văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy lại
Hãy phân
trong lao động, tạo nên bản sắc của từng cộng đồng, quốc gia, dân tộc. nói một cách
tích quan
ví von, văn hóa chính là “thiên nhiên thứ hai” do con người sáng tạo ra làm thành các
điểm:
giá trị vĩnh hằng của nhân loại, là nền tảng tạo nên bản lĩnh, sắc thái, cốt cách của mỗi
“Phát triển quốc gia, dân tộc.
văn hóa vì Nói đến văn hóa là nói đến con người, là nói tới việc phát huy những năng lực bản
sự hoàn
chất của con người nhằm hoàn thiện bản thân con người và hoàn thiện xã hội. Văn
thiện nhân hóa là động lực cho sự phát triển vì văn hóa kết tinh, khơi dậy và nhân lên mọi tiềm
cách con
năng sáng tạo của con người.
người và
Trên cơ sở hoàn thiện, bổ sung 5 quan điểm nêu trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa
xây dựng
VIII, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con
con người người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã hình thành quan
để phát
điểm chỉ đạo rất đặc sắc – đây là bước phát triển mới trong tư duy lý luận về văn hóa
triển văn
của Đảng ta đó là: quan điểm: Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con
hóa. Trong người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa,
xây dựng


trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các
văn hóa,
đặc tính cơ bản: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết cần cù, sáng
trọng tâm
tạo.
là xây
Quan điểm này được bổ sung mới so với NQTW5 nhằm khẳng định yếu tố con người
dựng con
luôn giữ vai trò quyết định sự phát triển của một quốc gia, dân tộc; do đó nước nào
người có
cũng chú trọng xây dựng và nâng cao chất lượng con người. Vì vậy, việc bổ sung
nhân cách, quan điểm này trong NQTW9 là hết sức đúng đắn và kịp thời, khằng định luận điểm
lối sống tốt văn hóa phải gắn với con người, con người là nhân tố trung tâm. Đặt ra vấn đề này
đẹp với
đặc biệt có ý nghĩa bởi:
các đặc
1. Do mặt trái của kinh tế thị trường và toàn cầu hóa đang làm tổn hại, thậm chí
tính cơ
tha hóa một số phẩm chất truyền thống cao quý của con người Việt Nam. Đó là
bản: yêu
những phẩm chất đã giúp chúng ta vượt qua mọi thiên tia, địch họa để tồn tại
nước, nhân
và phát triển. hơn nữa, trong bối cảnh hiện nay, thực trạng văn hóa nước ta đã
ái, nghĩa
xuất hiện một số yếu tố tích cực, đồng thời cũng nẩy sinh một số mặt phức tạp,
tình, trung
tiêu cực tác dộng đến nhiệm vụ xây dựng con người, dẫn đến tình trạng suy
thực, đoàn
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, trong xã hội và đang
kết, cần cù,

có chiều hướng gia tăng; một số phẩm chất truyền thống giờ đây không còn
sáng tạo”
phù hợp, đang trở thành vật cản của sự phát triển, đòi hỏi có sự thay đổi, bổ
(Nghị
sung.
quyết 33,
2. Đặt ra yêu cầu xây dựng văn hóa để hoàn thiện nhân cách con người và xây
Hội Nghị
dựng con người để phát triển văn hóa sẽ khắc phục được tình trạng tách rời yếu
TW9,
tố con người với yếu tố văn hóa. Đồng thời, quan điểm này cũng xác định cụ
Khóa XI)
thể những phẩm chất đặc trưng của con người Việt Nam mà chúng ta phải xây
dựng để phù hợp với công cuộc CNH, HĐH đát nước và hội nhập quốc tế.
Để xây dựng con người theo quan điểm của Nghị quyết đề ra, trước hết cần có một
quan niệm đầy đủ và nhất quán về khái niệm văn hóa, con người làm cơ sở cho việc
kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp, vừa tiếp nhận có chọn lọc để bổ sung, phát
triển những tiêu chuẩn, giá trị mới mà người Việt Nam còn thiếu nhằm đáp ứng yêu
cầu CNH, HĐH và hội nhập thế giới hiện nay. Thực tế Việt Nam cũng như các nước
châu Á chịu ảnh hưởng của Nho giáo cùng với văn minh nông nghiệp lúa nước và tư
1


