Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Sáng kiến Kinh nghiệm Bản đồ tư duy trong dạy học sinh học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.1 MB, 33 trang )

Ứng dụng bản đồ tư duy trong giảng
dạy môn Sinh học 6
A . PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
- Để nâng cao chất lượng giảng dạy, phục vụ sự nghiệp phát triển của đất
nước, trong mấy năm qua, ngành GD & ĐT đã kiên trì phát động cuộc vận động
đổi mới phương pháp nâng cao tính tích cực, sáng tạo của người học trong quá
trình dạy học.
- Qua chỉ thị 15/CT của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng chỉ rõ: “Đổi mới
phương pháp giảng dạy và học tập trong trường sư phạm nhằm tích cực hoá hoạt
động học tập, phát huy tính chủ động, sáng tạo và năng lực tự học, tự nghiên
cứu của học sinh. Thầy giáo giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức, điều khiển,
định hướng quá trình dạy học, còn học sinh giữ vai trò chủ động trong quá trình
học tập và tham gia nghiên cứu khoa học”. Để dạy và học theo hướng tích cực
cần: giảm diễn giảng thông báo, tăng cường diễn giảng nêu vấn đề, nâng cao
chất lượng thực hành trong phòng thí nghiệm, tăng cường các bài tập nghiên
cứu khoa học Sinh học, giải quyết các tình huống có vấn đề, tăng thời gian tự
học, kết hợp với sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. Muốn vậy, mỗi
giáo viên cần chú trọng dạy cho học sinh cách học và tự học.
- Trong giảng dạy Sinh học ở trường THCS, nội dung kiến thức rất phong phú
ở từng bài, từng chương, tùy cách giảng dạy ở từng giáo viên mà có người cho
rằng nội dung bài quá dài hoặc quá ngắn. Để truyền đạt kiến thức cho học sinh
thì rất nhiều cách ,nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào để học sinh có thể nắm bắt
nội dung bài học chính xác khoa học bên cạnh đó tạo cho các em sự say mê đối
với môn học này. Phương pháp dạy học Sinh học ở THCS thì rất nhiều như: dạy
học khám phá, dạy học bằng Module, dạy học bằng đặt vấn đề và giải quyết vấn
đề, dạy học bằng bản đồ khái niệm, ôn tập và củng cố kiến thức…
1


- Ở phạm vi đề tài này, tôi xin đề cập đến vấn đề “Sử dụng Bản đồ tư duy


trong dạy học Sinh học 6”. Bằng cách này sẽ giúp giáo viên chuyển tải những
thông tin cần thiết của bài học đến học sinh, tiết kiệm thời gian viết nội dung
kiến thức bài học lên bảng. Ngoài ra, còn giúp giáo viên nhận được thông tin từ
học sinh. Đó là cách để nhằm nâng cao khả năng tư duy, khả năng lập luận và kĩ
năng trình bày của học sinh. Qua đó học sinh sẽ nhìn được tổng thể kiến thức
một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ, rút ngắn được thời gian ôn tập củng cố và ghi
nhớ bài nhanh hơn.
II. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm tâm lí của học sinh THCS, khả năng tư duy
logic, khả năng ghi nhớ, phương pháp học bài thật tốt,… mà đề ra các biện pháp tổ
chức dạy và học nhằm phát triển sự ghi nhớ, vận dụng kiến thức cho học sinh.
- Giúp cho các em hiểu một cách sâu sắc hơn về khả năng ghi nhớ của bản
thân, đồng thời tìm ra phương pháp dạy và học thích hợp với chương trình học hiện
nay, phù hợp với xu hướng học tập ngày càng đổi mới và nâng cao chất lượng của
học sinh trong tương lai.
III. Phạm vi và đối tượng áp dụng đề tài
- Đề tài này được viết trong quá trình tôi dạy học, rút ra một số kinh nghiệm
từ công tác giảng dạy tại trường THCS. Đối tượng được áp dụng trong đề tài này
rất rộng rãi, từ học sinh trung bình khá đến đối tượng học sinh giỏi các lớp. Tuỳ
theo đối tượng học sinh mà việc tổ chức, hướng dẫn, giao việc tìm ra kiến thức mới
cho phù hợp, giúp các em hứng thú học tập hơn khi học thực nghiệm với đề tài này.
- Giáo viên dạy môn Sinh học.
- Nhận thức, thái độ, khả năng ghi nhớ vận dụng kiến thức của học sinh khi
học môn Sinh học.
- Chương trình sách giáo khoa, sách giáo viên Sinh học THCS.
- Phần mềm BĐTD Buzan's iMindMap V4, BĐTD Buzan's iMindMap8 .
IV. Các phương pháp nghiên cứu
2



- Phân tích – tổng hợp
- Đối chiếu – so sánh
- Khảo sát thực tế
- So sánh
- Phương pháp định tính
- Phương pháp định lượng
V. Điểm mới, tính sáng tạo của đề tài
- Đề tài áp dụng kinh nghiệm giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động dạy và học ở trường THCS.
- Kết hợp với các phương tiện dạy học truyền thống, phương tiện hiện đại
cho hiệu quả rõ rệt. Đây là một chủ đề rất mới trong những năm học gần đây.
- Học sinh hứng thú học tập, công tác giảng dạy, giáo dục của giáo viên trở
nên nhẹ nhàng hơn vì phần chủ yếu hướng dẫn cho học sinh tìm ra kiến thức.
- Đề tài hướng dẫn chi tiết cách sử dụng phần mềm, chia sẻ, áp dụng cho
nhiều đối tượng, áp dụng rộng rãi cho nhiều công việc (học tập, lập kế hoạch, …)
Từ những điểm nêu trên bản thân tôi khẳng định đề tài có tính khoa học và
thực tiễn cao:
5.1 Ý nghĩa khoa học:
Đề tài được thực hiện nhằm nâng cao nghệ thuật dạy học, cũng như phát huy
tính sáng tạo trong việc dạy và học. Kết quả của đề tài sẽ góp phần phát triển tư duy
của giáo viên và học sinh .
5.2 Ý nghĩa thực tiễn:
Góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Sinh học nói riêng và các
môn học khác nói chung. Đề tài cũng góp phần phát huy tính chủ động, tích cực,
sáng tạo trong học tập của người học.

B. PHẦN NỘI DUNG
3



I.

