Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ PHÁT TRIỂN kỹ NĂNG TUYÊN TRUYỀN CHO cán bộ TUYÊN GIÁO THÀNH PHỐ hải PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 121 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ

Viết tắt

Ban Tuyên giáo Thành ủy

BTGTU

Cán bộ tuyên giáo

CBTG

Cán bộ đảng viên

CB, ĐV

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

Đảng Cộng sản Việt Nam

ĐCSVN

Điểm trung bình

ĐTB

Hoạt động tuyên truyền


HĐTT

Kĩ năng tuyên truyền

KNTT

Tâm lí học

TLH


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU

3

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG TUYÊN
TRUYỀN CHO CÁN BỘ TUYÊN GIÁO THÀNH PHỐ
HẢI PHÒNG

10

1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng Sản Việt Nam về tuyên truyền
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.3. Các kĩ năng tuyên truyền chủ yếu của cán bộ tuyên giáo

10

13

thành phố Hải Phòng
1.4. Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới kĩ năng tuyên truyền

29

của cán bộ tuyên giáo thành phố Hải Phòng

34

Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP TÂM LÝ-XÃ HỘI PHÁT
TRIỂN KĨ NĂNG TUYÊN TRUYỀN CHO CÁN BỘ
TUYÊN GIÁO THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

45

2.1. Thực trạng kĩ năng tuyên truyền và các yếu tố ảnh hưởng
tới kỹ năng tuyên truyền của cán bộ tuyên giáo Thành phố
Hải Phòng
2.2. Biện pháp tâm lý-xã hội phát triển kĩ năng tuyên truyền cho
cán bộ tuyên giáo Thành phố Hải Phòng
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

45
68
83
86

90


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm tới vị trí, vai trò của công tác tư tưởng.
Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức,
nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả công tác tư
tưởng; đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng....Đổi mới công tác tuyên truyền,
giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên” [10,
tr.46]. Đội ngũ CBTG là một lực lượng chủ chốt đi đầu của công tác xây
dựng Đảng, đã góp phần quan trọng vào việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, góp phần tạo sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong Đảng
và trong nhân dân, động viên cổ vũ toàn Đảng, toàn dân vượt qua mọi khó
khăn, thử thách, giành độc lập dân tộc và xây dựng CNXH ở Việt Nam. Để
hoàn thành nhiệm vụ quan trọng này, đội ngũ cán bộ làm CTTG cần phải
được trang bị, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là KNTT.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ tuyên truyền có KNTT tốt phải
luôn đặt rõ mục đích, nắm chắc, hiểu sâu nội dung tuyên truyền, biết rõ đối tượng,
thuần thục các phương pháp và cách thức tuyên truyền, phải luôn ghi nhớ rằng:
“Công tác tuyên truyền vận động quần chúng phải cụ thể, thiết thực” và phải trả lời
được câu hỏi: “Tuyên truyền cái gì? Tuyên truyền cho ai? Tuyên truyền để làm gì?
Tuyên truyền cách thế nào?”. Phát triển KNTT cho đội ngũ CBTG để từ đó nâng
cao trình độ giác ngộ lý tưởng cách mạng, củng cố niềm tin vào thắng lợi của Chủ
nghĩa cộng sản bằng các cơ sở khoa học dưới góc độ của tâm lý học, đáp ứng yêu
cầu của thực tiễn phát triển đội ngũ CBTG thành phố Hải Phòng.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, đội ngũ CBTG của Đảng bộ thành
phố Hải Phòng từng bước khẳng định mình về phẩm chất chính trị, đạo đức,
năng lực tư duy biện chứng, kỹ năng CTTT, trình độ chuyên môn, kinh

3


nghiệm công tác… hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị được giao. Thực tế
cho thấy vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ làm CTTG của thành phố
trong công tác, sinh hoạt còn bộc lộ những hạn chế từ cách tư duy đến cách
làm việc. Năng lực tư duy, lý luận chính trị, KNTT còn lạc hậu so với sự phát
triển của thực tiễn... Điều đó đã làm ảnh hưởng tới công tác tư tưởng, tuyên
truyền vận động cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân trong việc thực
hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
cũng như các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng.
Nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém trong cách tư duy, cách làm
việc, góp phần xây dựng phong cách làm việc khoa học, sáng tạo, hiệu quả
của cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH và hội
nhập quốc tế hiện nay. Mỗi cán bộ, đảng viên nhất là đội ngũ báo cáo viên các
cấp của thành phố cần phấn đấu nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ lý luận,
đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ để phát triển KNTT nhằm thực hiện hiệu quả
các nhiệm vụ chính trị có ý nghĩa quan trọng được Đảng giao phó.
Hiện nay, với sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thì việc phát
triển KNTT của đội ngũ CBTG nhằm tiếp tục phát huy những thành quả của
công tác tư tưởng và đấu tranh với những thủ đoạn “diễn biến hòa bình” là
tính tất yếu và cấp thiết, mang tính cấp bách và chiến lược lâu dài. Đồng thời,
phát triển KNTT cho đội ngũ CBTG góp phần nâng cao chất lượng nguồn lực
con người, hướng tới “phát triển nhanh, bền vững” của thành phố. Trước mắt
góp phần tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và Kết Luận 72
- KL/TW của Bộ chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 32 - NQ/TW của
Bộ Chính trị “về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Trong thời gian qua đã có không ít công trình nghiên cứu về tuyên truyền ở
các khía cạnh khác nhau, tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào đi sâu

nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống về KNTT của CBTG, đặc biệt là chưa có
4


