Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Dịch vụ công tác xã hội đối với người khuyết tật vận động từ thực tiễn Trung tâm Cung cấp dịch vụ Công tác xã hội Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 96 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƢƠNG HẢI DƢƠNG

DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚINGƢỜI KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG
TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM CUNG CẤP DỊCH VỤ
CÔNG TÁC XÃ HỘI THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60.90.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM TIẾN NAM

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Phạm Tiến Nam.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này
hoàn toàn trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
HỌC VIÊN

Trƣơng Hải Dƣơng



LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu và khảo sát thực địa, tôi đã hoàn thành
Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành công tác xã hội. Để hoàn thành luận văn này, tôi đã
nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của các thầy giáo, cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp và
gia đình.
Với tình cảm trân trọng và lòng biết ơn sâu sắc, cho phép tôi được gửi lời cảm
ơn sâu sắc đến Tiến Sỹ. Phạm Tiến Nam, người đã trực tiếp, tận tình hướng dẫn, chỉ
bảo và truyền đạt cho tôi những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm quý báu trong
suốt thời gian thực hiện luận văn.
Tôi chân thành cảm ơn Ban giám đốc, Ban chủ nhiệm và tất cả các thầy giáo,
cô giáo trong Khoa Công tác xã hội – Học viện Khoa học Xã hội đã trang bị kiến
thức và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập và thực hiện luận văn
tại Học viện.
Tôi trân trọng cảm ơn toàn thể ban Lãnh đạo và cán bộ Trung tâm Cung cấp
dịch vụ công tác xã hội Thanh Hóa, Phòng Bảo trợ xã hội – Sở Lao động Thương
binh và Xã hội tỉnh Thanh Hóa đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi
hoàn thành việcthu thập số liệu phục vụ cho luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do thời gian nghiên cứu và kiến thức còn
hạn chế, luận văn chắc chắn không thể tránh khỏi những sơ xuất, thiếu sót. Tôi rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy giáo, cô giáo, các nhà khoa học
để luận văn của tôi được hoàn chỉnh.
Xin trân trọng cảm ơn./.
Hà Nội, tháng 3 năm 2017
HỌC VIÊN

Trƣơng Hải Dƣơng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI
VỚI NGƢỜI KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG ..................................................................... 13

1.1. Một số khái niệm, đặc điểm tâm lý và nhu cầu của người khuyết tật vận
động ................................................................................................................. 13
1.2. Một số lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với NKTVĐ ........................ 18
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ công tác xã hội đối với người khuyết tật
vận động ........................................................................................................... 27
1.4. Cơ sở pháp lý về dịch vụ công tác xã hội đối với người khuyết tật vận động ..... 30
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI
KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG TẠI TRUNG TÂM CUNGCẤP DỊCH VỤ CÔNG TÁC
XÃ HỘI THANH HÓA ...................................................................................... 34

2.1. Tổng quan về địa bàn và khách thể nghiên cứu .......................................... 34
2.2. Đặc điểm tâm lý và nhu cầu của người khuyết tật vận động… ....................... ..42
2.3. Thực trạng dịch vụ Công tác xã hội đối với người khuyết tật vận động tại
Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Thanh Hóa. .................................. 44
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với người
em khuyết tật vận động tại Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Thanh
Hóa ................................................................................................................... 61
Chƣơng 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CUNG CẤP DỊCH VỤ
CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG TỪ THỰC
TIỄN TRUNG TÂM CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI THANH HOÁ .. 71

3.1. Giải pháp về mặt cơ chế, chính sách .......................................................... 71
3.2. Giải pháp về đội ngũ nhân viên công tác xã hội ......................................... 73
3.3. Giải pháp vể truyền thông nâng cao nhận thức ........................................... 74
3.4. Giải pháp về cơ sở vật chất ........................................................................ 75

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... .80


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

STT

Nội dung

1

CTXH

Công tác xã hội

2

CHPHCN

Chỉnh hình phục hồi chức năng

3

DVCTXH

Dịch vụ công tác xã hội


4

LĐTBXH

Lao động, Thương binh xã hội

5

NKT

Người khuyết tật

6

NKTVĐ

Ngườikhuyết tật vận động

7

NVCTXH

Nhân viên công tác xã hội


DANH MỤC BẢNG/BIỂU

STT

Số hiệu

bảng/biểu đồ

Tên bảng/biểu đồ

Trang

1.

Biểu đồ 2.1

Tỷ lệ giới tính của NKTVĐ

37

2.

Biểu đồ 2.2

Độ tuổi của NKTVĐ

37

3.

Biểu đồ 2.3

Trình độ học vấn của NKTVĐ

38


4.

Biểu đồ 2.4

Nghề nghiệp của NKTVĐ

39

5.

Biểu đồ 2.5

Nguyên nhân gây ra khuyết tật cho NKTVĐ

40

6.

Biểu đồ 2.6

Mức độ khuyết tật của NKTVĐ

41

7.

Biểu đồ 2.7

Hoàn cảnh kinh tế của NKTVĐ


41

8.

Biểu đồ 2.8

Đặc điểm tâm lý của NKTVĐ

42

9.

Biểu đồ 2.9

Các nhu cầu của NKTVĐ

43

10.

Bảng 2.10

Nội dung truyền thông NKTVĐ được tiếp cận

45

11.

Bảng 2.11


Hình thức truyền thông NKTVĐ được tiếp cận

47

12.

Biểu đồ 2.12

Mức độ hài lòng của NKTVĐ về DV truyền thông

49

13.

Bảng 2.13

14.

Biểu 2.14

Các loại dịch vụ chỉnh hình phục hồi chức năng,
NKTVĐ tiếp cận
Mức độ hài lòng của NKTVĐ về DV CHPHCN

15.

Bảng 2.15

Các loại dịch vụ tư vấn, tham vấn, NKTVĐ tiếp cận


55

16.

Biểu 2.16

Mức độ hài lòng của NKTVĐ về DV tư vấn, tham vấn

56

17.

Bảng 2.17

18.

Biểu 2.18

19.

Biểu 2.19

Các loại dịch vụ hỗ trợ học nghề, tạo việc làm
của NKTVĐ
Mức độ hài lòng của NKTVĐ về dịch vụ hỗ trợ
học nghề, tạo việc làm cho NKTVĐ
Yếu tố ảnh hưởng của đặc điểm đối tượng

20.


Biểu 2.20

Yếu tố ảnh hưởng của đội ngũ NVCTXH

64

21.

Biểu 2.21

Yếu tố ảnh hưởng của cơ chế chính sách

66

22.