Cơ sở lí luận

1.1. Cơ sở lí luận của đề tài
1.1.1 Giới thiệu về sơ đồ tư duy
- Sơ tư duy do Tony Buzan là người đầu tiên nghiên cứu tìm ra hoạt động của
não bộ và ứng dụng vào cuộc sống. Sơ đồ tư duy ( còn gọi là bản đồ tư duy hay
lược đồ tư duy ) là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng ý tưởng, hệ
thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,...bằng cách kết hợp việc sử dụng
đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực.
- Theo các nhà nghiên cứu, thông thường ở trường phổ thông, học sinh mới
chỉ sử dụng bán cầu não trái ( thông qua chữ viết, kí tự, chữ số,...) để tiếp thu và ghi
nhớ kiến thức mà chưa sử dụng bán cầu não phải ( nơi ghi nhớ thông tin kiến thức
thông qua hình ảnh, màu sắc...) tức là mới chỉ sử dụng 50% khả năng của não bộ.
Kiểu ghi chép của sơ đồ tư duy thể hiện bằng hình ảnh, đường nét, màu sắc được
trải theo các hướng không có tính tuần tự và có độ thoáng nên dễ bổ sung và phát
triển ý tưởng.
1.1.2. Khái niệm bản đồ tư duy (BĐTD)
- BĐTD là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và
đào sâu các ý tưởng. BĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả
nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét,
màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con
người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não.
- Cơ chế hoạt động của BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các
mạng lưới liên tưởng (các nhánh). BĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có
liên hệ với nhau vì vậy có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới,
củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi
chương,... và giúp cán bộ quản lí giáo dục lập kế hoạch công tác.
1.1.3 Ưu điểm của bản đồ tư duy.

4


- BĐTD giúp học sinh học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương
pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học
mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ
nhưng vẫn học kém, nhất là môn Sinh học nói riêng và môn Khoa học Tự nhiên nói
chung, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần
trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức
đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh này khi đọc sách hoặc
nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức
trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học học sinh
sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư
duy.
- BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên
cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính
mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng BĐTD
giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não.
Việc học sinh tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của
học sinh, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh, các em tự do chọn
màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em tự
“sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của
từng học sinh và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác
phẩm” của mình.
- BĐTD giúp học sinh ghi chép có hiệu quả. Do đặc điểm của BĐTD nên
người thiết kế BĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố cục để “ghi”
thông tin cần thiết nhất và lôgic, vì vậy, sử dụng BĐTD sẽ giúp học sinh dần dần
hình thành cách ghi chép có hiệu quả.
Tác giả Stella Cottrell đã tổng kết cách “ghi chép” có hiệu quả trên BĐTD:
1. Dùng từ khóa và ý chính

2. Viết cụm từ, không viết thành câu
3. Dùng các từ viết tắt
4. Có tiêu đề
5. Đánh số các ý
6. Liên kết ý nên dùng nét đứt, mũi tên, số, màu sắc,…
7. Ghi chép nguồn gốc thông tin để có thể tra cứu lại dễ dàng
5


8. Sử dụng màu sắc để ghi.
- Sử dụng BĐTD giúp giáo viên chủ nhiệm, cán bộ quản lí nhà trường lập
kế hoạch công tác và có cái nhìn tổng quát toàn bộ kế hoạch từ chỉ tiêu, phương
hướng, biện pháp,…và dễ theo dõi quá trình thực hiện đồng thời có thể bổ sung
thêm các chỉ tiêu, biện pháp,…một cách rất dễ dàng so với việc viết kế hoạch theo
cách thông thường thành các dòng chữ.
1.2. Cách sử dụng BĐTD trong giảng dạy môn Sinh học 6
1.2.1. Các bước thực hiện một sơ đồ tư duy
* Các bước lập BĐTD
- Bước 1: Vẽ chủ đề ở trung tâm trên một mảnh giấy (đặt nằm ngang)
+ Chúng ta sẽ bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Hình ảnh có thể
thay thế cho cả ngàn từ và giúp chúng ta sử dụng tốt hơn trí tưởng tượng của mình.
Sau đó có thể bổ sung từ ngữ vào hình vẽ chủ đề nếu chủ đề không rõ ràng.
+ Sử dụng màu sắc vì màu sắc có tác dụng kích thích não như hình ảnh, đặc
biệt là các màu sắc bản thân yêu thích.
+ Có thể dùng từ khóa, kí hiệu, câu danh ngôn, câu nói nào đó gợi ấn tượng
sâu sắc về chủ đề.
+ Không nên đóng khung hoặc che chắn mất hình vẽ chủ đề vì chủ đề cần
được làm nổi bật dễ nhớ
+ Chủ đề phải đủ to, rõ, nổi bật trọng tâm cần ghi nhớ.
- Bước 2: Vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm

+ Tiêu đề phụ có thể viết bằng chữ in hoa nằm trên các nhánh to để làm nổi
bật.
+ Tiêu đề phụ được gắn với trung tâm.
+ Tiêu đề phụ nên được vẽ chéo góc để nhiều nhánh phụ khác có thể được vẽ
tỏa ra một cách dễ dàng.
- Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ
+ Khi vẽ các ý chính và các chi tiết hỗ trợ nên tận dụng các từ khóa và hình
ảnh.

6


+ Nên dùng những biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và
thời gian. Mọi người ai cũng có cách viết tắt riêng cho những từ thông dụng. Bạn
hãy phát huy và sáng tạo thêm nhiều cách viết tắt riêng.
+ Mỗi từ khóa, hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc riêng trên
nhánh. Trên mỗi khúc chỉ nên có tối đa một cụm từ khóa.
+ Sau đó nối các nhánh chính cấp 1 đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh
cấp 2 đến các nhánh cấp 1, nối các nhánh cấp 3 đến các nhánh cấp 2…bằng đường
kẻ. Các đường kẻ càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn.
+ Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường kẻ thẳng vì đường kẻ cong
được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt nhiều hơn.
+ Tất cả các nhánh tỏa ra cùng một điểm nên có cùng một màu. Chúng ta
thay đổi màu sắc khi đi từ ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn.
- Bước 4: Người viết có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan trọng thêm
nổi bật cũng như giúp lưu chúng vào trí nhớ tốt hơn. Kiểm tra lại BĐTD đã hoàn
thành và diễn đạt, trình bày được các ý tưởng về kiến thức đã tạo lập.
1.2.2. Quá trình hướng dẫn học sinh xây dựng sơ đồ tư duy.
- Bước 1: Trước hết giáo viên phải cho học sinh làm quen với sơ đồ tư duy.
Bởi vì thực tế cho thấy rằng rất nhiều học sinh cũng chưa biết sơ đồ tư duy là cái gì,