đề tài nào tập trung nghiên cứu về KNTT của CBTG ở Thành phố Hải Phòng. Với
ý nghĩa đó, tác giả lựa chọn vấn đề: “Phát triển kỹ năng tuyên truyền cho cán bộ
tuyên giáo Thành phố Hải Phòng” làm đề tài luận văn thạc sĩ tâm lý học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Quan điểm của các nhà tâm lí học nước ngoài về tuyên truyền và
kĩ năng tuyên truyền
- Hướng nghiên cứu của các nhà tâm lý học phương Tây, nghiên cứu
về kỹ năng chủ yếu theo hướng Tâm lý học hành vi của J.Watson (1926) và
F.Skiner (1963), Tâm lý học chức năng của A.Pojoux (1926). Có thể kể đến
các công trình nghiên cứu của F.E.Weinert ( 1998) - “Sự phát triển nhận thức
trong học tập và giảng dạy” [51]; J.B.Bron và R.J.Stemberg (1987) - Teaching
thinking skills [53]; Lequenne, Mare (1994), nghệ thuật nói chuyện trước
công chúng [23]; công trình nghiên cứu về nghệ thuật diễn giảng của Swets,
Paul.W (1995), Nghệ thuật của bạn nói sao cho người nghe [43] ...
- Hướng nghiên cứu của các nhà tâm lý học Liên Xô và các nước Đông Âu
trước đây, đã tập trung nghiên cứu về kỹ năng và quá trình hình thành các kỹ năng
giảng dạy của người giáo viên. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu tiêu biểu
như: V.N.Cruchexki(1981), Những cơ sở tâm lý học [6]; M.N.Iacovliev (1975),
Phương pháp và kỹ thuật lên lớp [17]; X.I.Kixegof (1993), Hình thành các kỹ năng
và kỹ xảo sư phạm cho sinh viên trong điều kiện của nề giáo dục đại học [18];
A.B.Doullina (1992), Kỹ năng sư phạm [4]; Nghiên cứu về nghệ thuật tuyên truyền
miệng của M.M.Rakhomacunov [42]; Nghiên cứu về nghệ thuật phát biểu trước
công chúng của E.A.Nogin (1984) [40]; Nghiên cứu về các quy luật tâm lý trong
HĐTT của S.A.Nađirasvili [35]....
* Quan điểm của các nhà tâm lí học Việt Nam về tuyên truyền và kĩ
năng tuyên truyền

Ở trong nước, từ cuối những năm 80 thế kỷ XX, đã xuất hiện những
nghiên cứu đầu tiên về kỹ năng, tiêu biểu như công trình: “Người thầy giáo
5


trong sự nghiệp phát triển giáo dục” của nhóm tác giả Nguyễn Quang Uẩn,
Ngô Công Hoàn, Nguyễn Cương và Dương Xuân Trinh, Người thày giáo
trong sự nghiệp phát triển giáo dục, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước
(1987 - 1991), Đại học Sư phạm, [50]; Các công trình nghiên cứu về “kỹ năng
giao tiếp sư phạm của sinh viên” của Hoàng Thị Anh (1992), Luận án tiến sĩ,
Đại học Sư phạm Hà Nội [2].
Về HĐTT cũng có nhiều công trình nghiên cứu, tiếp cận ở các hướng
khác nhau:
- Hướng tập trung nghiên cứu về bản chất của tuyên truyền, vạch rõ cơ
sở tâm lý của HĐTT, bao gồm các tác giả như Phạm Minh Hạc (2001), Về
phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, [13]; Nguyễn Quang Uẩn, Mạc Văn Trang,
Nguyễn Thạc (1995), Giá trị, định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị.
Nxb Giáo dục, Hà Nội [36].
- Hướng tập trung nghiên cứu làm rõ những yêu cầu dưới góc độ tâm lý
học của HĐTT, luận giải các biện pháp nhằm tạo ra hiệu quả cho các hoạt
động tuyên truyền. Hướng này có thể kể đến các tác giả tiêu biểu như: Hoàng
Thị Anh [2]... tập trung nghiên cứu làm rõ những quy luật tâm lý được hình
thành và tác động trong quá trình tuyên truyền, những yêu cầu dưới góc độ
tâm lý học nhằm tạo ra hiệu quả cho tuyên truyền.
Ngoài ra còn có các tác phẩm viết về tuyên truyền dưới góc độ tiếp cận
nghề nghiệp như:“Tuyên truyền miệng, lý luận, tổ chức và phương pháp”
(1983), Nxb Sách giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội [47]; “Nguyên lý công tác
tư tưởng - tập 1 (1998), Nxb CTQG, Hà Nội [38] ...
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn về KNTT của CBTG Thành phố Hải
Phòng, từ đó đề xuất các biện pháp tâm lí-xã hội nâng cao KNTT của CBTG
Thành phố Hải Phòng hiện nay.
6


* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lí luận về KNTT của CBTG Thành phố Hải Phòng.
Phân tích, đánh giá thực trạng KNTT của CBTG Thành phố Hải Phòng
hiện nay.
Đề xuất các biện pháp tâm lí-xã hội phát triển KNTT cho CBTG Thành
phố Hải Phòng.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển kĩ năng tuyên truyền cho cán bộ tuyên giáo
* Khách thể nghiên cứu
Đội ngũ CBTG; cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của thành phố và đại
diện quần chúng nhân dân trên địa bàn Thành phố Hải Phòng
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Đề tài chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu các biểu hiện, mức
độ KNTT và các yếu tố ảnh hưởng đến KNTT của CBTG Thành phố Hải Phòng.
Phạm vi khảo sát: Luận văn tập trung khảo sát các khách thể: cấp thành
phố; 10 quận, huyện và 20 xã, phường, thị trấn của Thành phố Hải Phòng.
Thời gian khảo sát và các số liệu thu thập, xử lí tính từ năm 2014 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
KNTT của CBTG Thành phố Hải Phòng là một trong những phẩm chất
rất cần thiết góp phần nâng cao hiệu quả tuyên truyền, quá trình thực hiện
KNTT của CBTG chịu sự ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố thuộc về chủ thể và đối
tượng tuyên truyền, về điều kiện kinh tế, chính trị xã hội, sự quan tâm của

lãnh đạo, quản lí các cấp với hoạt động tuyên truyền..... Nếu làm rõ được biểu
hiện các loại KNTT, các yếu tố ảnh hưởng đến KNTT của CBTG, đánh giá
đúng thực trạng KNTT của CBTG thì sẽ tìm ra cơ sở khoa học cho việc xác
định những biện pháp phát triển KNTT cho CBTG, góp phần nâng cao hiệu
quả HĐTT ở Thành phố Hải Phòng hiện nay.
7