Câu 2: Vì
sao “Xây
dựng đồng
bộ môi
trường văn
hóa, trong
đó chú

trọng vai
trò của gia
đình, cộng
đồng. Phát
triển hài
hòa giữa
kinh tế và
văn hóa,
cần chú ý
đầy đủ đến
yếu tố văn
hóa và con
người
trong phát
triển kinh
tế?”

tưởng tiểu nông nên cần thiết có sự tiếp thu, bổ sung những phẩm chất của nền văn
minh đô thị, tác phong công nghiệp để có điều kiện phát triển nhanh hơn. Tuy nhiên,
việc tiếp nhận phải có sự chọn lọc hết sức kỹ lưỡng vừa phù hợp với văn hóa Việt
Nam, vừa theo kịp xu thế phát triển của thời đại. Những phẩm chất tốt đẹp của con
người Việt Nam như lòng yêu nước và tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc; sự cần cù,
thông minh, sáng tạo; lòng khoan dung độ lượng, tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng,
yêu chuộng hòa bình… được hun đúc trong quá trình dựng nước và giữ nước cần
được trân trọng, phát huy.
Hơn nữa, xây dựng văn hóa phải bắt đầu từ xây dựng con người, con người là trung
tâm, nhưng vấn đề then chốt trong xây dựng con người là phải xây dựng hệ giá trị mà
trong đó vừa giữ gìn, phát huy được những giá trị truyền thống vừa tiếp thu những giá
trị mới của con người hiện đại. Con người ngày nay phải là con người có bản lĩnh,
mạnh dạn đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm về những quyết định

của mình, không a dua, xu nịnh, ngại va chạm, trốn tránh trách nhiệm; có trí tuệ, có tư
duy và tác phong công nghiệp, sống và làm việc theo pháp luật để xây dựng xã hội
tiến bộ, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước. Hạt nhân của
hệ giá trí con người Việt Nam hướng tới là “con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp,
với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù,
sáng tạo”
Mục tiêu chung là xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện,
hướng đến chân – thiện mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa
học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tình thần vững chắc của XH, là sức mạnh nội
sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu
dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh.
Các mục tiêu cụ thể được xác định như sau:
Một là hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi
trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể
chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao
tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân
mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội.
Hai là xác định văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Xây dựng văn hóa trong hệ thống chính
trị trong từng cộng đồng, làng, bản, khu phố, cơ quan đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia
đình. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng xã hội trong việc xây dựng môi trường văn
hóa, làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người Việt Nam hoàn thiện nhân
cách.
Ba là hoàn thiện thể chế, chế định pháp lý và thiết chế văn hóa bảo đảm xây dựng
và phát triển văn hóa, con người trong thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc
tế.
Bốn là xây dựng thị trường vưn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển CNH, tăng
cường quảng bá văn hóa Việt Nam.
Năm là từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và
nông thôn, giữa các vùng miền và các giai tầng xã hội. Ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp

về đạo đức xã hội.
Nghị quyết cũng nêu những quan điểm xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong tình hình
mới như sau:
Thứ nhất, văn hóa là nền tảng tình thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển
vền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang với kinh tế, chính trị, xã hội.
2


Thứ hai, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống
nhất đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn,
dân chủ và khoa học.
Thứ ba, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người trong xây dựng
văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách tốt đẹp, với các đặc tính
cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, đoàn kết, cần cù sáng tạo.
Thứ tư, xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia
đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa, cần chú ý đầy đủ đến yếu tố
văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.
Thứ năm, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Câu 3: Vì
sao GDĐT và KHCN là vấn
đề quốc
sách hàng
đầu của đất
nước ta
trong giai
đoạn hiện
nay?