Biểu 2.22

Yếu tố ảnh hưởng của cơ sở vật chất

68

50
53

58
60
62



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam trong quá trình đổi mới toàn diện, hơn hai thập kỷ qua đã tạo ra
những thay đổi tích cực về kinh tế - xã hội, mức sống và có nhiều dịch vụ phúc lợi
của đại bộ phận dân cư được nâng lên, cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội thì
công tác chăm sóc, hỗ trợ cho Người khuyết tật (NKT) ở Việt Nam cũngngày càng
được đảm bảo hơn. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận không nhỏ NKT
đang phải sống trong tình cảnh hết sức khó khăn, trong đó có Người khuyết tật vận
động (NKTVĐ). NKT họ gặp khó khăn, hạn chế về đi lại, tham gia các hoạt động
cộng đồng, học tập, giao tiếp, ngoài ra họ có những đặc điểm tâm lý khác biệt và
gặp nhiều rào cản hơn so với những nhóm yếu thế khác trong xã hội, những vấn đề
mà NKT đang gặp phải vẫn là sự kỳ thị và phân biệt đối xử, số đông NKT chưa biết
hoặc chưa có điều kiện, khả năng tiếp cận, hiểu biết về những chính sách ưu đãi
dành cho họ..., điều đó đã dẫn đến khả năng hòa nhập và phát triển của NKT bị hạn
chế. Mặt khác, NKT thuộc nhóm yếu thế do sự khiếm khuyết của cơ thể, các chức
năng xã hội của họ có thể bị suy giảm, mặc dù chúng ta đã có rất nhiều nỗ lực để
giúp NKT được bình đẳng hơn trong việc tiếp cận các cơ hội y tế, giáo dục và việc
làm, cũng như hỗ trợ NKT được nhận các dịch vụ liên quan đến khuyết tật mà họ
yêu cầu. Nhưng chúng ta vẫn luôn thấy rằng NKT tại mọi hoàn cảnh xã hội vẫn
luôn là nhóm xã hội yếu thế, dễ bị tổn thương và nhận được ít thành quả kinh tế xã
hội hơn nhóm không bị khuyết tật. Mặc dù vậy, họ cũng có những thế mạnh, nhu
cầu, ước mơ như bất cứ ai. Bởi vậy, sự tham gia và hỗ trợ của nhân viên công tác xã
hội (NVCTXH) sẽ góp phần tạo dựng niềm tin, mở ra nhiều cơ hội mới cho
NKT.Vì vậy đòi hỏi cần có những dịch vụ công tác xã hội (DVCTXH) chuyên
nghiệp để có thể giải quyết các vấn đề một cách khoa học và hiệu quả nhằm thúc
đẩy an sinh xã hội.
Khuyết tật vận động không chỉ là nỗi bất hạnh của bản thân họ mà còn là nỗi
đau xót của gia đình, nguời thân và là gánh nặng cho xã hội, cộng đồng. Hiện nay tỷ
lệ NKTVĐ đang có khuynh hướng ngày càng gia tăng do tai nạn giao thông, tai nạn
lao động và các loại bệnh tật. Nhu cầu cung cấp các DVCTXH cho NKT nói chung


1


và NKTVĐ là rất lớn. Theo thống kê của Bộ LĐTBXH năm 2010, Việt Nam có số
người cần trợ giúp các dịch vụ công tác xã hội lên tới 28% dân số, trong đó 7,5 triệu
người cao tuổi; 5,4 triệu người khuyết tật; 1,4 triệu trẻ em có hoàn cảnhđặc biệt,
khoảng 12% hộ gia đình nghèo, hơn 180.000 người bị nhiễm HIV được phát hiện…
Thanh Hoá là một tỉnh có diện tích rộng, có dân số gần 3,5 triệu người, trong
đó số lượng NKT chiếm tỷ lệ tương đối lớn. Theo số liệu báo cáo của Sở Lao động
TBXH Thanh Hoá, tính đến ngày 31/12/2015 toàn tỉnh hiện có 192.960 NKT chiếm
5,55% dân số. Trong đó, số NKTVĐ là 81.395 người[27].
Thực hiện Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25/3/2010 của Thủ tướng
chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010-2020, mô
hình các Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH được xây dựng và hình thành tại các
tỉnh/thành phố cả nước. Đây được coi là một trong những giải pháp quan trọng góp
phần phát triển nghề CTXH ở Việt Nam. Sự ra đời của các Trung tâm CTXH tạo
thuận lợi cho những người yếu thế, dễ bị tổn thương tiếp cận được các dịch vụ xã
hội ngay tại Trung tâm và tại cộng đồng nơi họ sinh sống giúp họ giải quyết được
các vấn đề gặp phải, nhằm nâng cao an sinh xã hội cho người dân. Bằng việc cung
cấp các dịch vụ theo một quy trình chuyên nghiệp, hiệu quả theo đúng những giá trị
và nguyên tắc của nghề CTXH, Cung cấp DVCTXH thông qua Trung tâm đã góp
phần giúp đỡ nhiều nhóm đối tượng xã hội trong đó có NKTVĐ.
Cùng với các tỉnh/thành phố trên cả nước, Thanh hoá đã thành lậpTrung tâm
cung cấp DVCTXH Thanh Hóa trên cơ sở tổ chức lại và bổ sung thêm nhiệm vụ từ
Trung tâm chỉnh hình và phục hồi chức năng. Hiện nay, Trung tâm cung cấp
DVCTXH đã và đang triển khai các hoạt động cung cấp DVCTXH sâu rộng trên địa
bàn toàn tỉnh cho các nhóm đối tượng yếu thế như NKT, người cao tuổi, người
nghèo, người bị bạo lực, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người nghiện ma tuý, người
mại dâm, người bị buôn bán…(trong đó có NKTVĐ). Cung cấp các DVCTXH là

phương thức trợ giúp hữu hiệu để cho NKT giải quyết được vấn đề và đáp ứng nhu
cầu của bản thân.
Hiện nay có nhiều nghiên cứu về CTXH đối với NKT, tuy nhiên nghiên cứu
về dịch vụ CTXH đối với NKTVĐ tại các Trung tâm cung cấp DVCTXH còn khá

2


ít. Hơn nữa DVCTXH là một hoạt động còn khá mới và chưa thực sự đồng bộ về
quy trình triển khai. Trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá hiện nay có duy nhất Trung tâm
cung cấp DVCTXH thực hiện nhiệm vụ cung cấp DVCTXH theo chức năng được
giao. Vì vậy, nghiên cứu về DVCTXH đối với NKTVĐ để đánh giá những kết quả
đạt được, chưa đạt được và các yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng này là rất cần thiết
để đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, tính chuyên nghiệp trong việc
thực hiện nhiệm vụ cung cấp DVCTXH đối với NKTVĐ tại Trung tâm Cung cấp
DVCTXH Thanh Hoá.
Từ những lý do trên, tôi lựa chọn vấn đề “Dịch vụ công tác xã hội đối với
người khuyết tật vận động từ thực tiễn Trung tâm Cung cấp dịch vụ Công tác xã hội
Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hiện nay, tại Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung đã có nhiều công
trình nghiên cứu, nhiều ấn phẩm được đề cập trên các báo, luận án, luận văn thạc sĩ,
khóa luận tốt nghiệp đề cập đến vấn đề hỗ trợ cho NKT, trong đó đáng lưu ý như:
* Nhóm công trình nghiên cứu về CTXH đối với Người khuyết tật
- Tác giả Đỗ Thị Liên, Công tác xã hội đối với NKT từ thực tiễn thành phố
Thanh Hóa, Luận văn thạc sĩ 2014, Học viện Khoa học xã hội[15]. Luận văn đã
đánh giá thực trạng hỗ trợ NKT tại thành phố Thanh Hóa và đưa những dịch vụ trợ
giúp cho NKT tại đây, đồng thời tác giả cũng đã đưa ra những đề xuất những giải
pháp phù hợp để thực hiện quá trình trợ giúp cho NKT.
- Đề tài luận văn thạc sỹ “Công tác xã hội cá nhân trong việc trợ giúp người

khuyết tật từ thực tiễn Trung tâm dạy nghề từ thiện Quỳnh Hoa, huyện Thanh Trì,
Hà Nội” của Nguyễn Ngọc Tùng, ( 2015)[21]; tác giả đã ứng dụng mô hình quản lý
ca và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả CTXH đối với NKT từ thực tiễn hoạt động
tại trung tâm dạy nghề từ thiện Quỳnh Hoa. Ðặc biệt trong mô hình can thiệp quản
lý ca theo quy trình 5 bước trong CTXH cá nhân dành cho NKT đã chứng minh tính
chuyên nghiệp khi trợ giúp NKT chứ không chỉ đơn thuần như hoạt động nhân đạo.
Vì thế, các phương hướng và giải pháp trong đề tài nhằm hướng tới hoàn chỉnh về
mặt phương pháp, tiến trình can thiệp dành cho nhóm đối tượng cụ thể là NKT.