cấu trúc ra sao và vẽ như thế nào, vì thế trước hết giáo viên cần phải cho học sinh
làm quen và giới thiệu về sơ đồ tư duy cho học sinh. Giáo viên nên giới thiệu cho
học sinh về nguồn gốc, ý nghĩa hay tác dụng của việc sử dụng sơ đồ tư duy trong
học tập môn Hoá học
Giáo viên có thể đưa ra một số sơ đồ tư duy sau đó yêu cầu học sinh diễn giải,
thuyết trình về nội dung của sơ đồ tư duy theo cách hiểu riêng của mình. Với việc
thực hiện bước này sẽ giúp học sinh bước đầu làm quen và hiểu về sơ đồ tư duy .
- Bước 2: Sau khi đã làm quen với sơ đồ tư duy giáo viên có thể giao cho học sinh
hoặc cùng học sinh xây dựng lên một sơ đồ tư duy ngay tại lớp với các bài ôn tập,
hệ thống hóa kiến thức
- Bước 3 : Sau khi học sinh vẽ xong sơ đồ tư duy, giáo viên có thể để học sinh
tự trình bày ý tưởng về sơ đồ tư duy mà mình vừa thực hiện được.
7


1.2.3. Những điều cần tránh khi ghi chép trên sơ đồ tư duy
- Ghi lại nguyên cả đoạn văn dài dòng.
- Ghi chép quá nhiều ý vụn vặt không cần thiết.
- Dành quá nhiều thời gian để ghi chép hoặc vẽ hình.
II. Thực trạng của vấn đề
2.1. Thuận lợi
- Đây là phương pháp học tập mới thoải mái, vui vẻ và sáng tạo, thú vị ….
- Đây là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên đựơc sự ủng hộ từ các cấp,
xã hội, phụ huynh, học sinh …
- Chương trình môn Sinh học THCS có nhiều nội dung phù hợp với phương
pháp giảng dạy dùng BĐTD phát huy hiệu quả cao khi giáo viên tổ chức cho học
sinh lĩnh hội kiến thức
- Về cơ sở vật chất đã có một số đổi mới tạo điều kiện cho hoạt động học tập:
phòng công nghệ thông tin, máy chiếu, bảng phụ…
- GV được đào tạo và tập huấn đổi mới phương pháp dạy học về sử dụng

BĐTD trong giảng dạy.
- Xã hội hiện nay tạo điều kiện cho con người (giáo viên và học sinh) có điều
kiện tiếp cận nhiều nguồn thông tin từ nhiều phương tiện khác nhau.
- Phương pháp sử dụng BĐTD trong dạy học các kiểu bài phù hợp tâm sinh
lý lứa tuổi học sinh, khắc phục được sự nhàm chán của phương pháp dạy học
truyền thống. Vì vậy, gây hứng thú cho người học, kích thích học sinh tư duy tích
cực.
2.2. Khó khăn
- Đây là phương pháp dạy học mới nên giáo viên và học sinh không tránh
khỏi lúng túng trong một số kĩ năng như sử dụng lúc nào, như thế nào, sưu tầm, xử
lý thông tin, vẽ, ý tưởng…
- Nội dung môn Sinh học THCS, đặc biệt là sinh học lớp 9 mới, khô, khó,
trừu tượng … nên giáo viên khó dạy, học sinh khó học.
- Đòi hỏi giáo viên phải có nhiều kĩ năng khác ngoài kĩ năng sư phạm.

8


- Giáo viên khó khăn trong việc đánh giá cụ thể hiệu quả làm việc của từng
học sinh.
- Cơ sở vật chất có đổi mới nhưng chưa thực sự phù hợp: Số học sinh, không
gian lớp học, trang thiết bị, đồ dung dạy học, thời gian tiết học…
- Năng lực học sinh không đồng đều nên đôi khi việc vẽ BĐTD trong học tập
là sự máy móc không hiệu quả.
- Quan niệm của xã hội, gia đình, và đặc biệt là học sinh đối với bộ môn này
đôi khi còn lệch lạc: chưa đầu tư, dành sự quan tâm, chưa chú ý, xem thường hoặc
học cho xong.
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Là người giáo viên trước tiên cần phải nắm vững chủ trương đối mới giáo
dục thể hiện ở chương trình sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy, việc sử dụng

các phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học phải phù hợp, thích ứng
với từng hoạt động giúp học sinh tích cực trong tìm tòi, tiếp thu lĩnh hội kiến thức.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, phải nhấn mạnh rằng BĐTD là một công cụ
phối hợp các phương pháp khác đã thực hiện thêm phần hiệu quả, không phải
là một giải pháp có thể thay thế tất cả các phương pháp khác. Vì vậy, tôi đã đưa
ra và áp dụng nhiều giải pháp có hiệu quả nhưng trọng tâm là sử dụng BĐTD; với
kinh nghiệm dưới đây để thực hiện cho các mục tiêu của từng phần có sự phối kết
hợp của nhiều phương pháp trên cơ sở phân tích những tồn tại và đưa ra những lí
luận, giải pháp, cách làm cùng thực hiện theo tôi là có hiệu quả nhất cho các phần
của bài học, các kiểu bài khác nhau.
III. Vận dụng BĐTD vào thực tế giảng dạy môn Sinh học 6
3.1. Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra kiến thức cũ
* Việc chuẩn bị cho kiểm tra miệng
- Công việc chuẩn bị trước hết là phải xác định thật chính xác cần kiểm tra
những gì. Giáo viên cần xác định được mức độ tối thiểu kiến thức và kĩ năng mà
học sinh đã thu nhận được trong quá trình học tập. Câu hỏi đặt ra cho học sinh phải
chính xác, rõ để học sinh không hiểu thành hai nghĩa khác nhau dẫn đến việc trả lời
lạc đề.