Công nghiệp hóa hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện nền sản

xuất xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính với năng suất, chất lượng và hiệu
quả thấp sang sử dụng lao động được đào tạo ngày càng nhiều hơn cho năng suất chất
lượng và hiệu quả cao hơn dựa trên phương pháp sản xuất công nghiệp, vận dụng
những thành tựu mới của khoa học công nghệ tiên tiến. công nghiệp hóa hiện đại hóa
cũng là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành sản
xuất có hàm lượng khoa học công nghệ cao, giá trị tăng cao. Có thể nói, thực chất và
nội dung cơ bản của công nghiệp hóa hiện đại hóa là sáng tạo và ứng dụng tri thức do
giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ tạo ra vào phát triển kinh tế xã hội, tạo nên sự
phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Với tư cách là những thành tố cơ bản của nền văn hóa, giáo dục đào tạo và khoa học
công nghệ có một vị trí đặc biệt trong chiến lược phát triển đất nước. Nhận thức toàn
diện và sâu sắc vai trò, nhiệm vụ, nội dung, quy luật vận động của giáo dục đào tạo và
khoa học công nghệ trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước là vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết, nhằm phát huy vai trò là nền tảng và động lực
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa của giáo dục đào tạo và khoa học
công nghệ ở nước ta hiện nay. Văn kiện đại hội X khẳng định :”Giáo dục và Đào tạo
cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc
đẩy công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước”. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội được thông qua tại đại hội XI của Đảng nhấn
mạnh :”Giáo dục và Đào tạo, khoa học và công nghệ có sức mạnh nâng cao dân trí,
phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất
nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo
cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục
và đào tạo là đầu tư phát triển” các yếu tố có liên quan đến nhiệm vụ xây dựng văn
hóa, con người Việt Nam, đó là điều kiện tiên quyết để đảm bảo cho việc thực hiện có
hiệu quả. điều này sẽ góp phần khắc phục tình trạng môi trường xã hội, mặt trái kinh
tế thị trường tác động tiêu cực đến mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người
mà Đảng ta đã đề ra. Quan điểm này nêu lên hai luận điểm hết sức quan trọng là :“xây
dựng môi trường văn hóa” và “ Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với văn
hóa”.

Nội dung xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa đặc biệt nhấn mạnh vai trò của gia
đình, cộng đồng trong xây dựng con người. chỉ thị 49 của ban bí thư khóa IX đã chỉ rõ
“ gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, làm môi trường quan trọng hình
thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa
truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn và phát huy văn hóa
3


truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng
định :”nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội
tốt thì gia đình càng tốt. hạt nhân của xã hội là gia đình”. Gia đình Việt Nam với
những chuẩn mực giá trị tốt đẹp góp phần xây dựng bản sắc văn hóa dân tộc; là nơi
hình thành, giữ gìn, vun đắp và phát huy những giá trị truyền thống quý báu như lòng
yêu quê hương, đất nước; đoàn kết, yêu thương đùm bọc lẫn nhau; sống tình nghĩa,
thủy chung; hiếu học, cần cù và sáng tạo trong lao động; bất khuất, kiên cường vượt
qua mọi khó khăn, thử thách... Đồng thời gia đình còn là nhân tố cấu kết cộng đồng
một cách bền chặt. Vượt qua thời gian, mặc dù cấu trúc và quan hệ trong gia đình Việt
Nam có những thay đổi, nhưng chức năng cơ bản của gia đình vẫn tồn tại và vẫn là
một nhân tố quan trọng, không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế, xã hội của đất
nước. Vì vậy, nhấn mạnh vai trò của gia đình, cộng đồng trong xây dựng môi trường
văn hóa là hết sức đúng đắn và cần thiết hiện nay, khi mà cấu trúc, quan hệ của gia
đình truyền thống và sự cố kết cộng đồng làng xã đang có nguy cơ bị phá vỡ, theo đó
môi trường văn hóa xã hội cũng bị tác động mạnh mẽ.
Luận điểm thứ hai trong quan điểm này là phải thường xuyên quan tâm xây dựng văn
hóa trong kinh tế. Trong các văn kiện trước đây của Đảng cũng đã khẳng định mối
quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, trong kinh tế có văn hóa và văn hóa Phục vụ phát
triển kinh tế, bản thân văn hóa là một sản phẩm kinh tế; đến NQTW9, vấn đề này
được nâng lên thành quan điểm chỉ đạo. Yêu cầu đặt ra là phải lấy con người làm
Trung tâm trong các chương trình kinh tế, xã hội; xử lý tốt mối quan hệ giữa con