6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở phương pháp luận
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của ĐCSVN về tuyên truyền và
KNTT; đồng thời đề tài còn dựa vào các nguyên tắc phương pháp luận của
tâm lí học Mác xít như: nguyên tắc quyết định luận duy vật các hiện tượng
tâm lí, nguyên tắc thống nhất giữa tâm lí-ý thức và hoạt động, nguyên tắc phát
triển và nguyên tắc tiếp cận nhân cách.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của TLH:
Phương pháp quan sát: Tiến hành quan sát các hoạt động tuyên truyền
của CBTG để bổ sung vào các nhận định, đánh giá thực trạng.
Phương pháp toạ đàm, phỏng vấn: Tiến hành tọa đàm, phỏng vấn với
các đồng chí CBTG có nhiều kinh nghiệm trong HĐTT, cán bộ lãnh đạo, quản
lí cấp thành phố, quận, huyện về các nội dung liên quan tới đề tài.
Phương pháp điều tra bằng phiếu: Tiến hành lập phiếu trưng cầu ý
kiến các khách thể về các biểu hiện KNTT, yếu tố ảnh hưởng đến KNTT
và các biện pháp đã sử dụng để phát triển KNTT cho CBTG ở Thành phố
Hải Phòng.
Phương pháp phân tích kết quả hoạt động: Căn cứ vào kết quả của
HĐTT để phân tích, đánh giá mức độ đạt được các KNTT của CBTG.
Phương pháp nghiên cứu các tài liệu độc lập: Thông qua các tài liệu

thu thập được từ các nguồn khác nhau, tiến hành phân tích, tổng hợp, khái
quát hóa....để bổ sung làm rõ cơ sở lí luận, đánh giá thực trạng, đề xuất các
biện pháp phát triển KNTT cho CBTG.
Phương pháp xử lí số liệu bằng thống kê toán học: Tiến hành thu thập
các số liệu điều tra khảo sát, sử dụng các công thức toán thống kê và hệ số
tương quan để làm rõ thực trạng KNTT của CBTG ở Thành phố Hải Phòng.
8


Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Xin ý kiến chuyên gia là các nhà
khoa học, các cán bộ lãnh đạo, quản lí cấp trên có nhiều kinh nghiệm trong
hoạt động lãnh đạo, quản lí về các vấn đề có liên quan tới đề tài.
7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần làm sáng tỏ cơ sở lí luận trong hướng nghiên cứu về
vấn đề KNTT nói chung và KNTT của CBTG nói riêng ở thành phố.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp đội ngũ CBTG ở Thành phố Hải
Phòng phát triển KNTT, góp phần tích cực vào công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo phục vụ cho đội
ngũ CBTG của Thành phố Hải Phòng trong quá trình công tác.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, luận văn kết cấu gồm 2 chương (6 tiết), kết luận,
kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG TUYÊN TRUYỀN
CHO CÁN BỘ TUYÊN GIÁO THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng Sản Việt Nam về tuyên truyền
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tuyên truyền
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì tuyên truyền là nhằm
giáo dục, huấn luyện quần chúng, làm cho quần chúng giác ngộ, có ý chí quyết
tâm thực hiện được công việc lâu dài, gian khó là phá bỏ tất cả những cản trở
của chế độ cũ, xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn, vì thế HĐTT cần
thiết và quan trọng với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản. Trong thư gửi
L.Cughen-man, C.Mác đã khẳng định: Công tác tuyên truyền có ảnh hưởng
trực tiếp đến gia cấp vô sản Anh và có một tầm quan trọng rất to lớn. Để tuyên
truyền thành công, cần xuất phát từ thực tế, cần phải biết “đánh thức lý tính”
trong con người và biết tránh căn bệnh hình thức chủ nghĩa”.
Theo V.I.Lênin, tuyên truyền phải được coi là một trong những nhiệm
vụ lớn lao của giai cấp vô sản nhằm thức tỉnh mọi tầng lớp quần chúng nhân
dân trong xã hội. Muốn tuyên truyền thành công, người đi tuyên truyền phải
có KNTT mà trước hết là có trình độ tri thức, có nghệ thuật sáng tạo, có nội
dung sát hợp và có khả năng vận dụng linh hoạt, “phải biết cách làm công tác
tuyền truyền sao cho dễ tiếp thu nhất, dễ hiểu nhất, rõ ràng nhất và sinh động
nhất cả đối với phố thợ thuyền, nhà máy lẫn đối với vùng nông thôn” [48,
tr.177]. V.I.Lênin đã nhắc nhở những người làm tuyên truyền: “Hãy bớt lải
nhải về chính trị, mà quan tâm hơn nữa đến những sự việc bình thường nhất
nhưng sinh động, rút ra trong đời sống kiểm nghiệm” [20, tr.15].
Như vậy, các nhà kinh điển Mác xít tuy không đề cập trực tiếp đến
KNTT những đã chỉ ra những yêu cầu cơ bản đối với cán bộ tuyên truyền là:
Phải có tri thức (nắm vững lý luận cách mạng, đường lối, chủ trương
của đảng lãnh đạo; có kiến thức toàn diện vững chắc).
10


Linh hoạt mềm dẻo, sáng tạo, đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của mọi tầng

lớp nhân dân.
Có phương pháp phù hợp, có sức thuyết phục với quần chúng, luôn gần
gũi quần chúng và được quần chúng tín nhiệm.
Luôn gương mẫu, mô phạm về đạo đức, lối sống, nói đi đôi với làm.
Được đào tạo (có chuyên môn về nghiệp vụ tuyên truyền), có tinh thần
tự học tập, phấn đấu vươn lên không ngừng.
Những quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin có ý nghĩa định hướng
phương pháp luận để có thể nghiên cứu, xây dựng lý luận ngày càng hoàn chỉnh
hơn về KNTT.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về tuyên truyền
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về tuyên truyền
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng tới công tác tuyên
truyền. Người xem đó là công cụ quan trọng để giác ngộ, thống nhất ý trí,
hành động trong dân chúng, tạo ra lực lượng hùng hậu cho cách mạng, phục
vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Theo
Người, mục đích tuyên truyền là “đem một việc gì đó nói cho dân hiểu, dân
nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó là tuyên truyền thất
bại”. Để đạt được mục đích tuyên truyền nói trên, người làm tuyên truyền
phải chuẩn bị kỹ nội dung, những vấn đề cần nói, cần viết.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi người làm
tuyên truyền phải quán triệt, hoàn thành tốt nhiệm vụ, như “người tuyên
truyền phải nắm vững đối tượng được tuyên truyền, vì dân chúng không nhất
luận như nhau, trong dân chúng cũng có nhiều tầng lớp khác nhau, ý kiến
khác nhau, có lớp tiên tiến, có lớp lưng chừng, có lớp lạc hậu, nếu người
tuyên truyền không điều tra, không phân tích, không nghiên cứu, không hiểu
biết quần chúng, chỉ gặp sao nói vậy, bạ gì viết nấy, nhất định thất bại”.
Với quan điểm “Dân là gốc của tuyên truyền”, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng, cách tuyên truyền phù hợp và có hiệu quả nhất với dân chính là
11