9


- Giáo viên phải thiết kế lại các yêu cầu, bài tập trong sách giáo khoa hay ra
các bài tập tương tự để tránh việc các em sử dụng sự hướng dẫn trong các sách học
tốt, sách bài tập nhằm đối phó với giáo viên.
* Những yêu cầu sư phạm về cách tổ chức kiểm tra miệng
- Tạo điều kiện thuận lợi để học sinh có thể bộc lộ một cách tự nhiên đầy đủ
nhất những hiểu biết của các em
- Dựa vào những câu trả lời miệng và hoạt động thực hành của học sinh mà
phát hiện được tình trạng thật của kiến thức và kĩ năng của các em

- Thái độ và cách đối xử của giáo viên với học sinh có ý nghĩa to lớn trong
khi kiểm tra miệng. Giáo viên cần biết lắng nghe câu trả lời, biết theo dõi hoạt động
của học sinh và trên cơ sở đó rút ra kết luận về tình trạng kiến thức của học sinh.
Sự hiểu biết của giáo viên về cá tính học sinh, sự tế nhị và nhạy cảm sư phạm trong
nhiều trường hợp là những yếu tố cơ bản giúp thấy rõ thực chất trình độ kiến thức
và kĩ năng của học sinh được kiểm tra.
- Trong quá trình học sinh đang trả lời câu hỏi có thiếu sót hoặc sai, nếu
không có lí do gì cần thiết giáo viên cũng không nên ngắt lời của học sinh. Cùng là
một sai sót nhưng giáo viên phải biết sai sót nào nên sửa ngay và sai sót nào thì nên
đợi học sinh trả lời xong.
- Nên phối hợp các cách kiểm tra và cùng một lúc có thể kiểm tra được nhiều
HS: trong lúc gọi một số học sinh lên bảng thì giáo viên ra cho các học sinh ở dưới
lớp câu hỏi khác sau đó sẽ thu vở nháp của một số em để chấm.
- Khi tổ chức kiểm tra thì giáo viên phải giải quyết các khó khăn lớn sau đây:
khi một hay vài học sinh được chỉ định lên bảng thì các học sinh khác trong lớp cần
phải làm gì và làm như thế nào. Giáo viên gọi nhiều em cùng một lúc, đưa ra yêu
cầu khác nhau phù hợp với trình độ của mỗi học sinh sau đó đặt các câu hỏi cho cả
lớp sau khi các học sinh này hoàn thành xong nhiệm vụ của mình như sau: “Bạn trả
lời như vậy có đúng không?” “Các em có đồng ý với câu trả lời đó của bạn
không?” “Có điểm nào sai hoặc thiếu không ?”… Ngoài những câu cơ bản, giáo
viên có thể sử dụng các câu hỏi phụ trong quá trình kiểm tra miệng. Nhờ những câu
hỏi bổ sung đó mà GV có thể hình dung được chất lượng kiến thức của học sinh.
* Sử dụng BĐTD.

10


Như ta đã biết, kiểm tra miệng là việc diễn ra thường xuyên, liên tục trong
các tiết dạy. Vì vậy hoạt động này phải đa dạng để tránh sự nhàm chán đơn điệu,
tạo không khí sinh động trong lớp học và giúp học sinh học tập có hiệu quả hơn.

Tuỳ theo mỗi tiết học và tuỳ theo từng yêu cầu về kiểm tra kiến thức, kĩ năng
mà GV có thể áp dụng thêm cách kiểm tra miệng như sau bằng cách sử dụng
BĐTD. Sử dụng BĐTD vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu
của học sinh đối với bài học cũ. Vì thời gian kiểm tra bài cũ tương đối ngắn nên các
BĐTD tôi thường sử dụng ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền các thông
tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khóa
trung tâm.
Ví dụ 1: Trước khi học bài “Sự lớn lên và phân chia của tế bào” – Sinh
học 6.
Kiểm tra bài cũ về Tế bào thực vật:

- Do bắt đầu từ một vài năm nay, BĐTD mới được đưa vào giảng dạy tại một
số trường nên bản đồ còn dừng lại ở mức đơn giản ở những tiết học đầu năm. Tôi
thường chuẩn bị những sơ đồ trên bảng phụ, viết nhanh trên bảng, đưa trên phần
mềm PowerPoint… để không chỉ những em được gọi lên mà các em ở dưới lớp
cùng hoàn thành sau đó giáo viên thu bài, nhận xét và chấm điểm cho một số học
sinh.
- Tất nhiên, với kiểu kiểm tra bài cũ này để hoàn thành trọn vẹn thì tôi
thường xuyên hướng dẫn học sinh cách lập bản đồ, cách ghi chép, cùng học sinh
11


hoàn thiện những nội dung kiến thức đã học bằng BĐTD nhằm đưa ra đúng, đủ
những tri thức mà học sinh cần nắm vững. Sau đó, học sinh phải trình bày được
những nội dung cần nắm vững trong bài học, học sinh dưới lớp tham gia nhận
xét bổ sung và giáo viên là người chốt lại kiến thức.
- Tùy theo lượng thời gian phân phối cho phần kiểm tra bài cũ và nội dung
kiến thức bài trước mà tôi còn cho học sinh hoàn thành trọn vẹn BĐTD dưới
hình thức cuộc thi (học mà chơi, chơi mà học), học sinh nào nhanh nhất, chính xác
nhất sẽ được tuyên dương và điểm cao.

Qua đó, tôi thấy rằng ngay từ đầu học sinh đã rất hào hứng và nhiệt tình tham
gia, làm cho phần trả bài không còn là áp lực với học sinh, các em không phải chỉ
còn đọc thuộc lòng từng câu chữ, công thức mà có sự thấu hiểu, biết phương pháp
học.
3.2. Sử dụng BĐTD trong việc dạy kiến thức mới
* Những vấn đề tồn tại
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển khả năng ghi nhớ, thông hiểu và
vận dụng kiến thức mới của học sinh, trong đó phương pháp dạy của thầy và cách
học của trò là yếu tố quyết định.
- Phương pháp dạy của giáo viên.
- Sử dụng phương pháp truyền thống chủ yếu là giáo viên độc thoại, độc
quyền đánh giá, thuyết giảng làm học sinh nhàm chán không tập trung, chú ý
những gì GV nói.
- Nội dung bám sát sách giáo khoa, ít liên hệ thực tiễn đời sống nên không
giúp các em ghi nhớ bài một cách tốt nhất.
- Giáo viên giữ vai trò chủ động điều khiển.
- Không phối hợp nhiều phương pháp dạy học trong một tiết dạy.
- Phương pháp, dụng cụ giảng dạy không khoa học.
- Gây áp lực đến với học sinh dẫn đến học sinh bị ức chế.
- Phương pháp học của học sinh:
- Chưa có sự chú trọng đến việc học bộ môn, học thuộc lòng một cách thụ
động, ít có sự liên tưởng, liên hệ, tìm hiểu những tập tính, quy luật Sinh học ngoài
thực tế nên dễ quên đi những kiến thức vừa học.
12


- Quan điểm các em học để đối phó, để kiểm tra, thi cử lấy điểm, thành tích.
- Trong quá trình học, đa số các em thụ động, ít phát biểu ý kiến, chỉ mải
nghe, ghi những gì mà giáo viên ghi lên bảng. Khi về nhà thì học thuộc bài một
cách máy móc không cần hiểu rõ bài để hôm sau trả bài.

