Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ PHÁT TRIỂN kết cấu hạ TẦNG PHỤC vụ PHÁT TRIỂN các KHU CÔNG NGHIỆP ở TỈNH bắc NINH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (606.56 KB, 101 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Kết cấu hạ tầng
Khu công nghiệp
Kinh tế - xã hội

Chữ viết tắt
CNH, HĐH
KCHT
KCN
KT - XH


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ
TẦNG PHỤC VỤ CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở
TỈNH BẮC NINH
1.1. Kết cấu hạ tầng, kết cấu hạ tầng phục vụ các khu công nghiệp
1.2. Quan niệm, nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến phát

10
10

triển kết cấu hạ tầng phục vụ các khu công nghiệp ở tỉnh


Bắc Ninh
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG PHỤC

18

VỤ CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH BẮC NINH
2.1. Thành tựu, hạn chế trong phát triển kết cấu hạ tầng phục

33

vụ các khu công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
2.2. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong phát triển kết

33

cấu hạ tầng phục vụ các khu công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh

48

Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KẾT CẤU
HẠ TẦNG PHỤC VỤ CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở
TỈNH BẮC NINH
3.1. Quan điểm phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ các khu

61

công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh thời gian tới
3.2. Giải pháp phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ các khu

61


công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới

67

KẾT LUẬN

85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

87

PHỤ LỤC

93

2


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Kết cấu hạ tầng là nền tảng vật chất có vai trò đặc biệt quan trọng trong
quá trình phát triển KT - XH của quốc gia, cũng như mỗi vùng lãnh thổ. Có
KCHT đồng bộ và hiện đại, nền kinh tế mới có điều kiện để tăng trưởng nhanh,
ổn định và bền vững. Đối với các khu công nghiệp, KCHT là cơ sở, nền tảng
cho các hoạt động sản xuất - kinh doanh của KCN. Trong những năm qua, nhờ
KCHT phát triển theo hướng ngày càng đồng bộ và hiện đại nên đã làm thay
đổi diện mạo các KCN ở nước ta, góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn

đầu tư thúc đẩy phát triển sản xuất công nghiệp, đóng góp ngày càng tốt hơn
nhu cầu trong nước và xuất khẩu, đồng thời tạo điều kiện bảo vệ môi trường
sinh thái, bảo đảm phát triển bền vững, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Là một trong các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nằm trong
tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, đồng thời là cửa
ngõ phía Đông Bắc của Thủ đô Hà Nội, nên Bắc Ninh là một địa bàn chiến lược
quan trọng cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Vì vậy,
Bắc Ninh luôn dành sự quan tâm lớn cho đầu tư phát triển hệ thống KCHT KT XH nói chung, KCHT phục vụ các KCN nói riêng. Nhờ đó, bên cạnh những
thành công về kinh tế, việc phát triển hệ thống KCHT phục vụ các KCN còn
tham gia, đóng góp tích cực vào tổ chức đời sống xã hội, góp phần tạo lập và
phân bố không gian kinh tế, tạo sự phát triển hài hòa giữa các khu vực trong tỉnh,
là cơ sở để Bắc Ninh hội nhập và phát triển bền vững.
Tuy nhiên, quá trình phát triển KCHT phục vụ các KCN trên địa bàn
Tỉnh vẫn còn những hạn chế, bất cập như: chất lượng, cơ cấu KCHT chưa
đồng bộ giữa các KCN; công tác quản lý Nhà nước đối với KCHT phục vụ
các KCN, công tác quy hoạch KCN và phát triển KCHT phục vụ các KCN
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh của các KCN.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để phát triển KCHT phục vụ các KCN
nhằm tăng cường thu hút đầu tư, tạo công ăn việc làm cho người lao động,
đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Tỉnh theo hướng công nghiệp,

3


đồng thời giải quyết tốt các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Xuất phát từ
những vấn đề trên, tác giả chọn vấn đề “Phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ các
khu công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Phát triển KCHT, trong đó có KCHT phục vụ các KCN là lĩnh vực lớn
luôn được các cấp, các ngành quan tâm, nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều

cách tiếp cận khác nhau:
* Một số công trình nghiên cứu về kết cấu hạ tầng nói chung, tiêu biểu có:
Phạm Thị Tuý (2006), Thu hút và sử dụng vốn ODA vào phát triển kết cấu
hạ tầng ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
Luận án tập trung làm rõ vai trò của KCHT với quá trình phát triển KT - XH ở
Việt Nam, chỉ ra thực trạng phát triển KCHT ở Việt Nam, thực trạng thu hút và sử
dụng vốn ODA vào phát triển KCHT ở Việt Nam những năm qua. Từ đó, đề ra
quan điểm và giải pháp thu hút vốn đầu tư ODA vào phát triển KCHT ở nước ta.
Nguyễn Bá Ân (2012), Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Tạp chí Tuyên giáo, số 7.
Trên cơ sở phân tích những kết quả đạt được và một số hạn chế, yếu kém của
hệ thống KCHT nước ta từ năm 2000 đến năm 2010 trên một số mặt như hạ
tầng giao thông, hạ tầng năng lương, hạ tầng thông tin và truyền thông, kết
cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị, hạ tầng KCN, hạ tầng thương mại…, tác giả đã
đưa ra một số giải pháp để xây dựng hệ thống KCHT nước ta một cách đồng
bộ, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Nguyễn Quang Vinh (2015), Phát triển kết cấu hạ tầng ở Việt Nam,
Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 217. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích
và đánh giá những thành tựu và hạn chế trong phát triển KCHT ở Việt Nam
trong thời gian qua. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp để đẩy mạnh phát triển
KCHT đảm bảo phát triển bền vững trong thời gian tới.
Trần Kim Chung (2015), Hoàn thiện thể chế quy hoạch phát triển kết
cấu hạ tầng ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 216. Trong nghiên
cứu này, tác giả chỉ ra rằng thể chế quy hoạch phát triển KCHT của Việt Nam

4


đã có những nền móng ban đầu để định hướng cho phát triển KCHT nhưng còn
thiếu cả về cơ sở pháp lý, cả về lực lượng triển khai và hệ thống thanh tra, kiểm