3


- Đề tài“Công tác xã hội với trẻ em khuyết tật vận động’’của tác giả Nguyễn
Thị Huyền Trang (2015)[33]. Đề tài phân tích và chỉ ra thực trạng đời sống cũng
như khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ công tác xã hội của trẻ em khuyết tật
vận động với mục đích kết nối, điều phối và duy trì các dịch vụ dành cho trẻ em
khuyết tật vận động một cách hiệu quả;
- Đề tài“Công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em khuyết tật vận động từ thực tiễn
Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Thanh Hoá” của tác giả Vũ Văn Khánh,
Luận văn thạc sĩ 2016, Học viện Khoa học xã hội[12]. Đề tài đánh giá, phân tích
thực trạng công tác xã hội cá nhân đối với trẻ em khuyết tật vận động và ứng dụng
mô hình quản lý ca, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
trong trợ giúp trẻ em khuyết tật vận động tại Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác
xã hội Thanh Hóa, nghiên cứu cũng đã chỉ rõ được vai trò, trách nhiệm quan trọng
của NVCTXH trong tiến trình tạo ra sự thay đổi tích cực đối với đời sống của trẻ
em khuyết tật vận động, thúc đẩy môi trường xã hội, bao gồm chính sách, pháp luật,
cộng đồng thân thiện để trẻ em khuyết tật vận động dễ dàng hòa nhập xã hội.
* Nhóm công trình nghiên cứu về chính sách, pháp luật đối với NKT
- Tác giả Nguyễn Ngọc Toản (2010) với đề tài nghiên cứu “Chính sách trợ
giúp xã hội thường xuyên ở cộng đồng Việt nam”.Tác giả đã viết một phần về NKT.

Trong nghiên cứu, tác giả đã đưa ra cách hiểu mới về trợ giúp xã hội không chỉ là
cứu đói, hỗ trợ lương thực cho các nhân, hộ gia đình chịu hậu quả thiên tai, chiến
tranh, mà đã mở rộng thành các hợp phần chính sách là trợ giúp đột xuất và trợ giúp
thường xuyên. Mỗi hợp phần chính sách lại bao gồm các chính sách bộ phận đặc
biệt như chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên tại cộng đồng gồm các chính sách
bộ phận là: trợ cấp xã hội hàng tháng, trợ giúp về y tế, trợ giúp về giáo dục, trợ giúp
về việc làm, trợ giúp về học nghề. Đồng thời trong bài viết cũng chỉ ra số lượng
NKT trên cả nước và phạm vi phân bổ NKT, dạng khuyết tật và việc đáp ứng nhu
cầu của NKT. Kết quả nghiên cứu phát hiện nhu cầu trợ giúp tương đối đông. Các
nhu cầu trợ giúp là khác nhau, tuỳ thuộc vào các nhóm đối tượng cụ thể. Các công
cụ chính sách được quy định đồng bộ. Tính hiệu quả của chính sách ngày càng cao
theo thời gian. Tuy nhiên tính hiệu lực, hiệu quả, tính công bằng và bền vững của

4


chính sách còn chưa đảm bảo. Đồng thời dựa trên những kết quả thu được, tác giả
cũng đã đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội thường
xuyên ở cộng đồng Việt Nam [34].
- Báo cáo kết quả thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật và đề án trợ giúp
Người khuyết tật giai đoạn 2006 – 2010 của Bộ LĐTBXH[4]; Trong báo cáo đã chỉ
rõ về thực trạng NKT trong cả nước, tỷ lệ nam là NKT cao hơn nữ do các nguyên
nhân của hậu quả chiến tranh, tai nạn lao động, tai nạn thương tích… Nguyên nhân
gây khuyết tật, đời sống vật chất, tinh thần của NKT còn nhiều khó khăn. Có tới
80% NKT ở thành thị và 70% NKT ở nông thôn sống dựa vào gia đình. Những khó
khăn này cản trở NKT tiếp cận y tế, giáo dục, học nghề, tìm kiếm việc làm, tham
gia giao thông, dẫn đến khó khăn trong cuộc sống và hoà nhập cộng đồng. Đồng
thời báo cáo cũng nêu rõ các kết quả thực hiện công tác chăm sóc NKT trên các lĩnh
vực như: trợ cấp hàng thángđối với NKT, hộ gia đình nuôi dưỡng NKT, NKT có
việc làm, số NKT được tiếp cận các công trình giao thông công cộng. Từ đó đề ra

những giải pháp công tác thực hiện Pháp lệnh Người tàn tật được tốt hơn.
- Tác giả Nguyễn Thị Báo (2008), Hoàn thiện pháp luật về quyền của người
khuyết tật ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh[2]; đề tài xây dựng hệ thống thông tin tư liệu quy định về quyền
của người khuyết tật trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, trang bị cho
người khuyết tật các quyền cụ thể để tạo cơ hội hòa nhập và phát triển.
* Nhóm công trình nghiên cứu về dịch vụ CTXH đối với người khuyết tật
- Tác giả Đặng Kim Chung và nhóm nghiên cứu năm (2011)[5] với đề
tài:“Đánh giá nhu cầu về dịch vụ công tác xã hội và xây dựng công tác xã hội và
xây dựng kế hoạch thiết lập mô hình và hệ thống cung cấp dịch vụ từ trung ương
đến cộng đồng”. Nghiên cứu đã đánh giá nhu cầu dịch vụ công tác xã hội tại cộng
đồng và trong trung tâm, nghiên cứu việc phát triển những dịch vụ công tác xã hội
trong phạm vi tài nguyên có thể huy động, đề xuất kế hoạch xây dựng và vận hành
mô hình và hệ thống cung cấp DVCTXH từ trung ương đến cộng đồng. Đề tài đã
phân tích và đánh giá nhu cầu của các đối tượng dựa trên hai khía cạnh: Cung và
cầu dịch vụ cho từng nhóm đối tượng cụ thể: Người cao tuổi, Người khuyết tật, trẻ

5


em, người trưởng thành… Nhu cầu với DVCTXH của các nhóm đối tượng rất lớn
nhưng vẫn còn đang tiềm ẩn trong xã hội. Hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ còn
manh mún và chất lượng còn kém. Nhận thức và hiểu biết của công chúng và các
nhà hoạch định chính sách về nghề CTXH còn chưa sâu. Cán bộ làm CTXH còn
thiếu và chưa được đào tạo chính quy, tổ chức cung cấp DVCTXH ở cộng đồng gần
như chưa có. Đề tài đưa ra các giải pháp để tuyên truyền, phổ biến chính sách, chế độ
trợ cấp, các dịch vụ xã hội. Nâng cao năng lực xây dựng và thực hiện của các trung
tâm cung cấp DVCTXH đặc biệt là các cán bộ thực hiện ở cấp cơ sở. Giải pháp tuyên
truyền vận động các tổ chức, đoàn thể để có sự hiểu biết về các dịch vụ của công tác
xã hội.