cách tuyên truyền của nhân dân, vì cách nói của dân chúng rất đầy đủ, rất hoạt
bát, rất thiết thực mà lại rất đơn giản.
Trong hoạt động tuyên truyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường rất coi
trọng việc nêu gương người tốt, việc tốt trong cán bộ đảng viên, quần chúng,
những nhân tố tích cực ở cơ sở để giáo dục. Người nói “một tấm gương sống
còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
* Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tuyên truyền
ĐCSVN ngay từ khi mới thành lập đã nhận thức rõ tầm quan trọng của
công tác tuyên truyền, coi đây là vũ khí sắc bén, là bộ phận xung kích trong
sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trong “án quyết Trung ương toàn thể hội
nghị lần thứ 2”, ngày 02/3/1931 ĐCSVN đã xác định “Sự cổ động, tuyên
truyền là rất quan trọng cho Đảng trong cuộc đấu tranh để thu phục quần
chúng, để thu phục đại đa số thợ thuyền và lãnh đạo giai cấp đấu tranh”. Ngày
01/8/1931, Đảng đã có văn bản của Ban cổ động và tuyên truyền về việc tổ
chức tuyên truyền cho ngày quốc tế đỏ (ngày 01/8 được lấy làm ngày truyền
thống của ngành tư tưởng văn hoá).
ĐCSVN luôn coi trọng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực nói chung, đội
ngũ cán bộ tuyên truyền nói riêng, coi đây là một trong những yếu tố có vai
trò quyết định đến thành bại của sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đại hội
XII của Đảng khẳng định, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao
hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả công tác tư tưởng; đẩy
mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp
với từng đối tượng theo hướng thiết thực, hiệu quả. Đặc biệt, có nội dung
quan trọng trong xây dựng Đảng về tư tưởng, Đảng ta tiếp tục dành mối quan
tâm rất lớn là phải đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đây là vấn đề hệ trọng liên quan
trực tiếp tới vận mệnh của Đảng và sự an nguy của chế độ.

12


Tại Hội nghị tổng kết công tác tư tưởng văn hoá năm 2015, đồng chí
Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng đã phát
biểu: Trong hơn 70 năm hoạt động và lãnh đạo nhân dân làm cách mạng,
Đảng ta luôn luôn khẳng định: “Công tác tư tưởng là một trong những lĩnh
vực trọng yếu của Đảng, để lãnh đạo cách mạng trong từng giai đoạn, tuyên
truyền giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách
mạng ... Đảng ta luôn coi công tác tư tưởng văn hóa như một sức mạnh to lớn,
một vũ khí sắc bén trong tiến trình cách mạng”.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm kỹ năng (Skill)
Kỹ năng (Skill) là một phạm trù chỉ trình độ, cấp độ thực hiện một loại
hoạt động (hành động) nào đó trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Kỹ
năng là một biểu hiện năng lực của con người ở một cấp độ nhất định, kỹ
năng bao gìơ cũng gắn với một hoạt động hay hành động cụ thể hoặc có liên
quan tới hoạt động, hành động, vì thế, khi nói đến kỹ năng thì bao giờ cũng là
kỹ năng hoạt động hay kỹ năng hành động và luôn gắn với điều kiện, phương
tiện xác định.
Ngay từ thời cổ đại, Aritxtot ( 384-322) trong cuốn “Bàn về tâm hồn”
đã có quan tâm nghiên cứu đến kỹ năng hoạt động của con người, theo ông
phẩm hạnh của con người là biết định hướng, biết làm việc, biết tìm tòi. Như
vậy theo quan niệm của Aritxtot, con người có phẩm hạnh là con người có kỹ
năng làm việc. Tuy nhiên phạm trù kỹ năng chỉ được nghiên cứu sâu và cụ thể
từ thế kỷ XIX và theo hướng tiếp cận khác nhau.
Dựa trên kết quả nghiên cứu về tâm lý học hoạt động, các tác giả như
X.L.Rubinstein, B.M.Chieplov, L.X.Vưgotxky, A.N.Leonchiev, PIa.Galperin và
V.V.Đavưdov ... đã đưa ra quan niệm coi kỹ năng chủ yếu là một mặt của năng
lực hành động, kỹ năng hành động đồng nghĩa với hành động có kỹ năng [11].

V.A.Cruchetxki cho rằng: kỹ năng là phương thức thực hiện hành động đã
được con người nắm vững, theo ông, chỉ cần vững phương thức hành động là
con người đã có kỹ năng, không cần tính đến kết quả của hành động [6, tr.40].
13


A.G.Covaliov quan niệm: kỹ năng là phương thức thực hiện hành động
thích hợp với mục đích và những điều kiện hành động. Theo ông, kết quả
hành động phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng hơn cả là năng lực
của con người, chứ không đơn giản là cứ nắm vững cách thức hành động thì
đem lại kết quả tương ứng. Khi phân tích con đường hình thành, hoàn thiện và
phát triển năng lực của con người, A.G.Covaliov cho rằng: “dạy học và giáo
dục có vai trò đặc biệt giúp rút ngắn thời gian hình thành và phát triển năng
lực” [6, tr.122].
Một số tác giả như: K.K.Platonov và A.I.Piscunov ... khi nghiên cứu kỹ
năng lại chú ý tới mặt kết quả của hành động. Theo các ông, kỹ năng là năng
lực của con người thực hiện công việc có kết quả với một chất lượng cần thiết
trong những điều kiện và những khoảng thời gian tương ứng. Các ông cũng chỉ
ra rằng bất kỳ một kỹ năng nào cũng bao gồm cả biểu tượng về khái niệm, vốn
tri thức, kỹ năng, khả năng tự kiểm tra, điều chỉnh quá trình hành động. Trong
quá trình hình thành kỹ năng, các biểu tượng về khái niệm sẽ được mở rộng ra,
được làm sâu sắc hơn, hoàn thiện hơn và được “dày lên hơn” bằng những nhân
tố mới. K.K.Platonov và A.I.Piscunov còn khẳng định kỹ năng được hình thành
trên cơ sở vốn tri thức, kỹ xảo, đồng thời còn bao gồm cả việc thông hiểu mối
quan hệ qua lại giữa mục đích hành động, các điều kiện hành động và các cách
thức hành động. Như vậy theo các ông, trong cấu trúc kỹ năng, không chỉ bao
hàm tri thức, kỹ xảo mà còn cả tư duy sáng tạo.
X.I.Kixegof trong công trình nghiên cứu về quá trình hình thành kỹ
năng sư phạm cho các sinh viên đại học đã chia quá trình này ra 2 giai đoạn:
Thực hành luyện tập (hình thành các kỹ năng “nguyên sinh” và “thứ phát”),

tập sự- thực tập sư phạm cuối khoá (hình thành các kỹ năng “thứ sinh”). Ông
đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng các bài tập luyện cho việc hình thành
từng loại kỹ năng riêng biệt [18, tr.37-50].
N.D.Levitov quan niệm: người có kỹ năng hoạt động là người nắm
được và vận dụng đúng đắn các cách thức hành động nhằm thực hiện hành
14


