Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN LẦN 3 ĐƯỜNG LỐI CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG NHÀ NƯỚC VN VỀ CÁC LĨNH VỰC CỦA ĐỜI SÓNG XÃ HỘI LẦN 3 QUỐC PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.03 KB, 17 trang )

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN LẦN 3
NỘI DUNG: AN NINH QUỐC PHÒNG
Câu 1: Phân tích mục tiêu chung của chiến lược bảo vệ tổ quốc?
1. Khái niệm:
Tổ quốc là tổng hoà các yếu tố tự nhiên và nhân tố xã hội của một quốc gia dân tộc được gắn
kết chặt chẽ bởi chủ quyền lãnh thổ của đất nước và cộng đồng dân cư với chế độ kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội nhất định.
- Về tự nhiên, đó là chủ quyền lãnh thổ: vùng đất, vùng trời, vùng biển và thềm lục địa… đã
được hình thành, trong quá trình lịch sử địa bàn cư trú hoạt động, sinh sống qua nhiều thế hệ
của cộng đồng dân cư các dân tộc trong quốc gia với những bản sắc văn hoá và truyền thống
lịch sử.
- Về xã hội, đó là chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, là nhà nước của giai cấp thống trị
xã hội. Bản chất của giai cấp thống trị và chế độ xã hội quy định bản chất Tổ quốc. Chính
điều này thể hiện rõ Tổ quốc của giai cấp nào và giai cấp nào không có Tổ quốc.
Bảo vệ tổ quốc Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. (bỏ)
Chiến lược bảo vệ tổ quốc là mưu lược, kế sách của Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu,
quy tụ lực lượng và lựa chọn giải pháp khả thi, nhằm tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lơi
đường lối, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Căn cứ để hoạch định chiến lược bảo vệ tổ quốc là dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn:
- Học thuyết Mác-Lênin; Tư tưởng HCM.
- Đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng đất nước và tăng cường QP-AN bảo vệ Tổ quốc.
- Kinh nghiệm truyền thống giữ nước của dân tộc.
- Dự báo tình hình thế giới, trong nước trong những năm tới về những thuận lợi, khó khăn, cơ
hội, thách thức.
2. Nội dung phân tích
2.1. Lý do xác dịnh mục tiêu chung của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc:
Trên thế giới hòa bình hợp tác vẫn là xu thế lớn nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường.
Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, là khu vực phát triển
năng động nhưng vẫn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng


gay gắt.
Xuất phát từ tình hình thế giới, khu vực, trong nước và trước yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc, Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã ban hành Nghị
quyết về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Đây là Nghị quyết chuyên đề đặc
biệt quan trọng, thể hiện tư duy mới, tầm nhìn chiến lược của Đảng ta về nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc trong thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam.
Đây là Nghị quyết chuyên đề về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta. Qua đó, Đại hội đã
xác định rõ mục tiêu chung của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, trong bối cảnh mới của tình hình thế
giới, khu vực, hội nhập quốc tế.
2.2. Nội dung mục tiêu chung của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc: 6 mục tiêu theo Nghị
quyết ĐH XII:
Một là, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.
Tại sao: lĩnh vực này quan trọng như thế nào để đặt ra mục tiêu; hiện nay lĩnh vực này đang bị
tác động gì?
Nội dung mục tiêu:
Liên hệ tại địa phương hoặc cơ quan
ví dụ: lý do đặt ra mục tiêu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.
1. Độc lập chủ quyền là vấn đề thiêng liêng
2. Sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ đang bị đe dọa bởi các hoạt động chống phá của các thế
lực thù địch ví dụ như diễn biến tranh chấp lãnh thổ trên Biển đông trong thời gian qua.

1


Liên hệ: công tác tuyên truyền tại địa phương về chủ quyền lãnh thổ biển đảo; thực hiện
nhiều hoạt hoạt động góp sức xây dựng chủ quyền lãnh thổ, biển đảo (góp đá xây trường sa),
động viên kêu gọi công dân nhập ngũ hàng năm.
Nói đến bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ với tư cách là những nội dung chủ yếu về mặt tự nhiên - lịch sử.
Trong tình hình mới, nội hàm của độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ đã có sự phát

triển mới, mở rộng hơn so với trước kia. Độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ bao
gồm cả chủ quyền biển, đảo trong mối quan hệ chỉnh thể độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia.
Trong bối cảnh lịch sử mới, nội dung này đã hàm chứa những vấn đề chính trị - xã hội. Độc lập
chủ quyền không chỉ là vấn đề lãnh thổ với không gian, địa lý xác định, mà cần nhấn mạnh đó
còn là độc lập chủ quyền trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, v.v. Trước
hết, là độc lập về chính trị, sự tự chủ về chính trị, tự quyết định vận mệnh tương lai, con đường
phát triển của dân tộc mình. Quyền quyết định đó của Đảng và nhân dân ta không ai có thể xâm
phạm; mất quyền quyết định đó thì cũng có nghĩa không còn độc lập, chủ quyền.
Thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm toàn bộ đất liền, vùng trời, vùng biển, hải đảo đã được
hình thành, định hình trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Trong
điều kiện mới, sự thống nhất và toàn vẹn cần được hiểu rộng hơn, đó là sự đoàn kết, thống nhất
của toàn dân tộc, của các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam và sự thống nhất giữa cộng
đồng người Việt Nam trong nước với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Sự thống nhất ấy
được dựa trên cơ sở cùng nhau hướng tới và phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Sự thống nhất về địa lý lãnh thổ và chính trị - xã hội quan hệ chặt chẽ,
hòa quyện với nhau, tạo nên chỉnh thể thống nhất toàn vẹn của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, phải bảo vệ bằng mọi giá.
Hai là, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Lý do: Đảng CSVN là đảng cầm quyền, nhà nước ….. là vấn đề quan trọng thuộc về chế độ cần
phải bảo vệ. Sự chống phá của các thế lực thù địch tìm các phá đảng, nhà nước VN
Nội dung: Tổ quốc là một phạm trù lịch sử, gắn với những điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Trong Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng, quản
lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân là những vấn đề cơ bản về mặt chính trị - xã hội,
quy định bản chất của Tổ quốc. Vì thế, vấn đề có ý nghĩa cốt tử của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới là: bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã
hội chủ nghĩa. Điều đó, đòi hỏi trước hết phải xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh,
ngang tầm với nhiệm vụ; xây dựng Nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân, đủ sức điều hành
và quản lý đất nước trong thời kỳ mới. Xây dựng phải gắn chặt với việc khắc phục suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, ngăn chặn “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, loại trừ những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất,

lợi dụng uy tín của Đảng để mưu lợi cho bản thân, gia đình và tích cực đấu tranh chống hành
động phá hoại của các thế lực thù địch. Nhân dân lao động làm chủ là bản chất của chế độ ta và
là thành tựu vĩ đại của cách mạng Việt Nam suốt bảy thập kỷ qua. Do đó, bảo vệ nhân dân thì
trước hết và quyết định là bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực, cả về
quyền tự do, tính mạng, tài sản và lợi ích chính đáng, hợp pháp của họ.
Liên hệ:
Ba là, bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Lý do: đây là vấn đề quan trọng… hiện nay đang có nhiều thách thức trong đó có sự chống phá
của các thế lực thù địch.
Nội dung: Bảo vệ mục tiêu chương trình …..
Đây thực chất là bảo vệ đường lối phát triển và xây dựng đất nước trong thời kỳ mới và những
thành tựu của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của nhân dân ta. Điều
này còn có nghĩa là phải làm cho sự nghiệp ấy phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, phục
vụ thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phù hợp với yêu cầu
phát triển bền vững.
Bốn là, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.

