Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Công tác xã hội đối với người cai nghiện ma túy từ thực tiễn trung tâm chữa bệnh giáo dục lao động xã hội số v, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.14 KB, 92 trang )

VIỆN
HÀNNHŨ
LÂMKhổ 210 x 297 mm
MẪU BÌA LUẬN VĂN CÓ
IN CHỮ
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ NGỌC THÚY

CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAI NGHIỆN MA
TÚY TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM CHỮA BỆNH GIÁO DỤC - LAO ĐỘNG XÃ HỘI SỐ V,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: CÔNG TÁC XÃ HỘI
Mã số: 60. 90. 01. 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS HÀ THỊ THƯ

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
khoa học nào khác.
Học viên

Lê Thị Ngọc Thúy




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI CAI NGHIỆN MA TÚY ............................................................................. 11
1.1. Khái niệm và đặc điểm người cai nghiện ma túy............................................... 11
1.2. Lý luận về công tác xã hội đối với người cai nghiện ma túy .............................13
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội đối với người cai nghiện ma túy .............24
1.4.Cơ sở pháp lý liên quan đến công tác xã hội đối với người cai nghiện ma
túy…….....................................................................................................................27
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAI NGHIỆN
MA TÚY TẠI TRUNG TÂM CHỮA BỆNH - GIÁO DỤC - LAO ĐỘNG XÃ HỘI
SỐ V, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................. 32
2.1. Vài nét về Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động xã hội số V, thành phố
Hà Nội .......................................................................................................................32
2.2. Thực trạng hoạt động công tác xã hội đối với người cai nghiện ma túy ở trung
tâm .............................................................................................................................35
2.3. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội đối với người cai nghiện
ma túy ........................................................................................................................53
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI CAI NGHIỆN MA TÚY ............................................................................ 65
3.1. Tuyên truyền nâng cao nhận thức của cộng đồng, khuyến khích mô hình cai
nghiện mở tại cộng đồng… ..................................................................................... . 65
3.2. Đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ chuyên môn, học viên trong trung
tâm……………… .................................................................................................... .67
3.3. Tiếp tục thực hiện, phát huy tốt hoạt động hỗ trợ, kết nối và sử dụng hiệu quả
các nguồn lực trong việc cai nghiện và tìm kiếm việc làm của người nghiện……. 67
3.4. Thay đổi cách thức hoạt động để nâng cao hiệu quả chất lượng quản lý tại các
trung tâm………………………………………………………………………….. 69

3.5. Cần hoàn thiện, bổ sung cơ chế, chính sách, tổ chức các hoạt động phù hợp hỗ
trợ người cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng và tìm kiếm việc làm……… 70
KẾT LUẬN ..............................................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO… ..............................................................73


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Stt

Chữ viết tắt

Nội dung

1

CTXH

Công tác xã hội

2

IFSW

Hiệp hội nhân viên CTXH Quốc tế

3

LĐTB&XH


Lao động – Thương binh & Xã hội

4

NCN

5

NNMT

6

NVCTXH

7



8

UBND

Người cai nghiện
Người nghiện ma túy
Nhân viên công tác xã hội
Quyết định
Ủy ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG/BIỂU


Bảng 2.1.

Đánh giá hiệu quả tư vấn của nhân viên CTXH
40

Bảng 2.2.
Bảng 2.3.
Bảng 2.4.
Bảng 2.5.
Bảng 2.6.
Bảng 2.7.
Bảng 2.8.
Bảng 2.9.
Bảng 2.10.

Bảng 2.11.

Tỷ lệ học viên tham gia các hoạt động tích cực tại
trung tâm
Đánh giá các về tâm lý của học viên
Tỷ lệ các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề tìm kiếm việc
làm của học viên sau cai
Đánh giá tỷ lệ của các nhu cầu của các học viên tại
trung tâm

41
47
50


54

Ảnh hưởng các yếu tố thuộc về đặc điểm bản thân
học viên
Đánh giá thái độ làm việc với học viên của
NVCTXH
Đánh giá về cơ sở vật chất của Trung tâm

55
56

57

Ảnh hưởng của đặc điểm cơ sở vật chất của Trung
tâm với quá trình cai nghiện của học viên
Mức độ ảnh hưởng của quan điểm lãnh đạo đối với
quá trình cai nghiện của học viên
Ảnh hưởng các yếu tố thuộc về đặc điểm gia đình tới
học viên

58
59

61


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã xác định tệ nạn ma túy là hiểm
họa lớn cho toàn xã hội gây tác hại cho sức khỏe, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá

con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an
toàn xã hội và an ninh quốc gia, đe dọa sự ổn định, phát triển và thành quả đổi mới
của đất nước.
Do vậy, việc nâng cao hiệu quả công tác cai nghiện ma túy trong thời gian tới,
góp phần hạn chế tối đa hậu quả của tệ nạn ma tuý, xây dựng môi trường tốt đẹp
cho xã hội là vấn đề cần thiết không chỉ đối với các cấp ngành có liên quan mà là
mối quan tâm của mỗi gia đình, của cộng đồng và của toàn xã hội.
Thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ tại Quyết định số 2596⁄QĐ-TTg ngày
27⁄12⁄2013 về việc phê duyệt Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam
đến năm 2020 và Nghị quyết số 98⁄NQ-CP ngày 26⁄12⁄2014 về tăng cường chỉ đạo
công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình mới; đồng
thời, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị các cấp, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện
ma túy, Ban chỉ đạo phòng, chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm
thành phố Hà Nội đã từng bước triển khai đổi mới công tác cai nghiện trên địa bàn.
Nhiều người vẫn cho rằng người nghiện ma túy chỉ cần điều trị cắt cơn là
xong, tuy nhiên việc điều trị nghiện ma túy là một quá trình, trong đó không chỉ đơn
thuần cắt cơn mà còn phải điều trị thuốc thay thế lâu dài, phòng chống tái nghiện
cũng như kết hợp các trị liệu khác như trị liệu tâm lý, xã hội, hành vi...
Việc phát huy vai trò công tác xã hội (CTXH) tại trung tâm cũng như tại cộng
đồng góp phần giải quyết những khó khăn mà người nghiện gặp phải, nhân viên
công tác xã hội sẽ thực hiện vai trò hoạt động chuyên nghiệp nhằm phát huy tối đa
nội lực của người nghiện, hỗ trợ họ vươn lên thoát nghiện và tái hòa nhập cộng
đồng. Nhân viên công tác xã hội có trách nhiệm kết nối chính quyền, tổ chức đoàn
thể, cơ sở sản xuất để giới thiệu, giúp đỡ người sau cai nghiện có việc làm ổn định,