người với con người trong hoạt động sản xuất, kinh doanh; xử lý hài hòa giữa các mối
quan hệ riêng - chung; tạo lập môi trường văn hóa pháp lý, thị trường văn hóa minh
bạch, tiến bộ, hiện đại để các doanh nghiệp tham gia xây dựng văn hóa; xây dựng văn
hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín,
cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững; phát huy ý thức, tinh thần dân tộc để
xây dựng và phát triển các thương hiệu Việt Nam có uy tín trên thị trường trong nước
và quốc tế.
Tóm lại, mối quan hệ văn hóa với kinh tế đã được Đảng Cộng sản Việt Nam... sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước không phải chỉ là quá trình đổi mới về
khoa học công nghệ, hiện đại hóa, thị trường hóa nền sản xuất xã hội mà còn là quá
trình chuyển đổi về tâm lý, phong tục tập quán, lối sống thích ứng với nhiệt độ và tốc
độ của xã hội công nghiệp và hội nhập kinh tế quốc tế.
Câu 4:
Phân tích
các nhiệm
vụ cần
thực hiện
nhằm phát
triển GDĐT trong
bối cảnh
hiện nay?

1.Khái niệm:
Giáo dục là quá trình trao truyền tri thức, kinh nghiệm giữa con người với con người
thông qua ngôn ngữ và các hệ thống ký hiệu khác nhằm kế thừa và duy trì sự tồn tại,
tiến hóa và phát triển của nhân loại.
Đào tạo là hoạt động mang tính chất chuyên môn, nhằm trao truyền một kỹ năng cụ
thể cho một loại công việc cụ thể nào đó.
2.Vai trò
Thứ nhất, giáo dục có ý nghĩa quan trọng đối với lĩnh vực sản xuất vật chất.

4


Thứ hai, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản, tạo tiền đề kinh tế xã hội.
Thứ ba,Giáo dục không chỉ có ý nghĩa lớn lao trong lĩnh vực sản xuất vật chất, mà
còn là cơ sở để hình thành nền văn hóa tinh thần của dân tộc. Giáo dục có tác dụng vô
cùng to lớn trong việc truyền bá lý tưởng chính trị, đạo đức và lối sống lành mạnh cho
mỗi cá nhân.
Thực trạng:
cả nước đã hoàn thành mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học vào năm
2000; phố cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010; đang tiến tới phổ cập giáo dục
mầm non cho trẻ 5 tuổi; củng cố và nâng cao kết quả xóa mù chữ cho người lớn. cơ
hội Tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số và
các đối tượng chính sách; cơ bản đảm bảo bình đẳng giới trong giáo dục và đào tạo.
3. Quan điểm của Đảng và chính sách của nhà nước để phát triển giáo dục và đào tạo
Giáo dục và Đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và
con người Việt Nam.
Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển.
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội;
nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và
hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được
học tập suốt đời.
4. phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục đào tạo trong những năm
tới
Một là: Chuyển sang Mô hình giáo dục mở- xã hội học tập, học tập suốt đời.
Hai là: đổi mới mạnh mẽ nền giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông theo hướng.
Ba là: Phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp.