động có kết quả. Để hình thành kỹ năng, con người không chỉ cần nắm lý
thuyết về hành động mà còn phải biết vận dụng vào thực tế.
Nghiên cứu về kỹ xảo, kỹ năng trong hoạt động thể thao, P.A.Rudik
cho rằng: nếu không có kỹ năng thì người ta không thể hành động tốt được và
theo ông, kỹ năng được hình thành và phát triển hoàn chỉnh trong quá trình
học tập, giáo dục và kinh nghiệm cuộc sống. P.A.Rudick cũng cho rằng kỹ
năng có hai mặt là bản lĩnh và kỹ xảo.
Trần Trọng Thuỷ cho rằng: kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành động, con
người nắm được cách hành động tức là có kỹ thuật hành động, có kỹ năng.
Nghiên cứu quá trình phát triển các kỹ năng trong dạy học môn sinh
học, Trần Bá Hoành đưa ra quan niệm: “Kỹ năng là khả năng vận dụng những
tri thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tiễn” [16, Tr.6].
Ông khẳng định: kỹ năng là sản phẩm của quá trình đào tạo, rèn luyện (bao
gồm cả tự đào tạo, tự rèn luyện) [16, Tr.6].
Các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Ngô Công Hoàn, Nguyễn Ánh Tuyết,
Trần Anh Tuấn ... nghiên cứu về kỹ năng trong hoạt động sư phạm đã cho
rằng: kỹ năng là sự thực hiện có kết quả một động tác hay một hoạt động
phức tạp hơn bằng cách áp dụng hay lựa chọn những cách thức đúng đắn có
chiếu cố những điều kiện nhất định [50].
Trong “Từ điển Tâm lý học” do Vũ Dũng chủ biên đã định nghĩa: “Kỹ
năng là năng lực vận dụng có kết quả những tri thức về phương thức hành động đã
được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng” [8, tr.131].

Từ những nghiên cứu trên đây có thể rút ra:
Bất cứ hành động nào cũng có mục đích cụ thể, để đạt tới mục đích đã
định, con người cần tiến hành thực hiện một hệ thống các thao tác theo những
quy trình nhất định. Để hành động có kết quả, con người phải có tri thức cần
thiết về mục đích, về cách thức hành động, đồng thời phải có những điều kiện
cần thiết để triển khai cách thức đó. Tuy nhiên, nếu chỉ có tri thức thôi thì
15


chưa đủ, con người còn phải biết cách vận dụng những tri thức đó vào từng
hoàn cảnh cụ thể để thực hiện hành động có kết quả, chỉ khi đó con người mới
đạt đến kỹ năng hành động. Vì thế, có thể quan niệm:
Kỹ năng là trình độ vận dụng một cách có hiệu quả những tri thức về
phương thức hành động của chủ thể trong những hoàn cảnh khác nhau để
thực hiện mục tiêu đã đề ra.
Kĩ năng không chỉ đơn thuần là mặt kĩ thuật của hành động mà còn là
biểu hiện trình độ năng lực của chủ thể hành động.
Khi nghiên cứu về kỹ năng cần lưu ý những khía cạnh sau:
Thứ nhất, khi xem xét kỹ năng phải luôn gắn với một hành động hay hoạt
động cụ thể nào đó và kỹ năng phải được xem như là đặc điểm của hành động, ví
dụ như: kỹ năng học tập, kỹ năng giao tiếp, KNTT ... Không có kỹ năng chung
chung, trừu tượng, tách rời hành động. Kỹ năng trước hết phải được hiểu là mặt
kỹ thuật của hành động, biểu hiện mức độ đúng đắn và thành thục của hành
động. Kỹ năng không có mục đích riêng, mục đích của kỹ năng là mục đích của
hành động. Kỹ năng hành động đồng nghĩa với hành động có kỹ năng.
Thứ hai, cơ chế hình thành kỹ năng là cơ chế hình thành hành động trí
óc theo giai đoạn. Để hình thành được kỹ năng hành động, bao giờ cũng phải
biết triển khai hành động ở dạng khái quát nhất, đầy đủ nhất, đồng thời luyện
tập dạng này trong các tình huống khác nhau đến mức cá nhân có thể nắm
được các quy tắc, quy luật chung của hành động và có thể triển khai nó ở

dạng khác xa với dạng ban đầu.
Thứ ba, xét về mặt kết quả hình thành, để đánh giá một cá nhân có kỹ
năng hành động nào đó, phải dựa vào những tiêu chuẩn như: cá nhân phải
hiểu rõ được mục đích của hành động cũng như các yếu tố (cách thức, điều
kiện, phương tiện) để triển khai hành động đó, biết triển khai hành động đúng
đắn và thành thục trong thực tiễn. Một hành động còn phạm lỗi hay tốn nhiều
thời gian, sức lực thì chưa thể là hành động có kỹ năng. Để có kỹ năng hành
16


động, cá nhân không chỉ dừng lại ở mức hiểu biết sâu sắc về hành động (mục
đích, ý nghĩa, tri thức, cách thức tiến hành ...), mà cái quyết định là ở khả
năng triển khai hành động trong thực tiễn bảo đảm đúng logic cần thiết, đáp
ứng được nhu cầu của những hoàn cảnh khác nhau. Nói như K.K.Platonov là
“Dấu hiệu đặc trưng của kỹ năng là khả năng thay đổi thao tác, hành động
trong các điều kiện thay đổi”.
Thứ tư, xét về cấu trúc của kỹ năng phụ thuộc vào cấu trúc của hoạt
động mà chủ thể đang thực hiện. KNTT phụ thuộc cấu trúc tâm lý của HĐTT.
Kỹ năng của hành động không phải là cái được di truyền, không phải là
bẩm sinh, có sẵn toàn bộ, mà được hình thành và phát triển cơ bản trong quá
trình chủ thể nắm vững và thực hiện hành động, hoạt động đó.
Căn cứ vào mức độ sáng tạo, linh hoạt (ý thức hoá) các nhà tâm lý học
phân chia kỹ năng thành kỹ năng đơn giản và kỹ năng phức tạp.
Kỹ năng đơn giản là năng lực thực hiện đúng hành động, hoạt động phù
hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể, ít có sự sáng tạo, linh hoạt. Đặc
trưng có bản của kỹ năng đơn giản là mức độ phức tạp của tình huống hoạt
động thấp, các tri thức không cần phải biến đổi nhiều mà vẫn tạo điều kiện
hoàn thành một thao tác nhất định. Kỹ năng giản đơn mới đạt yêu cầu biết
làm, chưa đảm bảo được cho hoạt động đạt tới thành công trong những tình
huống phức tạp. Kỹ năng đơn giản có quan hệ chặt chẽ, là cơ sở hình thành kỹ