- Phần lớn các em đợi gần đến thi hoặc kiểm tra mới học.
- Các em chưa biết tổ chức cách học theo nhóm, theo tổ.
- Một số em không chịu khó làm những bài tập cơ bản để ghi nhớ các kiến
thức tốt hơn và lâu hơn.
* Sử dụng BĐTD và một số biện pháp nhằm phát triển sự ghi nhớ, thông hiểu,
vận dụng kiến thức mới của học sinh.
Để nâng cao sự ghi nhớ, thông hiểu, vận dụng kiến thức mới của học sinh tôi
đã tác động đến nhiều mặt. Ở đây tôi tập trung tác động đến hai đối tượng quyết
định của quá trình dạy - học để chuẩn bị và bổ sung phương pháp mới sử dụng
BĐTD hiệu quả mà tôi đã sử dụng
- Đối với giáo viên::
+ Nắm được các yếu tố ảnh hưởng đến sự ghi nhớ cũng như nguyên nhân
dẫn đến sự quên của học sinh. Nắm được tâm sinh lý của học sinh THCS để có
phương pháp giảng day cho phù hợp với các em. Tạo bầu không khí học tập thoải
mái, sôi động, sinh động không gây áp lực cho các em để các em có thể ghi nhớ tốt
hơn.
+ Trong giờ lên lớp, giáo viên phải phối hợp nhiều phương pháp khác nhau
nhằm phát huy tối đa ưu điểm cũng như khắc phục khuyết điểm của từng phương
pháp từ đó giúp các em tiếp thu kiến thức mới được nhanh chóng. Cụ thể như phối
hợp: Phương pháp thuyết trình, vấn đáp, trực quan…
+ Ngoài những tài liệu trong sách giáo khoa, giáo viên cần tìm hiểu cung cấp
cho học sinh nhiều tài liệu mới, tập tính, quy luật thực tế cuộc sống để giúp học
sinh ôn tập và củng cố những kiến thức học ngay trên lớp một cách tốt hơn. Trong
giờ học trên lớp, giáo viên có thể những câu hỏi đơn giản mà thú vị nhằm kích
thích học sinh tích cực học tập và tư duy độc lập.
+ Tổ chức cho các em học theo nhóm để các em có cơ hội phát huy khả năng
độc lập của bản thân và tạo cơ hội cho các em có thể tự đánh giá, kiểm tra mức độ
nắm vững kiến thức lẫn nhau và của chính bản thân các em. Tạo mọi điều kiện
thuận lợi để các em có thể tự đánh giá, kiểm tra khả năng nắm tri thức của mình..
13



+ Giáo viên cho các em trình bày kiến thức mình có được, học sinh làm thí
nghiệm, thực hành để các em có thể vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế.
- Đối với học sinh::
+ Chuẩn bị bài trước khi lên lớp.
+ Biết phân phối thời gian học tập hợp lý cho từng môn học.
+ Lựa chọn phương pháp học riêng cho mình để ghi nhớ bài thật tốt.
+ Biết liên hệ, kết hợp tri thức đã học với thực tiễn.
+ Thường xuyên tổ chức học theo nhóm để trao đổi khả năng nắm vững các
kiến thức đã học.
+ Khi có những thắc mắc về bài học cần chủ động hỏi giáo viên giảng dạy.
+ Vào lớp cần phải năng động, tự tìm tòi, học hỏi, học cách học…
Sử dụng BĐTD
Từ đầu năm học, theo định hướng của ngành chống đọc chép, tôi đã giới
thiệu đến học sinh các kiểu ghi chép theo kiểu đề mục, kiểu trích dẫn, kiểu luận đề,
kiểu tự do. Thực tế, các kiểu ghi chép này các em cũng đã thực hiện rồi nhưng ít
được biết đến tên và tác dụng cũng như hiệu quả của từng kiểu ghi. Thông thường,
tôi nhận thấy ở trường học sinh thường được hướng dẫn ghi chép bài học theo kiểu
đề cương, trích dẫn và luận đề còn cách ghi chép theo kiểu tự do dành cho việc dự
hội thảo hay chuyên đề… Nhưng điều đáng quan tâm là các kiểu ghi chép trên nếu
được kết hợp với việc hệ thống kiến thức bài học theo kiểu BĐTD sẽ giúp học sinh
nhớ lâu hơn, gây hứng thú và niềm đam mê học tập hơn cho học sinh, giúp cho các
kiến thức ấy "đi thẳng vào đầu" học sinh một cách nhanh chóng, hiệu quả hơn. Để
cải thiện việc ghi chép của mình, tôi đã yêu cầu học sinh cần lưu ý:
+ Làm bài tập về nhà trước khi đến lớp, xem trước bài học mới.
+ Đi học đầy đủ, nếu bạn bỏ một buổi học thì bạn phải mượn vở của bạn
cùng lớp để ghi lại.
+ Ngoài các loại bút thông thường, học sinh cần trang bị thêm các loại bút dạ
quang, bút màu để làm nổi những thông tin quan trọng.

+ Dùng các ký hiệu để ghi bài nhanh hơn.
+ Chú ý lắng nghe những lời giảng của giáo viên. Không cần ghi lại mọi lời
giảng của giáo viên mà hãy tư duy để ghi những điều quan trọng nhất. Luôn động
não chứ đừng chỉ ghi chép như một cái máy.
14


+ Nếu bỏ lỡ thông tin nào, hãy cách ra vài dòng để bổ sung sau, bằng cách
hỏi lại giáo viên hay các bạn khác.
+ Dành khoảng thời gian để xem xét lại những ghi chép.
+ Ghi chép khi đọc một thông tin, một bài học mới nào đó ở sách giáo khoa
sẽ giúp bạn nhớ được các thông tin đó.
Để sử dụng BĐTD trong khi dạy học kiến thức mới, tôi đã tổ chức các hình
thức sau cho học sinh:
Khi dạy học sinh hoàn toàn bằng bảng tôi thường dành một góc bảng bên
phải để cùng học sinh hoàn thiện BĐTD. Ví dụ khi dạy bài “Đột biến gen” Sinh
học 9, sau khi đã kiểm tra bài cũ, tôi đi theo tiến trình và cách trình bày như sau:
Bảng ghi được chia làm 2 phần chủ yếu
Đột biến gen
I. Khái niệm và các dạng đột biến gen
1. Khái niệm
2. Các dạng đột biến gen
(GV và HS cùng tìm hiểu phần I. Sau khi học
xong phần I, BĐTD xuất hiện thêm 2 nhánh
“Khái niệm”; “Các dạng” và thêm các nhánh con,
ví dụ như: “mất” “thêm” “thay thế” )