2


Lý do:
Nội dung: bảo vệ trên tất cả các lĩnh vực, trong nước cũng như nước ngoài.
Lợi ích quốc gia dân tộc là toàn bộ lợi ích mà nhân dân ta có được, giành được, phát triển và giữ
gìn trong quá trình đấu tranh, xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong bối cảnh mới, nội hàm lợi ích
quốc gia, dân tộc đã được mở rộng, bao gồm cả lợi ích của ta ở trong nước và ở ngoài nước, trên
tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Nó bao gồm cả lợi
ích tổng thể của quốc gia, đất nước và lợi ích cụ thể của các doanh nghiệp, của các cá nhân là
người Việt Nam; lợi ích của chúng ta trong các doanh nghiệp nước ngoài có quan hệ hợp tác, đầu
tư ở Việt Nam, với Việt Nam; quyền lợi, lợi ích của nước ta trong các tổ chức quốc tế và khu vực,
trong các hiệp ước, cam kết quốc tế đa phương, song phương mà chúng ta tham gia, v.v. Nội dung

rộng lớn và toàn diện đó hợp thành chỉnh thể lợi ích quốc gia, dân tộc, phải kiên quyết bảo vệ,
giữ gìn. Yêu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc đòi hỏi rất cao ý thức, trách nhiệm công dân, của
các chủ thể, các lực lượng, đặc biệt là các lực lượng trực tiếp quan hệ, hợp tác với nước ngoài;
kiên quyết ngăn chặn những biểu hiện chỉ vì lợi ích cục bộ, địa phương, lợi ích riêng làm ảnh
hưởng, vi phạm, phương hại đến lợi ích quốc gia dân tộc.
Năm là, bảo vệ nền văn hóa dân tộc;
Lý do: quan trong, bị sự chống phá của các thế lực thù địch làm cho văn hóa chúng ta hiện nay
có biểu hiện lệch chuẩn.
Nội dung: bảo vệ nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; làm cho chủ nghĩa
Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần, nền
tảng tư tưởng của xã hội; chống sự xâm nhập của mọi trào lưu tư tưởng phi vô sản và sự ảnh
hưởng của văn hóa độc hại vào đời sống xã hội. Đồng thời, phải ra sức xây dựng, phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; không ngừng quảng bá, phát huy các giá trị
văn hóa, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trên thế giới, góp phần gia tăng “sức mạnh
mềm” cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước.
Liên hệ:
Sáu là, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội.
Lý do: Đây là nội dung rất quan trọng của mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới; đồng thời, là yếu tố rất cơ bản bảo đảm thắng lợi của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Nội dung: Trong bối cảnh mới, nội dung này càng đặt ra một cách cấp thiết. Đó là việc giữ vững
môi trường hòa bình, kiên định đường lối phát triển, bảo đảm sự nhất quán của các chủ trương,
chính sách; không có xáo trộn, biến động về chính trị, đặc biệt là trong Đảng, trong bộ máy Nhà
nước gây ảnh hưởng xấu, tiêu cực đến sự phát triển đất nước. Trong tình hình mới, cần đặc biệt
chú ý giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; không để xảy ra vấn đề phức tạp trong quan hệ với
các nước láng giềng, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, bảo đảm môi trường hòa
bình cho sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước.
- Thực hiện tốt đường lối chính sách sách đối ngoại thực hiện mục tiêu thêm bạn bớt thù.
Liên hệ:

2.3. Liên hệ thực tế về mục tiêu Chiến lược bảo vệ Tổ quốc:
Liên hệ theo từng mục tiêu theo văn hiện đại hội Đảng bộ quận Gò Vấp lần thứ XI
nhiệm kỳ 2015 – 2020: Trang 16 văn kiện đại hội Đảng bộ lần XI
* Liên hệ tại Công ty TNHH MTV Dịch vụ Công ích quận Gò Vấp:
Trên cơ sở các chỉ đạo trên, hàng năm Đảng Ủy Công ty TNHH MTV Dịch vụ công ích quận
Gò Vấp tổ chức thực hiện, đưa nội dung vào chương trình, kế hoạch công tác của chi bộ, chính
quyền, đồng thời phổ biến, hướng dẫn đến cán bộ, đảng viên, viên chức, người lao động thực
hiện tốt các nội dung liên quan đến phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, phối hợp tốt với
Công an địa phương phòng chống các loại tội phạm, bảo đảm an toàn cho nhân dân đến liên hệ
công tác tại Công ty cũng như nhân dân đến tham gia vui chơi giải trí tại các công trình công
cộng do công ty được giao quản lý.
3. Kết luận:

3


Văn kiện Đại Hội XI của Đảng đã chỉ rõ nội dung bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong giai
đoạn hiện nay là: “Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập,, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ;
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh
tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn
định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù
địch, không để bị động, bất ngờ”. Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta nhận thức sâu sắc rằng bảo vệ
Tổ quốc ngày nay không chỉ đơn thuần là chuẩn bị đối phó với chiến tranh xâm lược mà quan trọng
hơn là phải giữ vững được sự ổn định về chính trị và môi trường hòa bình, xây dựng đất nước vững
mạnh về mọi mặt, tạo thế chủ động về chiến lược, ngăn chặn, đẩy lùi mọi nguy cơ; đó là mục tiêu hàng
đầu trong Chiến lược bảo vệ tổ quốc.
Câu 2: Phân tích các quan điểm chỉ đạo của Đảng trong chiến lược bảo vệ tổ quốc?
1. Khái niệm:
Tổ quốc là tổng hoà các yếu tố tự nhiên và nhân tố xã hội của một quốc gia dân tộc được gắn kết
chặt chẽ bởi chủ quyền lãnh thổ của đất nước và cộng đồng dân cư với chế độ kinh tế, chính trị,

văn hoá, xã hội nhất định.
- Về tự nhiên, đó là chủ quyền lãnh thổ: vùng đất, vùng trời, vùng biển và thềm lục địa… đã
được hình thành, trong quá trình lịch sử địa bàn cư trú hoạt động, sinh sống qua nhiều thế hệ
của cộng đồng dân cư các dân tộc trong quốc gia với những bản sắc văn hoá và truyền thống
lịch sử.
- Về xã hội, đó là chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, là nhà nước của giai cấp thống trị
xã hội. Bản chất của giai cấp thống trị và chế độ xã hội quy định bản chất Tổ quốc. Chính
điều này thể hiện rõ Tổ quốc của giai cấp nào và giai cấp nào không có Tổ quốc.
Bảo vệ tổ quốc Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. (bỏ)
Chiến lược bảo vệ tổ quốc là mưu lược, kế sách của Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu,
quy tụ lực lượng và lựa chọn giải pháp khả thi, nhằm tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lơi
đường lối, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Căn cứ để hoạch định chiến lược bảo vệ tổ quốc là dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn:
- Học thuyết Mác-Lênin; Tư tưởng HCM.
- Đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng đất nước và tăng cường QP-AN bảo vệ Tổ quốc.
- Kinh nghiệm truyền thống giữ nước của dân tộc.
- Dự báo tình hình thế giới, trong nước trong những năm tới về những thuận lợi, khó khăn, cơ
hội, thách thức.
2. Nội dung phân tích: Xuất phát từ tình hình thế giới, khu vực, trong nước và trước yêu cầu
cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
XI) đã ban hành Nghị quyết về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Đây là Nghị
quyết chuyên đề đặc biệt quan trọng, thể hiện tư duy mới, tầm nhìn chiến lược của Đảng ta về
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam.
Đây là Nghị quyết chuyên đề về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta. Qua đó, Đại hội đã xác định rõ
các quan điểm chỉ đạo của Đảng trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, trong bối cảnh mới của tình hình
thế giới, khu vực, hội nhập quốc tế.
- Giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà

nước, không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định thắng
lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Với quan điểm này, Đảng ta tiếp tục khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy
nhất lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng, an ninh. Đảng lãnh đạo tuyệt đối và trực tiếp (từ trung
ương xuống địa phương: Bí thư Quân Ủy Trung ương cũng chính là Tổng Bí thư Trung ương
Đảng; Đảng lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng, an ninh từ trung ương đến cơ sở, mọi nhiệm vụ