- Tác giả Bùi Thị Xuân Mai (2014) trong bài “Thực trạng mạng lưới dịch vụ
xã hội ở Việt Nam-Những khuyến nghị” cho rằng: Mạng lưới dịch vụ xã hội là một
tập hợp các dịch vụ trong hệ thống xét theo góc độ tính chất đó là dịch vụ việc làm;
đào tạo nghề; tư vấn; tham vấn, tư vấn tâm lý; sức khỏe; pháp lý; cung cấp thông tin
chính sách; hỗ trợ thu nhập dịch vụ; hỗ trợ các đối tượng yếu thế hòa nhập xã hội,
tái hòa nhập gia đình, cộng đồng và dịch vụ hòa giải, biện hộ các vấn đề xã hội. Xét
từ gốc độ quản lý mạng lưới dịch vụ xã hội bao gồm dịch vụ công lập, ngoài công
lập, dịch vụ tư nhân, mạng lưới dịch vụ của tôn giáo và của các tổ chức dân sự xã hội
khác. Một cách phân loại khác dựa vào đối tượng hưởng lợi đó là mạng lưới cung cấp
dịch vụ cho trẻ em, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, người cao tuổi, người có
HIV/AIDS, người khuyết tật, phụ nữ bị bạo hành [19].
- Tác giả Nguyễn Thị Lan (2008) trong bài viết “Xây dựng và phát triển mạng
lưới dịch vụ công tác xã hội ở nước ta” thì DVCTXH gồm cung cấp chỗ ở, thức ăn
và bảo vệ đối tượng bảo trợ xã hội, khám chữa bệnh, cho đi học, quản lý ca, chăm
sóc thay thế, hỗ trợ tâm lý [13].
- Nhóm tác giả Nguyễn Thị Thái Lan, Đỗ Ngọc Bích, Chu Thị Huyền Yến
(2016) trong bài viết“Chuyên nghiệp hóa các dịch vụ công tác xã hội ở Việt Nam:
thực trạng và nhu cầu” tại Hội thảo khoa học quốc tế ở Tp. HCM đề cập đến
DVCTXH với khía cạnh chuyên nghiệp hóa. Trong đó, nhóm tác giả đã phân tích

6


thực trạng, nhu cầu chuyên nghiệp hóa DVCTXH ở Việt Nam và đề xuất phát triển
DVCTXH nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn và đảm bảo chất lượng[14].
- Cũng nghiên cứu ở khía cạnh chuyên nghiệp hóa các DVCTXH nhưng tác
giả Hà Thị Thư (2016) lại nghiên cứu trên nhóm đối tượng yếu thế. Bài viết “Sự
chuyên nghiệp trong dịch vụ công tác xã hội đối với nhóm đối tượng yếu thế” của
tác giả một lần nữa khẳng định nhu cầu DVCTXH ở Việt Nam ngày càng cao. Tác
giả cũng đã phân tích vai trò của DVCTXH với nhóm đối tượng yếu thế và chỉ ra

hai khía cạnh của sự chuyên nghiệp là “con người chuyên nghiệp” và “môi trường
chuyên nghiệp”[32].
Những công trình nghiên cứu trên là những tài liệu tham khảo quý giá và vô cùng
hữu ích cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài, những nghiên cứu trên đều ít nhiều đề
cập đến vấn đề hỗ trợ, giúp đỡ cho Người khuyết tật dưới các góc độ khác nhau cả về
lý luận và thực tiễn, nhưng chưa có công trình nào đề cập nghiên cứu cụ thể đến
DVCTXH cho NKTVĐ dưới góc nhìn của một nghề, một khoa học về CTXH đối với
việc trợ giúp cho NKT. Hơn nữa, các công trình cũng chưa chỉ ra được vai trò, tầm
quan trọng của DVCTXH trong vấn đề trợ giúp cho NKTVĐ, vì vậy, đề tài mà tôi lựa
chọn không trùng với các công trình nghiên cứu đã công bố. Ngoài việc kế thừa, chọn
lọc từ các thành tựu đã có, đề tài đi sâu vào nghiên cứu các DVCTXH cho NKTVĐ ở
Trung tâm cung cấp DVCTXH Thanh Hóa dưới góc nhìn của nghề CTXH.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về DVCTXH đối với NKTVĐ và đánh giá
thực trạng cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến việc cung cấp DVCTXH đối với
NKTVĐ từ thực tiễn Trung tâm Cung cấp dịch vụ công tác xã hội tỉnh Thanh Hoá,
từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc cung cấp DVCTXH cho
NKTVĐ tại Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Thanh Hoá.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về dịch vụ CTXH đối với NKTVĐ.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến DVCTXH đối với
NKTVĐ từ thực tiễn Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Thanh Hoá.

7


- Đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc cung cấp DVCTXH
đối với NKTVĐ từ thực tiễn Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH Thanh Hoá.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Dịch vụ công tác xã hội đối với người khuyết tật vận động từ thực tiễn Trung
tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Thanh Hóa.
4.2. Khách thể nghiên cứu
+ Nghiên cứu những người khuyết tật tại Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác
xã hội tỉnh Thanh Hóa;
+ Cán bộ nhân viên công tác xã hội, nhân viên y tế và cán bộ quản lý tại
Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội tỉnh Thanh Hóa.
4.3. Mẫu nghiên cứu: 50 Người khuyết tật vận động ; 05 NVCTXH; 03 nhân
viên y tế và 02 cán bộ quản lý của Trung tâm
4.4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các loại hình dịch vụ công tác
xã hội đối với người khuyết tật vận động tại Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác
xã hội Thanh Hóa, bao gồm: Dịch vụ truyền thông nâng cao nhận thức; Dịch vụ
cung cấp dụng cụ chỉnh hình và phục hồi chức năng; Dịch vụ tư vấn, tham vấn; và
dịch vụ hỗ trợ học nghề, tạo việc làm.
- Phạm vi không gian: Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Thanh
Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
- Phạm vi thời gian: Từ tháng 01 năm 2016 đến tháng 12 năm 2016
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận là hệ thống lý luận về phương pháp nghiên cứu, phương
pháp nhận thức và cải tạo hiện thực, là hệ thống chặt chẽ các quan điểm, nguyên lý
chỉ đạo việc tìm kiếm, xây dựng lựa chọn vàvận dụng các phương pháp. Tất cả
những nguyên lý nào có tác dụng gợi mở, định hướng, chỉ đạo đều là những lý luận
và nguyên lý có ý nghĩa phương pháp luận.
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử cùng hệ thống các quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về