tra, giám sát và chế tài. Vì vậy, để hỗ trợ phát triển kinh tế, phát triển KCHT,
hệ thống thể chế quy hoạch phát triển KCHT Việt Nam cần tập trung đổi mới
cả về trí tuệ, nhận thức, tài chính và con người.
* Một số công trình nghiên cứu về kết cấu hạ tầng ở các ngành, lĩnh
vực, vùng và địa phương, tiêu biểu có:
Nguyễn Đức Độ năm (2002), Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và vai trò
của nó đối với củng cố quốc phòng ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện
Chính trị quân sự, Hà Nội, Tác giả đã đi sâu làm rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn phát triển KCHT kinh tế, vai trò của phát triển KCHT kinh tế đối với củng cố
quốc phòng ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất hệ thống giải pháp
phát triển KCHT kinh tế đối với củng cố quốc phòng ở nước ta hiện nay.
Mai Thị Thanh Xuân (2002), Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện Thạch Hà - thực trạng và
kiến nghị, Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã làm rõ
những vấn đề lý luận, thực tiễn của quá trình phát triển KCHT KT - XH theo
hướng CNH, HĐH ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Từ đó tác giả đưa ra một
số kiến nghị nhằm phát triển KCHT KT - XH ở huyện Thạch Hà.
Lương Xuân Hiến, Phạm Thanh Khôi, (2006), Một số vấn đề kinh tế xã
hội trong tiến trình CNH, HĐH vùng đồng bằng sông Hồng, nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội. Trên cơ sở nghiên cứu quá trình CNH, HĐH ở vùng
đồng bằng sông Hồng, các tác giả đã chỉ ra một số vấn đề KT - XH trong tiến
trình CNH, HĐH của vùng. Đề xuất những quan điểm, giải pháp trong quá
trình CNH, HĐH ở khu vực đồng bằng sông Hồng, trong đó các tác giả đặc
biệt coi trọng việc phát triển KCHT làm cơ sở cho quá trình CNH, HĐH.
Nguyễn Đức Tuyên (2008), Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông
thôn tỉnh Bắc Ninh kinh nghiệm và giải pháp, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế
quốc dân, Hà Nội. Ở công trình này, tác giả đi sâu làm rõ những vấn đề về lý
luận, thực tiễn phát triển hạ tầng KT - XH ở nông thôn tỉnh Bắc Ninh. Trên cơ

5



sở đánh giá thực trạng, nguyên nhân những hạn chế trong quá trình phát triển
hạ tầng KT - XH ở nông thôn tỉnh Bắc Ninh và vận dụng những kinh nghiệm
của một số địa phương trong phát triển hạ tầng KT - XH, tác giả đề xuất một
số giải pháp để phát triển KCHT KT - XH ở nông thôn tỉnh Bắc Ninh.
Trần Minh Phương (2012), Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh
tế, Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và đầu tư, Hà Nội. Ở công trình
này, tác giả đã đi sâu nghiên cứu về KCHT ngành giao thông vận tải đáp ứng
yêu cầu CNH, HĐH ở Việt Nam, trong đó đã làm rõ những vấn đề lý luận về
phát triển KCHT giao thông, đánh giá thực trạng phát triển KCHT giao thông
ở Việt Nam thời gian qua. Trên cơ sở thực trạng phát triển KCHT giao thông,
tác giả đề xuất những quan điểm và giải pháp phát triển KCHT giao thông ở
Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH thời gian tới.
Đỗ Đức Tú (2012), Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vùng Đồng
bằng sông Hồng đến năm 2030 theo hướng hiện đại, Luận án tiến sĩ kinh tế,
Viện Chiến lược phát triển - Bộ kế hoạch và đầu tư, Hà Nội. Luận án tập
trung làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn phát triển KCHT giao thông vùng
đồng bằng Sông Hồng. Đồng thời chỉ ra những yêu cầu phát triển KCHT giao
thông của vùng đến năm 2030, đề ra các giải pháp cơ bản phát triển KCHT giao
thông vùng đồng bằng sông Hồng theo hướng hiện đại đến năm 2030.
Nguyễn Thế Cao (2013), Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trong công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hà Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện
Chính trị, Hà Nội. Tác giả đã phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về KCHT KT - XH trong quá trình CNH, HĐH ở tỉnh Hà Nam. Trên cơ
sở đó đề xuất những quan điểm và giải pháp để phát triển KCHT KT - XH
trong quá trình CNH, HĐH ở Hà Nam thời gian tới.
* Một số công trình nghiên cứu có liên quan đến KCN và kết cấu hạ
tầng KCN, tiêu biểu có:

Nguyễn Đức Phượng (2000), Phát triển các khu công nghiệp tập trung
trên địa bàn Đồng Nai và tác động của nó đến xây dựng khu vực phòng thủ

6


tỉnh, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội. Tác giả
khẳng định vai trò quan trọng của KCN tập trung trong phát triển ngành công
nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế nói chung trong thu hút đầu tư, đẩy
mạnh sản xuất góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tiếp thu vốn,
khoa học công nghệ, trình độ quản lý. Trên cơ sở đó tác giả khẳng định các
KCN tập trung ở Đồng Nai đã tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh
tế trong thực hiện đường lối đổi mới và tiến hành CNH, HĐH; đồng thời các
KCN tập trung cũng tác động lớn đến quá trình xây dựng và tăng cường sức
mạnh của các khu vực phòng thủ tỉnh Đồng Nai.
Nghiêm Đình Thường (2008), Phát triển các khu công nghiệp trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh: Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường
đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Luận văn đã làm rõ một số vấn đề lý luận
về phát triển KCN và đánh giá những tác động của KCN đến phát triển kinh
tế Bắc Ninh trong đó đã làm rõ được những tác động của KCN đến chuyển
dịch cấu kinh tế theo hướng tích cực, tác động đến vấn đề xã hội và môi
trường… Trên cơ sở đó đề ra các quan điểm và giải phát phát triển các KCN
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Hà Sơn Tùng, Nguyễn Thị Nga (2014), Dịch vụ kết cấu hạ tầng kỹ
thuật trong khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh - Nhận định và đánh giá, Tạp chí
Kinh tế và phát triển, số 205 (II). Bài viết đánh giá loại hình dịch vụ KCHT
kỹ thuật trong KCN - một loại hình dịch vụ hỗ trợ kinh doanh trong KCN tỉnh
Bắc Ninh dựa trên nhận định từ: người cung cấp dịch vụ, người sử dụng dịch
vụ và cơ quan, ban ngành có liên quan. Nghiên cứu tập trung vào 4 loại dịch
vụ kỹ thuật trong KCN bao gồm: dịch vụ cung cấp điện, dịch vụ cung cấp

nước sạch, dịch vụ xử lý chất thải, dịch vụ cho thuê kho bãi. Từ nhận định các
bên về các dịch vụ này, bài nghiên cứu đưa ra các kết luận và hướng phát
triển cho các dịch vụ này trong KCN tỉnh Bắc Ninh.
Đào Minh Nhật (2014), Phát triển kết cấu hạ tầng khu công nghiệp ở
tỉnh Đồng Nai, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị, Hà Nội. Luận
văn tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về KCHT nói chung và kết cấu hạ

7


tầng KCN ở tỉnh Đồng Nai nói riêng. Đồng thời trên cơ sở đánh giá thực
trạng phát triển kết cấu hạ tầng KCN trên địa bàn Tỉnh, tác giả đã đưa ra một
số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu phát triển kết cấu hạ tầng KCN ở
tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới.
Mặc dù các công trình trên đây nghiên cứu KCHT hoặc KCHT KT - XH
được tiếp cận trên góc độ kinh tế kỹ thuật hoặc kinh tế ngành, với nhiều phạm
trù và không gian khác nhau: cả nước; vùng miền hay lĩnh vực khác, nhưng chưa
có công trình nào đi sâu nghiên cứu về kết cấu hạ tầng phục vụ các khu công
nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề: “Phát triển kết cấu hạ tầng
phục vụ các khu công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh” có ý nghĩa cả lý luận và thực
tiễn; đồng thời không trùng lắp với bất kỳ công trình nào.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển KCHT phục vụ
các KCN; trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển KCHT
phục vụ các KCN ở tỉnh Bắc Ninh thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về phát triển KCHT phục vụ các KCN.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển KCHT phục vụ các KCN ở
tỉnh Bắc Ninh.

- Đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển KCHT phục vụ các KCN ở
tỉnh Bắc Ninh thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ các khu công nghiệp.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về KCHT, phát triển KCHT và
phát triển KCHT phục vụ các KCN, trong đó tập trung vào nghiên cứu về sự
phát triển KCHT phục vụ các KCN ở tỉnh Bắc Ninh. KCHT phục vụ các KCN
ở tỉnh Bắc Ninh bao gồm KCHT kỹ thuật (điện, đường, nhà xưởng, kho bãi…)

8


và KCHT xã hội (y tế, giáo dục, nhà ở… và các dịch vụ an sinh xã hội khác).
Hệ thống KCHT này có thể nằm trong và ngoài KCN. Vì vậy, KCHT phục vụ
các KCN thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn được hiểu theo nghĩa rộng,
bao gồm cả KCHT phục vụ trực tiếp và KCHT phục vụ gián tiếp; không giới
hạn về khoảng cách địa lý (gần hay xa KCN); cả trong và ngoài các KCN.
- Về thời gian: Thời gian khảo sát và lấy số liệu chủ yếu từ năm 2010
(sau 10 năm kể từ khi thành lập KCN đầu tiên của tỉnh Bắc Ninh) đến nay.
- Về không gian: địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử để luận giải cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng phát
triển KCHT phục vụ các KCN ở tỉnh Bắc Ninh.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học làm phương
pháp nghiên cứu chủ đạo. Đồng thời kết hợp với các phương pháp khác như:

thống kê, hệ thống hóa, so sánh, phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tiễn để
thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Góp phần hệ thống hóa lý luận và thực tiễn phát triển KCHT phục vụ
các KCN ở tỉnh Bắc Ninh.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu và giảng dạy môn học kinh tế chính trị Mác - Lênin, làm tài liệu
tham khảo để các chủ thể lãnh đạo, quản lý xây dựng chủ trương, biện pháp
phát triển KCHT phục vụ các KCN.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, luận văn gồm 3 chương (6 tiết), kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG
PHỤC VỤ CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH BẮC NINH

1.1. Kết cấu hạ tầng, kết cấu hạ tầng phục vụ các khu công nghiệp
1.1.1. Quan niệm về kết cấu hạ tầng
Cho đến nay đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về kết cấu hạ tầng.
KCHT có thể được hiểu là cơ sở hạ tầng hay hạ tầng cơ sở. Có ý kiến cho
rằng: “Cơ sở hạ tầng là tổng thể các ngành kinh tế, các ngành công nghệ dịch
vụ” [34, tr.153]. Theo quan niệm này thì cơ sở hạ tầng bao gồm: việc xây
dựng đường xá, kênh mương tưới nước, bãi cảng, cầu cống, sân bay, kho
tàng, cơ sở cung cấp năng lượng, cơ sở kinh doanh, giao thông vận tải, bưu
điện, cơ sở cấp thoát nước, các cơ sở giáo dục, y tế, khoa học, chăm sóc và
bảo vệ sức khoẻ.... Hoặc quan niệm cho rằng, cơ sở hạ tầng là: “hệ thống các

công trình làm nền tảng cung cấp những yếu tố cần thiết cho phát triển sản
xuất và nâng cao chất lượng cuộc sống” [43, tr.65], theo đó cơ sở hạ tầng bao
gồm: cung cấp nước, tưới tiêu và phòng chống lụt bão, cung cấp năng lượng,
giao thông, thông tin liên lạc.... Có quan niệm cho rằng cơ sở hạ tầng “là khái
niệm dùng để chỉ những phương tiện làm cơ sở nhờ đó các quá trình công
nghệ, quá trình sản xuất và các dịch vụ được thực hiện” [31, tr.14]. Dù còn
nhiều quan niệm khác nhau nhưng thực chất cơ sở hạ tầng là một bộ phận cơ
bản của KCHT có vai trò tạo điều kiện, thúc đẩy sự phát triển KT - XH của cả
nền kinh tế quốc dân hoặc một vùng, ngành kinh tế nhất định.
Khi bàn về KCHT, có quan niệm cho rằng kết cấu hạ tầng là “tổng hợp
các yếu tố và điều kiện vật chất - kỹ thuật được tạo lập và tồn tại trong mỗi
quốc gia, là nền tảng và điều kiện chung cho các hoạt động kinh tế - xã hội...”
[35, tr.5]. Hay hạ tầng KT - XH được sử dụng để chỉ “những hạ tầng đa năng
phục vụ cho cả kinh tế và xã hội; hoặc trường hợp để chỉ những hạ tầng
chuyên dùng phục vụ trong hoạt động kinh tế và văn hoá, xã hội khi đề cập
đến cả hai loại hạ tầng phát triển kinh tế - xã hội nói chung” [44, tr.158].

10


Dưới góc độ kinh tế chính trị, có thể thấy rằng quá trình sản xuất cần có người
lao động, tư liệu sản xuất và công nghệ. Trong tư liệu sản xuất có một bộ
phận tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách là những cơ sở phương tiện
chung nhờ đó mà quá trình công nghệ, sản xuất và dịch vụ được thực hiện. Bộ
phận này chính là KCHT hay cơ sở hạ tầng. Như vậy, KCHT là những yếu tố
vật chất làm nền tảng cho các quá trình sản xuất và đời sống xã hội được hình
thành và phát triển trên đó. Hiểu một cách khái quát, KCHT là một bộ phận
đặc thù của cơ sở vật chất kỹ thuật trong nền kinh tế quốc dân có chức năng,
nhiệm vụ cơ bản là đảm bảo những điều kiện chung cần thiết cho quá trình
sản xuất và tái sản xuất mở rộng được diễn ra bình thường, liên tục.

Trên cơ sở kế thừa và phát triển các quan điểm trên, tiếp cận dưới góc độ
kinh tế chính trị, tác giả cho rằng KCHT là tổng thể cơ sở vật chất, kỹ thuật, kiến
trúc với vai trò nền tảng và điều kiện chung bảo đảm cho sự phát triển KT - XH
của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ trong mỗi giai đoạn hay thời kỳ nhất định.
KCHT có thể được phân chia thành nhiều loại khác nhau dựa trên các
tiêu chí khác nhau. Cụ thể như:
Nếu căn cứ theo lĩnh vực KT - XH, thì KCHT có thể được phân chia thành:
KCHT phục vụ kinh tế, KCHT phục vụ hoạt động xã hội, và KCHT phục vụ an
ninh, quốc phòng. Song trên thực tế, ít có loại kết cấu hạ tầng nào hoàn toàn chỉ
phục vụ kinh tế mà không phục vụ các hoạt động xã hội khác và ngược lại.
Nếu căn cứ theo sự phân ngành của nền kinh tế quốc dân, thì KCHT có
thể được phân chia thành: KCHT trong công nghiệp, trong nông nghiệp, giao
thông vận tải, bưu chính - viễn thông, xây dựng, hoạt động tài chính, ngân
hàng, y tế, giáo dục, văn hoá - xã hội...
Nếu căn cứ theo khu vực dân cư, vùng lãnh thổ, thì KCHT có thể được
phân chia thành: KCHT đô thị, KCHT nông thôn; KCHT kinh tế biển (ở
những nước có kinh tế biển), KCHT đồng bằng, trung du, miền núi, vùng
trọng điểm phát triển, các thành phố lớn.
KCHT trong mỗi lĩnh vực, mỗi ngành, mỗi khu vực bao gồm những công
trình đặc trưng cho hoạt động của lĩnh vực, ngành, khu vực và những công trình