1


hòa nhập cộng đồng. Đề xuất với chính quyền địa phương tạo điều kiện cho họ tiếp

cận các dịch vụ dạy nghề, truyền nghề, tạo việc làm cho các cơ sở dạy nghề tư nhân
đóng trên địa bàn; các chương trình dạy nghề, vay vốn ưu đãi của Nhà nước và các
tổ chức đoàn thể… Bộ Lao động – Thương binh & Xã hội đã kiến nghị với Bộ tài
chính và ngân hàng Nhà nước có những hướng dẫn cụ thể để người sau cai nghiện
có thể tiếp cận nguồn vốn vay tạo việc làm và phát triển kinh tế… Có thể nói, sự
chung tay vào cuộc tích cực hơn nữa của các doanh nghiệp, ban, ngành, đoàn thể và
xã hội trong việc hỗ trợ tạo việc làm cho các đối tượng này sẽ trở thành động lực
giúp họ tái hòa nhập cộng đồng, đoạn tuyệt với ma túy, ổn định cuộc sống và phát
triển kinh tế địa phương.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Công tác xã hội đối với người cai
nghiện ma túy từ thực tiễn trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động Xã hội số
V, thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trợ giúp cho người cai nghiện là một vấn đề cần được quan tâm nhằm giúp
cho họ có được những điều kiện tốt nhất đáp ứng nhu cầu cai nghiện, nâng cao năng
lực và phát huy được những thế mạnh của bản thân, vượt qua mặc cảm, tự ti để
vươn lên trong cuộc sống, cho nên vấn đề này đã được rất nhiều người quan tâm
nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, nhãn quan khác nhau.
Hiện nay, tại Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung đã có nhiều công
trình nghiên cứu, nhiều ấn phẩm được đề cập trên các báo, luận án, luận văn thạc sĩ,
khóa luận tốt nghiệp đề cập đến vấn đề hỗ trợ cho người cai nghiện, trong đó đáng
lưu ý như:
Nhóm tác giả Nguyễn Thanh Hiệp và cộng sự với đề tài “Khảo sát các yếu tố
ảnh hưởng dẫn đến nghiện ma túy lần đầu ở người sau cai nghiện ma túy (tại Trung
tâm giáo dục dạy nghề và giải quyết việc làm Bình Đức và Đức Hạnh)” đã phân
tích đặc điểm, hoàn cảnh xã hội của người nghiện ma tuý lần đầu. Theo kết quả
nghiên cứu, các yếu tố ảnh hưởng đến lý do nghiện ma túy lần đầu bao gồm có yếu
tố bản thân, gia đình và bạn bè. Trong đó, tác động của bạn bè có ảnh hưởng quan
trọng đến hành vi sử dụng ma túy của người nghiện. Nếu có thêm các yếu tố nguy


2


cơ về gia đình và bản thân, người nghiện càng dễ dàng chịu sự tác động của bạn bè
hơn và thúc đẩy họ sử dụng ma túy sớm hơn [10].
Nhóm nghiên cứu từ hoàn cảnh sống và tâm lý của người nghiện ma túy:
- Hai tác giả Phan Xuân Biên và Hồ Bá Thâm đồng chủ biên, “Tâm lý học giáo
dục nhân cách người cai nghiện ma túy từ thực tế thành phố Hồ Chí Minh”, xuất
bản năm 2004 là một công trình nghiên cứu công phu của nhiều tác giả về nguyên
nhân, đặc điểm tâm lý, công tác giáo dục nhân cách, đạo đức xã hội dành cho những
người liên quan đến nghiện ma túy. Các tác giả cho rằng, người nghiện là người rối
loạn về tâm lý, không làm chủ được hành vi của mình, từ không làm chủ được bản
thân, họ hành động chủ yếu theo ham muốn bản năng, dẫn tới lệch chuẩn xã hội,
khủng hoảng nhân cách, tha hóa - rối loạn nhân cách và việc cai nghiện, phục hồi
nhân cách, sửa đổi và phát triển nhân cách người cai nghiện thành công hay không
phụ thuộc vào thái độ, tình thương, trách nhiệm của cộng đồng, gia đình, xã hội và
bản thân người nghiện. Do vậy, công tác điều chỉnh tâm lý, giáo dục, phục hồi nhân
cách cho người cai nghiện và những giải pháp giúp người sau cai nghiện ma túy trở
về với gia đình, cộng đồng được thực hiện bằng biện pháp tâm lý [4].
- Tác giả Phan Thị Mai Hương, “Thanh niên nghiện ma túy nhân cách và hoàn
cảnh xã hội”, 2005, là một cách tiếp cận mới về thanh niên nghiện ma tuý - từ góc độ
của tâm lý học. Tác giả đã phân tích, hệ thống hoá những lý luận về đặc điểm nhân
cách, hoàn cảnh xã hội và sự ảnh hưởng của chúng trong việc nghiên cứu hành vi của
người nghiện ma tuý, cũng như quan điểm về việc giải quyết chúng trong thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra một số đặc điểm nhân cách và hoàn cảnh xã hội nổi trội
của thanh niên nghiện ma tuý, mối quan hệ giữa các đặc điểm với hành vi nghiện.
Trong đó, vai trò gia đình được tác giả tìm hiểu ở khía cạnh môi trường gia đình gắn
với vị thế kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến đặc điểm nhân cách và mức độ nghiện
của thanh niên nghiện ma túy, cách quản lý của cha mẹ với con. Trên cơ sở đó, việc
ngăn ngừa hành vi nghiện ma tuý và việc cai nghiện ma tuý ở thanh niên cần phải kết

hợp giữa tri thức và biện pháp của tâm lý học. Kết quả nghiên cứu đã định hướng về
hướng giáo dục và ứng xử thích hợp với người nghiện ma tuý cũng như góp phần
ngăn ngừa việc lạm dụng ma tuý ở thanh thiếu niên [11].