8



NKT; về hệ thống an sinh xã hội; chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội, gắn
phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Quan điểm phát triển nghề CTXH
và trợ giúp cho những người yếu thế trong xã hội với những giá trị triết lý nhìn nhận
con người và các mối quan hệ qua lại giữa con người với con người, con người với
xã hội thực tại.
Phương pháp duy vật biện chứng đòi hỏi trong quá trình nghiên cứu phải đặt
việc cung cấp DVCTXH đối với NKT trong một mối quan hệ tương tác khách quan
tất yếu với các yếu tố khác như chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể, thể chế
xã hội, cơ chế chính sách, đối tượng trợ giúp…Các giải pháp đề xuất không thể chỉ
hướng tới các mối quan hệ nội tại bên trong như trình độ kiến thức, kỹ năng chuyên
môn của NVCTXH hay bản thân đối tượng trợ giúp mà còn phải có các giải pháp tác
động vào các chủ thể xây dựng chính sách, cơ chế trong việc tổ chức, thực hiện nhiệm
vụ cung cấp dịch vụ với các hệ thống khác để có được hiệu quả trợ giúp cao nhất.
Phương pháp duy vật lịch sử, khi nghiên cứu đòi hỏi phải đặt đối tượng, cụ thể
ở đây là các DVCTXH với NKT tại Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH tỉnh Thanh
Hoá trong hoàn cảnh môi trường xã hội, thời gian cụ thể mà hoạt động này được
triển khai. Trong hoàn cảnh thực tế của tỉnh Thanh Hoá là một tỉnh có diện tích
rộng, dân số đông còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế xã hội, tỷ lệ NKT có hoàn
cảnh khó khăn chiếm số lượng khá cao.Công tác trợ giúp cho NKT được quan tâm
nhưng còn nhiều khó khăn, hoạt động còn chưa thực sự hiệu quả. Cơ chế phối hợp
trong hoạt động trợ giúp cho NKT chưa được đồng bộ. Trung tâm cung cấp
DVCTXH mới được thành lập, các hoạt động triển khai còn chưa thật sự chuyên
nghiệp, đội ngũ NVCTXH còn thiếu về số lượng, chất lượng; nhận thức của người
dân về nghề CTXH còn nhiều hạn chế. Phương pháp duy vật lịch sử cũng đòi hỏi
khi nghiên cứu phải nắm vững những quan điểm, chủ trương và đường lối ứng với
những thời điểm, giai đoạn cụ thể để đề ra những phương hướng, giải pháp phù
hợp. Nghiên cứu trên cơ sở duy vật lịch sử là đối tượng được nghiên cứu đánh giá
theo một trục thời gian nhất định và mang tính lịch sử rõ nét. Như vậy những vấn đề

liên quan trong đề tài nghiên cứu có sự so sánh đối chiếu theo lịch sử, đảm bảo tính
sát thực và toàn vẹn trong trình bày kết quả nghiên cứu.

9


5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tài liệu
Là phương pháp sử dụng các kỹ thuật chuyên môn nhằm thu thập thông tin, số
liệu, tài liệu từ các nguồn tài liệu đã được công bố hoặc rút ra từ các nguồn tài liệu
những thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, các tài liệu được lựa chọn để thu thập,
phân tích thông tin là những văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến Chính sách
về Người khuyết tật; Chính sách trợ giúp xã hội đối với NKTVĐ; Phát triển nghề
CTXH, quy trình cung cấp DVCTXH; Các báo cáo, chương trình, kế hoạch về NKT
của tỉnh Thanh Hoá; Thông tin về tình hình kinh tế-chính trị-xã hội tại địa phương;
Những đề tài, báo cáo, thông tin có liên quan đến đề tài nghiên cứu từ các nguồn tạp
chí, sách báo, internet; Báo cáo tổng kết các năm của Trung tâm cung cấp dịch vụ
CTXH Thanh Hoá.
- Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát là phương pháp thu thập thông tin thông qua các tri giác
như nghe, nhìn để thu thập các thông tin từ thực tế xã hội nhằm đáp ứng mục tiêu
nghiên cứu của đề tài. Phương pháp nàyluôn được sử dụng thường trực và không
thể thiếu trong mọi nghiên cứu khoa học. Nếu quan sát tốt sẽ đem lại hiệu quả rất
cao trong nghiên cứu. Quan sát thực tiễn các yếu tố có liên quan đến đề tài ở nhiều
thời điểm, nhiều khía cạnh để có cái nhìn chân thực nhất về vấn đề nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả trực tiếp quan sát thái độ, hành vi của cán bộ
tham gia cung cấp DVCTXH đối với NKT. Đó là quá trình NVCTXH tiếp cận, làm
việc với NKT và gia đình; làm việc với chính quyền địa phương, phối hợp với các
tổ chức đoàn thể để đánh giá nhu cầu hỗ trợ của NKT cũng như xây dựng và thực

hiện kế hoạch can thiệp trợ giúp NKT. Quan sát cũng được thực hiện thông qua thái
độ hài lòng, sự tham gia của NKT. Các thông tin thu được từ quan sát có thể sử
dụng để đưa ra những đánh giá, nhận định về vấn đề nghiên cứu và đánh giá mức độ
tin cậy của những thông tin thu thập được từ các phương pháp khác, đặc biệt là
quan sát thái độ, cử chỉ của đối tượng trong quá trình phỏng vấn. Quan sát về môi
trường, không gian sống và điều kiện sinh sống trong sinh hoạt hằng ngày của

10


NKT;Quan sát về thể chất, thái độ giao tiếp và trạng thái tâm lý giữa NKT với cán
bộ làm việc trong Trung tâm.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Phương pháp điều tra bảng hỏi là phương pháp thu thập thông tin thông qua
việc sử dụng một bảng hỏi soạn sẵn, người điều tra phát bảng hỏi, hướng dẫn cách trả
lời, người được hỏi sẽ tự mình ghi câu trả lời ra phiếu bảng hỏi. Điều tra viên thu lại
phiếu và xử lý thông tin. Phát bảng hỏi cho 50 NKTVĐ là những đối tượng trực tiếp
được thụ hưởng DVCTXH.Nội dung của bảng hỏi liên quan đến: Đặc điểm tâm lý và
nhu cầu của NKTVĐ; Các dịch vụ CTXH đối với NKTVĐ;các yếu tố ảnh hưởng đến
việc cung cấp DVCTXH đối với NKTVĐ; Các giải pháp đối với việc cung cấp
DVCTXH đối với NKTVĐ tại Trung tâm cung cấp DVCTXH Thanh Hoá.
- Phương pháp phỏng vấn sâu:
Phỏng vấn sâu là phương pháp thu thập thông tin bằng cách tác động tâm lý,
xã hội một cách trực tiếp giữa người phỏng vấn và người trả lời. Phỏng vấn là
phương tiện được sử dụng phổ biến trong các điều tra, nghiên cứu khoa học nhằm
thu thập, khai thác thông tin từ đối tượng được phỏng vấn.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu với
10 người gồm: 5 NVCTXH, 3 nhân viên y tế và 2 cán bộ quản lý với mục đích
nhằm tìm hiểu, thu thập thông tin chuyên sâu về những thuận lợi và khó khăn trong
việc cung cấp DVCTXH đối với NKTVĐ cũng như các yếu tố ảnh hưởng. Trên cơ

sở đó, một số giải pháp được đề xuất nhằm nâng cao chất lượng cung cấp
DVCTXH đối với NKTVĐ tại Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH Thanh Hoá.
- Phương pháp tham gia:
Để có cái nhìn chân thực, khách quan nhất về vấn đề nghiên cứu, tác giả trực
tiếp tham gia vào việc cung cấp DVCTXH đối với NKTVĐ của Trung tâm, giúp
cho tác giả đánh giá được sâu sắc hơn những khó khăn, thuận lợi và hiệu quả của
các DVCTXH đối với NKTVĐ. Phương pháp này còn được thực hiện thông qua
việc vận động, khuyến khích các cá nhân tham gia vào quá trình cung cấp thông tin
và đóng góp ý kiến, kiến nghị đối với vấn đề mà đề tài nghiên cứu. Điều này có ý
nghĩa rất quan trọng vì để tổng kết được những thông tin khách quan, trung thực thì