Bốn là: đổi mới hệ thống giáo dục Đại học và sau đại học
Năm là: đào tạo giáo viên đạt chuẩn ở các bậc học và cấp học
Sáu là: Tiếp tục đổi mới phương pháp
Bảy là: thực hiện xã hội hóa giáo dục
Tám là: đổi mới cơ chế quản lý giáo dục
5


Chín là: tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo
Giáo dục ngày càng có ý nghĩa quyết định trong việc phát triển ngành sản xuất vật
chất của xã hội. Trong thời đại chuyển dịch mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học
kiểu cổ tích dựa vào bóc lột sức lao động và tàn phá môi trường tự nhiên là chính sang
cuộc cách mạng khoa học kiểu mới hướng tới nâng cao năng suất lao động, bảo vệ
môi trường sinh thái và nâng cao chất lượng cuộc sống con người, hàm lượng khoa
học kết tinh trong các sản phẩm hàng hóa ngày càng tăng. sự phát triển của lực lượng
sản xuất xã hội gắn liền với sản xuất hàng hóa và thị trường, gắn liền với phân công
lao động và hợp tác quốc tế, gắn liền với trình độ năng lực và sáng tạo, tiếp nhận và
trao đổi công nghệ mới. Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa trong lĩnh vực kinh tế- xã
hội làm cho các quốc gia, kể cả các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển
phải cấu trúc lại nền kinh tế theo hướng mở rộng liên kết để tối ưu hóa sự cạnh tranh
và hợp tác toàn cầu. “Kinh tế tri thức” và “xã hội thông tin” đang dần dần hình thành
trên cơ sở phát triển hàm lượng trí tuệ cao trong sản xuất, dịch vụ và quản lý ở tất cả
các quốc gia với mức độ khác nhau, tùy thuộc vào sự chuẩn bị của hệ thống giáo dục
quốc dân và phát triển khoa học công nghệ. Tài Năng và trí tuệ, năng lực và bản lĩnh
trong lao động sáng tạo của con người không phải xuất hiện một cách ngẫu nhiên, tự
phát mà phải trải qua một quá trình chuẩn bị và đào tạo công phu, bền bỉ, có hệ thống.
Vì vậy, Giáo dục đào tạo hiện nay được đánh giá không phải là yếu tố phi sản xuất,
tách rời sản xuất mà là yếu tố bên trong, yếu tố cấu thành của nền sản xuất xã hội.
Không thể phát triển được lực lượng sản xuất Nếu không đầu tư cho giáo dục đào tạo
và khoa học công nghệ, đầu tư vào nhân tố con người, nhân tố quyết định của lực

lượng sản xuất. Không thể xây dựng được quan hệ sản xuất lành mạnh Nếu không
nâng cao giác ngộ lý tưởng chính trị, trình độ tổ chức và quản lý kinh tế xã hội cho
đội ngũ lao động và quản lý lao động. Vì vậy, Đầu tư cho giáo dục đào tạo và khoa
học công nghệ là đầu tư cơ bản để phát triển kinh tế xã hội, đầu tư ngắn nhất và tiết
kiệm nhất để hiện đại hóa nền sản xuất xã hội về hiện đại hóa dân tộc.
Cuộc Chạy đua phát triển kinh tế xã hội trên thế giới hiện nay thực chất là Cuộc Chạy
Đua về khoa học và công nghệ, chế độ nâng cao chất lượng và hiệu quả lao động trên
cơ sở hiện đại hóa nguồn nhân lực. Cương lĩnh đã xác định “ khoa học và công nghệ
giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài
nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, Chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và
sức cạnh tranh của nền kinh tế”
Giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ không chỉ có ý nghĩa lớn lao trong lĩnh vực
sản xuất vật chất mà còn là cơ sở để xây dựng nền văn hóa tinh thần của chế độ xã hội
chủ nghĩa. Giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ có tác dụng to lớn trong việc
truyền bá hệ tư tưởng chính trị xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc, xây dựng lối sống, đạo đức và nhân cách mới của toàn xã hội.
Câu 5: Vì
sao chính
sách xóa
đói giảm
nghèo là
chìa khóa
then chốt
trong việc