3


Và các nghiên cứu về quản lý dạy nghề, giải pháp hỗ trợ việc làm cho người sau
cai nghiện:
- Đề tài cấp Bộ 2001 do Nguyễn Văn Minh, “Các giải pháp tạo việc làm cho
người nghiện ma túy, người mại dâm sau khi được chữa trị phục hồi”, 2002, làm chủ
nhiệm. Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng việc làm, đời sống người nghiện ma túy,
người bán dâm. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng nhiều khả năng tái nghiện của người
nghiện ma túy sau cai là do không có việc làm, mặc dù nghị lực của đối tượng là yếu tố
quyết định, sự quan tâm của gia đình là yếu tố quan trọng giúp đối tượng từ bỏ tệ nạn
xã hội. Do vậy, các đề xuất của tác giả hướng tới hoàn thiện hệ thống các giải pháp tạo
việc làm cho đối tượng nhằm giúp họ ổn định cuộc sống, giảm tỷ lệ tái phạm, tái
nghiện [23].
- Viện nghiên cứu xã hội thành phố Hồ Chí Minh, “Những giải pháp chủ yếu
quản lý, dạy nghề cho người sau cai nghiện ma túy trong chương trình ba năm ở
các trường, trung tâm tại Thành phố Hồ Chí Minh”, 2004 - 2005. Đề tài nghiên cứu
nhằm đưa ra những giải pháp thực tiễn để đáp ứng nhiệm vụ quản lý và dạy nghề
cho người sau cai nghiện ma túy thuộc [35].
- Đề án “Tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai
nghiện ma túy” do Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua
Nghị quyết 16/2003 - QH11 “Về việc thực hiện thí điểm tổ chức quản lý, dạy nghề
và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma túy ở thành phố Hồ Chí Minh
và một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”. Đề tài được thực hiện đã giải
quyết được vấn đề giúp những người nghiện sau kết thúc 2 năm cắt cơn, chữa bệnh,
cai nghiện và phục hồi sức khỏe, người cai nghiện được phân loại chuyển sang giai

đoạn “hậu cai” đó là được học văn hóa, học nghề và từng bước đưa những người
sau cai nghiện ma túy có đủ điều kiện tối thiểu vào làm việc tại các khu công nghiệp
đặc biệt do thành phố xây dựng. Kết quả nghiên cứu của đề tài đã được triển khai,
áp dụng trong thực tiễn, giúp hàng ngàn người từng bước tái hòa nhập cộng đồng
một cách bền vững. Để đạt được thành công trên, một trong những giải pháp tác giả
nêu ra trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng cho người sau cai nghiện ma túy là
cần phải có sự tham gia quản lý của công an khu vực, chính quyền xã phường, thị

4


trấn và các đoàn thể, ban điều hành khu phố. Trong đó, tác giả khẳng định vai trò
của gia đình và cộng đồng không thể thiếu trong quá trình phòng, chống ma túy;
phải tạo ra môi trường sống hòa thuận, đoàn kết, dân chủ, quan tâm tới nhau giữa
các thành viên trong gia đình, cơ quan, xí nghiệp, trường học, khu phố, xóm ấp.
Tác giả Lê Hồng Minh (2010), với đề tài “Tổ chức tư vấn hướng nghiệp cho
thanh niên sau cai nghiện ở thành phố Hồ Chí Minh” đã đề cập khá cụ thể các loại
hình tổ chức, quản lý giáo dục người nghiện ma tuý và sau cai nghiện trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh; các nội dung, phương pháp để hoàn thiện tổ chức tư vấn
hướng nghiệp cho thanh niên sau cai nghiện tại cộng đồng. Về thực tiễn, luận án đã
hệ thống hoá được các loại hình tổ chức, quản lý giáo dục người nghiện ma tuý và
sau cai nghiện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh; đánh giá được thực trạng về cách
tổ chức các hoạt động quản lý giáo dục thanh niên sau cai ở thành phố Hồ Chí Minh
và chỉ ra những mặt hạn chế để tìm giải pháp khắc phục, hoàn thiện tổ chức tư vấn
hướng nghiệp tư vấn hướng nghiệp cho thanh niên sau cai nghiện tại cộng đồng. Đã
đề xuất được cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Văn phòng tư vấn hướng nghiệp
cho thanh niên sau cai nghiện làm cơ quan đầu mối cho hoạt động tư vấn hướng
nghiệp cho thanh niên sau cai nghiện ở cộng đồng; đề xuất đổi mới mô hình tổ chức
và phương thức hoạt động của Đội tình nguyện; xây dựng nội dung chương trình giáo
dục chuyển biến nhận thức và hành vi thanh niên sau cai nghiện ở cộng đồng [19].

Tác giả Lê Thị Thanh Huyền (2014), với đề tài luận văn “ Hoạt động hỗ trợ tạo
việc làm cho người sau cai nghiện ma túy (Nghiên cứu tại thành phố Hà Nội)” đã đề
cập đến các hoạt động của công tác xã hội cũng như tình nguyện viên trong việc hỗ
trợ người nghiện sau cai tìm kiếm việc làm, phòng chống tái nghiện. Luận văn đã một
phần đánh giá được thực trạng của người sau cai nghiện về việc tìm kiếm việc làm,
nhu cầu sống và các khó khăn thuận lợi khi tái hòa nhập cộng đồng của họ [14].
Như vậy, người nghiện ma túy là một nhóm xã hội đặc thù, họ không chỉ yếu
về mặt thể chất mà cả về tinh thần. Có thể thấy rằng, các tài liệu mới chỉ đề cập rất
ít tới vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma túy. Việc
tìm hiểu vai trò của nhân viên công tác xã hội đối với người cai nghiện ma túy một
cách có hệ thống từ cơ sở lý luận đến thực tiễn chưa có công trình nào nghiên cứu

5


một cách đầy đủ, logic và mang tính khoa học. Nghiên cứu "Công tác xã hội đối
với người cai nghiện ma túy từ thực tiễn trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao
động Xã hội số V, thành phố Hà Nội" hy vọng sẽ là sự đóng góp nhỏ của tác giả
vào nỗ lực phòng chống tệ nạn ma túy chung của toàn xã hội. Các công trình nghiên
cứu tiêu biểu trên đây chính là cơ sở khoa học để tôi kế thừa và phát triển trong luận
văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề liên quan tới công tác xã hội đối với người cai
nghiện ma túy và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động này, từ đó đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao hoạt động công tác xã hội với người cai nghiện ma túy từ thực
tiễn trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội số V, thành phố Hà Nội
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về người cai nghiện ma túy, công tác xã hội với
người cai nghiện ma túy;

- Khảo sát và đánh giá thực trạng người cai nghiện ma túy tại trung tâm Chữa
bệnh - Giáo dục - Lao động Xã hội số V, thành phố Hà Nội và thực trạng hoạt động
công tác xã hội trong việc thực hiện chính sách cai nghiện tự nguyện;
- Đề xuất giải pháp nhằm cao hiệu quả hoạt động công tác xã hội trong hỗ trợ
người cai nghiện tại trung tâm cũng như cộng đồng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội đối với người cai nghiện ma túy từ thực tiễn trung tâm Chữa
bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội Số V, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi về nội dung
Nghiên cứu các hoạt động công tác xã hội với người cai nghiện ma túy tại
trung tâm như: Hoạt động tâm lý xã hội; Hoạt động giáo dục; Hoạt động hỗ trợ điều
trị y tế; Hoạt động kết nối dịch vụ khác
* Phạm vi khách thể

6


- 60 học viên đang cai nghiện tại trung tâm
- Cán bộ quản lý tại trung tâm
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