xảo và kỹ năng phức tạp.
Kỹ năng phức tạp là năng lực áp dụng kiến thức, phương thức hành
động một cách sáng tạo, linh hoạt để thực hiện hành động, hoạt động trong
các điều kiện, hoàn cảnh biến đổi phức tạp. Đặc điểm của kỹ năng phức tạp là
việc kiểm tra chặt chẽ tính tích cực của ý thức con người nắm vững các
phương thức đã được khái quát trong việc thực hiện các nhiệm vụ khác nhau.
Trong kỹ năng phức tạp, yếu tố linh hoạt, sáng tạo là tiêu chí cơ bản, là cơ sở
cho mọi hành động đạt được kết quả cao. Để có kỹ năng phức tạp về một
hành động nào đó, chủ thể hành động phải thoả mãn được những yêu cầu sau:
17


Có tri thức về hành động đó (nắm được mục đích, cách thức, các điều
kiện để thực hiện hành động).
Tiến hành hành động theo đúng quy trình.
Đạt kết quả hành động không chỉ trong điều kiện quen thuộc mà cả
trong những điều kiện khác.
1.2.2. Khái niệm kĩ năng tuyên truyền
Thuật ngữ tuyên truyền, tiếng La tinh là Propaganda, nghĩa là một hoạt
động xã hội đặc biệt nhằm truyền bá một quan điểm vào nhận thức, thái độ
của cá nhân, tập thể, tầng lớp, giai cấp nào đó trong xã hội. Thuật ngữ tuyên
truyền xuất hiện khoảng 400 năm trước dùng để chỉ hoạt động của các nhà
truyền giáo nhằm thuyết phục, lôi kéo những người khác theo đạo Ki-tô, sau
này thuật ngữ tuyên truyền được sử dụng để biểu đạt các hoạt động nhằm tác
động đến suy nghĩ, tư tưởng của người khác và định hướng hành động của họ
theo một khuynh hướng nhất định.
Trong Từ điển chính trị do B.N.Pônômarep (chủ biên): “Tuyên truyền
là giải thích, phổ biến một tư tưởng, học thuyết, lý luận chính trị nhất định
nào đó, tuyên truyền mang tính quần chúng và tính Đảng”.
Trong Từ điển Tiếng Việt: “Tuyên truyền là giải thích rộng rãi để thuyết

phục mọi người tán thành, ủng hộ, làm theo” [49, tr.1031].
Theo nghĩa hẹp thì tuyên truyền là sự “truyền bá hệ tư tưởng chính trị
nhằm hình thành ở quần chúng một thế giới quan nhất định”.
Trong tác phẩm “Người tuyên truyền và cách tuyên truyền” Hồ Chí Minh
viết: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân
làm” [31, tr.167].
Mục đích của tuyên truyền là tác động lên những biểu hiện tâm lý tĩnh
của con người, hình thành ở đối tượng tuyên truyền thế giới quan, kiến thức,
niềm tin. Kết quả của tuyên truyền biểu hiện ở: kiến thức, quan điểm và niềm
tin của đối tượng tuyên truyền. Cùng với việc truyền bá hệ thống tri thức cho
18


người nghe, quá trình tiến hành tuyên truyền còn đồng thời hình thành ở đối
tượng tuyên truyền hệ thống các mối quan hệ tích cực trong ý thức của họ đối
với sự vật hiện tượng. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng và xét cho
cùng, đây là mục đích lớn nhất của HĐTT. Nói cách khác, tuyên truyền đã
góp phần hình thành, hoàn thiện nhân cách cho đối tượng tuyên truyền.
Hiểu rõ vấn đề này có ý nghĩa rất to lớn đối với chủ thể tuyên truyền,
chỉ ra cho họ thấy HĐTT mà họ tiến hành là công việc nhằm tác động một
cách có chủ định và theo ý muốn đến hành vi của đối tượng, xây dựng thế
giới quan đúng đắn, hướng sự phát triển nhân cách theo con đường và mô
hình mong muốn, thay thế những đặc điểm nhân cách tiêu cực bằng những
đặc điểm nhân cách tiến bộ, hình thành những mối quan hệ tích cực đối với
những giá trị xã hội, những nguyên tắc tư tưởng và chính trị tiên tiến, củng cố
những quan điểm, chính kiến, tâm thế theo hướng tích cực, từ đó thúc đẩy đối
tượng hành động theo mục tiêu đã định.
Từ cơ sở những phân tích trên, có thể quan niệm: Tuyên truyền là hoạt
động của chủ thể nhằm phổ biến, giải thích và thuyết phục về một nội dung, một
vấn đề nào đó làm cho đối tượng được tuyên truyền tán thành, tin theo và làm

theo nội dung được tuyên truyền.
HĐTT là hoạt động có mục đích của chủ thể tuyên truyền nhằm phổ biến,
giải thích và thuyết phục về một nội dung, một vấn đề nào đó làm cho đối tượng
được tuyên truyền tán thành, tin theo và làm theo nội dung được tuyên truyền.
Quá trình tuyên truyền là thực hiện mối quan hệ tác động qua lại giữa chủ thể
tuyên truyền và đối tượng tuyên truyền.
Để có thể tiến hành tuyên truyền thành công cho những đối tượng khác
nhau, trong những hoàn cảnh, điều kiện và tình huống không giống nhau, chủ thể
tuyên truyền trước hết phải nắm được kiến thức về HĐTT, có tri thức về lĩnh vực
tuyên truyền, nắm được những quy luật tâm lý của HĐTT, có kỹ năng giao tiếp,
thành thạo các thao tác tuyên truyền, rèn luyện được phương pháp tuyên truyền
19