11


phải có sự tham gia của đông đảo các khách thể cùng cung cấp thông tin, đặc biệt là
NKTVĐ và gia đình NKTVĐ là những người được thụ hưởng kết quả các hoạt
động trợ giúp. Những thông tin thu được từ phương pháp này cùng với thông tin từ
việc quan sát và xử lý tài liệu sẽ cho ra những đánh giá tổng quát, khách quan nhất
về vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm phong phú thêm lý luận về
DVCTXH với Người khuyết tật nói chung và DVCTXH với Người khuyết tật vận
động nói riêng, cũng như cung cấp thêm thông tin cho công tác nghiên cứu, xây
dựng chính sách có nội dung liên quan.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua nghiên cứu này để đánh giá được thực trạng DVCTXH đối với
NKTVĐ tại Trung tâm cung cấp DVCTXH Thanh Hoá. Trên cơ sở đó đề xuất
những phương hướng và giải pháp để nâng cao hiệu quả, chất lượng cung cấp
DVCTXH cho NKTVĐ, nhằm giúp cho NKT nói chung và NKTVĐ nói riêng hòa

nhập tốt với cộng đồng, phát huy vai trò, năng lực của họ đối với cộng đồng. Luận
văn cũng là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm đến lĩnh vực dịch vụ công
tác xã hội đối với Người khuyết tật vậnđộng.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với người
khuyết tật vận động.
Chương 2: Thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với người khuyết tật vận
động tại Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Thanh Hóa.
Chương 3: Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ công tác xã
hội đối với người khuyết tật vận động từ thực tiễn Trung tâm cung cấp dịch vụ công
tác xã hội Thanh Hóa.

12


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚINGƢỜI KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG
1.1. Một số khái niệm, đặc điểm tâm lý và nhu cầu của người khuyết tật vận động
1.1.1. Khái niệm khuyết tật
Có nhiều cách hiểu và cách diễn giải khác nhau về khuyết tật, xuất phát từ sự
đa dạng của khuyết tật, sự phức tạp về mức độ khuyết tật, công cụ đo lường và đánh
giá, cũng như sự khác biệt về văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia.
Theo từ điển Tiếng Việt (1998), từ “khuyết” có nghĩa là không đầy đủ, thiếu
mất một bộ phận, một phần. Từ “tật” có nghĩa là có “điều gì đó không được bình
thường, ít nhiều khó chữa ở vật liệu, dụng cụ, máy móc. Còn ở người là sự bất
thường, nói chung không thể chữa được, của một cơ quan trong cơ thể do bẩm sinh
mà có hoặc do tai nạn hay bệnh gây ra”. Như vậy, có thể hiểu khuyết tật là khiếm

khuyết thực thể ở một bộ phận nào đó hoặc khiếm khuyết chức năng ở một hoặc
nhiều cơ quan, tổ chức của cơ thể và khiếm khuyết đó có thể ảnh hưởng nghiêm
trọng đến cuộc sống[23, tr 8].
Tổ chức Y tế thế giới (WHO)(năm 2001) đã đưa ra định nghĩa khuyết tật như
sau: “Khuyết tật là thuật ngữ chung chỉ tình trạng khiếm khuyết, hạn chế vận động
và tham gia, thể hiện những mặt tiêu cực trong quan hệ tương tác giữa cá nhân một
người (về mặt tình trạng sức khỏe) với các yếu tố hoàn cảnh của người đó (bao gồm
yếu tố môi trường và các yếu tố cá nhân khác)” Như vậy, với khái niệm này có thể
hiểu “khuyết tật” chỉ đơn giản là bị khiếm khuyết mà không phải xác định nguyên
nhân của một dạng khuyết tật.
Như vậy, định nghĩa khuyết tật theo cách tiếp cận khái niệm mới có thể hiểu
là: “Tình trạng thiếu hụt chức năng hay rối loạn chức năng so với chuẩn sinh lý
bình thường làm cho cá nhân bị trở ngại trong học tập, làm việc, giao tiếp, vui chơi
giải trí và sinh hoạt”.
Theo Công ước quốc tế về quyền của NKT năm (2006) “Khuyết tật xuất phát
từ sự tương tác giữa những người có khiếm khuyết với những rào cản về thái độ và

13


môi trường, những rào cản này cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của họ
trong xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”[10].
Đối với đa số người Việt Nam, khuyết tật và tàn tật là hai từ để chỉ cùng một
khái niệm, từ năm 2009 trở về trước người ta vẫn dùng song song chúng trên cả
phương tiện truyền thông đại chúng và văn bản pháp quy. Trong các pháp lệnh
trước đây của Nhà nước Việt Nam, tàn tật là cụm từ được chính thức sử dụng. Năm
2010 Quốc hội Việt Nam đã chính thức sử dụng cụm từ khuyết tật thay cho tàn tật
trong các bộ luật ban hành có liên quan, cụ thể là Luật Người khuyết tật, có hiệu lực
từ ngày 01/01/2011. Sự thay thế này phù hợp với khái niệm và xu hướng nhìn nhận
của thế giới về vấn đề Người khuyết tật.

1.1.2. Khái niệm Người khuyết tật:
Theo quan điểm của Công ước Quốc tế về Quyền của người khuyết tật được
phê chuẩn ngày 13/12/2006 cho rằng Người khuyết tật bao gồm những người có
khiếm khuyết lâu dài về thể chất, trí tuệ, thần kinh hoặc các giác quan mà khi tương
tác với các rào cản khác nhau có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của họ
trong xã hội trên một nền tảng công bằng như những người khác trong xã hội” [10]
Như vậy, theo quan điểm này Người khuyết tật ám chỉ cả yếu tố sinh học và
xã hội mà ở đó phản ảnh sự tương tác giữa các yếu tố liên quan tới cơ thể con người
và yếu tố xã hội mà họ sống, tồn tại trong đó (WHO, 2012). Sự khiếm khuyết cơ thể
của NKT được xem như điều kiện về sức khỏevà khuyết tật là sự phức hợp của điều
kiện sức khỏe và các yếu tố môi trường mà NKT sống ở đó (quan niệm, cách nhìn
nhận, sự đáp ứng của xã hội như: chính sách, dịch vụ…), yếu tố cá nhân NKT (như
động lực, nghị lực, lòng tự trọng...). Các yếu tố này có thể vừa là thúc đẩy hay rào
cản đối với sự thực hiện, sự tham gia của NKT trong cộng đồng xã hội. Khuyết tật,
tàn tật được hiểu theo những cách khác nhau ở Việt Nam.
- Khuyết tật trong từ điển tiếng Việt là: tật bẩm sinh, dị tật[23].
- Tàn tật là có một cơ quan quan trọng nào đó trong cơ thể bị tật nặng, mất khả
năng lao động, hay khả năng hoạt động bình thường [23, tr. 856].