Vấn đề nghiên cứu được dựa trên quản điểm duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa trên quan điểm của triết học
duy vật lịch sử và biện chứng trong phân tích, đánh giá lý luận và thực tiễn công
tác xã hội đối người nghiện ma túy sau cai.
Nghiên cứu đề tài dựa trên cách tiếp cận hệ thống, liên ngành về các hoạt
động công tác xã hội đối với người nghiện ma túy sau cai.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
+ Đọc và tìm hiểu các tài liệu có liên quan tới CTXH như: Nhập môn CTXH,
CTXH cá nhân, CTXH nhóm, công tác xã hội với NCN, CTXH tổ chức và phát
triển cộng đồng,...
+ Phân tích những công trình nghiên cứu có liên quan tới vấn đề hỗ trợ NCN
trên những tài liệu đã công bố, in ấn.
+ Đọc, tìm hiểu và phân tích, đánh giá các tài liệu có liên quan đến trợ giúp
NCN và các biện pháp can thiệp hỗ trợ, giúp đỡ họ.
+ Các văn bản, báo cáo, nghiên cứu đi trước
Để có số liệu cụ thể, chính xác về các vấn đề liên quan, nghiên cứu này đã tìm
hiểu một số tài liệu như:
Văn bản quy phạm pháp luật của Đảng và Nhà nước về cai nghiện và quản lý
sau cai nghiện:
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành
năm 1995 và được sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2009.
Luật Phòng chống ma túy ban hành ngày 19/12/2000 và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật phòng chống ma túy năm 2008.

7


Nghị định 94/2009/NĐ-CP ngày 26/10/1999 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống ma túy về quản
lý sau cai nghiện ma túy.
Thông tư liên tịch số 31/1999/TTLT/BLĐTBXH-BYT ngày 20/12/1999 về
hướng dẫn quy trình cai nghiện, phục hồi sức khỏe, nhân cách cho người nghiên
ma túy.
Nghị định 94/2010/NĐ-CP ngày 26/10/2010 của Chính phủ về quy định biện
pháp quản lý sau cai tại nơi cư trú và tại trung tâm quản lý sau cai.

Tập tư liệu- số liệu về kết quả cai nghiện phục hồi năm 2009- 2010.
Tập tài liệu giao ban hướng dẫn các văn bản pháp luật về công tác phòng
chống tệ nạn xã hội năm 2011.
Báo cáo kết quả công tác cai nghiên ma túy qua các năm của Hà Nội.
Và nhiều tài liệu khác có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Tất cả tài liệu này được liệt kê và đánh dấu theo thứ tự và tham khảo khi viết
luận văn
5.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là một phương pháp phỏng vấn viết, được
thực hiện cùng một lúc với nhiều người theo một bảng hỏi in sẵn. Người được hỏi
trả lời ý kiến của mình bằng cách đánh dấu vào các ô tương ứng theo một quy ước
nào đó.Việc biên soạn một bảng câu hỏi phù hợp là một vấn đề quan trọng trong
phương pháp này. Các câu hỏi phải được đặt rõ ràng, tránh hiểu nhầm, tránh những
câu hỏi tế nhị khó trả lời.
Có hai loại câu hỏi là câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Các câu hỏi đóng nêu ra các
phương án trả lời (ví dụ: đúng, sai), người được hỏi chỉ việc lựa chon một trong các
phương án đó. Câu hỏi mở cho phép người được hỏi có thể trả lời theo ý riêng cuả
mình, không bị ràng buộc, do vậy câu hỏi mở phù hợp với giai đoạn nghiên cứu
thăm dò để biết xem khách hàng suy nghĩ gì?
Độ tin cậy của các câu trả lời là vấn đề mà người phỏng vấn không kiểm tra
được. Lý do là người phỏng vấn không biết là câu hỏi có được hiểu đúng hay
không? Người trả lời có phải là chủ động hay không?

8


5.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Phỏng vấn sâu là những cuộc đối thoại được lặp đi lặp lại giữa nhà nghiên cứu
và người cung cấp thông tin nhằm tìm hiểu cuộc sống, kinh nghiệm và nhận thức
của người cung cấp thông tin thông qua chính ngôn ngữ của người ấy.

5.2.4. Phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp tri giác có mục đích, có kế hoạch một sự kiện, hiện
tượng, quá trình (hay hành vi cử chỉ của con người) trong những hoàn cảnh tự nhiên
khác nhau nhằm thu thập những số liệu, sự kiện cụ thể đặc trưng cho quá trình diễn
biến của sự kiện, hiện tượng đó.
Ý nghĩa của phương pháp Quan sát là phương thức cơ bản để nhận thức sự vật.
Quan sát sử dụng một trong hai trường hợp: phát hiện vấn đề nghiên cứu; đặt giả
thuyết kiểm chứng giả thuyết. Quan sát đem lại cho người nghiên cứu những tài liệu
cụ thể, cảm tính trực quan, song có ý nghĩa khoa học rất lớn, đem lại cho khoa học
những giá trị thực sự.
Để luận văn có đủ lượng thông tin cần thiết, tác giả đã sử dụng các phương
pháp khác nhau để thu thập thông tin trong quá trình nghiên cứu đề tài như: áp dụng
phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu nhằm thu thập các thông tin liên quan
đến người nghiện cũng như những chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước về người nghiện và công tác xã hội với người nghiện; phương pháp điều
tra bằng bảng hỏi nhằm thu thập những thông tin từ bảng hỏi sẽ làm cơ sở để đề
xuất những giải pháp thiết thực gắn với nhu cầu và thực trạng đời sống của người
nghiện; phương pháp phỏng vấn sâu để minh họa và khẳng định kết quả nghiên cứu
bởi những thông tin qua thu thập, phân tích tài liệu, qua công tác quan sát triển khai
các hoạt động công tác xã hội trợ giúp người cai nghiện.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm một số lý luận liên quan tới vấn đề
nghiên cứu như: Người cai nghiện ma túy là ai? Các hoạt động công tác xã hội đối
với người cai nghiện ma túy và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động này? Những
hạn chế của hoạt độn công tác xã hội khi triển khai những chính sách hỗ trợ?... Bên