4


quốc phòng, an ninh diễn ra ở đâu, thời điểm nào đều phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng
cũng xác định các yếu tố tạo thành nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc,
đó là vai trò vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
- Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Giữ vững môi trường hòa bình,
ổn định để phát triển kinh tế, xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước. Đồng thời, luôn nêu cao cảnh
giác, đánh bại mọi âm mưu, hành động chống phá, xâm lược của các thế lực thù địch, khô ng để bị
động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Quan điểm này xác định rõ trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào vẫn không thay đổi mục tiêu mà
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Bảo vệ Tổ quốc phải đi liền với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Lợi ích cao nhất của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay là đảm bảo hòa bình, ổn định để phát triển
kinh tế, xã hội. Tất cả mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong bối cảnh hiện nay
đều phải phục vụ cho lợi ích này.
- Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc. Phát huy sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để bảo vệ Tổ
quốc. Phát huy nội lực đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi từ bên ngoài; nắm
chắc nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội. Kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội với
củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam hiện nay luôn có mối quan hệ tác động qua

lại lẫn nhau, nhiệm vụ này là điều kiện cho nhiệm vụ kia phát triển và ngược lại. Bảo vệ Tổ
quốc trong giai đoạn hiện nay, cần phát huy sức mạnh của dân tộc được kết tinh trong suốt quá
trình dựng nước và giữ nước. Đó là truyền thống yêu nước, tinh thần anh dũng, sự sáng tạo,
mềm dẽo... của nhân dân ta. Tạo dựng cho được sức mạnh từ bên trong và xem yếu tố nội lực là
quyết định cho thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Bảo vệ Tổ quốc hiện nay của chúng ta cũng phải luôn chú ý khai thác yếu tố thời đại và những
điều kiện thuận lợi từ bên ngoài. Đó là dư luận của nhân loại tiến bộ, yêu chuộng hòa bình,
cuộc đấu tranh không ngưng nghỉ của các dân tộc cho một trật tự thế giới bình đẳng, dân chủ,
hợp tác và phát triển. Đó còn là sự ủng hộ của các nước cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của
nhân dân ta.
- Xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại ; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, lực lượng vũ trang làm nòng cốt; tăng
cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân
dân phù hợp với hoàn cảnh mới.
Bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới cần phải có sức mạnh tổng hợp của tất cả các lĩnh vực, bởi
lẽ mỗi lĩnh vực đều có đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh chung của đất nước. Bảo vệ Tổ
quốc hiện nay cần huy động sự tham gia đông đảo của mọi người, phải đoàn kết tất cả các giai
cấp, các tầng lớp, đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam trong và ngoài nước. Có
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc như vậy chúng ta sẽ thành công trong sư nghiệp bảo vệ Tổ
quốc.
Để có sức mạnh bảo vệ Tổ quốc còn cần phải xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh, thế trận
quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân phù hợp với tình hình hiện nay. Đó là xây dựng tiềm
lực chính trị - tinh thần, tiềm lực kinh tế - xã hội, khoa học – công nghệ, tiềm lực quân sự - an
ninh. Đồng thời sắp xếp, bố trí, huấn luyện để toàn dân tham gia thực hiện các nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh.
- Quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; kiên trì chính
sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa; thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu
tranh, gia tăng hợp tác.
Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay cần thực hiện có hiệu quả đường lối, chính sách đối

ngoại của Đảng. Đó là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy

5


và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước
Việt Nam XHCN giàu mạnh.
- Chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố bên trong có thể dẫn đến
những đột biến bất lợi. Thực hiện bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay cần chú trọng đúng
mức đến công tác phòng ngừa. Đó là phải làm tốt công tác nắm tình hình, phát hiện và khắc
phục kịp thời những sở hở, yếu kém trong lãnh đạo, quản ý trên tất cả các lĩnh vực, trong những
vấn đề mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng và dễ dàng lợi dụng. Kiên quyết không để hình
thành các tổ chức đối lập dưới bất kỳ hình thức nào.
3. Liên hệ bản thân: Trên cơ sở các chỉ đạo trên, hàng năm Đảng Ủy Công ty TNHH MTV Dịch
vụ công ích quận Gò Vấp tổ chức thực hiện, đưa nội dung vào chương trình, kế hoạch công tác
của chi bộ, chính quyền, đồng thời phổ biến, hướng dẫn đến cán bộ, đảng viên, viên chức, người
lao động thực hiện tốt các nội dung liên quan đến phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc,
phối hợp tốt với Công an địa phương phòng chống các loại tội phạm, bảo đảm an toàn cho nhân
dân đến liên hệ công tác tại Công ty cũng như nhân dân đến tham gia vui chơi giải trí tại các công
trình công cộng do công ty được giao quản lý.
4. Kết luận
Văn kiện Đại Hội XII của Đảng đã chỉ rõ nội dung bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong giai
đoạn hiện nay là: “Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập,, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an
ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã
hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu,
hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ”. Để làm được điều này, đòi hỏi các cá
nhân, các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, đoàn thể, các thành viên trong xã hội đó phải có ý
thức và sự đồng thuận về trách nhiệm của mình đối với cộng đồng, quốc gia, dân tộc và với chế

độ xã hội.
Câu 3: Phân tích các quan điểm chỉ đạo của Đảng về kết hợp phát triển Kinh tế - Xã hội với
tăng cường quốc phòng, an ninh?
1. Khái niệm
Phát triển kinh tế xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của
con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn
hoá. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân và cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi
trường và sự phát triển có mối quan hệ hết sức chặt chẽ: môi trường là địa bàn và đối tượng của
sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường.
Quốc phòng là công việc giữ nước của một quốc gia, bao gồm tổng thể các hoạt động đối
nội và đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội… nhằm mục
đích bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tạo môi trường thuận lợi để xây
dựng đất nước.
An ninh là trạng thái ổn định, an toàn, không có dấu hiệu nguy hiểm để đe dọa sự tồn tại và
phát triển bình thường của cá nhân , của tổ chức, của từng lĩnh vực hoạt động xã hội hoặc của
toàn xã hội. Đối với Việt Nam, bảo vệ an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn dân
và của cả hệ thống chính trị do lực lượng an ninh làm nòng cốt; bảo vệ an ninh luôn kết hợp chặt
chẽ với củng cố quốc phòng (bỏ)
Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh là sự gắn kết giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh
trong một thể thống nhất nhằm bổ sung, tạo điều kiện, thúc đẩy cùng nhau phát triển nhịp nhàng
phát triển với hiệu quả kinh tế- xã hội cao, kinh tế phát triển, quốc phòng, an ninh vững mạnh góp
phần quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước, bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn
lãnh thổ, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, nếu chiến tranh
xảy ra thì đánh thắng.
2. Nội dung phân tích
2.1. Cơ sở lý luận của việc kết hợp phát triển kinh tế- xã hội (KT-XH) với tăng cường củng
cố quốc phòng, an ninh (QP, AN):
Kinh tế, quốc phòng, an ninh là những mặt hoạt động cơ bản của mỗi quốc gia, dân tộc có

6



độc lập, chủ quyền. mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động và quy luật riêng, song giữa
chúng có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, kinh tế là yếu tố quyết định đến quốc
phòng – an ninh; ngược lại, quốc phòng – an ninh cũng có tác động tích cực trở lại với kinh tế,
bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển.
 Kinh tế
Kinh tế quyết định đến nguồn gốc ra đời, sức mạnh của quốc phòng, an ninh. Lợi ích kinh tế
suy đến cùng là nguyên nhân làm nảy sinh các mâu thuẫn và xung đột xã hội. Để giải quyết các
mâu thuẫn đó, phải có hoạt động quốc phòng, an ninh.
- Kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp cơ sở vật chất kĩ thuật, nhân lực cho hoạt động
quốc phòng – an ninh. Ăngghen đã khẳng định “Thất bại hay thắng lợi của chiến tranh đều
phụ thuộc vào điều kiện kinh tế”. Vì vậy, để xây dựng quốc phòng – an ninh vững mạnh phải
xây dựng, phát triển kinh tế.
- Kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp số lượng, chất lượng nguồn nhân lực cho quốc phòng,
an ninh, qua đó quyết định đến tổ chức biên chế của lực lượng vũ trang; quyết định đến đường
lối chiến lược quốc phòng – an ninh.
 Quốc phòng
Quốc phòng không chỉ phụ thuộc vào kinh tế mà còn tác động trở lại với kinh tế - xã hội trên cả góc độ
tích cực và tiêu cực
- Quốc phòng – an ninh vững mạnh sẽ tạo môi trường hoà bình, ổn định lâu dài, tạo điều kiện
thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
- Hoạt động quốc phòng – an ninh tiêu tốn đáng kể một phần nguồn nhân lực, vật lực, tài
chính của xã hội. Những tiêu dùng này theo Lênin là những tiêu dùng “mất đi”, không quay
vào tái sản xuất xã hội. Do đó, sẽ ảnh hưởng đến tiêu dùng của xã hội, ảnh hưởng đến sự
phát triển của nền kinh tế.
- Hoạt động quốc phòng – an ninh còn có thể dẫn đến huỷ hoại môi trường sinh thái, để lại
hậu quả nặng nề cho kinh tế, nhất là khi chiến tranh xảy ra. Để hạn chế những tác động tiêu
cực này, phải kết hợp tốt tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh với phát triển kinh tế - xã
hội vào một chỉnh thể thống nhất.