sinh động, hiệu quả, biết vận dụng linh hoạt tri thức và các phương thức tuyên
truyền đã có vào những hoàn cảnh, điều kiện, đối tượng cụ thể để tuyên truyền đạt
hiệu quả. Đồng thời, chủ thể tuyên truyền phải có những phẩm chất nhân cách phù
hợp với yêu cầu của HĐTT và không ngừng hoàn thiện các phẩm chất đó để có
thể đạt được mục tiêu tuyên truyền đã đề ra.
Khi chủ thể tuyên truyền tích luỹ, rèn luyện và hoàn thiện thao tác tuyên
truyền của bản thân đạt đến trình độ nhất định, được coi là người có KNTT. Tuyên
truyền không thuần tuý là hoạt động truyền thụ thông tin mà còn đòi hỏi phải làm
cho đối tượng được tuyên truyền tin theo, làm theo những nội dung tuyên truyền,
nói cách khác, tuyên truyền là nghệ thuật chinh phục trái tim, khối óc người nghe.
Hoạt động tuyên truyền được tiến hành cho nhiều đối tượng, trong những hoàn
cảnh, điều kiện thường xuyên thay đổi, vì thế, KNTT của chủ thể tuyên truyền
phải là kỹ năng phức tạp, mang tính sáng tạo, linh hoạt rất cao.
Chủ thể tuyên truyền được coi là có KNTT khi:
Có tri thức về phương thức tuyên truyền và nội dung tuyên truyền mà biểu
hiện cụ thể là:

Có tri thức toàn diện, vững chắc về vấn đề tuyên truyền để chuẩn bị, xây
dựng được nội dung tuyên truyền một cách đầy đủ, chính xác, đáp ứng đúng nhu
cầu cơ bản, niềm tin, tâm thế và nguyện vọng của đối tượng tuyên truyền.
Có tri thức về đối tượng tuyên truyền (đặc điểm lứa tuổi, đặc thù nghề
nghiệp, nhu cầu, động cơ, thái độ, trình độ, quan điểm chính trị ...) để từ đó xác
định tuyên truyền cho ai? tuyên truyền như thế nào?
Có tri thức về môi trường tuyên truyền (cả môi trường vật lý, môi trường
tâm lý, môi trường xã hội và môi trường văn hoá), hiểu được ảnh hưởng của môi
trường tuyên truyền đến hiệu quả tuyên truyền.
Có tri thức về những quy luật tâm lý trong HĐTT (quy luật nhận thức, quy
luật cái mới, quy luật phát triển, quy luật đứng đầu, quy luật tâm thế ...).

20


Có tri thức về các hiện tượng tâm lý tập thể xảy ra trong quá trình tuyên
truyền (sự bắt chước, khuynh hướng lựa chiều, ảnh hưởng của nhóm chuẩn, hiệu
quả của sự hợp thức hoá).
Thành thạo quy trình tiến hành tuyên truyền, được biểu hiện ở khả năng
thực hiện có hiệu quả các thao tác cơ bản như:
Xác định mục đích, nội dung tuyên truyền.
Xác định đối tượng, hoàn cảnh tuyên truyền.
Xây dựng đề cương tuyên truyền.
Chuẩn bị nội dung tuyên truyền.
Tổ chức hoạt động tuyên truyền.
Xử lý các tình huống trong tuyên truyền.
Khai thác sử dụng các trang thiết bị phục vụ cho tuyên truyền.
Có những phẩm chất nhân cách phù hợp với hoạt động tuyên truyền
Có kỹ năng giao tiếp để thực hiện có hiệu quả quá trình tuyên truyền biểu
hiện cụ thể là:

Có khả năng nắm bắt, đánh giá tâm lý đối tượng chính xác.
Có khả năng điều khiển quá trình giao tiếp
Xử lý các tình huống giao tiếp mềm dẻo, linh hoạt.
Như vậy có thể quan niệm: KNTT là trình độ vận dụng một cách có hiệu
quả những tri thức về phương thức tuyên truyền đã có của chủ thể vào những
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nhằm đạt được mục tiêu tuyên truyền đã đề ra.
Chủ thể tuyên truyền đạt được KNTT khi những tri thức về phương
thức tuyên truyền của bản thân không phải còn ở dạng nguyên liệu “thô mộc”
rời rạc, mà đã được nhào nặn, tinh chế để trở thành một hợp chất tổng hợp,
bảo đảm cho người đi tuyên truyền có thể vận dụng, khai thác một cách linh
hoạt, sáng tạo, phù hợp và hiệu quả vào những tình huống, hoàn cảnh khác
nhau. Khi nói đến KNTT là nói đến trình độ vận dụng tri thức về phương thức
tuyên của chủ thể tuyên truyền làm cho HĐTT được phát lộ ra thành hiệu quả
hiện thực, trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
21


1.2.3. Kĩ năng tuyên truyền của cán bộ tuyên giáo thành phố Hải Phòng
Theo định nghĩa của Ban Tuyên giáo Trung ương: “Công tác tuyên giáo
là cụm từ chỉ các hoạt động tham mưu, chỉ đạo, kiểm tra của tổ chức đảng về
lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và khoa giáo. Công tác tuyên giáo được tiến hành tại
tất cả các cấp, các ngành, các địa phương, cơ quan, đơn vị, trường học, lực
lượng vũ trang…, trong đó công tác tuyên giáo ở cơ sở có vai trò đặc biệt quan
trọng bởi vai trò nền tảng trong hệ thống chính trị ở nước ta” [7, tr.7].
Khái niệm cán bộ tuyên giáo: là toàn bộ cán bộ, đảng viên thuộc
các tổ chức của hệ thống chính trị, dưới vai trò lãnh đạo của ĐCSVN tham
gia hoạt động tham mưu, chỉ đạo, tuyên truyền, kiểm tra các tổ chức đảng
về lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, khoa giáo được tiến hành ở các cấp, các
ngành, các địa phương, cơ quan, đơn vị, trường học, lực lượng vũ trang ...
Vị trí, vai trò, nhiệm vụ và nguyên tắc hoạt động của cán bộ tuyên giáo