14


Theo Luật Người khuyết tật Việt nam (2010), “Người khuyết tật là người bị
khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu
hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”[25].
* Dạng tật được quy định trong luật[25]bao gồm:
Khuyết tật vận động; Khuyết tật nghe, nói; Khuyết tật nhìn; Khuyết tật thần
kinh, tâm thần; Khuyết tật trí tuệ; Khuyết tật khác.
* Người khuyết tật được chia theo mức độ khuyết tật sau đây:
- Người khuyết tật đặc biệt nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự

thực hiện việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày;
- Người khuyết tật nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện
một số việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày;
- Người khuyết tật nhẹ là người khuyết tật không thuộc trường hợp quy định
tại điểm a và điểm b khoản này.
1.1.3. Khái niệm người khuyết tật vận động
Là những người bị khuyết tật ở cơ quan vận động (cơ, xương, khớp, thần kinh
ngoại vi) những khuyết tật trên làm cho người khuyết tật khó khăn trong việc đi,
đứng, làm việc như: Mất đoạn, biến dạng, lệch trục chi thể sau chấn thương, vết
thương. Dính khớp, biến dạng khớp do chứng các bệnh lý khớp. Dị tật bẩm sinh:
bàn chân khèo, trật khớp háng bẩm sinh, gai đôi…Bại, liệt trong di chứng bại não,
bại liệt, liệt dây thần kinh ngoại vi, viêm não-màng não, tuỷ sống, tai biến não. Teo
cơ, cứng khớp ở những bệnh nhân bị bệnh mạn tính phải nằm lâu ngày ở một tư thế.
Người khuyết tật vận động gồm có hai dạng:
- Người khuyết tật vận động do chấn thương nhẹ hay do bệnh bại liệt gây ra
làm què cụt, khoèo, liệt chân tay.
- Người khuyết tật vận động do tổn thương trung khu vận động não bộ.
Đối với dạng thứ nhất thì những người này vẫn có một bộ máy sinh học bình
thường làm cơ sở vật chất thực hiện hoạt động nhận thức. Nói cách khác, khi họ có
khiếm khuyết đơn thuần về vận động thì họ hoàn toàn có khả năng nhận thức như
những người bình thường khác. Tuy nhiên, sự phát triển hoạt động nhận thức của họ
phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tham gia các hoạt động trong môi trường xung

15


quanh. Người khuyết tật vận động khó đạt được trình độ nhận thức cũng như những
trải nghiệm như mọi người bình thường khác. Chẳng hạn, người không thể có cảm
giác mỏi chân nếu họ bị bại liệt đôi chân không thể đi được, không thể leo trèo được
thì khó có cảm giác về độ cao và kĩ năng lấy thăng bằng của cơ thể, không có cảm

giác về sức đẩy của nước nếu không được ngâm mình trong nước…
Đối với dạng thứ hai thì sự tổn thương về não bộ gây rất nhiều cản trở cho
hoạt động nhận thức của Người khuyết tật, thậm chí là trình độ nhận thức ở mức độ
nặng. Hoạt động nhận thức của loại người này cũng có những hạn chế tương tự như
người chậm phát triển trí tuệ và còn bị ảnh hưởng thêm của khuyết tật vận động.
Song cũng cần lưu ý những trường hợp khuyết tật vận động do bại não gây nên thì
hoạt động nhận thức của họ hầu như không bị ảnh hưởng song họ khó có thể biểu
đạt được suy nghĩ, hành động, lời nói một cách bình thường do sự cản trở
của khuyết tật vận động.
1.1.4. Đặc điểm tâm lý và nhu cầu của người khuyết tật vận động
* Đặc điểm tâm lý của người khuyết tật vận động
- NKTVĐ dễ bị kích động, khó kiểm soát phản ứng do bị phân biệt đối xử và
thiếu tôn trọng. Ngoài ra NKTVĐ thường có tâm lý mặc cảm tự ti. Luôn cho rằng số
phận mình không được may mắn, là gánh nặng cho người thân, gia đình. Do đó họ
thường sống khép kín, ngại giao tiếp với mọi người. Trong quá trình tương tác với
người khác trong gia đình, cộng đồng họ thường có cảm xúc buồn, thất vọng và hay tự
ái. Nếu sống trong những gia đình khó khăn thường NKTVĐ có cảm giác bị bỏ rơi.
- Sự thiếu hụt về thể chất dẫn tới khả năng hoạt động chức năng của NKTVĐ có
thể bị giảm sút, vì vậy họ gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong sinh hoạt, lao động, học tập.
- Do bị khuyết tật, đi lại khó khăn nên hoạt động lao động, giao lưu hạn chế
hơn so với người bình thường nếu không có hỗ trợ xã hội thì phạm vi quan hệ xã
hội ở NKTVĐ sẽ bị thu hẹp.
- Do sự thiếu hụt dẫn đến những cản trở trong sinh hoạt, lao động trên nên
NKTVĐ thường bị ức chế dẫn đến bi quan, chán nản, tự ti hay cáu gắt, nóng
nảy…Ngay cả khi này, họ cũng cần được chấp nhận, tôn trọng. Cộng đồng và xã

16


hội cần giáo dục mọi người tránh cử chỉ, hành vi miệt thị, xa lánh, cần loại bỏ

những tên gọi như “thằng què, con cụt”…xúc phạm đến họ.
- NKTVĐ với những suy nghĩ cho rằng bản thân là NKTVĐ, là đối tượng được
bảo trợ, thậm chí họ đổ lỗi những khiếm khuyết của bản thân là do xã hội không quan
tâm. Vì vậy, một số NKTVĐ có thái độ ỷ lại, trông chờ vào người khác hỗ trợ, điều
này làm cho việc hỗ trợ NKTVĐ khắc phục khó khăn, vươn lên hòa nhập xã hội hết
sức khó khăn.
- Mặt khác họ là người có đời sống nội tâm rất nhạy cảm và tế nhị, họ rất
thông cảm với những khó khăn của người khác hơn cả so với người bình thường.
Chính vì vậy, họ là những người hoạt động rất có hiệu quả trong các nhóm tự giúp.
Tại đây họ giúp nhau vượt qua khó khăn của bệnh tật, chia sẻ kinh nghiệm với nhau
để thích nghi tốt hơn.
* Nhu cầu của người khuyết tật vận động
Mọi Người khuyết tật sinh ra và lớn lên trong xã hội loài người đều có những
nhu cầu cơ bản(Bậc thang nhu cầu cơ bản của Maslow)và những khả năng nhất định
(thuyết đa năng lực của Gardner). Tuy ở những mức độ khác nhau so với người
bình thường, đầu tiên có thể kể đến những nhu cầu cơ bản như: Nhu cầu cơ thể (ăn,
uống, ngủ..), nhu cầu cảm giác an toàn, nhu cầu cảm giác tiếp xúc, nhu cầu về đồ
vật…được thể hiện bằng tiếng khóc, tiếng bập bẹ, tiếng cười, ánh mắt, cử động của
cơ thể.
Mỗi người là một bức tranh hết sức đa dạng, phong phú về nhân cách, họ có
khả năng, nhu cầu và sở thích riêng, có cách thể hiện riêng. Được tham gia vào các
hoạt động trong môi trường hòa nhập tại cộng đồng, xã hội, nhà trường và gia đình
thì NKT mới có cơ hội được bộc lộ, thể hiện một cách đầy đủ và rõ nét nhất khả
năng và nhu cầu của mình. Đồng thời, đó cũng chính là cách giảm thiểu được những
ảnh hưởng bất lợi của khuyết tật đối với các chức năng hoạt động cơthể khác.
Nhu cầu hòa nhập xã hội của NKTVĐ là những mong muốn, nguyện vọng
được tham gia vào đời sống xã hội ở các mặt chăm sóc sức khỏe, giáo dục, dạy
nghề và việc làm, bảo đảm điều kiện tiếp cận trong các hoạt động văn hóa, thể dục,