Nhiệm vụ đó đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý và điều hành của
Nhà nước, sự vào cuộc của các đoàn thể chính trị,xã hội, sự nỗ lực của toàn dân nhằm
tăng giàu, bớt nghèo hạn chế phân hóa giàu nghèo, góp phần thực hiện mục tiêu: Dân
giàu,nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Xóa đói, giảm nghèo, hạn chế phân hóa giàu nghèo là nội dung được đề cập nhiều

trong các văn kiện của Đảng. Chủ trương “khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với
6


giải quyết
các vấn đề
xã hội
mang tính
cấp bách
hiện nay ở
nước ta?

xóa đói, giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống và trình độ
phát triển giữa các vùng, tầng lớp dân cư” được cụ thể hóa thành các chính sách phát
triển kinh tế xã hội, thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội. Thành công của
Việt Nam sau hơn 20 năm tấn công vào đói nghèo đã đưa nước ta từ một nước nghèo
trở thành quốc gia có thu nhập trung bình.
Ở nước ta hiện nay, việc xóa đói, giảm nghèo đang hướng mạnh tới thu hẹp khoảng
cách giàu nghèo. Đây là vấn đề có liên quan tới công bằng, bình đẳng xã hội, ảnh
hưởng tới sự ổn định chính trị. Vấn đề này được nhấn mạnh trong nhiều văn kiện của
Đảng, trở thành hệ thống quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo trong quá trình phát triển kinh
tế xã hội. Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta đã xác định, thực hiện kinh tế thị trường phải
“thừa nhận trên thực tế... sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội” coi đó là
một hiện tượng xã hội đang nhiệm hữu chi phối đời sống xã hội. Đại hội chỉ rõ,
khuyến khích các tầng lớp nhân dân vươn lên làm giàu, đẩy mạnh xóa đói, giảm
nghèo, hạn chế phân hóa giàu nghèo gắn với mục tiêu “phải luôn luôn quan tâm bảo
vệ lợi ích người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi
pháp, coi trọng xóa đói giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã hội, tiến tới
làm cho mọi người, mọi nhà đều khá giả”. Đại hội lần thứ IX đã có bước phát triển
mới :“khuyến khích làm giàu hợp pháp, đồng thời ra sức xóa đói giảm nghèo, tạo điều

kiện về cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất để các vùng, các cộng đồng đều có thể tự
phát triển tiến tới thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Đại hội lần thứ X của Đảng tiếp tục chỉ rõ và đề ra mục tiêu cụ thể: “khuyến khích
mọi người làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói,
giảm nghèo” , “kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả
nước ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước phát triển” phấn đấu đến năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới còn 1011%. Đặc biệt, trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội năm 2010- 2020, đại hội lần
thứ XI của Đảng đã đề ra định hướng cơ bản nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc
sống của nhân dân. Tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng
thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội. Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách
giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức để
đảm bảo giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt
khó khăn. Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung
bình khá trở lên. Có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu
nghèo, giảm cân lệch về mức sống giữa nông thôn với đô thị.Chỉ tiêu phấn đấu cụ thể:
“ tỷ lệ hộ nghèo giảm 2%/năm”; dựa trên cơ sở dự định hướng chiến lược “ tạo môi
trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và Thu nhập tốt hơn. có chính
sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập
trong xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với Xóa nghèo bền vững; giảm
dần tình trạng chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư”
Như vậy, Đảng ta đã có cách nhìn ngày càng toàn diện và đưa ra những chủ trương,
biện pháp thiết thực để xóa đói, giảm nghèo, hạn chế phân hóa giàu nghèo trên cơ sở
tiến hành đồng bộ các giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng gắn liền với phát triển văn
hóa xã hội; chú trọng để mạnh việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo an
sinh xã hội, tăng cường trợ giúp với đối tượng yếu thế; tập trung triển khai có hiệu
quả các chương trình kinh tế xã hội, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn.
7