11


liên ngành đảm bảo cho hoạt động đồng bộ của toàn hệ thống. Trong nhiều công
trình nghiên cứu về KCHT, các tác giả thường phân chia KCHT thành hai loại
cơ bản, gồm: KCHT kinh tế và KCHT xã hội. Trong đó:
KCHT kinh tế bao gồm các công trình hạ tầng kỹ thuật như: năng lượng
(điện, than, dầu khí) phục vụ sản xuất và đời sống, các công trình giao thông vận
tải (đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông, đường hàng không, đường

ống), bưu chính - viễn thông, các công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông - lâm ngư nghiệp… KCHT kinh tế là bộ phận quan trọng trong hệ thống kinh tế, đảm
bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh, ổn định, bền vững và là động lực thúc đẩy
phát triển nhanh hơn, tạo điều kiện cải thiện đời sống của nhân dân.
KCHT xã hội bao gồm các hệ thống, công trình và thiết bị vật chất - kỹ
thuật bảo đảm trực tiếp cho phát triển xã hội như nhà ở, các cơ sở trường học,
y tế, văn hoá, cơ sở nghiên cứu khoa học, công trình phúc lợi công cộng...
KCHT xã hội là điều kiện thiết yếu để phục vụ, nâng cao mức sống của cộng
đồng dân cư, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực. KCHT xã hội là tập hợp
các ngành có tính chất dịch vụ xã hội, sản phẩm do chúng tạo ra thường thể
hiện dưới hình thức dịch vụ và thường mang tính công cộng, liên quan đến sự
phát triển cả về thể chất và tinh thần của con người.
Tuy có nhiều cách phân loại khác nhau, nhưng việc phân loại chỉ mang
tính tương đối, vì ngoài những KCHT đặc biệt gắn với ngành cụ thể, ít có loại
KCHT nào chỉ phục vụ kinh tế mà không phục vụ xã hội và ngược lại, hay chỉ
phục vụ ngành nghề, lĩnh vực này mà không phục vụ ngành nghề khác, lĩnh
vực khác. Các sản phẩm, dịch vụ của KCHT hướng đến phục vụ nhiều ngành
kinh tế, xã hội. Thậm chí đối với hệ thống KCHT phục vụ quốc phòng, an
ninh cũng vậy. Bên cạnh những công trình chuyên dụng, nhiều công trình vẫn
được khai thác, sử dụng phục vụ cho các mục tiêu phát triển KT - XH của khu
vực dân sự. Sự phân chia một cách chi tiết, cụ thể thành KCHT công nghiệp,
KCHT du lịch và dịch vụ, KCHT đô thị, nông thôn, nông nghiệp…, được
phân bố, tạo lập và phát huy tác động trực tiếp trong các ngành, các vùng nhất

12


định nhưng các loại hình KCHT luôn nằm trong một hệ thống cấu trúc tổng
thể, có mối liên hệ và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Việc phân loại có ý nghĩa
nhiều hơn cho hoạt động quản lý, nhất là khi cần đưa ra các quyết định về quy
hoạch, thứ tự ưu tiên và cơ cấu đầu tư phát triển hệ thống KCHT.

1.1.2. Quan niệm về kết cấu hạ tầng phục vụ các khu công nghiệp
Với các cách tiếp cận đã nêu ở trên, có thể hiểu KCHT phục vụ các
KCN là tổng hợp các cơ sở vật chất - kỹ thuật và xã hội đóng vai trò nền tảng
cho phát triển và hoạt động của các KCN. KCHT phục vụ các KCN được
chia thành 2 nhóm chính: KCHT kỹ thuật và KCHT xã hội.
KCHT kỹ thuật: là các công trình và phương tiện của hệ thống giao
thông, đường sá; cung cấp điện; hạ tầng xử lý và bảo vệ môi trường, bưu
chính viễn thông, phòng cháy chữa cháy…
Hệ thống giao thông trong các KCN cũng như hệ thống đường giao
thông dân sinh được đấu nối với các KCN có vai trò quyết định đến việc mở
rộng quy mô sản xuất, tăng năng lực sản xuất, giảm chi phí vận chuyển hàng
hóa của các KCN hoặc liên kết giữa các chủ thể kinh tế trong và ngoài địa
phương, từ đó sẽ góp phần làm cho giá cả hàng hóa, dịch vụ đến tay người
tiêu dùng giảm đi nhiều, nâng cao tính cạnh tranh, mở rộng thị trường. Các
KCN phát triển tốt đều có hệ thống đường giao thông nội bộ và hệ thống
đường giao thông dân sinh đấu nối vào KCN tương đối hoàn chỉnh và thuận
tiện. Đây là điều kiện quan trọng vì nếu giao thông không thuận tiện thì KCN
khó tồn tại lâu dài và bền vững. Thực tế cho thấy, hệ thống giao thông yếu
kém là một khó khăn, trở ngại to lớn đối với sự phát triển của các KCN.
Hạ tầng xử lý và bảo vệ môi trường. Vấn đề môi trường đang là một
trong những vấn đề bức xúc hiện nay. Giải quyết tốt vấn đề môi trường sẽ góp
phần tích cực vào việc phát triển bền vững các KCN. Chính vì vậy hạ tầng xử
lý và bảo vệ môi trường ở các KCN hiện nay là một vấn đề cần phải được
quan tâm đúng mức. Hạ tầng xử lý và bảo vệ môi trường bao gồm: hệ thống
thu gom nước thải, nhà máy xử lý nước thải tập trung, hệ thống thoát nước

13


thải, khu vực lưu giữ chất thải rắn (nếu có), hệ thống quan trắc nước thải tự

động và các công trình hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường khác… được thiết
kế đồng bộ và tuân theo quy định, quy chuẩn kỹ thuật xây dựng và quy định,
quy chuẩn kỹ thuật môi trường có liên quan.
Hệ thống cung cấp điện. Đây là một yếu tố có tính chất quyết định đến
việc các nhà đầu tư có đầu tư vào các KCN hay không. Một KCN mà hệ thống
điện không ổn định, không đủ cho sản xuất và sử dụng sẽ không thu hút được
các hộ kinh doanh tham gia sản xuất. Điện năng có nhiều tác dụng, trong đó
đặc biệt là đáp ứng nhu cầu cơ khí hóa, mà trước hết là cơ giới hóa ở một số
khâu trong quá trình sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất nhằm
tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Hệ thống thông tin liên lạc. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện
đại và với xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế thì hệ thống thông tin
liên lạc có vai trò đặc biệt quan trọng. Sự lạc hậu về KCHT thông tin liên lạc
trong lĩnh vực này sẽ dẫn đến chậm trễ, thiếu hụt hoặc ách tắc trong cung cấp,
xử lý thông tin. Điều này không chỉ làm tăng chi phí và thời gian giao dịch
mà có thể làm mất cơ hội đầu tư, cơ sở kinh doanh của các doanh nghiệp,
hoặc làm cho công tác quản lý, điều hành trở nên kém hiệu quả. Hiện nay, do
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, ở các địa phương phần lớn
các hộ gia đình đều sử dụng điện thoại cố định hoặc mạng lưới điện thoại di
động. Nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các KCN đã nối mạng internet
khiến cho sản phẩm của họ dễ dàng tham gia vào hệ thống thương mại điện
tử, thuận tiện cho quảng bá, tham gia vào thị trường trong nước và thế giới.
KCHT xã hội bao gồm các công trình bảo đảm và là điều kiện duy trì,
phát triển nguồn nhân lực một cách toàn diện như: các cơ sở đào tạo, cơ sở y
tế, chăm sóc sức khỏe, nhà ở cho công nhân, dịch vụ ngân hàng, bảo vệ an
ninh... trong và ngoài KCN.
Sự phát triển của KCHT và phát triển các KCN có mối quan hệ tác
động qua lại rõ rệt. Ở những vùng có KCHT phát triển, quá trình xây dựng và