9



cạnh đó, đề tài cũng thể hiện và đáng giá được vai trò của công tác xã hội trong việc
trợ giúp người cai nghiện ma túy và gia đình họ, từ đó nâng cao nhận thức của cộng
đồng về tầm quan trọng của nhân viên công tác xã hội hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài được xây dựng nhằm nghiên cứu thực trạng người cai nghiện ma túy từ
thực tiễn trung tâm Chững bệnh – Giáo dục – Lao động xã hội số V và công tác xã
hội đối với nhóm học viên này tại địa bàn nghiên cứu. Trên cơ sở đó, tìm ra được
những hạn chế của hoạt động cũng như của hệ thống chính sách với nhóm học viên
này, nhằm đưa ra những giải pháp, kiến nghị thích hợp nâng cao hiệu quả của hoạt
động công tác xã hội đối với nhóm người cai nghiện ma túy trên địa bàn cũng như
tại cộng đồng. Đồng thời, đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho người
làm công tác xã hội, tiếp tục bổ sung hệ thống lý thuyết, thực hành cho hoạt động
công tác xã hội với người cai nghiện ma túy.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn gồm có
3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với người cai nghiện
ma túy
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội đối với người cai nghiện ma túy tại
Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động Xã hội Số V, thành phố Hà Nội
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xã hội đối với người cai
nghiện ma túy

10


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAI
NGHIỆN MA TÚY
1.1. Khái niệm và đặc điểm người cai nghiện ma túy

1.1.1. Một số khái niệm chung về ma túy
* Khái niệm về ma túy
Có khá nhiều khái niệm khác nhau về ma túy, cụ thể là:
Chất ma tuý là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các
danh mục do Chính phủ ban hành [Điều 2.1,1] .
Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử
dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng [Điều 2.1,1] .
Theo Liên hợp quốc thì “Ma tuý” có nghĩa là bất kỳ các chất có nguồn gốc tự
nhiên hoặc tổng hợp, khi xâm nhập vào cơ thể làm thay đổi trạng thái tâm sinh lý
của người sử dụng hay tổng hợp quy định trong các phụ lục I và II của Công ước
thống nhất về các chất ma tuý năm 1961 và trong Công ước 1961 đã sửa đổi theo
Nghị định thư 1972 [ Khoản n, Điều 1, 5 ] .
Theo quy định của Bộ Luật Hình sự Việt Nam: Ma túy là các chất bao gồm
nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao coca, lá, hoa, quả cây cần sa, quả thuốc phiện
khô, quả thuốc phiện tươi, heroine, cocaine, các chất ma túy khác ở thể lỏng hay thể
rắn [2] .
Từ những định nghĩa được đưa ra trên đây, ta có thể hiểu một cách chung nhất
rằng: Ma tuý là các chất gây nghiện có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo, khi đưa
vào cơ thể sống có thể làm thay đổi một hay nhiều chức năng tâm - sinh lý của cơ
thể. Sử dụng ma túy nhiều lần sẽ bị lệ thuộc cả về thể chất lẫn tâm lý, gây hậu quả
nghiêm trọng cho cá nhân, gia đình và xã hội.
* Khái niệm người nghiện ma túy
Người nghiện ma tuý là người sử dụng chất ma tuý, thuốc gây nghiện, thuốc
hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất này.
Người nghiện ma tuý có các đặc trưng sau:

11


+ Có sự ham muốn thông kìm chế được và phải sử dụng nó bất kỳ giá nào.

+ Có khuynh hướng tăng dần liều dùng (liều dùng lần sau cao hơn liều dùng
trước mới có tác dụng).
+ Tâm sinh lý bị lệ thuộc vào tác dụng của chất đó.
+ Thiếu thuốc sẽ xuất hiện các triệu chứng như: uể oải, hạ huyết áp, lên cơn co
giật, đau đớn và có thể làm bất cứ điều gì miễn là có chất ma tuý để dùng (Hội
chứng cai)
+ Từ bỏ các thú vui khác
+ Biết tác hại của nó nhưng vẫn sử dụng
Tóm lại, người nghiện ma túy là người trong tình trạng ngộ độc mãn tính do sử
dụng lặp đi lặp lại nhiều lần một hay nhiều loại ma túy, người sử dụng bị lệ thuộc
vào chất ma túy đó.
* Khái niệm cai nghiện ma túy
Liên hợp quốc đưa ra định nghĩa: Cai nghiện là một biện pháp tổng hợp gồm
các tác động về y học, pháp luật, giáo dục học, đạo đức… nhằm điều trị giúp cho
người nghiện ma túy cắt các hội chứng cai nghiện, phục hồi sức khỏe và tái hòa
nhập xã hội.
1.1.2. Đặc điểm tâm lý nói chung của người nghiện ma túy
Phần lớn người nghiện có sự biển đổi về nhân cách do sự lệ thuộc vào ma túy về
mặt tâm thần hoặc về mặt cơ thể hoặc bị lệ thuộc cả hai. Khi người nghiện có đủ ma
túy để dùng thì họ cảm thấy thoải mái, sảng khoái. Khi không có nó thì họ thường cau
có, bực bội hoặc cô độc, u sầu. Do các chất ma túy thường tạo nên khoái cảm, sảng
khoái làm cho người nghiện giảm hứng thú, nhân cách bị thu hẹp, cách cư xử trở nên
thô lỗ. Người nghiện thường ít chú ý đến người thân, thờ ở với công tác, với những
vui buồn trong cuộc sống.
Đặc biệt do tính lệ thuộc ma túy nên người nghiện tìm đủ mọi cách để đảm bảo
có được liều quen dùng. Vì vậy, họ có thể nói dối, lấy cắp của gia đình, của xã hội,
cướp giật… miễn làm sao họ có được ma túy. Cho nên, họ đã làm cho bản thân và
gia đình tan nát về vật chất, tinh thần, đạo đức…

12



Một đặc điểm nữa đáng chú ý của người nghiện ma túy (NNMT) là họ luôn
tìm cách gây “Lây lan về tâm lý”: họ thường hứng thú nói về cảm giác sảng khoái,
sung sướng khi dùng ma túy, khiến mọi người khác có ý nghĩ muốn dùng.
Tùy thuộc vào từng loại chất kích thích mà những biến đổi đến tâm sinh lý có
khác nhau ở từng người nghiện khác nhau. Ví dụ như: nghiện thuốc phiện có biểu
hiện rối loạn về tâm lý, nói điệu, lười biếng, ít chú ý đến vệ sinh thân thể (về thực
thể thì táo bón, co đồng tử, thiếu máu, chán ăn nên sút cân, mất ngủ, già trước tuổi,
run. Khả năng chống nhiễm khuẩn kém, dễ mắc các bệnh truyền nhiễm như
HIV/AIDS, hoa liễu, lao, các bệnh về gan và các bệnh thần kinh khác nên ngày
càng bị suy thoái về thể chất và tinh thần, tha hóa về đạo đức nhân cách. Do bị lệ
thuộc vào ma túy nên người nghiện ma túy thường phải tìm mọi cách đáp ứng nhu
cầu, vì vậy họ dễ sa vào con đường phạm tội.
Nghiện Morfin, Heroin gây cảm giác sảng khoái do hưng phấn vùng khứu não
làm tăng trí tưởng tượng, làm mất buồn rầu, sợ hãi, tạo nên trạng thái lạc quan, nhìn
màu thấy đẹp, nghe tiếng động thấy dễ chịu, mất cảm giác đói… Nghiện Cocain
kích thích thần kinh trung ương gây sảng khoái, khoái cảm, ảo giác, giảm mệt mỏi,
hết đói khát.
Nắm vững “Đặc điểm tâm sinh lý của người nghiện ma túy” là một công việc
rất cần thiết nhằm trang bị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ chuyên môn
nghiệp vụ như bác sĩ, cán bộ tâm lý, cán bộ xã hội cũng như mọi người dân khi tiếp
cận hoặc làm công tác cai nghiện ma túy tại các cơ sở chữa bệnh, tại gia đình và
cộng đồng để có thể giúp họ cai nghiện và hòa nhập với gia đình và cộng đồng có
hiệu quả.
1.2. Lý luận về công tác xã hội đối với người cai nghiện ma túy
1.2.1. Một số khái niệm
* Khái niệm công tác xã hội:
Theo IFSW (Hiệp hội nhân viên CTXH Quốc tế), Tháng 07/2000, Montreal,
Canada: "Công tác xã hội chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã hội, việc giải quyết