Như vậy, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh là
một tất yếu khách quan. Mỗi lĩnh vực hoạt động có nội dung, phương thức riêng nhưng lại có sự
thống nhất ở mục đích chung, cái này là điều kiện tồn tại của cái kia và ngược lại. Tuy nhiên, việc
kết hợp cần phải được thực hiện một cách khoa học, hợp lí, cân đối và hài hoà.
2.2. Cơ sở thực tiễn của sự kết hợp:
Nhìn vào tiến trình phát triển của các quốc gia trên thế giới chúng ta thấy, dù là nước lớn hay
nước nhỏ; kinh tế phát triển hay chưa phát triển; dù chế độ chính trị như thế nào thì mỗi quốc
gia cũng đều chăm lo thực hiện kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng,
an ninh, kể cả những nước mà hàng trăm năm nay chưa hề xẩy ra chiến tranh. Tuy nhiên, các
nước khác nhau, với chế độ chính trị - xã hội khác nhau, điều kiện hoàn cảnh khác nhau thì sự
kết hợp đó cũng có sự khác nhau về mục ích, nội dung, phương thức và kết quả. Ngay trong
một nước, trong mỗi giai đoạn phát triển thì sự kết hợp cũng khác nhau.
Ở Việt Nam, sự kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an
ninh đã được thực hiện từ lâu trong lịch sử. Dựng nước đi đôi với giữ nước đã trở thành quy luật
tồn tại và phát triển của dân tộc ta.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) Đảng ta đề ra chủ
trương "Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", "Vừa chiến đấu, vừa tăng gia sản xuất, thực hành tiết
kiệm"; vừa thực hiện phát triển kinh tế ở địa phương vừa tiến hành chiến tranh nhân dân rộng
khắp; "Xây dựng làng kháng chiến", địch đến thì đánh, địch lui ta lại tăng gia sản xuất.
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước (1954 - 1975), kết hợp phát triển kinh tế với
tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh đã được Đảng ta chỉ đạo thực hiện ở mỗi miền với nội
dung và hình thức thích hợp.
Ở miền Bắc, để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và xây dựng hậu phương lớn cho miền Nam
đánh giặc, Đại hội lần thứ III của Đảng đã đề ra chủ trương: "Trong xây dựng kinh tế, phải thấu

7


suốt nhiệm vụ phục vụ quốc phòng, cũng như trong củng cố quốc phòng phải khéo sắp xếp cho
ăn khớp với công cuộc xây dựng kinh tế". Theo tinh thần đó, miền Bắc đã xây dựng, phát triển

chế độ xã hội mới, nền kinh tế, văn hoá mới, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; đồng thời
kết hợp chặt chẽ với chăm lo củng cố quốc phòng, an ninh vững mạnh, đánh thắng chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mĩ, bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa và chi viện sức người, sức
của cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh thắng giặc Mĩ xâm lược.
Ở miền Nam, Đảng chỉ đạo quân và dân ta kết hợp chặt chẽ giữa đánh địch với củng cố mở
rộng hậu phương, xây dựng căn cứ địa miền Nam vững mạnh. Đây chính là một điều kiện cơ bản
bảo đảm cho cách mạng nước ta đi đến thắng lợi.
Ở thời kì này, chúng ta phải tập trung cao độ cho nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã
hội chủ nghĩa và giải phóng miền Nam, nên việc kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng
cố quốc phòng, an ninh được thực hiện dưới nhiều hình thức phong phú, sinh động và thiết thực,
đã tạo được sức mạnh tổng hợp đánh thắng giặc Mĩ xâm lược và để lại nhiều bài học quý giá cho
thời kì sau.
Thời kì cả nước độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội (từ 1975 đến nay) kết hợp
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh được Đảng ta khẳng định
là một nội dung quan trọng trong đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa và được triển khai trên quy mô rộng lớn, toàn diện hơn. Từ năm 1986 đến nay, với tư duy
mới về kinh tế và quốc phòng, an ninh, việc kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng
cố quốc phòng, an ninh trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, bộ, ban ngành có bước
chuyển biến cả trong nhận thức và tổ chức thực hiện, đã thu được nhiều kết quả quan trọng.
Nhờ chính sách nhất quán về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng
cố quốc phòng, an ninh chúng ta đã phát huy được mọi tiềm năng cho xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Trong thời bình, cùng với phát triển kinh tế là chăm lo củng cố tiềm lực quốc phòng, thế
trận quốc phòng. Nhờ vậy, khi đất nước bị xâm lược chúng ta đã động viên được "cả nước đồng
lòng, toàn dân đánh giặc"; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh
tổng hợp để chiến thắng kẻ thù. Do vậy đã góp phần giữ gìn và phát triển đất nước cho đến ngày
nay.
2.3. Mục tiêu (3) yêu cầu (3), chủ trương: (SGK trang 357)
2.4. Quan điểm chiến lược trong chỉ đạo kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối
ngoại: (SGK trang 361)
Một là, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại là một tất yếu khách

quan, một vấn đề có tính quy luật trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, là một nhu cầu
bức thiết của mọi ngành, mọi cấp nhằm góp phần xây dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp quốc
gia, không chỉ để sẵn sàng chống các nguy cơ từ bên ngoài, mà còn khắc phục các nguy cơ từ bên
trong, giữ vững an ninh chính trị và ổn định chính trị - xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi mục
tiêu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hai là, phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh phải tập trung có
trọng điểm, quan tâm đầu tư vào những vùng, địa bàn chiến lược trọng yếu, những ngành, những
lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước.
Phân tích: Ưu tiên đầu tư theo vùng, địa bàn trọng điểm: vùng biên giới (Tây Bắc, Tây
nguyên, Tây Nam bộ). Hiện nay nước ta xác định 3 vùng kinh tế trọng điểm: phía bắc (Hà Nội,
Hải phòng, Quảng Ninh); phía nam (Tp.HCM, Đồng Nai, Bà rịa-Vũng Tàu); miền trung (Đà
Nẵng, Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi)
Ưu tiên phát triển các ngành trọng điểm: SGK trang 365-369 (chỉ ghi các tên ngành)
Ba là, phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh thời bình phải có
phương án, kế hoạch sẵn sang điều chỉnh thíc ứng với thời chiến và ứng phó thắng lợi với mọi
tình huống bất trắc xảy ra hạn chế tổn thất, thiệt hại
kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trước hết phải phát huy nội
lực của các lĩnh vực, các ngành, các cấp, các địa phương và đơn vị cơ sở; kết hợp chặt chẽ giữa tự
bảo vệ, tham gia bảo vệ với được bảo vệ trong quan hệ xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội với
củng cố, tăng cường quốc phòng - an ninh, mở rộng đối ngoại; biết khai thác thế mạnh của từng

8


lĩnh vực để tự bảo vệ và được bảo vệ một cách vững chắc; đồng thời, biết tranh thủ tối đa các
nguồn lực bên ngoài, biến nó thành nội lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại là trách nhiệm của các ngành, các
cấp, các địa phương và của toàn dân; là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của cả hệ thống chính trị,
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, có một hệ thống tổ chức điều hành thống
nhất, theo cơ chế và những chính sách phù hợp.