Thực tiễn những năm qua, dưới sự Lãnh đạo của Đảng, nhà nước đã có những chính
sách, giải pháp tương đối đồng bộ, hiệu quả tập trung giải quyết vấn đề xóa đói, giảm
nghèo và hạn chế phân hóa giàu nghèo mang tầm quốc gia được quốc tế ủng hộ và
đánh giá cao. Thông qua các chương trình xóa đói giảm nghèo, hàng triệu hộ gia đình,
hàng chục triệu người thoát khỏi đói nghèo, vươn lên làm giàu; góp phần hạn chế
phân hóa giàu nghèo, thực hiện tốt công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội. Vì vậy, để
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xóa đói, giảm nghèo, góp phần hạn chế phân
hóa giàu nghèo, trong thời gian tới cần tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước trong việc
khuyến khích làm giàu, để mạnh xóa đói, giảm nghèo, hạn chế phân hóa giàu nghèo.
Tập trung triển khai đồng bộ các chương trình xóa đói, giảm nghèo, nhất là ở vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; bảo đảm tính bền vững kể cả trước mắt và lâu
dài trong tổng thể phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Hai là, Phát huy tối đa nội lực, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong xã đói, Giảm
nghèo và hạn chế phân hóa giàu nghèo. Việc Việt Nam trở thành các nước có thu nhập
trung bình đang đặt ra những thách thức mới, nguồn hỗ trợ của thế giới cho nước nào
sẽ không còn, “bẫy trung bình” sẽ ảnh hưởng đến tốc độ phát triển và khả năng xóa
đói, giảm nghèo của đất nước... Do đó nguồn lực để chi cho việc xóa đói, giảm nghèo
sẽ chủ yếu phụ thuộc vào nội lực, từ sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của đất nước.
Việt phát huy nội lực, tranh thủ phát huy tối đa các nguồn lực của từng cá nhân và của
cộng đồng là vô cùng quan trọng cần được quan tâm nhằm nâng cao chất lượng hiệu
quả công tác xóa đói, giảm nghèo, hạn chế phân hóa giàu nghèo trong điều kiện mới.
Ba là, có chủ trương biện pháp tích cực, đúng đắn, công khai, minh bạch để giải quyết
vấn đề đói nghèo, hạn chế phân hóa giàu nghèo với những nội dung hình thức mới.
Điểm khác biệt là đói nghèo ở nông thôn thường nhận được sự chia sẻ của người thân,
gia đình, dòng họ, cộng đồng hàng xóm. Còn ở đô thị, do đặc điểm đời sống đô thị
nên việc nhận dạng, đánh giá về đói nghèo rất phức tạp; hơn nữa khoảng cách giàu
nghèo ở đô thị lại rất lớn, do đó việc thực hiện các biện pháp trợ giúp có nhiều khó
khăn, bài toán giàu - nghèo ở đô thị sẽ khó giải hơn. Đòi hỏi phải tiếp tục sửa đổi,
hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và

cứu trợ xã hội, đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong
xã hội, nhất là các nhóm yếu thế,dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro
trong đời sống.
Để xóa đói giảm nghèo bền vững, hạn chế phân hóa giàu nghèo, ở ngoài sự quan tâm
lãnh đạo của Đảng, nhà nước còn phải có sự tham gia của các cộng đồng. Trong đó có
sự chia sẻ, đóng góp của người giàu và sự vươn lên của chính người nghèo, hộ gia
đình nghèo. Trong điều kiện hiện nay, làm tốt công tác xóa đói giảm nghèo, hạn chế
phân hóa giàu nghèo là góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Câu 6:
Hãy phân
tích sự vận
dụng của

Các khái niệm:
- Dân tộc là:
+ Cộng đồng tộc người: dân tộc là một cộng đồng tộc người có chung ngôn
ngữ, lịch sử - nguồn gốc, đời sống có văn hóa và ý thức tự giác.
8


Đảng ta
trong việc
giải quyết
vấn đề dân
tộc, tôn
giáo ở Việt
Nam?