(Ở bảng bên phải cũng xuất
hiện từ khóa “Đột biến gen”)
Khái

Đột biến niệm
gen
Các
dạng

Mất
Thêm
Thay thế

…………
Tương tự như vậy, sau khi học xong mỗi phần với các kiến thức cần ghi nhớ
thì BĐTD lại thêm những nhánh nữa. Khi kết thúc bài học mới cũng là lúc GV và
học sinh đã hoàn thành xong BĐTD cho bài học.
Khi dạy học sinh hoàn toàn bằng máy chiếu, tôi thường dùng bảng như một
“bảng nháp” để cùng học sinh hoàn thiện BĐTD. Ngược lại, khi dùng bảng, với
những bài giảng có nội dung kiến thức ngắn, những lần đầu khi học sinh làm quen
với BĐTD tôi vẽ trực tiếp trên phần mềm để học sinh dễ quan sát và định hướng
những công việc cần làm.
Bên cạnh đó, cũng có những tiết dạy tôi cho học sinh hoạt động nhóm: Sau
khi đã học xong nội dung kiến thức bài học, trước khi sang phần bài tập, củng cố
tôi cho học sinh hoàn thành BĐTD theo nhóm hoặc hoàn thành theo kĩ thuật “khăn
phủ bàn”.
15


Tuy nhiên, quan trọng nhất là cho dù thực hiện theo cách nào thì sau đó học
sinh phải lên trình bày, thuyết minh thông qua BĐTD mà giáo viên và học sinh
hoặc nhóm mình đã hoàn thành. Học sinh khác nhận xét, bổ sung. Giáo viên sẽ là
người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh BĐTD từ đó dẫn dắt đến kiến
thức trọng tâm của bài học. GV giới thiệu BĐTD là một sơ đồ mở nên không yêu

cầu tất cả các nhóm học sinh có chung một kiểu BĐTD, tôi chỉ chỉnh sửa cho học
sinh về mặt kiến thức và góp ý thêm về đường nét vẽ và hình thức (nếu cần).
* Dạy một nội dung kiến thức của bài.
Khi dạy bài: Rêu- cây Rêu- Sinh học 6

Khi dạy bài: Cấu tạo tế bào thực vật –Sinh học 6

16


Qua việc hướng dẫn cách ghi, cách học bài nói trên, tôi nhận thấy học sinh
dần dần có những thay đổi đáng kể. Cụ thể, các em đã tự tin hơn trong việc ghi
chép ở lớp và chuẩn bị bài ở nhà thông qua sự hướng dẫn của tôi. Và, tôi nghĩ rằng
việc hệ thống kiến thức sẽ rất dễ dàng với các em khi các em đã quen với cách làm
việc có hệ thống như trên.
3. 3. Lập bản đồ tư duy trong việc dạy tiết thực hành:
Ví dụ: Khi dạy bài “ Biến dạng của thân ” – Sinh học 6

3.4. Sử dụng BĐTD trong việc củng cố kiến thức
17


Mặc dù khi sắp xếp, các em chưa sắp xếp theo hệ thống kiến thức yêu
cầu, cần có sự góp ý của bạn, nhưng tôi nhận thấy các em rất hứng thú khi được
học, tự tin khi thuyết trình trước mọi người về BĐTD của nhóm mình hoặc của bản
thân hoặc của nhóm khác, bạn khác. Sau đó, tôi khuyến khích, gợi mở, hướng dẫn
các em đúng sơ đồ chuẩn. Bên cạnh đó, tôi cũng phát hiện ở các em có nhiều sáng
tạo rất hay trong việc sắp xếp các thẻ ôn bài ở ví dụ minh họa trên.
Tuy nhiên, sau khi học sinh đã nắm được cách thức, nguyên tắc xây dựng
BĐTD thì không phải tiết nào cũng củng cố qua các thẻ ôn bài vì như vậy sẽ gây

nhàm chán, mất thời gian. Vì vậy một biện pháp khác tôi đưa ra là sau khi học sinh
đã làm bài tập, trả lời các câu hỏi phần củng cố thì dùng máy chiếu cho hiển thị từ
khóa trung tâm sau đó phát vấn học sinh về những nội dung đã học trong bài, dùng
hiệu ứng của phần mềm PowerPoint lần lượt đưa ra theo mục đích giảng dạy.
Qua nhiều bài củng cố như cách thực hiện ở trên, tôi nhận thấy các em nhớ
bài nhanh hơn, từng bước xây dựng được kĩ năng diễn giải. Song song với việc
củng cố bài học, khi học sinh đã hoàn thành sơ đồ tóm tắt, tôi thường dành vài phút
đề phân tích nhằm khắc sâu kiến thức qua các từ khóa của sơ đồ, cũng như hướng
dẫn các em kết nối các từ khóa đó. Bởi mục đích cuối cùng của tôi là giúp các em
có thể liên kết các bài có kiến thức liên quan được hệ thống thành một BĐTD hoàn
hảo.
Chắc hẳn với nhiều người khi dùng BĐTD cũng đang gặp khó khăn khi đưa
hình ảnh từ phần mềm Buzan's iMindMap vào phần mềm PowerPoint sao cho ta
hiệu ứng lần lượt được các nhánh theo đúng ý tưởng. Dưới đây, bằng kinh nghiệm
của mình tôi thường dùng theo cách sau:
- Cách 1: Để BĐTD đã hoàn thành hiển thị trên màn hình máy tính. Ấn nút
Print Screem (nút chụp màn hình) trên bàn phím để chụp hình ảnh đang trên màn
hình máy tính. Sau đó mở Paint (phần mềm vẽ tranh đơn giản) bằng cách vào
Start \ Programs \ Accessories \ Paint. Nháy chuột trái vào biểu tượng Select trên
thanh công cụ rồi đưa chuột ra nền trắng nháy chuột phải và chọn Paste (hoặc ấn
Ctrl + V) để dán ảnh vừa chụp vào. Lại nháy chuột trái vào biểu tương Select rồi
đưa ra màn hình, lúc này chuột biến thành hình dấu +, rê chuột thành khung hình
chữ nhật vào nơi ta định cắt, nháy chuột phải vào vùng vừa cắt chọn Copy (hoặc ấn
Ctrl + C) để dán phần ảnh đó sang PowerPoint. Trong trường hợp ảnh có nhiều
phần trắng che lấp các ảnh khác ta dùng chức năng Order để sắp xếp các lớp ảnh
trong PowerPoint.
18


- Cách 2: Sau khi hoàn thành xong BĐTD các thầy cô có thể dùng chức năng

ẩn hiện nhánh có trực tiếp tại phần mềm.
Khi dạy bài: Hạt kín- Đặc điểm của thực vật hạt kín - Sinh học 6