Năm là, nắm vững quan điểm tự lực, tự cường, độc lập, tự chủ, sáng tạo trong thực hiện kết
hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Mỗi ngành, mỗi địa phương, mỗi cơ sở và mỗi người phải có ý thức trách nhiệm, tự giác dựa
vào sức mạnh của nền kinh tế, của từng địa phương, đơn vị và từng người để thực hiện có hiệu
quả cao nhất các yêu cầu kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Theo Sách trắng Quốc phòng 2009, ngân sách dành cho quốc phòng của Việt Nam năm 2008
là hơn 27 nghìn tỷ đồng, tương đương 1,8% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Tổng quân số
thường trực là 450 nghìn người.
3. Phương hướng:
Tích cực thực hiện Nghị quyết Trung ương về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới. Bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia. Xây dựng lực lượng quân đội nhân dân, công an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có sức chiến đấu cao, chủ động
ứng phó hiệu quả với mọi tình huống. Củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
Tăng cường tiềm lực, khả năng phối hợp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh cho các lực
lượng trực tiếp ở cơ sở. Ngăn chặn kịp thời các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, Kiên
quyết đấu tranh bằng các giải pháp phù hợp bảo vệ chủ quyền biển đảo và giữ vững hòa bình, ổn
định để phát triển kinh tế xã hội. Ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp
luật, bảo đảm giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Triển khai có hiệu quả các
chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm, ma túy, mua bán người; kiên quyết đấu tranh,
triệt phá các băng nhóm tội phạm. Kết hợp tốt nhiệm vụ quốc phòng an ninh với phát triển kinh tế
xã hội.
Tiếp tục làm sâu sắc hơn, đưa quan hệ hợp tác với các đối tác đi vào chiều sâu, thiết thực,
hiệu quả. Tăng cường các hoạt động đối ngoại đa phương, chủ động tham gia và nâng cao vai trò
của Việt Nam trong ASEAN, Liên hợp quốc, các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế. Chủ động
đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại tự do. Tăng cường công tác người Việt Nam ở nước
ngoài và bảo hộ công dân. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội và
bảo vệ đất nước.
Đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Thực hiện tốt Chương trình đối
ngoại của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chương trình hành động về hội nhập quốc tế. Tiếp tục đưa
quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược, đối tác hợp tác toàn diện đi vào chiều sâu,

hiệu quả. Chủ động đẩy mạnh đàm phán các Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và
đa phương. Tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng quốc tế về lập trường chính nghĩa
và những biện pháp đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của ta. Tích cực hợp tác xây dựng Cộng
đồng ASEAN. Tham gia có trách nhiệm tại Liên hợp quốc và các tổ chức, các diễn đàn đa
phương. Làm tốt công tác bảo hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài
5. Kết luận:
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định rằng, giữa kinh tế, chính trị, quân sự, quốc phòng, an
ninh và đối ngoại có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó,
kinh tế bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Phát triển kinh tế nhằm tạo ra của cải cho xã hội, tạo
tiền đề vật chất kỹ thuật để tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh. Nhiệm vụ chủ yếu của
quốc phòng - an ninh là bảo vệ chủ quyền, giữ gìn an ninh đất nước, bảo vệ thành quả cách mạng,
bảo vệ chính quyền và chế độ xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và
hoạt động đối ngoại.
Tuy nhiên, không phải cứ có kinh tế mạnh là có quốc phòng - an ninh mạnh, mà phải trên cơ
sở kết hợp chặt chẽ một cách hợp lý, hài hoà giữa kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại,
sao cho các hoạt động kinh tế - xã hội gắn kết hữu cơ với các hoạt động quốc phòng - an ninh và

9


đối ngoại. Hoạt động đối ngoại phải phục vụ cho hoạt động kinh tế, củng cố, tăng cường quốc
phòng - an ninh. Từng mặt hoạt động kinh tế, quốc phòng - an ninh và đối ngoại có yêu cầu riêng
và tuân theo các quy luật vận động riêng, nhưng chúng có quan hệ biện chứng, hữu cơ trong một
thể thống nhất, gắn kết chặt chẽ với nhau, cái này là điều kiện tồn tại và phát triển của cái kia.
Nếu quá nhấn mạnh mặt này và không kết hợp chặt chẽ, hài hòa thì sẽ hạn chế mặt kia, thậm chí
dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Do vậy, xây dựng kinh tế, củng cố, tăng cường sức mạnh quốc
phòng - an ninh và hoạt động đối ngoại cần phải được kết hợp chặt chẽ để tạo ra sức mạnh tổng
hợp quốc gia và đạt hiệu quả cao trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Câu 4: Phân tích tư tưởng chỉ đạo của Chính phủ trong Chương trình quốc gia phòng, chống
tội phạm?

1. Khái niệm:
Tội phạm: Tại Điều 8 của Bộ luật Hình sự năm 2015 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
quy định: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật
này phải bị xử lý hình sự.
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ
luật này, tội phạm được phân thành các nhóm:
- Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù.
- Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù.
- Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù.
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Phòng chống tội phạm là quá trình sử dụng biện pháp, chiến lược, sách lược, phương tiện
cần thiết với sự tham gia của nhiều lực lượng xã hội nhằm không để tội phạm xảy ra, hạn chế,
ngăn chặn, xử lí, làm giảm tội phạm và quản lí giáo dục, cải tạo người phạm tội.
Tư tưởng trong phòng chống tội phạm là: phải chủ động, tích cực, thường xuyên và triệt để
2. Vị trí, vai trò của việc phòng, chống tội phạm:
Phòng ngừa tội phạm là phương hướng chính là tư tưởng chỉ đạo trong công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm, phòng ngừa không để tội phạm xảy ra; thể hiện bản chất nhân đạo của chế
độ xã hội mới, không để người dân bị xử lý trước pháp luật, không bị tước quyền công dân
Phòng ngừa mang ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc, làm tốt công tác phòng ngừa giúp giữ
vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của xã hội, tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, phẩm giá của mọi người dân.

Làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm mang ý nghĩa kinh tế sâu sắc, tiết kiện ngân sách Nhà
nước, sức lao động của các nhân viên Nhà nước, của công dân trong các hoạt động điều tra tuy tố
xét xử và giáo dục cải tạo người phạm tội, cũng như trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan
đến tội phạm.
3. Nội dung phân tích:
3.1. Thực trạng tình hình phòng chống tội phạm hiện nay:
* Thực trạng tình hình tội phạm:
Từ năm 1998 đến nay, trung bình mỗi năm có 70.000 đến 75.000 vụ phạm pháp hình sự,
trong đó:
+ Khoảng hơn 50.000 vụ xâm phạm trật tự an toàn xã hội.
+ Khoảng hơn 10.000 vụ xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và chức vụ.
+ Hơn 10.000 vụ phạm tội về ma túy.

10


* Các kết quả đạt được
Trong những năm qua, các ngành, các cấp do các lực lượng chuyên trách làm nòng cốt đã
triển khai đồng bộ, toàn diện nhiều nội dung, biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm, thu
được nhiều kết quả quan trọng. Cuộc đấu tranh đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo, điều hành của
cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, huy động được nhiều nguồn lực xã hội, động viên được sự
tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân. Công tác phòng ngừa xã hội mà nòng cốt là phong
trào “Toàn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm và quản lý, giáo dục, giúp đỡ
người phạm tội trong gia đình, ở địa bàn dân cư” được triển khai sâu rộng, gắn với ”cuộc vận
động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và nhiệm vụ phát triển kinh tế, nâng cao đời
sống nhân dân đã mang lại hiệu quả rõ nét, góp phần củng cố nền tảng ngăn ngừa tội phạm ngay
từ cơ sở. Các lực lượng chuyên trách tập trung lực lượng, phương tiện, biện pháp mở nhiều đợt
cao điểm tấn công trấn áp tội phạm trên các tuyến, địa bàn trọng điểm. Hàng chục nghìn băng
nhóm tội phạm hình sự nguy hiểm, đường dây mua bán vận chuyển ma túy đã được triệt phá, bóc
gỡ; nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng lớn được phát hiện, điều tra, xử lý; hoạt động của tội phạm