14



phát triển KCN diễn ra một cách thuận lợi hơn. Ngược lại, ở những nơi có tốc
độ phát triển KCN chậm thường do KCHT không tốt, kém đồng bộ. Chính
mối quan hệ qua lại chặt chẽ này mà phát triển KCHT vừa được coi là điều
kiện, vừa được coi là một nội dung cấu thành không thể tách rời của toàn bộ
quá trình hình thành và phát triển các KCN.
Đặc điểm của KCHT phục vụ các KCN
Thứ nhất, KCHT phục vụ các KCN là một loại hàng hoá khác với các
loại sản phẩm vật chất khác, nó là một loại hàng hoá công cộng. Nó được các
chủ thể sản xuất - kinh doanh trong KCN cùng sử dụng, việc sử dụng của cơ sở
này không làm ảnh hưởng đến việc sử dụng của các cơ sở khác.
Thứ hai, KCHT phục vụ các KCN mang tính hệ thống, đồng bộ, hiện
đại, kết nối với hệ thống KCHT chung của Tỉnh và quốc gia. KCHT phục vụ
các KCN có nhiều yếu tố hợp thành, bao gồm các yếu tố vật chất (nhà xưởng,
đường giao thông, công trình xử lý môi trường, mạng lưới điện…) và các yếu
tố phi vật chất (đào tạo, y tế, hành chính công, nhà ở, an ninh, văn hoá…). Yêu
cầu và đặc điểm của KCHT phục vụ các KCN là phải đồng bộ. Cụ thể là: đồng
bộ giữa trong và ngoài KCN; đồng bộ giữa KCHT kỹ thuật và KCHT xã hội;
đồng bộ giữa các yếu tố cấu thành của KCHT; đồng bộ về thời gian huy động
các yếu tố cấu thành KCHT vào sử dụng.
Tính hệ thống thể hiện trong sự phát triển đồng thời, cân đối các loại
KCHT phục vụ các KCN và sự phối hợp, kết hợp tốt giữa các loại KCHT đó.
Tính đồng bộ thể hiện sự phù hợp, thích ứng về trình độ kỹ thuật của các yếu
tố cấu thành KCHT đó. Tính hệ thống, đồng bộ mang lại ý nghĩa KT - XH,
nhân văn rất lớn bởi đây là một trong những yêu cầu của sự phát triển KCHT.
Vì vậy, nếu KCHT phục vụ các KCN thiếu tính hệ thống và đồng bộ thì hiệu
quả khai thác, sử dụng sẽ không cao.
Thứ ba, KCHT phục vụ các KCN đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn, vượt
quá khả năng của một cơ sở sản xuất - kinh doanh trong KCN, thời hạn thu

hồi vốn đầu tư vào KCHT phục vụ các KCN sẽ lâu dài, do đó để xây dựng

15


KCHT phục vụ các KCN, Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc đầu
tư, khuyến khích đầu tư và tạo lập nó. Đặc điểm này đòi hỏi phải có chiến
lược phân bổ nguồn vốn không chỉ giữa các yếu tố trong hệ thống hạ tầng, mà
còn phân bổ vốn đầu tư hợp lý giữa lĩnh vực hạ tầng và các lĩnh vực phát triển
kinh tế, xã hội. Phát triển KCHT có ý nghĩa tạo dựng các công trình với
nguồn vốn đầu tư lớn. Trong điều kiện thiếu những thể chế tài chính, kinh tế
chặt chẽ thì hạ tầng là một lĩnh vực chứa đựng nhiều yếu tố tiêu cực ảnh
hưởng đến phát triển KT - XH và quốc phòng, an ninh.
Thứ tư, KCHT phục vụ các KCN có yếu tố đầu tư tới hạn. Đầu tư
tới hạn là đầu tư đưa công trình xây dựng hạ tầng nhanh tới chỗ hoàn bị.
Mặt khác, giới hạn của KCHT phục vụ các KCN còn nằm trong sự vận
hành, sự tác động và hiệu năng của nó trong quá trình hoạt động KT - XH.
Bản thân KCHT không quyết định tất cả đối với sự phát triển KT - XH mà
chỉ là một yếu tố. Do đặc điểm như vậy của hạ tầng, nếu quá nhấn mạnh
làm phô trương vượt khỏi giới hạn của nó sẽ rơi vào chủ nghĩa hình thức
tạo ra những kết cấu hạ tầng hiệu quả thấp, gây lãng phí làm giảm sút
năng lực sản xuất thực tế, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng, phát triển chung.
Vì vậy, sự phát triển KCHT phù hợp với yêu cầu của phát triển các KCN
là cơ sở cho sự phát triển bền vững.
Thứ năm, KCHT phục vụ các KCN có chu kỳ dài (chu kỳ xây dựng, sử
dụng) và tính thích ứng trong thời gian dài. Nghĩa là nó không chỉ đáp ứng
nhu cầu hiện tại trước mắt mà cả trong thời gian dài. Do đó đầu tư xây dựng
KCHT phục vụ các KCN phải tính đến sự phát triển của khoa học - công nghệ
và thời gian hợp lý của hoàn vốn đầu tư.
Thứ sáu, để xây dựng KCHT phục vụ các KCN cần có sự đầu tư, sản

xuất, dịch vụ của nhiều ngành như: xây dựng, giao thông, điện lực, viễn
thông, đào tạo, thương mại… Do đó cần có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ
giữa các ngành này trong xây dựng và phát triển KCHT.
Vai trò của KCHT đối với KCN
KCHT có vai trò quan trọng đối với việc phát triển KCN, cụ thể:

16


Một là, KCHT quyết định sự tăng trưởng và phát triển nhanh các ngành
sản xuất, các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh và dịch vụ trong KCN. Sở dĩ như
vậy là vì KCHT là yếu tố để cung cấp các dịch vụ, các yếu tố đầu vào, đầu ra,
đảm bảo cho quy trình sản xuất tiến hành một cách thường xuyên, liên tục với
quy mô ngày càng mở rộng. Đây là yếu tố cơ bản để KCN có cơ hội phát
triển trong quá trình hội nhập.
Hai là, KCHT sẽ tạo ra sự thay đổi căn bản trong cơ cấu sản xuất và
ngành nghề trong KCN. Với một KCHT hiện đại là điều kiện cơ bản cho phát
triển nhiều ngành nghề có tính chuyên môn hóa cao trong KCN, có thể làm thay
đổi cấu trúc ngành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập của địa phương.
Ba là, KCHT là cơ sở vật chất và điều kiện quan trọng để phát triển
KCN. Nếu xem KCN như một cơ thể con người, thì hệ thống KCHT được ví
như các phân hệ hợp thành của cơ thể con người đó: giao thông và điện lực là
hệ thống mạch máu; thông tin liên lạc là hệ thống thần kinh; cấp, thoát nước là
hệ thống tiêu hóa và bài tiết của con người... Những hệ thống này không thể
thiếu. Vì nếu thiếu và yếu một phân hệ nào đó sẽ dẫn đến không cân bằng đối
với cơ thể con người. Như vậy, nếu hệ thống KCHT kỹ thuật bị trục trặc sẽ
làm cho sản xuất, kinh doanh bị đình trệ, thậm chí lâm vào tình trạng rối loạn.
KCHT tạo điều kiện cơ bản, cần thiết cho sản xuất, thúc đẩy các hoạt động sản
xuất - kinh doanh của KCN.
Bốn là, KCHT tốt sẽ tạo điều kiện thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên

ngoài. Thực tế cho thấy, ở các KCN có KCHT tốt sẽ thu hút các nhà đầu tư
bỏ vốn kinh doanh và như vậy giúp cho KCN có cơ hội phát triển tốt hơn.
Năm là, KCHT phát triển đồng bộ sẽ giúp thúc đẩy việc giao lưu hàng
hóa, thuận tiện cho việc vận chuyển nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành
phẩm giữa nơi sản xuất và nơi tiêu thụ. KCHT chủ yếu của KCN là dịch vụ,
là sản phẩm trung gian (yếu tố đầu vào của sản xuất) phục vụ hoạt động sản
xuất - kinh doanh tiến hành đều đặn và liên tục. Vai trò cung cấp đầu vào
được thể hiện trước hết bởi các công trình và hệ thống điện, thông tin liên lạc .
Đồng thời, KCHT còn đảm bảo dịch vụ tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, cung cấp

17


thông tin thị trường. Chỉ cần trục trặc trong một khâu nhất định hoặc sự hoạt động
yếu kém của hệ thống KCHT, sẽ gây lên sự cố cho hoạt động của các cơ sở sản
xuất - kinh doanh của KCN. Ngược lại, nếu hệ thống KCHT hiện đại, đồng bộ sẽ
tạo điều kiện rút ngắn chu kỳ sản xuất và lưu thông sản phẩm, giảm bớt chi phí
sản xuất và góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, làm cho các sản phẩm hàng
hóa và dịch vụ có sức cạnh tranh tốt hơn. Sự phát triển của KCHT là một trong
những điều kiện quan trọng để hiện đại hóa sản xuất, kinh doanh.
1.2. Quan niệm, nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển
kết cấu hạ tầng phục các khu công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
1.2.1. Quan niệm về phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ các khu công
nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
* Quan niệm về phát triển kết cấu hạ tầng và phát triển kết cấu hạ tầng
phục vụ các khu công nghiệp
Từ những phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm về phát triển KCHT
như sau:
Phát triển KCHT là quá trình làm gia tăng tính ổn định, bền vững,
đồng bộ và liên kết của hệ thống các cơ sở vật chất, kỹ thuật, kiến trúc đóng

vai trò nền tảng để phục vụ cho quá trình hoạt động và phát triển của mỗi
quốc gia, vùng lãnh thổ trong mỗi giai đoạn hay thời kỳ nhất định.
Khái niệm trên đây về phát triển KCHT phản ánh những vấn đề cơ bản sau:
Một là, phát triển KCHT là sự vận động, biến đổi cả về cơ cấu, số
lượng, chất lượng của hệ thống KCHT kinh tế và KCHT xã hội. Hệ thống
KCHT đó đóng vai trò nền tảng để phục vụ cho quá trình hoạt động và phát
triển của quốc gia, vùng lãnh thổ trong mỗi giai đoạn hay thời kỳ nhất định.
Hai là, phát triển KCHT cần phải đi trước một bước, thể hiện tính tiên
phong, mở đường cho sự phát triển KT - XH của quốc gia, vùng lãnh thổ.
Điều này xuất phát từ vai trò nền tảng quan trọng của KCHT đối với quá trình
phát triển KT - XH và đòi hỏi thực tế của yêu cầu khai thác có hiệu quả
những tiềm năng của đất nước. Tiếp đó, sự phát triển của KCHT sẽ có tác

18


động tích cực đến sự phát triển của các ngành, lĩnh vực và các khu vực của
nền kinh tế, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, nâng cao mức sống của người dân nói riêng và của toàn xã hội nói chung,
đồng thời sẽ góp phần giảm bớt nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế.
Ba là, phát triển KCHT phải đảm bảo nâng cao cả hiệu quả kinh tế,
hiệu quả xã hội và môi trường. Đây là xu hướng khách quan nhưng tất yếu
nhằm tạo việc làm mới, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo và phát triển kinh
tế, đảm bảo môi trường bền vững, thực hiện công bằng xã hội. Do nguồn lực
cho phát triển KCHT không phải lúc nào cũng dồi dào, sẵn có mà việc đầu tư
xây dựng KCHT phục vụ các KCN cũng không phải là các hoạt động đầu tư
kinh doanh đơn thuần, nó đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Do vậy khi đầu tư phát triển
KCHT phải hết sức cân nhắc, tính toán giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã
hội, tránh tình trạng quá tập trung, quá tính toán lợi ích kinh tế mà lãng quên
đến lợi ích xã hội mà hạ tầng mang lại. Cần thiết phải tính toán, cân nhắc để

xác định chiến lược và bước đi của phát triển KCHT để vừa đảm bảo hiệu quả
về mặt kinh tế, đồng thời có thể mang lại những hiệu quả về mặt xã hội, môi
trường.
Bốn là, phát triển KCHT phải đảm bảo duy trì sự ổn định xã hội. Phát
triển KCHT đem lại tác động tích cực nhiều mặt, nhưng cũng có thể gây ra tình
trạng mất ổn định về mặt xã hội nếu như công tác tuyên truyền, quản lý và quy
hoạch không được thực hiện tốt. Điển hình là những tác động tiêu cực từ việc
thu hồi đất của những người dân để tạo mặt bằng cho xây dựng KCHT. Việc
xuất hiện tình trạng khiếu kiện kéo dài phần lớn đều xuất phát từ những mâu
thuẫn trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng... cho xây dựng KCHT.
Năm là, phát triển KCHT không phải là quá trình tự phát, mà có sự
quản lý, hỗ trợ và định hướng của các cơ quan Nhà nước. Có những
công trình KCHT Nhà nước sẽ trực tiếp đầu tư, có những công trình
KCHT Nhà nước sẽ tạo điều kiện, khuyến khích các nhà đầu tư, các loại