3.5. Sử dụng BĐTD trong việc dạy tiết ôn tập, tổng kết kiến thức
* Những điểm cần chú ý về mặt phương pháp khi tiến hành bài ôn tập, tổng
kết
Bài ôn tập tổng kết không phải chỉ là sự tái hiện, giảng lại kiến thức cho
học sinh mà phải thể hiện được sự hệ thống hóa, khái quát hóa và vận dụng,
nâng cao toàn diện kiến thức của phần cần ôn tập cho học sinh. Vì vậy cần có
sự xác định mục tiêu rõ ràng cho bài ôn tập về kiến thức, kỹ năng cần hệ thống,
khái quát và mức độ phát triển kiến thức cho phù hợp với khả năng nhận thức của
học sinh.
Khi chuẩn bị bài ôn tập cần sắp xếp các kiến thức cần khái quát, hệ thống cho
một chương hay một phần theo hệ thống có logic chặt chẽ, theo tiến trình phát triển
của kiến thức, cùng các kỹ năng cần rèn luyện.
Phương pháp dạy học được sử dụng chủ yếu trong giờ ôn tập là đàm
thoại tìm tòi, sử dụng bài tập Sinh học. Việc khái quát hóa kiến thức, phát triển
tư tưởng, năng lực nhận thức của học sinh đựơc điều khiển bằng các câu hỏi dẫn
dắt giúp học sinh tìm ra mối liên hệ giữa các kiến thức và khái quát chúng ở dạng
tổng quát nhất. Vì vậy giáo viên cần chuẩn bị một hệ thống câu hỏi cho từng phần
kiến thức, mối liên hệ giữa các kiến thức, vận dụng kiến thức, đào sâu phát triển
kiến thức. Các câu hỏi nêu ra phải rõ ràng, có tác dụng nêu vấn đề để học sinh trình
bày suy luận, thể hiện được khả năng tư duy khái quát của mình.
19


Sự trình bày các bài tổng kết: Tùy theo nội dung cần tổng kết và sự phát
triển của kiến thức, bài tổng kết có thể trình bày theo các đề mục, các vấn đề của
nội dung mang kiến thức cần ôn tập. Đồng thời bài tổng kết cũng có thể trình bày ở
dạng các bảng tổng kết, các sơ đồ thể hiện mối liên hệ các kiến thức giúp học sinh

dễ nhìn, dễ nhớ và hệ thống hóa kiến thức ở dạng khái quát cao. Khi xây dựng các
bảng tổng kết cần rõ ràng các sơ đồ dễ nhìn, đảm bảo tính khoa học và thẩm mỹ.
Giáo viên, học sinh cần có sự chuẩn bị chu đáo tỉ mỉ cho giờ ôn tập tổng
kết: Ngoài việc chuẩn bị nội dung, kiến thức, câu hỏi cho bài ôn tập, hệ thống kiến
thức đã đựơc trình bày trong sách giáo khoa, giáo viên cần chuẩn bị thêm một số
kiến thức để mở rộng, đào sâu kiến thức và một số dạng bài tập mang tính vận dụng
sâu kiến thức trong các sách tham khảo, sách bài tập Sinh học... Các kiến thức, bài
tập được lựa chọn cần đảm bảo trên cơ sở kiến thức phổ thông học sinh có thể hiểu
vận dụng được, có tính chất mở rộng, giải quyết được một phần thắc mắc học sinh
đặt ra khi đọc các sách tham khảo khác.
* Sử dụng BĐTD
BĐTD là một công cụ khá mạnh trong những tiết bài tập, ôn tập. Thông
thường tôi tiến trình theo sơ đồ: 1. Sơ đồ hóa kiến thức  2. Nội dung cần ôn tập
 3. Ôn tập tổng kết.
Bước 1. Thông thường tôi thường giao cho học sinh về nhà hoàn thiện (Cách
làm này cũng được áp dụng dạy kiến thức mới khi học sinh đã thành thạo với
BĐTD) Trước khi vào nội dung 2 tôi dành thời gian kiểm tra sự chuẩn bị cũng như
kiểm tra sự ghi nhớ kiến thức của học sinh bằng cách gọi một vài học sinh lên bảng
trình bày những nội dung kiến thức mà mình đã thể hiện trong BĐTD. Riêng phần
này tôi cho các em thoải mái trình bày theo những ý tưởng đã sắp xếp, học sinh
khác và tôi chỉ làm thêm nhiệm vụ là bổ sung những nội dung còn thiếu trong
những phần đã học trong BĐTD.
Bước 2. Tôi hướng dẫn học sinh ôn tập theo những chủ điểm đã có trong
BĐTD.
Bước 3. Tôi cho học sinh hoàn thiện BĐTD của mình như phần củng cố bài
học:
Chú ý phân phối thời gian hợp lý: Thời gian 1 tiết học 45 phút, nên vấn đề
cần quan tâm để đạt hiệu quả là việc phân phối thời gian hợp lý. Do đó, tôi dùng
thời gian của những bài học ngắn khoảng 5 - 9 phút để thực hiện.
20



Khoảng 2 - 4 phút: Các em bổ sung yù tưởng riêng của mình và trao đổi với
các bạn cùng nhóm.
Khoảng 2 - 3 phút tiếp theo: Đại diện nhóm lên trình bày sơ đồ của nhóm
mình.
Thời gian còn lại, tôi cùng các học sinh góp ý, đánh giá, trình chiếu sơ đồ mà
tôi đã vẽ sẵn bằng phần mềm và cả bản vẽ BĐTD trên giấy để các em đối chiếu, so
sánh, chỉnh sửa lại cho hợp lí.
Qua BĐTD hệ thống kiến thức, tôi chốt lại những kiến thức cần nhớ, đặc biệt
là các từ khóa và để học sinh hiểu và nắm vững kiến thức nhờ hình ảnh trên sơ đồ.
Có thể nói, đây là một phương pháp giúp người học lưu kiến thức trong trí nhớ
được sâu và dài hơn so với các phương pháp khác.