có tổ chức và băng nhóm tội phạm hình sự mang tính chất “xã hội đen” đã được ngăn chặn; tình
hình tội phạm ở các thành phố lớn, trên các tuyến, địa bàn trọng điểm cơ bản được kiềm chế.
Năm 2014, lực lượng Công an đã điều tra, khám phá 43.837 vụ phạm tội về trật tự xã hội,
bắt xử lý 75.905 đối tượng, đạt tỷ lệ 77,3%, các vụ án rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng
đạt 93,3%; triệt phá 4.904 băng, nhóm tội phạm. Qua đó, nhiều loại tội phạm nghiêm trọng giảm
so với năm 2013, như: giết người giảm 7,93%; giết người, cướp tài sản giảm 31,96%; cướp tài
sản giảm 25,85%… Tuy nhiên, một số loại tội phạm vẫn diễn biến phức tạp, trong đó tội phạm
giết người do nguyên nhân xã hội, cướp, cướp giật tài sản... xảy ra với tính chất, mức độ nghiêm
trọng.
* Những tồn tại
Tính chất tội phạm ngày càng nguy hiểm, mang yếu tố quốc tế, có tổ chức, xuyên quốc gia và sử
dụng công nghệ cao. Thủ đoạn hoạt động tinh vi, phương thức hoạt động xảo quyệt, manh động, liều
lĩnh. Tội phạm hình sự có tổ chức, băng nhóm “xã hội đen” gây án nghiêm trọng, băng nhóm tội
phạm ma túy có vũ trang ở khu vực biên giới, tội phạm tham nhũng và tội phạm kinh tế trong lĩnh
vực tài chính - ngân hàng, đầu tư, quản lý, sử dụng đất đai và thương mại, tội phạm và vi phạm pháp
luật về bảo vệ môi trường vẫn hết sức nhức nhối. Xu hướng tội phạm cấu kết với nhau hình thành các
tập đoàn tội phạm lớn hoạt động đa lĩnh vực, liên tỉnh, xuyên quốc gia, nếu không được đấu tranh
ngăn chặn, có thể trở thành hiện thực. Tội phạm do suy thoái đạo đức xã hội, đạo đức gia đình có xu
hướng gia tăng, trực tiếp đe dọa phá vỡ nền tảng đạo đức, văn hóa của xã hội.
Mức độ hậu quả gây ra cho xã hội của các loại tội phạm ngày càng lớn, xâm phạm nghiêm
trọng trật tự, kỷ cương pháp luật xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước và xã hội, tài sản, tính
mạng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, làm suy giảm niềm tin xã hội và cản trở công
cuộc phát triển đất nước.
Thành phần phạm tội đa dạng, phức tạp. Tội phạm nghiêm trọng chủ yếu do các đối tượng
chuyên nghiệp gây ra. Tuy nhiên, cũng cần đặc biệt chú ý phòng ngừa, ngăn chặn, làm giảm
những nhân tố đầu vào của tội phạm, những người có nguy cơ mắc vào các tệ nạn xã hội và sa
vào con đường phạm tội, như những người lao động tự do, thiếu việc làm và thất nghiệp do chịu
ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế vừa qua; thanh niên, thiếu niên, học sinh, sinh viên bỏ học,
bỏ nhà tụ tập, lang thang, sống bầy đàn và một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức hư hỏng,
thoái hóa, biến chất.

Địa bàn hoạt động của tội phạm chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, các tuyến trọng
điểm, các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội, nhất là ở Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh, các đô thị loại 1 và các vùng chiến lược về an ninh, trật tự; trên các tuyến biên giới, quốc
lộ trọng điểm, tuyến hàng không quốc tế, tuyến bưu chính - viễn thông; trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, quản lý, sử dụng đất đai, xuất - nhập khẩu, thương mại điện tử, tổ chức cán bộ và an
sinh xã hội
* Nguyên nhân của tình trạng trên, chủ yếu là do:
- Tình hình kinh tế còn khó khăn, số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động còn nhiều, kéo

11


-

theo số người lao động mất việc làm tạo áp lực lớn đến các vấn đề xã hội.
Đạo đức xã hội xuống cấp, lối sống thực dụng, hưởng thụ, chạy theo lợi ích vật chất, nhất là
trong thanh, thiếu niên rất đáng lo ngại.
Xu hướng giải quyết những mâu thuẫn phát sinh trong xã hội, trong gia đình bằng bạo lực có
chiều hướng gia tăng.
Tác động tiêu cực của ấn phẩm đồi trụy, trò chơi trực tuyến trên Internet (game online) đối với
thanh, thiếu niên đang trong độ tuổi phát triển về nhận thức, tâm, sinh lý.
Số người nghiện ma túy ngoài xã hội còn nhiều, tiềm ẩn yếu tố làm nảy sinh tội phạm.
Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của các cơ quan chức năng nói chung và của ngành
công an nói riêng còn có mặt hạn chế và bộc lộ nhiều yếu kém, thiếu sót.
* Mục tiêu của phòng chống tội phạm: (SGK trang 402).

3.2. Tư tưởng chỉ đạo của Chính phủ trong Chương trình quốc gia phòng, chống tội
phạm: (SGK trang 398)
- Xã hội hóa công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, xác định rõ đấu tranh phòng,
chống tội phạm là nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của các cấp, các ngành, tổ chức :
(phân tích phải được sự tham gia của đông đảo mọi người dân, mọi tầng lới xã hội)

Phân tích:
+ tuyên truyền để nâng cao nhận thức của người dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm.
+ Bồi dưỡng kiến thức cơ bản trong đấu tranh phòng chốn tội phạm
+ Tổ chức cho người dân tham gia trong phòng chống tội phạm.
Liên hệ ở địa phương:
- Phát huy vai trò lãnh đạo của cáccấp ủy đảng trong .....:
+ Chủ trương đường lối đưa ra phải phù hợp với tình hình thực tế của địa phương
+ Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng chống tội phạm
+ Kiện toàn các cơ quan chức năng phòng chống tội phạm như điều tra, kiểm sát, xét xử.
Liên hệ địa phương:
- Gắn liền phòng ngừa với đấu tranh, trong đó phòng ngừa xã hội, đấu tranh chấn áp
tội phạm.
+ Phòng ngừa tội phạm là việc các cơ quan của Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân
bằng nhiều biện pháp nhằm khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội
nhằm ngăn chặn, hạn chế và làm giảm từng bước, tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã
hội.
+ Đấu tranh chấn áp tội phạm là hết sức quan trọng. Việc xét xử phải đúng người, đúng tội,
dung chính sách pháp luật.
Tư tưởng trong phòng chống tội phạm là: phải chủ động, tích cực, thường xuyên và triệt để.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với công tác phòng,
chống tội phạm. Giữ vững kỷ cương pháp luật nâng cao ý thức tuân thủ, tôn trọng pháp luật của
các cấp, các ngành và trong cộng đồng dân cư, trong các cơ quan, đơn vị doanh nghiệp, nhà
trường, gia đình và toàn xã hội trong giữ gìn, trật tự, an toàn xã hội.
Phòng, chống tội phạm là một trong những nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên, lâu dài của
toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về mọi mặt của Đảng,
sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, do các cơ quan bảo vệ pháp luật và lực lượng
chuyên trách làm nòng cốt.
Chủ động nắm chắc, dự báo sát, đúng tình hình, kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn có
hiệu quả hoạt động phá hoại, kích động gây rối, gây bạo loạn của các thế lực thù địch, phản
động, không để xảy ra khủng bố, phá hoại, không để bị động, bất ngờ, không để hình thành tổ

chức chính trị đối lập trong nội địa.
Tích cực rà soát, triển khai đồng bộ các biện pháp tấn công, trấn áp tội phạm theo từng
tuyến, địa bàn, loại tội phạm nổi lên; chú trọng phòng ngừa, triệt phá các băng, nhóm đâm thuê,