Vị trí của cán bộ tuyên giáo: là một bộ phận hợp thành trong hoạt động
lãnh đạo của tổ chức đảng, của chính quyền và các tổ chức, đoàn thể trong hệ
thống chính trị; có vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giữ vững và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển kinh tế, chính trị, văn
hóa; xây dựng hệ thống chính trị phát triển vững mạnh, toàn diện.
Vai trò của cán bộ tuyên giáo: nhằm xây dựng tổ chức cơ sở đảng
trong sạch, vững mạnh, có sức chiến đấu cao và không ngừng nâng cao
năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị; c ó vai trò quan
trọng hàng đầu trong việc đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đến với mỗi người dân; khơi dậy và phát huy tinh
thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tính chủ động, sáng tạo của quần chúng
nhằm biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thành hiện thực,
thành phong trào hành động cách mạng của quần chúng; tạo nên sự thống
nhất cao trong tổ chức đảng, sự đồng thuận trong xã hội, góp phần giữ
vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
22


Nhiệm vụ cơ bản của cán bộ tuyên giáo:
Một là, giáo dục mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng,
làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân có nhận thức đúng đắn, kiên định,
vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức. Kiên quyết đấu tranh chống
những quan điểm sai trái, thù địch; ngăn ngừa ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ
hội dưới mọi màu sắc.
Hai là, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn góp phần phát triển, hoàn thiện
đường lối và con đường đi lên CNXH của Việt Nam. Tiến hành phổ biến, quán
triệt sâu rộng các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Ba là, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, kiến thức và
năng lực thực tiễn của cán bộ, đảng viên và nhân dân, khắc phục những biểu

hiện của chủ nghĩa thực dụng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, thực hiện có hiệu quả việc "Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh".
Bốn là, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, góp phần xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
con người mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng XHCN.
Năm là, xây dựng và phát huy nhân tố con người qua thực hiện tốt
các lĩnh vực khoa giáo ở cơ sở. Chỉ đạo, hướng dẫn, cổ vũ thúc đẩy
phong trào thi đua yêu nước và các phong trào xã hội khác, coi trọng
việc bồi dưỡng, nhân rộng các điển hình, nhân tố mới, góp phần hoàn
thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn.
Sáu là, giáo dục ý thức cảnh giác, chống các hoạt động “diễn biến hòa
bình”, cơ hội chính trị, lôi kéo, chia rẽ sự đoàn kết toàn. Kịp thời giải quyết
các mâu thuẫn nội bộ nhân dân, không để xảy ra khiếu kiện kéo dài, khiếu
kiện tập thể, không có điểm nóng.
23


Nguyên tắc hoạt động:
Nguyên tắc tính đảng: Tính đảng là nguyên tắc cơ bản nhất của CBTG.
CBTG phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, bảo vệ và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của
Đảng; chủ động đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng thù địch,
phản khoa học, đi ngược lại với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc.
Nguyên tắc tính khoa học: Hoạt động của CBTG được tiến hành trên cơ
sở khoa học, tuân theo các quy luật vận động, biến đổi của lĩnh vực tư tưởng.
Nguyên tắc tính khoa học yêu cầu CBTG phải có kế hoạch, nội dung và hình
thức phù hợp với từng đối tượng, đáp ứng nhu cầu giải đáp vướng mắc và
định hướng tư tưởng cho mọi đối tượng. CTTT phải sử dụng các phương tiện

tác động ngày càng hiện đại.
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn: CTTT, tuyên giáo
phải xuất phát từ thực tiễn và phục vụ thực tiễn; đồng thời phải được soi
sáng, định hướng bằng lý luận, được chỉ đạo, tổ chức thực hiện một cách
khoa học. Tổng kết thực tiễn là nhiệm vụ và phương thức căn bản để thực
hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong CTTT, khắc phục chủ
nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm.
Thực hiện đúng đắn và đầy đủ những nguyên tắc trên là yêu cầu chung
của CTTT của Đảng. Nó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng và hiệu quả CTTT của Đảng nói chung và ở cơ sở nói riêng.
Hệ thống tổ chức tuyên giáo các cấp bao gồm:
- Trung ương: Ban Tuyên giáo Trung ương.
- Tỉnh, Thành phố và các đơn vị trực thuộc Trung ương: Ban Tuyên
giáo Tỉnh, Thành uỷ, Ban Tuyên giáo đơn vị trực thuộc Trung ương.
- Quận, huyện và các đơn vị trực thuộc các đơn vị trực thuộc Tỉnh,
Thành: Ban Tuyên giáo Quận uỷ, Huyện uỷ, Ban Tuyên giáo đơn vị trực
thuộc Tỉnh, Thành.
24


- Xã, phường và các đơn vị trực thuộc quận, huyện: Ban Tuyên giáo
(Cán bộ phụ trách CTTG kiêm nhiệm và bán chuyên trách).
Như vậy, CTTG của Đảng là hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng
nhằm xác lập, phát triển hệ tư tưởng XHCN, hình thành niềm tin, định hướng
giá trị xã hội đúng đắn, góp phần xây dựng thế giới quan khoa học và tư
tưởng, tình cảm, nhân cách, đạo đức lối sống, tri thức, bảo đảm con người có
hành động tích cực và chủ động, sáng tạo để thực hiện thắng lợi lý tưởng,
mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; nhằm thực hiện đường lối của Đảng, phát
huy sức mạnh của toàn dân, chăm lo nhân tố con người, đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực; nghiên cứu vận dụng, đưa nhanh các tiến bộ khoa học, công

nghệ vào sản xuất để tăng trưởng kinh tế. Trong giai đoạn này là đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh theo định hướng XHCN.
Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của hoạt động tuyên truyền ở thành phố
Hải Phòng là tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát:
Tổ chức nghiên cứu, tuyên truyền, quán triệt, hướng dẫn triển khai thực
hiện nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Đảng; kiểm tra, giám sát các tổ
chức đảng, các ban, ngành, đoàn thể trong việc thực hiện các nghị quyết, chỉ
thị, quy định, quy chế của Trung ương trong lĩnh vực tuyên giáo.
Tổ chức bồi dưỡng lý luận chính trị, thông tin thời sự, tuyên truyền
chính sách theo các chương trình của Trung ương và Thành uỷ. Bồi dưỡng và
hướng dẫn nghiệp vụ công tác tuyên giáo cho ban tuyên giáo các cấp trực
thuộc thành uỷ; các đảng bộ cơ sở, trung tâm bồi dưỡng chính trị quận, huyện,
thành phố.
Tổ chức mạng lưới báo cáo viên, tuyên truyền viên, cộng tác viên dư
luận xã hội từ thành phố đến cơ sở; hướng dẫn, kiểm tra nội dung thông tin
của các phương tiện thông tin đại chúng, các nhà xuất bản do địa phương
quản lý. Hướng dẫn theo dõi, kiểm tra nội dung tuyên truyền để tham mưu, đề
25


×