C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
Với những biện pháp trên tôi đã áp dụng vào các kiểu bài dạy: Dạy bài học
tìm hiểu kiến thức mới, tiết ôn tập tổng kết… và áp dụng trong các phần như: kiểm
tra bài cũ, củng cố kiến thức hoặc xuyên suốt quá trình của một tiết học.
Học sinh tiếp cận kiến thức một cách nhẹ nhàng hơn, nắm vững kiến thức
sâu hơn và có khả năng nhớ lâu hơn nhờ tác dụng của sơ đồ tạo hình sinh động và
khoa học. Theo chủ quan tôi phân ra 5 cấp độ cho học sinh khi học theo BĐTD
Cấp độ 1: Học sinh quan sát BĐTD theo mẫu đã vẽ sẵn
Cấp độ 2: Học sinh tái hiện lại BĐTD sau khi đã quan sát, đã học về kiến
thức cần trình bày trong BĐTD
21


Cấp độ 3: Học sinh tự vẽ được BĐTD sau khi đã học xong nội dung kiến
thức

Cấp độ 4: Học sinh tự đọc kiến thức mới và tự tổng kết được bằng BĐTD
Cấp độ 5: Học sinh trình bày được các nội dung kiến thức đã học, đã tìm
hiểu mà không cần bất kì tài liệu nào.
Bên cạnh đó, vẫn có những vấn đề còn bỏ ngỏ chưa được nghiên cứu trong
đề tài như: Sử dụng BĐTD trong các tiết thực hành, tiết bài tập, rèn khả năng ghi
chép (kiểm tra viết) đầy đủ dựa trên BĐTD và tái hiện BĐTD (khi không có bất kì
tài liệu nào) tránh trường hợp học sinh chỉ nhớ ý, nhớ có mấy ý mà không biết diễn
tả đầy đủ… rất mong được sự góp ý, đánh giá của độc giả.
* Kết quả cụ thể
Kết quả bài khảo sát của hai lớp 9B (Sử dụng BĐTD) và 9D (Không sử dụng
BĐTD) tại trường THCS (hai lớp có số HS và lực học tương đương) cụ thể qua
bảng so sánh sau:
Sĩ số

Giỏi

Khá

T. Bình

Yếu

Kém

8,0-10
6,5-7,9
5,0-6,4
3,0-5,0
0,0-3,0
6A3

29
9
19
9
3
2
6A4
32
13
24
4
1
0
Nhận xét Áp dụng Học sinh từ TB trở lên tăng, đặc
Học sinh yếu, kém
BĐTD
biệt điểm giỏi
giảm
- Tôi hi vọng các giáo viên, học sinh sẽ sử dụng BĐTD để hệ thống kiến thức
một cách vững vàng hơn không những ở bộ môn Sinh học mà có thể vận dụng
được cho tất cả các bộ môn khác. Ngoài ra, có thể áp dụng dạng BĐTD này vào
trong cuộc sống hằng ngày như lập kế hoạch, thời gian làm việc hay vẽ ra những
lựa chọn cho tương lai…
- Bằng những kinh nghiệm tôi đã rút ra sau nhiều năm giảng dạy ở trường, qua
những bài học thu được trong việc dự giờ các đồng nghiệp, đặc biệt là sự giúp đỡ
tận tình của Ban giám hiệu nhà trường, của tổ chuyên môn trường. Tôi đã hoàn
thành sáng kiến kinh nghiệm “Ứng dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy môn Sinh
học 6 ở trường THCS”
- Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các đồng nghiệp chuyên môn để
vốn kinh nghiệm giảng dạy của tôi được phong phú hơn.


22


II. Kiến nghị
Để đáp ứng được mục tiêu của đổi mới phương pháp dạy học đặc biệt là với
môn Sinh học tôi có một số kiến nghị sau:
- Vận dụng BĐTD vào việc hệ thống hóa kiến thức các chương trong chương
trình Sinh học THCS.
- Cũng giống như BĐTD, bản thân nó đã là một sơ đồ mở, có thể thêm bớt,
thay đổi linh hoạt mềm dẻo sao cho khả năng ghi nhớ vận dụng là tốt nhất. Phương
pháp dạy học cũng vậy, ta không nên tuyệt đối hóa cũng như phủ định bất kì một
phương pháp nào cho dù là truyền thống hay hiện đại vì bao giờ nó cũng bao gồm
ưu điểm và nhược điểm. Vậy nên, trên đây tôi đã nêu ra những cơ sở lí luận,
phương hướng, biện pháp thường dùng thông thường đã mang lại hiệu quả và đan
xen vào nó là sử dụng BĐTD để cho tiết học thêm phần sôi nổi, giáo viên linh hoạt
trong các phương pháp dạy học giáo dục, tiết học không nhàm chán, học sinh hứng
thú tiếp thu bài học, vận dụng sáng tạo vào bài tập và thực tiễn.
- Cần tổ chức cho giáo viên dạy Sinh học, đồng chí phụ trách thiết bị được
học bồi dưỡng sử dụng thiết bị, sử dụng phần mềm từ đầu năm học.
- Vì các giờ dạy Sinh học thường có nhiều đồ dùng, mẫu vật thực hành khi
dạy bằng phương pháp mới cũng đòi hỏi có sự đầu tư cơ sở vật chất nên cần sắp
xếp thời khóa biểu cho gọn, đầu tư máy tính máy chiếu cho lớp học.
- Nhà trường, tổ chuyên môn cần có những chuyên đề, thảo luận về sử dụng
BĐTD và xây dựng thư viện BĐTD để giáo viên và học sinh có thể khai thác, sử
dụng.
Trên đây là một số ý kiến của tôi, kính mong các cấp lãnh đạo nghiên cứu và
xem xét để đề tài được áp dụng rộng rãi nhằm thực hiện tốt mục tiêu đổi mới giáo
dục và giảng dạy bộ môn đạt hiệu quả cao.


23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS (Bộ Giáo dục và
đào tạo)
2. Sinh học lớp 6, 7, 8, 9 (NXBGD)
3. Sinh học lớp 6, 7, 8, 9 – Sách GV (NXBGD)
4. Giáo trình tin học (NXB Đại học sư phạm Hà Nội - 2003)
5. Hướng dẫn thiết kế bài giảng trên máy vi tính (NXBGD - 2006)
6. Công nghệ thông tin với việc đổi mới phương pháp dạy học
(Tiến sĩ Nguyễn Đức Sĩ - Phó Vụ trưởng vụ Giáo dục Trung học)
7. (Website của Bộ GD - ĐT)
8. (Website hỗ trợ GV)
24


9. (Website về Sinh học)
10.
11. Lập bản đồ tư duy (Tác giả Tony Buzan. Dịch giả Nguyễn Thế Anh - NXB
Lao động Xã hội - 2008)
12. Bản đồ tư duy trong công việc (Tác giả Tony Buzan. - Dịch giả: Hải Hà.
Hồng Hoa. NXB Lao động Xã hội )

PHỤ LỤC
I. Hướng dẫn cài đặt phần mềm Buzan's iMindMap V4.
Nháy chuột phải vào iMindMap_4.exe, chọn Open

Hộp thoại hiện ra chọn OK


25


×