12


chém mướn, bảo kê, siết nợ, đòi nợ thuê, cho vay lãi nặng, cưỡng đoạt tài sản, cờ bạc, cá độ bóng
đá... Qua đó, kiềm chế gia tăng tội phạm, kéo giảm các loại tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng.
Gắn bó mật thiết với nhân dân, với các tổ chức, cơ quan trong hệ thống chính trị; chú trọng
phối hợp, hiệp đồng chiến đấu với Quân đội nhân dân, gắn thế trận an ninh nhân dân với thế trận
quốc phòng toàn dân; tăng cường công tác nắm tình hình, chủ động tham mưu và tích cực triển
khai các biện pháp công tác, bảo đảm giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong mọi
tình huống.
Sử dụng triệt để và đồng bộ các biện pháp chính trị, tổ chức - hành chính, kinh tế - xã hội, pháp luật,
nghiệp vụ, vũ trang, ngoại giao để phòng, chống tội phạm. Kết hợp giữa phòng ngừa và đấu tranh trấn áp,
lấy phòng ngừa làm chính. Coi trọng hoạt động phòng ngừa xã hội, phòng ngừa tội phạm từ gia đình và
cơ sở. Huy động sức mạnh của hệ thống chính trị và sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội vào cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm.
4. Một số nhiệm vụ và giải pháp phòng, chống tội phạm:
Một là, huy động sức mạnh của hệ thống chính trị trong phòng, chống tội phạm. Tăng cường
sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền, phát huy vai
trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng các cấp trong công tác phòng, chống tội
phạm. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức,
đoàn viên, hội viên về ý thức trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ
phòng, chống tội phạm. Trước hết là trách nhiệm của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, người
đứng đầu cơ quan, tổ chức theo yêu cầu của Bộ Chính trị được nêu trong Chỉ thị số 48/CT-TW,
ngày 22-10-2010 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm
trong tình hình mới. Các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, đoàn thể quần chúng cần xác định

phòng, chống tội phạm là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên và đưa vào chương trình phát triển
để chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Các chỉ tiêu về phòng, chống tội phạm cần được coi là một trong
những tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức và cá nhân trong các tổ chức
thuộc hệ thống chính trị. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý đối với tổ
chức, cá nhân vi phạm quy định của Đảng và Nhà nước về trách nhiệm phòng, chống tội phạm.
Kiện toàn Ban Chỉ đạo 138 các cấp theo hướng sáp nhập các ban chỉ đạo về lĩnh vực phòng
chống tội phạm, phòng chống ma túy, phòng chống tệ nạn xã hội về một đầu mối và tăng cường
cán bộ có phẩm chất, nhiệt huyết, năng lực, kinh nghiệm vào Ban Chỉ đạo 138 các cấp.
Hai là, chú trọng tăng cường, nâng cao hiệu quả các biện pháp phòng ngừa xã hội. Coi trọng
phòng ngừa tội phạm từ gia đình, trong gia đình và ở cơ sở. Rà soát, đánh giá ảnh hưởng của các
chính sách phát triển và quá trình thực hiện các chính sách phát triển đến tình hình tội phạm và
hoạt động phòng, chống tội phạm, đề xuất khắc phục hạn chế những sơ hở, thiếu sót, bất cập.
Đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, giáo dục, nhất là truyền thông giáo dục về đạo đức, lối
sống, chính sách, pháp luật nhằm chống suy thoái đạo đức, lối sống, nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật, tinh thần cảnh giác và trách nhiệm tham gia phòng, chống tội phạm đối với các tổ
chức, cá nhân và gia đình. Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố
giác tội phạm và quản lý, giáo dục người phạm tội trong gia đình, ở địa bàn dân cư” gắn với
Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và “Toàn dân chung sức xây
dựng nông thôn mới”, gắn và phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống
nhân dân. Tiếp cục củng cố, kiện toàn, nâng cao một bước hiệu quả hoạt động của các lực lượng
bán chuyên trách và các tổ chức tự giác của quần chúng ở cơ sở. Đẩy nhanh quá trình “xã hội
hóa” công tác phòng, chống tội phạm, huy động thêm nhiều nguồn lực cho công tác phòng,
chống tội phạm.
Ba là, từng bước nâng cao năng lực phòng, chống tội phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật
và các lực lượng chuyên trách. Rà soát, đánh giá thực trạng năng lực của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân các cấp và các lực lượng chuyên trách phòng, chống tội
phạm thuộc Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, xây dựng đề án tổng thể khắc phục hạn chế,
yếu kém và nâng cao một bước căn bản năng lực các lực lượng này. Trong đó, cần tập trung chỉ
đạo đổi mới công tác tổ chức, cán bộ theo hướng bố trí hợp lý mô hình các cơ quan tư pháp và


13


lực lượng chuyên trách bảo đảm sự chỉ đạo tập trung, thống nhất, hướng về cơ sở; tổ chức đào
tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ, đổi mới cơ chế phối hợp... theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQTW, ngày 02-6-2005, của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị
quyết số 30c/NQ-CP, ngày 08-11-2011, của Chính phủ về Chương trình cải cách nền hành chính
quốc gia giai đoạn 2011 - 2020. Ưu tiên đầu tư ngân sách, mua sắm, cung ứng vật tư, phương
tiện một cách hợp lý, từng bước đáp ứng yêu cầu hậu cần - kỹ thuật cho hoạt động của các cơ
quan tư pháp và lực lượng chuyên trách.
Bốn là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về phòng, chống tội phạm. Trước
hết, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Thi hành án hình sự, pháp luật về
tổ chức cơ quan điều tra hình sự, pháp luật về các biện pháp phòng, chống tội phạm và một số
đạo luật có liên quan.
Năm là, chủ động, tích cực mở rộng quan hệ đối ngoại và tăng cường hợp tác quốc tế về phòng,
chống tội phạm. Trước hết, ưu tiên hợp tác với các cơ quan an ninh, cảnh sát, nội vụ các nước láng giềng,
các nước lớn, các đối tác quan trọng, bạn bè truyền thống, các tổ chức và hiệp hội cảnh sát, tư pháp hình
sự quốc tế để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước
ngoài, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Tranh thủ nguồn lực bên ngoài phục vụ yêu cầu hiện đại hóa,
tăng cường năng lực của các lực lượng chuyên trách, phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển đất nước.
5. Kết luận:
Mức độ hậu quả gây ra cho xã hội của các loại tội phạm ngày càng lớn, xâm phạm nghiêm
trọng trật tự, kỷ cương pháp luật xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước và xã hội, tài sản, tính
mạng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, làm suy giảm niềm tin xã hội và cản trở công
cuộc phát triển đất nước.
Thành phần phạm tội đa dạng, phức tạp. Tội phạm nghiêm trọng chủ yếu do các đối tượng
chuyên nghiệp gây ra. Tuy nhiên, cũng cần đặc biệt chú ý phòng ngừa, ngăn chặn, làm giảm
những nhân tố đầu vào của tội phạm, những người có nguy cơ mắc vào các tệ nạn xã hội và sa
vào con đường phạm tội, như những người lao động tự do, thiếu việc làm và thất nghiệp do chịu

ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế vừa qua; thanh niên, thiếu niên, học sinh, sinh viên bỏ học,
bỏ nhà tụ tập, lang thang, sống bầy đàn và một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức hư hỏng,
thoái hóa, biến chất.
Kiềm chế và làm giảm sự gia tăng của tội phạm, nhất là tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng, tội phạm mới, không để tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp, bảo
đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống, tạo môi trường lành
mạnh, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ cuộc sống bình
yên, hạnh phúc của nhân dân.
Câu 5: Phân tích mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc nhiệm vụ trong đường lối, chính
sách đối ngoại hiện nay của Đảng?
1. Khái niệm:
Chính sách là phương thức hành động được một chủ thể hay tổ chức nhất định khẳng định và tổ
chức thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại. Chính sách giúp các nhà quản lý xác định
những chỉ dẫn chung cho quá trình ra quyết định. Giúp họ thấy được phạm vi hay giới hạn cho phép
của các quyết định, nhắc nhở các nhà quản lý những quyết định nào là có thể và những quyết định
nào là không thể. Từ đó chính sách sẽ hướng suy nghĩ và hành động của mọi thành viên trong tổ
chức vào việc thực hiện mục tiêu chung của tổ chức.
Đối ngoại là những công việc những quan hệ và những hoạt động giữa nước này với nước
khác hoặc với một tổ chức quốc tế nào đó.
Đường lối đối ngoại là một bộ phận hợp thành đường lối chung của cách mạng VN, là sự
tiếp tục chính sách đối nội, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng,
nhằm tranh thủ tối đa nguồn ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phục vụ
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Chính sách đối ngoại là hệ thống quan điểm về quốc tế, chiến lược, sách lược của CMVN

14


trong quan hệ với thế giới, là chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm tranh thủ các điều kiện
quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước và góp phần vào sự phát triển chung của nhân loại.