19


hình kinh tế tham gia xây dựng. Đồng thời phát huy những mặt tích cực,
hạn chế những tác động tiêu cực của quá trình này đến hoạt động của các
KCN cũng như phát triển KT - XH.
Từ sự phân tích về KCHT, KCHT phục vụ các KCN và phát triển
KCHT, có thể hiểu:
Phát triển KCHT phục vụ các KCN là quá trình làm gia tăng tính ổn
định, bền vững của hệ thống KCHT vật chất kỹ thuật và KCHT xã hội được
tạo lập bảo đảm cho hoạt động và phát triển của các KCN, góp phần vào
phát triển KT - XH và đẩy mạnh CNH, HĐH.
Quan niệm trên đây về phát triển KCHT phục vụ các KCN phản ánh
những vấn đề cơ bản sau:
Một là, mục đích của phát triển KCHT phục vụ các KCN là nhằm tạo

lập hệ thống cơ sở vật chất để bảo đảm cho sự hoạt động và phát triển của
các KCN. Trên cơ sở đó góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng hiện đại, giải quyết tốt các vấn đề xã hội và đẩy mạnh quá trình
CNH, HĐH đất nước. Hệ thống cơ sở vật chất bảo đảm cho sự hoạt động và
phát triển của các KCN bao gồm các công trình KCHT cả bên trong và bên
ngoài các KCN.
Hai là, chủ thể quản lý, lãnh đạo quá trình phát triển KCHT phục vụ
các KCN là cấp ủy, chính quyền các địa phương có KCN, mà trực tiếp là
Ban Quản lý các KCN Tỉnh. Với vai trò là chủ thể, cấp ủy, chính quyền địa
phương thực hiện chức năng lãnh đạo, quản lý nhà nước thông qua các cơ
chế, chính sách để định hướng và quản lý quá trình phát triển KCHT phục
vụ các KCN.
Ba là, lực lượng tham gia phát triển KCHT phục vụ các KCN bao
gồm cả Nhà nước cùng hệ thống chính trị và các cá nhân, doanh nghiệp
kinh doanh KCHT thuộc các thành phần kinh tế khác nhau trong và ngoài
nước, trong đó Nhà nước và hệ thống chính trị là lực lượng đóng vai trò
quan trọng.

20


* Quan niệm về phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ các khu công
nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về KCHT và phát triển KCHT
phục vụ các KCN, vận dụng vào điều kiện phát triển KCHT phục vụ các KCN
cụ thể ở tỉnh Bắc Ninh, tác giả khái quát quan niệm về phát triển KCHT phục
vụ các KCN ở tỉnh Bắc Ninh như sau:
Phát triển KCHT phục vụ các KCN ở tỉnh Bắc Ninh là tổng thể cơ chế,
chính sách của các chủ thể lãnh đạo, quản lý nhằm gia tăng về quy mô, chất
lượng, cơ cấu của các bộ phận cấu thành KCHT phục vụ các KCN, đáp ứng

nhu cầu đầu tư kinh doanh của các chủ thể kinh tế trong các KCN trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh.
Quan niệm trên thể hiện một số nội dung sau:
Thứ nhất, về mục đích phát triển KCHT phục vụ các KCN ở tỉnh Bắc Ninh
Phát triển KCHT phục vụ các KCN ở tỉnh Bắc Ninh là hoạt động duy
tu, bảo dưỡng và xây dựng mới các công trình vật chất phục vụ nhu cầu đầu
tư kinh doanh của các chủ thể trong các KCN và người công nhân làm việc
trong các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Nói cách khác, mục đích phát triển
KCHT phục vụ các KCN ở Bắc Ninh là phục vụ sản xuất, nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế; đồng thời góp phần nâng cao đời
sống, mức sống của công nhân trong các KCN ở Bắc Ninh. Việc này liên
quan đến các mặt của quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
cũng như đời sống của người công nhân trong các KCN. Đó là nhu cầu về đi
lại, vận chuyển hàng hóa; nhu cầu sử dụng điện, nước cho sản xuất và sinh
hoạt; nhu cầu sử dụng các dịch vụ như: văn hóa, chăm sóc sức khỏe, nhu cầu
về nhà ở… Như vậy, mục đích của việc phát triển KCHT phục vụ các KCN ở
Bắc Ninh là đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và tái sản xuất sức lao động
của các chủ thể kinh tế trong các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Thứ hai, về chủ thể lãnh đạo, quản lý quá trình phát triển KCHT phục
vụ các KCN ở tỉnh Bắc Ninh

21


Chủ thể lãnh đạo, quản lý quá trình phát triển KCHT phục vụ các KCN
ở tỉnh Bắc Ninh là cấp ủy, chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng,
Ban Quản lý các KCN của Tỉnh. Trong đó, cấp ủy và chính quyền tỉnh Bắc
Ninh là cơ quan có vai trò lãnh đạo, định hướng, quản lý trên cơ sở đưa ra các
chủ trương, chính sách phát triển KCHT phục vụ các KCN trên địa bàn Tỉnh;
Ban Quản lý các KCN Tỉnh là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước

trực tiếp đối với phát triển KCHT phục vụ các KCN trên địa bàn Tỉnh. Ban
Quản lý các KCN Tỉnh thông qua Phòng Quản lý Quy hoạch và Xây dựng
thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với KCN về quản lý quy hoạch,
phát triển KCN, quản lý xây dựng đối với các doanh nghiệp trong KCN, quản
lý chất lượng công trình xây dựng trong các KCN.
Thứ ba, về lực lượng tham gia vào quá trình phát triển KCHT phục vụ
các KCN ở tỉnh Bắc Ninh
Lực lượng tham gia vào quá trình phát triển KCHT phục vụ các KCN ở
tỉnh Bắc Ninh bao gồm các chủ thể trong hệ thống chính trị, các cá nhân, doanh
nghiệp trong và ngoài nước thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đầu tư kinh
doanh trong lĩnh vực KCHT phục vụ các KCN, trong đó trong đó cấp ủy, chính
quyền tỉnh Bắc Ninh là lực lượng đóng vai trò quan trọng.
Thứ tư, về phương thức tiến hành
Quá trình phát triển KCHT phục vụ các KCN ở tỉnh Bắc Ninh được
tiến hành bằng phương thức kế hoạch hóa và phương thức thị trường. Phương
thức kế hoạch hóa được sử dụng chủ yếu đối với các công trình KCHT mà
vốn đầu tư chủ yếu là từ ngân sách nhà nước và được xác định trong kế hoạch
phát triển KT - XH của Tỉnh. Phương thức thị trường là sử dụng cơ chế, chính
sách mời gọi các thành phần kinh tế khác nhau tham gia phát triển KCHT
phục vụ các KCN thông qua các hình thức đầu tư như: hợp tác công tư (PPP),
xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), xây dựng - chuyển giao (BT).
1.2.2. Nội dung phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ các khu công
nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
Phát triển KCHT phục vụ các KCN là một trong những hướng chủ đạo

22


góp phần thực hiện những mục tiêu then chốt của quá trình CNH, HĐH đất
nước, tạo ra một hệ thống KCHT đồng bộ, có giá trị lâu dài, góp phần hiện