các vấn đề trong các mối quan hệ con người và sự tăng quyền lực và giải phóng
người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận dụng

13


các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, CTXH can thiệp ở các điểm
tương tác giữa con người và môi trường của họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là
các nguyên tắc căn bản của nghề" [Tr 171].
Đề án phát triển nghề CTXH giai đoạn 2010 - 2020 đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt theo Quyết định 32/2010/QĐ-TTg thì CTXH được định nghĩa như sau:
“CTXH là hoạt động mang tính chuyên môn, được thực hiện theo các nguyên tắc và
phương pháp riêng nhằm hỗ trợ các cá nhân, gia đình, nhóm xã hội và cộng đồng dân
cư trong việc giải quyết các vấn đề của họ. Qua đó CTXH theo đuổi mục tiêu vì hạnh
phúc cho con người và tiến bộ xã hội” [7].
Theo tác giả Bùi Thị Xuân Mai (2010) CTXH là một nghề, một hoạt động
chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng
lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi
trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và
cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh
xã hội [tr4,17].
Như vậy, từ những khái niệm trên giúp cho ta hiểu được những nội dung cụ
thể của CTXH:
- CTXH là một khoa học, một hoạt động chuyên môn bao gồm hệ thống kiến
thức, kỹ năng nghiệp vụ và những quy định chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp khi
thực hành loại ngành nghề này.
- Đối tượng tác động của CTXH là cá nhân, gia đình, nhóm và cộng đồng, đặc
biệt là nhóm người yếu thế trong xã hội như trẻ em, phụ nữ, gia đình nghèo, người
già, NKT, những người có hoàn cảnh khó khăn nên khó hòa nhập xã hội và chức
năng xã hội bị suy giảm.

- Hướng trọng tâm của CTXH là tác động đến con người như một tổng thể; tác
động đến con người trong môi trường của họ.
- Mục đích của CTXH là hướng tới giúp đỡ cá nhân, gia đình và cộng đồng
phục hồi hay nâng cao năng lực để tăng cường chức năng xã hội, tạo ra những thay
đổi về vai trò, vị trí của cá nhân, gia đình, cộng đồng từ đó giúp họ hòa nhập xã hội.

14


- Vấn đề mà cá nhân, gia đình hay cộng đồng gặp phải và cần tới sự can thiệp
của CTXH là những vấn đề có thể xuất phát từ yếu tố chủ quan cá nhân như sự hạn
chế về thể chất, sức khỏe, tinh thần, thiếu việc làm, không được đào tạo chuyên
môn, nghèo đói, quan hệ xã hội suy giảm.
Từ những khái niệm và phân tích trên chúng tôi đưa ra khái niệm như sau:
CTXH là một khoa học, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân,
nhóm, cộng đồng yếu thế nâng cao năng lực, tăng cường các chức năng xã hội nhằm
ứng phó với những vấn đề xã hội tiêu cực xảy ra từ đó hướng đến mục tiêu phát
triển bền vững.
* Khái niệm công tác xã hội với người cai nghiện
Công tác xã hội với người cai nghiện ma túy là một khía cạnh trong lĩnh vực
CTXH nói chung. Người nghiện ma túy là đối tượng hoạt động của CTXH, bên
cạnh những chủ thể dễ bị tổn thương khác như: phụ nữ đơn thân, trẻ em, người già
cô đơn… Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một tài liệu chính thức nào đưa khái niệm
CTXH đối với người nghiện, trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu các nguồn tài liệu
cũng như các khái niệm có liên quan tới mục đích hoạt động CTXH đối với người
nghiện ma túy chúng tôi xin khái quát như sau: CTXH trợ giúp người nghiện là
quá trình đánh giá nhu cầu về khía cạnh xã hội của đối tượng, đồng thời vừa đóng
vai trò là nhà tham vấn, người quản lý trường hợp, xử lý khủng hoảng, hỗ trợ
người nghiện tiếp cận những dịch vụ phù hợp và vừa duy trì tiếp cận một loạt các
dịch vụ xã hội tốt nhất. Trong những trường hợp cần thiết, nhân viên CTXH cũng

cung cấp hỗ trợ tâm lý cho người cai nghiện và gia đình họ. Như vậy, bằng những
kiến thức nghề nghiệp, kỹ năng chuyên môn, những kỹ thuật, phương pháp cũng
như kinh nghiệm và thái độ đạo đức nghề của mình, nhân viên CTXH đã trợ giúp
cho cá nhân, gia đình và cộng đồng người nghiện phục hồi chức năng xã hội mà
họ bị đánh mất.
Nhân viên CTXH đóng vai trò là người thúc đẩy môi trường xã hội bao gồm:
hệ thống chính sách, luật pháp, dịch vụ xã hội, cộng đồng thân thiện để giúp người
nghiện cai nghiện, học nghề, tái hòa nhập xã hội và thực hiện tốt chức năng của họ.
Đội ngũ nhân viên CTXH đóng vai trò xúc tác, biện hộ để cho cá nhân, gia đình

15


người nghiện ma túy được thụ hưởng những chính sách an sinh dành cho họ. Trên
cơ sở đó giúp họ tìm lại được bản thân và nâng cao vai trò xã hội của họ.
Như vậy, CTXH đối với người cai nghiện ma túy là một hoạt động chuyên
nghiệp nhằm giúp cho người nghiện ma túy đang trong quá trình cai nghiện nâng cao
năng lực cá nhân để hòa nhập môi trường xã hội và cai nghiện bền vững.
1.2.2. Triết lý và nguyên tắc của công tác xã hội làm việc với người cai
nghiện ma túy
1.2.2.1. Nền tảng triết lí nghề công tác xã hội
Nền tảng triết lý của ngành CTXH chuyên nghiệp dựa trên 6 nguyên tắc chỉ
nam: Cá nhân là mối quan tâm hàng đầu của xã hội; Giữa cá nhân và xã hội có một
sự phụ thuộc hỗ tương; Mỗi bên đều có trách nhiệm đối với nhau; Con người có
những nhu cầu giống nhau nhưng mỗi con người là một cái gì độc đáo không giống
người khác; Mỗi con người cần được phát huy hết tiềm năng của mình và cần được
thể hiện trách nhiệm của mình đối với xã hội thông qua sự tích cực tham gia vào xã
hội; Xã hội có trách nhiệm tạo điều kiện để khắc phục những trở ngại đối với sự
phát huy(hay tự thể hiện) của cá nhân. Những trở ngại ấy chính là sự mất cân bằng
trong quan hệ giữa cá nhân và xã hội.