17



thể thao, giải trí, du lịch, nhà chung cư, công trình công cộng, giao thông, công
nghệ thông tin và truyền thông,… cùng với những người bình thường.
Nhu cầu về học tập, dạy nghề và việc làm: NKTVĐ có nhu cầu được tiếp cận
các loại hình giáo dục phù hợp, tham gia vào các hoạt động giáo dục hòa nhập,
được tham gia vào môi trường học tập đầy đủ như người bình thường. NKTVĐ
cũng có nhu cầu được dạy nghề và có việc làm ổn định thích hợp với khả năng và
sức khỏe, không phụ thuộc vào gia đình và xã hội, có nhu cầu được tư vấn, hỗ trợ
việc làm sau học nghề để có thể tự nuôi sống bản thân cũng như gia đình vợ/chồng,
con cái của mình.
Nhu cầu giao tiếp với bạn bè, những người xung quanh và xây dựng hạnh
phúc gia đình: NKTVĐ có sự mặc cảm, tự ti về những khuyết tật của bản thân và sự
phân biệt, kỳ thị của xã hội. NKTVĐ mong muốn được giao tiếp, được sự sẻ chia,
thân thiện của bạn bè và những người xung quanh. Đồng thời, chính sự kỳ thị và
phân biệt đối xử của gia đình và cộng đồng là nguyên nhân quan trọng nhất gây ra
khó khăn cho NKTVĐ trong hôn nhân. Trong quan niệm của nhiều người, việc kết
hôn với NKT là không nên và sẽ đưa đến những điều khó khăn trong cuộc sống cho
chính bản thân NKTVĐ. Vì vậy, bên cạnh nhu cầu giao tiếp, sẻ chia, NKTVĐ cũng
mong muốn có người hiểu, đồng cảm để xây dựng hạnh phúc gia đình.
Nhu cầu được tôn trọng, được thừa nhận, phát huy được khả năng của bản
thân: NKTVĐ thường mặc cảm, tự đánh giá thấp bản thân mình so với những người
bình thường khác. Bên cạnh đó, họ còn bị những người xung quanh trêu chọc về
hình dáng của mình làm cho họ càng cảm thấy mặc cảm ngoại hình, chú trọng quá
mức đến khiếm khuyết cơ thể của mình. Sự phân biệt đối xử của cộng đồng là
nguyên nhân chính làm cản trở NKTVĐ có cuộc sống tốt đẹp. Cản trở lớn nhất với
NKTVĐ là kỳ thị, nó là rào cản vô hình nhưng tàn nhẫn đẩy nhiều người ra bên lề
của cuộc sống. Vì vậy, NKTVĐ rất mong muốn được sự tôn trọng, thừa nhận của
những người xung quanh cũng như phát huy được khả năng của bản thân.
1.2. Một số lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với người khuyết tật vận động

1.2.1. Một số khái niệm

18


* Dịch vụ: Nói tới dịch vụ, cung cấp dịch vụ tức là cần có hai yếu tố là những
người có nhu cầu sử dụng dịch vụ và những người cung cấp dịch vụ.
Trong cuộc sống ngày nay chúng ta biết đến rất nhiều hoạt động trao đổi được
gọi chung là dịch vụ và ngược lại dịch vụ bao gồm rất nhiều các loại hình hoạt động
và nghiệp vụ trao đổi trong các lĩnh vực và ở cấp độ khác nhau. Đã có nhiều khái
niệm, định nghĩa về dịch vụ như:
Định nghĩa về dịch vụ trong kinh tế học được hiểu là những thứ tương tự như
hàng hoá nhưng phi vật chất [Từ điển Wikipedia]. Theo quan điểm kinh tế học, bản
chất của dịch vụ là sự cung ứng để đáp ứng nhu cầu như: dịch vụ du lịch, thời trang,
chăm sóc sức khoẻ…và mang lại lợi nhuận.
Philip Kotler định nghĩa dịch vụ: Dịch vụ là một hoạt động hay lợi ích cung
ứng nhằm để trao đổi, chủ yếu là vô hình và không dẫn đến việc chuyển quyền sở
hữu. Việc thực hiện dịch vụ có thể gắn liền với sản phẩm vật chất.
Tóm lại, có nhiều khái niệm về dịch vụ được phát biểu dưới những góc độ khác
nhau nhưng tựu chung thì: Dịch vụ là hoạt động có chủ đích nhằm đáp ứng nhu cầu
nào đó của con người. Đặc điểm của dịch vụ là không tồn tại ở dạng sản phẩm cụ thể
(hữu hình) như hàng hoá nhưng nó phục vụ trực tiếp nhu cầu nhất định của xã hội.
* Dịch vụ công tác xã hội:
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), dịch vụ xã hội (DVXH) là các hoạt
động cung cấp dịch vụ, đáp ứng nhu cầu cho các cá nhân, nhóm người nhất định
nhằm bảo đảm các giá trị và chuẩn mực xã hội. Ngoài ra còn có một số cách hiểu
khác về dịch vụ xã hội nhìn từ vai trò của người cung cấp dịch vụ và người tiếp nhận
dịch vụ. Theo cách nhìn này, dịch vụ xã hội là các hoạt động có chủ đích của con
người nhằm phòng ngừa hạn chế và khắc phục rủi ro, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu
cơ bản và thúc đẩy khả năng hoà nhập cộng đồng, xã hội cho nhóm đối tượng yếu

thế. Dịch vụ xã hội là các sáng kiến can thiệp nhằm vào các nhu cầu và các vấn đề
của các nhóm người dễ bị tổn thương, bao gồm cả việc phòng ngừa bạo lực, tan vỡ
gia đình, xóa đói giảm nghèo và hỗ trợ NKT, trẻ em và người già.
Tác giả Trần Hậu, Đoàn Minh Huấn (2012) cho rằng DVXH là những dịch vụ
đáp ứng nhu cầu cộng đồng và cá nhân nhằm phát triển xã hội, có vai trò đảm bảo

19


×