+ Quốc gia dân tộc: dân tộc là cộng đồng người sinh sống trong một địa bàn

lãnh thổ do nhu cầu tồn tại và phát triển có mối quan hệ với nhau. Trải qua một
quá trình lịch sử lâu dài hình thành nên các quốc gia, bao gồm địa bàn sinh
sống của một hay nhiều cộng dồng tộc người.
- Tôn giáo: là một hình thái ý thức xã hội, là sự tự ý thức, tự vảm giác của con
người về thế giới xung quanh mình và về chính bản thân họ.
- Mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: nước có độc lập thì tín ngưỡng
mới có tự do, nước có vinh thì đạo mới sáng.
Gắn đức tin với lòng yêu nước, yêu tổ quốc.
Muốn độc lập dân tộc cần phải liên kết lương giáo.
Lấy lợi ích quốc gia dân tộc, lợi ích vật chất và tinh thần của toàn dân làm mẫu
số chung để thực hiện chính sách đoàn kết lương giáo hòa hợp dân tộc.
Muốn đoàn kết lương giáo phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tính ngưỡng
của nhân dân, đồng thời chống lợi dụng tôn giáo
- Những đặc điểm về vấn đề dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam hiện nay:
+ Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng tôn giáo.
+ Ở Việt Nam có 1 bộ phận đồng vào dân tộc thiểu số theo các tôn giáo.
+ Các tôn giáo ở Việt Nam đoàn kết trong khối đại đoàn kết toàn dân không có
xung đột hoặc chiến tranh tôn giáo.
+ Ở Việt Nam có lực lượng đông đảo các chức sắc, nhà tu hành, những người
hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp.
+ Các tôn giáo có mối quan hệ quốc tế rộng rãi.
+ Các tôn giáo ở Việt Nam luôn là đối tượng trong âm mưu lợi dụng của các
thế lực thù địch.
Đảng ta đã vận dụng giải quyết vấn đề dân tộc tôn giáo ở Việt Nam là để nâng cao
hiệu quả công tác tôn giáo và thực hiện tốt phương hướng, nhiệm vụ của công tác tôn
giáo.
- Về giải quyết vấn đề dân tộc
Vấn đề dân tộc trong giai đoạn hiện nay cần thực hiện một số giải pháp sau:
+ Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị các cấp, các ngành

và toàn thể xã hội về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc trong tình hình mới.
+ Thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc miền núi. Rà
soát, điều chỉnh, bổ sung để hoàn chỉnh những chính sách đã có và nghiên cứu
ban hành những chính sách mới, để đáp ứng yêu cầu phát triển dân tộc và
nhiệm vụ công tác dân tộc trong giai đoạn mới.
+ Huy động nhiều nguồn lực cho đầu tư, phát triển, giúp đỡ vùng dân tộc thiểu
số và miền núi. Ưu tiên đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo, giải quyết những khó
khăn bức xúc của đồng bào vùng dân tộc và miền núi, trước hết tập trung cho
các vùng đặc biệt khó khăn.
+ Thực hiện tốt công tác qui hoạch và đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ là
người dân tộc thiểu số co từng vùng, từng dân tộc nhất là các địa bàn xung yếu.
+ Kiện toàn và chăm lo xây dựng hệ thống tổ chức cơ quan làm công tác dân
vận từ trung ương đến địa phương.
+ Đổi mới nội dung và phương pháp công tác dân vận ở vùng đồng bào dân
tộc.
- Về tôn giáo:
+ Nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, đề cao trách nhiệm của hệ thống
chính trị và toàn xã hội về vấn đề tôn giáo
+ Tiếp tục nghiên cứu tổng kết thực tiển, đè xuất chủ trương chính sách vê tôn
9


giáo, tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật về tôn giáo; tăng cường công tác
quản lí nhà nước đối với hoạt dộng tôn giáo.
+ Tăng cường vận động quần chúng xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở.
+ Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự quản lí của chính quyền ở cơ sở
về tôn giáo.
+ Tăng cường tổ chức cán bộ làm công tác tôn giáo ở cơ sở, nhất là ở vùng dân
tộc thiểu số.


10



×