Sáu nguyên tắc trên chủ trương sự hài hòa giữa cá nhân và xã hội một chủ
trương mà mọi xã hội nhân bản đều nhắm tới. Hơn nữa sáu nguyên tắc này đều phù
hợp với nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật của Mác-Anghen sáng lập.
Sáu nguyên tắc trên hết sức phù hợp với chủ trương của Đảng Cộng sản Việt
Nam: "Con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột bất công làm theo năng lực
hưởng theo lao động có cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc có điều kiện phát triển
toàn diện cá nhân"(văn kiện đại hội IX) "Phát huy nhân tố con người" "chăm lo cho
hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta" "chăm sóc bồi
dưỡng và phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội văn
minh".
Nói đến "hạnh phúc con người" thì không thể có hạnh phúc chung chung mà
hạnh phúc của từng người. Chỉ khi cá nhân hạnh phúc gia đình hạnh phúc thì xã hội
mới hài hòa. Chắc chắn sẽ bớt đi trẻ em lang thang tôi phạm nghiện ma túy mãi

16


dâm và nhiều tệ nạn xã hội khác nếu người người nhà nhà được hạnh phúc. Nhưng
hạnh phúc cá nhân chỉ có thật khi xuất phát từ một cộng đồng hòa hợp công bằng và
khi từng người không chỉ lo cho mình mà còn đóng góp có trách nhiệm với xã hội.
Có một sự thật hay bị lãng quên là "người ta hạnh phúc không chỉ khi được nhận
mà nhất là lúc được cho người khác". Biết bao người hạnh phúc thật nhờ tham gia
công tác xã hội tình nguyện khi hy sinh cả cuộc đời cho một lý tưởng xã hội cho
một công trình khoa học.
Nguyên tắc số 4, là bí quyết thành công cho mọi hoạt động giáo dục và xã hội.
Từ đó "cá biệt hóa" là một trong các nguyên tắc hành động cơ bản trong CTXH. Kinh
nghiệm chưa thành công vừa qua đủ để thuyết phục chúng ta về nguyên tắc này.
Nguyên tắc số 5, nhắc đến quyền của cá nhân và trách nhiệm của xã hội để tạo
điều kiện cho sự phát huy tối đa tiềm năng của mọi người lại càng trùng hợp với chủ
trương của Đảng và Nhà nước Việt (phát huy nhân tố con người). Thực hiện nguyên

tắc này thật khó trong hoàn cảnh không những thiếu thốn về kinh tế mà còn yếu về tri
thức khoa học. Dù sao đây là điều tâm niệm sâu sắc nhất của người làm CTXH. Nhân
viên xã hội sẽ ăn không ngon ngủ không yên khi người nghiện kia chưa cắt được cơn
nghiện, hay người nghiện khác khi tái hòa nhập cộng đồng lại bị chính gia đình mình
xa lánh, kì thị.
Như vậy CTXH không phải là từ thiện xoa dịu nhất thời. Nó là công cụ bên
cạnh các ngành nghề khác góp phần điều hòa xã hội vì hạnh phúc con người và
từng con người. Nó rất gần gũi với chủ nghĩa nhân đạo của Bác Hồ chủ nghĩa nhân
đạo của Bác không phải là một việc làm ban ơn mà chủ yếu là khơi dậy trong mỗi
con người lòng tự hào và lòng tự tin ý chí và nhiệt tình để mỗi con người tự mình
khẳng định lấy mình.
1.2.2.2. Các nguyên tắc hành động của nhân viên xã hội trong công tác xã hội
Xuất phát từ nền tảng triết lý trên nhân viên xã hội hành động theo 6 nguyên
tắc chủ đạo :
* Chấp nhận thân chủ:
Chấp nhận là một thái độ rất khó thực hiện nhưng người làm CTXH phải tự
rèn luyện hằng ngày. Có thể chúng ta không đồng tình với hành vi sai phạm của

17


thân chủ nhưng trước mặt chúng ta là một con người và bất cứ con người nào (một
thanh niên nghiện ma túy cũng có nhân phẩm có giá trị đơn giản chỉ vì họ là con
người). Với một thái độ chấp nhận thật sâu sắc bên trong ta mới bộc lộ được sự tôn
trọng thật sự bên ngoài và hết sức thận trọng không phê phán hay kết án mà tìm
hiểu hoàn cảnh đã đưa thân chủ tới hiện trạng. Cảm nhận được sự tôn trọng vô điều
kiện của ta thân chủ mới lấy lại sự tự trọng và tự tin để tự bộc lộ giải bày tâm sự.
Chấp nhận thân chủ là chấp nhận các giá trị niềm tin và văn hóa của họ. Điều
khó chịu nhất là nhân viên xã hội (NVXH) phải học cách đánh giá và hiểu vấn đề
khó khăn của thân chủ theo hệ thống tiêu chuẩn giá trị của chính thân chủ.