đại hóa hệ thống KCHT trên phạm vi cả nước nói chung, tỉnh Bắc Ninh nói
riêng. Vấn đề này được thể hiện trên một một số nội dung sau:
Phát triển KCHT phục vụ các KCN ở Bắc Ninh về quy mô. Theo đó,
KCHT phục vụ các KCN ở tỉnh Bắc Ninh phải vừa đáp ứng yêu cầu của quá
trình CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế; vừa đáp ứng nhu cầu hoạt động
của các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN như: sản xuất kinh doanh, đi
lại, thông tin liên lạc, dịch vụ nhà ở, khám chữa bệnh... Quá trình đó phải góp
phần tạo ra năng suất lao động ngày càng cao cho doanh nghiệp cũng như
toàn xã hội. Vì vậy, KCHT phục vụ các KCN phải luôn đi trước một bước
nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển các KCN cũng
như KT - XH trên địa bàn và cả nước. Như vậy, xét về quy mô KCHT phục
vụ các KCN ở tỉnh Bắc Ninh phải được đầu tư xây dựng ngày càng nhiều, đáp
ứng nhu cầu của các KCN trên địa bàn Tỉnh.
Phát triển KCHT phục vụ các KCN ở Bắc Ninh về chất lượng. Theo đó,
KCHT phục vụ các KCN ở tỉnh Bắc Ninh phải bảo đảm tốt về các tiêu chuẩn
như: phải có tính năng sử dụng tốt, bền, tiện dụng, hiện đại, đồng thời phải
đảm bảo tính an toàn và hiệu quả cao.
Phát triển KCHT phục vụ các KCN ở Bắc Ninh về cơ cấu. Theo đó,
KCHT phục vụ các KCN ở tỉnh Bắc Ninh phải phù hợp, đảm bảo tính liên
hoàn, đồng bộ, liên thông trong các KCN, giữa các KCN trên địa bàn Tỉnh,
đồng thời phải kết nối trong quy hoạch chung với các tỉnh bạn và vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ.
Từng nội dung phát triển KCHT phục vụ các KCN ở tỉnh Bắc Ninh
được thể hiện thông qua sự phát triển các yếu tố cấu thành KCHT phục vụ các
KCN trên địa bàn Tỉnh. Cụ thể:
Một là, phát triển hệ thống hạ tầng giao thông
Nội dung này phản ánh mức độ thuận tiện về giao thông trong các

23



KCN cũng như giữa các KCN với nhau. Hạ tầng giao thông bao gồm giao
thông bên ngoài KCN và giao thông nội bộ của KCN. Mạng lưới hạ tầng
giao thông phục vụ các KCN là hệ thống các tuyến đường nằm trong các
KCN và các tuyến đường được đấu nối vào các KCN phục vụ cho việc giao
lưu trong KCN và giữa các KCN với nhau. Nó được thể hiện ở các chỉ tiêu: độ
rộng của lòng đường, vỉa hè theo thiết kế; sự thuận tiện và dễ dàng trong di
chuyển, vận chuyển hàng hóa; chất lượng đường; sự thuận tiện trong kết nối
vào các trục đường chính; mức độ ùn tắc; thời gian di chuyển; tải trọng theo
thiết kế. Đây chính là cơ sở để đánh giá mức độ thuận lợi về hạ tầng giao thông
phục vụ các KCN, điều này ảnh hưởng rất lớn khả năng vận chuyển hàng hóa
và hoạt động sản xuất kinh - doanh của các cơ sở trong KCN.
Hai là, phát triển hệ thống cung cấp điện
Nội dung này phản ánh mức độ thuận lợi trong cung cấp năng lượng để
phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cơ sở trong KCN, như:
khả năng cung cấp điện, công suất và sản lượng điện, hệ thống đèn chiếu sáng
công cộng, trạm biến áp phân phối, đường dây cấp trung áp, đường dây cấp hạ
áp, khoảng cách an toàn và hành lang bảo vệ, chất lượng điện áp theo các chỉ
tiêu thông số kỹ thuật theo qui định.
Ba là, phát triển hệ thống xử lý chất thải và bảo vệ môi trường
Phát triển hệ thống xử lý nước thải và bảo vệ môi trường trong các
KCN phải vừa đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, vừa bảo đảm
được các yêu cầu bảo vệ môi trường xung quanh trong quá trình hoạt động
của KCN. Nội dung này phản ánh mức độ xử lý môi trường như: hệ thống
thoát nước; khả năng xử lý chất thải rắn; khả năng thoát nước thải (kích thước
của ống thoát); công suất thoát nước thải (m3/ngày); diện tích và tỷ lệ đất
trồng cây xanh so với tổng diện tích KCN (m2 và %)... Ngoài ra còn có các
tiêu chí phản ánh môi trường như khả năng tiết kiệm tài nguyên; chống ô
nhiễm môi trường...
Bốn là, phát triển hệ thống thông tin liên lạc


24


Hệ thống thông tin liên lạc phục vụ cho các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh phát triển phải là hệ thống viễn thông hoàn chỉnh được ghép nối vào
mạng viễn thông của bưu điện tỉnh Bắc Ninh, có khả năng kết nối đồng bộ với
mạng viễn thông quốc gia. Đó phải là hệ thống thông tin liên lạc phát triển
với nhiều loại hình khác nhau, đáp ứng nhu cầu đa dạng hóa thông tin của các chủ
thể kinh tế trong các KCN trên địa bàn Tỉnh. Đồng thời đó phải là hệ thống thông
tin liên lạc được phát triển trên cơ sở ứng dụng những công nghệ tiên tiến, hiện
đại.
Năm là, phát triển hệ thống nhà ở, cơ sở y tế chăm sóc sức khỏe cho
công nhân
Lực lượng lao động làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp trong các
KCN là một đối tượng cần phải được quan tâm trong quá trình xây dựng các
KCN. Khu công nghiệp hoạt động không chỉ riêng là sự hoạt động của các dây
chuyền công nghệ, máy móc thiết bị, mà còn có sự tham gia đóng góp vận
hành của đội ngũ lao động trong KCN, đối tượng lao động căn bản sáng tạo ra
mọi giá trị gia tăng trong hoạt động của KCN. Bởi vậy, quá trình xây dựng và
phát triển các KCN thì cần phải quan tâm đầu tư và bảo đảm đời sống của lao
động trong các KCN một cách lâu dài, cả về đời sống vật chất và đời sống văn
hoá tinh thần; bảo đảm cho người lao động trong các KCN có nhà ở, thuận tiện
cho việc ăn uống, nghỉ ngơi, giải trí và các nhu cầu thiết yếu khác trong cuộc
sống. Phát triển hệ thống nhà ở, cơ sở y tế chăm sóc sức khỏe cho công nhân
trong các KCN ở Bắc Ninh được thể hiện ở việc đáp ứng tốt nhu cầu về mặt
số lượng; phải thuận tiện cho quá trình sinh hoạt và khám chữa bệnh của
người công nhân. Nhà ở phải bảo đảm theo đúng thiết kế, tuân thủ các chỉ tiêu
thông số kỹ thuật theo qui định và có đầy đủ các tiện ích kèm theo. Hệ thống
nhà ở, cơ sở y tế chăm sóc sức khỏe cho công nhân phải bảo đảm tính đồng

bộ, liên kết giữa trong và ngoài KCN. Xu hướng hiện nay của Bắc Ninh cũng
như một số tỉnh thành khác trên cả nước có nhiều KCN tập trung là xây dựng
quần thể KCN - dân cư - thương mại nhằm giải quyết các yêu cầu trên; bảo

25


×