2. Vị trí, vai trò
Chính sách đối ngoại có vai trò chủ động tạo ra mối quan hệ quốc tế thuận lợi để đưa nước ta
hội nhập với thế giới nhằm góp phần tạo ra điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước, nâng cao
vị thế nước ta trên trường quốc tế.
Chính sách đối ngoại có vị trí quan trọng trong quá trình xây dựng và bảo vẹ tổ quốc, trong
thời đại hiện nay mở rộng quan hệ ngoại giao là vấn đề sống còn của mỗi dân tộc.
Chính sách đối ngoại và hoạt động đối ngoại là quan hệ tất yếu khách quan vì ngày nay
không có quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển nếu không có quan hệ với thế giới bên ngoài.
3. Nội dung phân tích
3.1. Mục tiêu trong đường lối, chính sách đối ngoại hiện nay của Đảng:
Trong thời kỳ đổi mới, việc xác định mục tiêu đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam
luôn dựa trên cơ sở lợi ích quốc gia dân tộc, đồng thời quan tâm đúng mức đến nghĩa vụ quốc tế
của Đảng với tư cách một đảng cộng sản cầm quyền. Đối với Việt Nam hiện nay, lợi ích quốc gia
dân tộc cơ bản và cao nhất về đối ngoại là giữ vững hòa bình để phát triển. Do đó, mục tiêu đối
ngoại là phải tạo lập được môi trường quốc tế hòa bình thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát
triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Giữ vững hòa bình, tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi, một mặt sẽ góp phần bảo vệ độc
lập, chủ quyền an ninh quốc gia, mặt khác tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ, hợp tác của quốc tế
cho sự phát triển của đất nước. Đây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam nâng cao uy tín quốc tế,
đồng thời đóng góp nhiều hơn đối với phong trào cách mạng thế giới.
3.2. Tư tưởng chỉ đạo trong đường lối, chính sách đối ngoại hiện nay của Đảng:
Xuất phát từ lợi ích và mục tiêu đối ngoại đã được xác định, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra
tư tưởng chỉ đạo đối ngoại là giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội,
đồng thời rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của
Việt Nam, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng mà
Việt Nam có quan hệ.
Đại hội XI của Đảng kế thừa, bổ sung và phát triển toàn diện hơn khi xác định: “Thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích

quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Mặt khác, thực hiện chủ trương đối ngoại như
trên, Việt Nam có thể tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế quốc tế, tranh thủ được
các nguồn lực bên ngoài như: vốn đầu tư, khoa học – công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý
tiên tiến, phục vu cho xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ tổ quốc.
3.3. Nguyên tắc trong đường lối, chính sách đối ngoại hiện nay của Đảng:
Đường lối và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn dựa trên sự kiên trì
giữ vững nguyên tắc đối ngoại cơ bản, bao trùm là vì hòa bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa
xã hội, bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu. Cụ thể hóa nguyên
tắc này, Đảng và Nhà nước Việt Nam nêu 4 nguyên tắc đối ngoại chủ yếu:
- Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau.
- Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
- Ba là, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình.
- Bốn là, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam xác định rõ cơ sở của sự hợp tác là hợp tác bình đẳng, cùng
có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và
luật pháp quốc tế.
3.4. Nhiệm vụ trong đường lối, chính sách đối ngoại hiện nay của Đảng:

15


Trong suốt thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định một cách nhất quán
nhiệm vụ đối ngoại, mà nội dung cơ bản của nó tiếp tục được khẳng định lại trong văn kiện Đại
hội XI là: “Giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế
của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội trên thế giới”.

Đại hội XI cũng nêu rõ một số nhiệm vụ cụ thể trong công tác đối ngoại:
- Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa ra các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu toàn
diện, ổn định bền vững.
- Chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế.
- Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp
tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học – công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến.
- Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia
trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp
quốc.
- Thực hiện tốt các công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên Hợp quốc. Tích cực hợp tác
cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế đối phó với những thách thức an ninh phi truyền
thống, nhất là tình trạng biến đổi khí hậu.
- Chủ động tăng cường hợp tác quốc tế và quốc phòng an ninh.
- Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề dân
chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào
công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹ lãnh thổ, an ninh quốc
gia và ổn định chính trị của Việt Nam.
4. Các giải pháp:
Trong giai đoạn hiện nay, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam khẳng định:
“Tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng; thúc đẩy giải quyết các vấn đề
cũng tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ
sở luật pháp quốc tế và quy tắc ứng xử của khu vực. Xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu
nghị, hợp tác cùng phát triển”.
Thấm nhuần tư tưởng đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh và kiên định chủ nghĩa quốc
tế của giai cấp công nhân trên tinh thần đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng việc củng cố và
tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác với các đảng cộng sản và công nhân, với các đảng cánh tả, các
phong trào giải phóng và độc lập dân tộc, với các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Mặt
khác, trong tình hình mới, Đảng chủ trương phát triển quan hệ với các đảng khác trên cơ sở bảo vệ lợi
ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Đảng và Nhà nước Việt Nam khẳng định nhất quán quan điểm thúc đẩy việc mở rộng tham

gia các cơ chế, diễn đàn đa phương ở khu vực thế giới; phát triển quan hệ với các tổ chức quốc tế,
nhất là Liên hợp quốc, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu, góp phần xây dựng trật tự chính
trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng. Đối với các nước lớn, Việt Nam dành ưu tiên cao trong
chính sách đối ngoại hiện nay, đồng thời nêu rõ cần thúc đẩy quan hệ đa dạng, bao gồm cả quan
hệ chính phủ và phi chính phủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ,
… tạo môi trường hòa bình, ổn định lâu dài và kiên trì nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không
can thiệp công việc nội bộ của nhau, tạo thế đan xen lợi ích, tránh bị rơi vào thế đối đầu, cô lập
hay lệ thuộc.
Việt Nam luôn coi trọng và nâng cao hiệu quả của công tác ngoại giao nhân dân theo
phương châm “chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả”, tăng cường quan hệ song phương và
đa phương với các tổ chức nhân dân các nước, hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài
để phát triển kinh tế - xã hội.
Một trong những hướng hoạt động đối ngoại được Việt Nam hết sức chú trọng hiện nay là
nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và phát triển
nhanh, bền vững; tạo điều kiện thuận lợi để thu hút mạnh các nguồn vốn quốc tế; thu hút các nhà
đầu tư lớn, có công nghệ cao, công nghệ nguồn; mở rộng thị trường xuất khẩu.

16


Đảng và Nhà nước Việt Nam nhấn mạnh việc phát huy vai trò và nguồn lực của cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài vào phát triển đất nước.
Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu về đối ngoại, chăm lo đào
tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại, thường xuyên bồi dưỡng kiến thức đối
ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp.
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các
hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và
ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; giữa
đối ngoại với quốc phòng, an ninh.
Là một công dân Việt Nam, Tôi tự thấy bản thân phải có trách nhiệm đối với những chính sách đối

ngoại của đất nước:
- Luôn tin tưởng và chấp hành nghiêm túc chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
- Luôn quan tâm đến tình hình thế giới và vai trò của nước ta trên trường quốc tế.
- Chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tham gia vào các công việc liên quan đến đối ngoại như
: rèn luyện nghề, nâng cao trình độ văn hóa, ngoại ngữ…
- Khi quan hệ với nước ngoài cần thể hiện ý thức dân tộc và phát huy những nét đẹp trong
truyền thống văn dân tộc, có thái độ hữu nghị, đoàn kết, lịch sự, tế nhị…
5. Kết luận:
Ngày nay, Đối ngoại là một vấn đề quan trọng bậc nhất trong quan hệ chính trị quốc tế, các chính
sách đối ngoại của từng quốc gia đưa ra là cơ sở phát triển các mặt xã hội của từng nước đó như:
kinh tế, văn hóa, chính trị, ngoại giao….Chính sách đối ngoại rất quan trọng nó có thể làm một
nước tụt hậu về mọi mặt của một quốc gia vì không đưa ra chính sách đối ngoại hợp lý, không có
sự hợp tác giữa các quốc gia các khu vực trên thế giới và ngược lại nếu một quốc gia có chính
sách đối ngoại hợp lý sẽ thúc đẩy được mọi mặt đời sống xã hội phát triển hợp tác giao lưu quốc
tế ngày càng sâu rộng thì quốc gia đó sẽ phát triển vượt bậc.

17



×