* Quyền tự quyết của thân chủ
Xu hướng tự nhiên của chúng ta của cha mẹ đối với con cái của thầy giáo đối
với học sinh của nhân viên xã hội đối với thân chủ là áp đặt ý kiến của mình. Lắm
khi với đầy thiện ý vì nghĩ rằng ý của mình là hay nhất tốt nhất. Làm thế chúng ta
cũng đi ngược lại với nguyên tắc 1 là tôn trọng thân chủ quên đi gía trị và tiềm năng
của thân chủ để tự vươn lên.
Vả lại ngay với mỗi chúng ta một quyết định quan hệ tới chính ta mà ta lại
không có tham gia ý kiến thì ta không thi hành thậm chí còn tỏ ra khó chịu và chống
lại để tự khẳng định mình. Vì CTXH không chỉ là xoa dịu mà giúp thân chủ thay đổi
hành vi nếu là cá nhân tạo chuyển biến xã hội nếu là cộng đồng nên mọi quyết định
phải có sự tham gia tích cực và sự tự quyết của thân chủ.
Tất nhiên nói tự quyết là nói đến sự lựa chọn và quyết định từ sự lựa chọn đó.
Nhân viên xã hội là người đưa ra những lựa chọn nhằm cung cấp cho thân chủ
những cơ hội cho quyền tự quyết. Nhưng ở những trường hợp mà quyết định của
thân chủ gây tác hại đến người khác thì quyền này phải bị giới hạn và nhân viên xã
hội phải đứng về phía luật pháp để quyết định nhân danh người khác.
Vì vậy nguyên tắc "tham gia" và "tự quyết"cũng là bí quyết thành công của
CTXH vì chúng đem lại một sự đổi mới bền vững từ phía thân chủ.
* Cá biệt hóa
Như nguyên tắc 4 của nền tảng triết lý đã nêu con người có nhu cầu cơ bản
giống nhau nhưng mỗi người là một cái gì độc đáo không giống ai khác. Tuy nhiên

18


có thể đề cử vài ví dụ: phụ nữ không chấp nhận kế hoạch hóa gia đình vì nhiều lý
do khác nhau người do thiếu hiểu biết người do muốn có con trai số khá đông do
chồng không chấp thuận; phụ nữ nông thôn thì sinh con để có thêm lao động bảo
đảm tuổi già. Cứ một bài học "hạnh phúc gia đình" mà giảng đi giảng lại cho tất cả
bất cứ ai cũng vậy thì không thể mong chờ kết qua tốt được. Một cơ sở tập trung

dành cho trẻ phạm pháp mà lại nhận vào đó trẻ đi lạc mồ côi chậm phát triển tâm
thần ... thì rất tai hại. Đây cũng là tính chất riêng biệt của nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến của phép biện chứng duy vật.
* Kín đáo và giữ bí mật thông tin
Kín đáo hay giữ bí mật là nguyên tắc của nhiều ngành nghề như luật sư bác sĩ
nhà tư vấn người hướng dẫn tinh thần như linh mục chẳng hạn chứ không riêng gì
đối với nhân viên xã hội. Nếu "tôn trọng thân chủ" mà đi khai báo chuyện riêng tư
nhất của họ thì hại nhiều hơn là lợi. Vả lại khi có một khó khăn riêng tư ai trong
chúng ta cũng chỉ muốn thố lộ với người nào biết bảo đảm giữ bí mật cho ta.
Nguyên tắc này rất dễ hiểu nhưng thực hiện rất khó bởi trong văn hóa của
chúng ta "người đời muôn sự của chung". Tình xóm giềng thật cao đẹp nhưng lắm
khi làm cho ta thiếu thói quen tôn trọng sự riêng tư ngay cả đối với con cái. Nhân
viên xã hội phải tự rèn luyện rất nhiều để bám vào nguyên tắc này. Hiện tượng báo
chí "truy lùng" người bệnh HIV/AIDS nêu địa chỉ đặc điểm đến độ láng giềng có
thể đoán ra ngay là một vi phạm nghiêm trọng đối với quyền con người mà xã hội ta
chưa đến trình độ để nhận thức.
* Nhân viên xã hội phải hết sức ý thức về chính mình.
Nếu công cụ của người thợ mộc là cái bào của anh kỹ sư là máy móc thì công
cụ của CTXH chính là nhân cách là phẩm chất con người của nhân viên xã hội. Nếu
có thói quen độc tài bao biện thật khó thể hiện nguyên tắc tự quyết của thân chủ.
Nếu có xu hướng nói nhiều thì rất khó lắng nghe và giữ bí mật của thân chủ. Nếu
không thật nhạy bén về chính mình rất dễ vi phạm sự tôn trọng thân chủ.
Do đó nhân viên xã hội là người biết sử dụng bản ngã của mình một cách có ý
thức. Luôn luôn rà lại động cơ thúc đẩy mình chọn nghề giúp đỡ người khác luôn
luôn đánh giá lại cách làm của mình để có thể khách quan hơn trong nhận định vấn

19


đề của người khác. Phải chăng ở một mặt nào đó thông qua thực tiễn con người

(nhân viên xã hội) làm biến đổi đời sống xã hội đồng thời cũng biến đổi chính bản
thân mình một phát hiện to lớn của K. Marx về bản chất con người.
Để rèn luyện nhân cách nghề nghiệp nhân viên xã hội mới vào nghề thường phải
được sự giúp đỡ của một người chuyên nghiệp cao tuổi nghề hơn (gọi là kiểm huấn
viên). Nhân viên xã hội luôn luôn ghi chép diễn tiến công việc và các cuộc tiếp xúc
làm việc với thân chủ để đánh giá và cải tiến cách làm của mình. Quan trọng và hữu
hiệu hơn hết là sự trao đổi với đồng nghiệp trong các buổi họp lượng giá.
* Giữ mối quan hệ nghề nghiệp giữa nhân viên xã hội và thân chủ.
Nhân viên xã hội không phải là thánh họ có những sơ xuất yếu đuối như mọi
người. Tuy nhiên đi vào một nghề mà đối tượng tác động vào là con người thì đặc
điểm nhân cách và tác phong nghề nghiệp rất quan trọng.
Thế nào là tính chất nghề nghiệp trong mối quan hệ nhân viên xã hội - thân
chủ? Trước tiên đây không phải là quan hệ gia đình bạn bè hay ân nghĩa.
Công cụ chính của các phương pháp CTXH là mối quan hệ giữa nhân viên xã
hội và thân chủ (cá nhân nhóm hay cộng đồng). Nó bắt đầu khi thân chủ đề đạt yêu
cầu và chấm dứt khi dịch vụ xã hội hoàn thành hoặc thân chủ đã được chuyển tới
một cơ quan khác. Nó mang tính nghề nghiệp bởi nhân viên xã hội phải hành động
theo nền tảng triết lý và các nguyên tắc đã nêu trên. Ngoài ra nhân viên xã hội còn
có những quy điều đạo đức phải tuân thủ khi hành nghề.
Giữa nhân viên xã hội và thân chủ phải có mối quan hệ bình đẳng. Nhân viên
xã hội không được dùng kiến thức kỹ năng của mình để lèo lái người khác theo ý
muốn của mình. Hơn hết cần tránh tạo sự phụ thuộc về tâm lý một điều thường xảy
ra với người có vấn đề. Phía nhân viên xã hội nếu không được rèn luyện có thể vô
tình tìm sự thỏa mãn cho chính mình khi giúp đỡ người khác.
Mối quan hệ này càng không phải vấn đề ơn nghĩa nên phải tránh tuyệt đối các
hình thức "đền ơn".

20



×