Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Các loại hình văn học Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.74 KB, 12 trang )

Các loại hình văn học Việt Nam
1- Bát cổ
Một thể văn chữ Hán được dùng trong khoa cử. Ở Trung Quốc, văn bát cổ xuất hiện từ
thời Minh, thịnh hành dưới triều Thanh. Ở Việt Nam, văn bát cổ được áp dụng vào khoa
cử từ năm Bảo Thái thứ 9 (1728) đời Lê Dụ Tông, do sáng kiến của Nguyễn Công Hãng
(1680 - 1732).
Bát cổ (bát: tám, cổ: vế) tức là một đoạn văn gồm tám vế, không có vần nhưng có đối.
Một bài "Kinh nghĩa" viết theo thể bát cổ gồm hai phần lớn:
A - Phần đầu là "phát đoan" (mở đầu) gồm ba phần nhỏ:
1. Phá đề: gồm hai câu mở bài, nói về mặt chữ và nghĩa của đề.
2. Thừa đề: nối theo đoạn phá vài ba câu, nêu rõ ý đồ của phá đề.
3. Khởi giảng: nói khai mào đại ý của đề mục.
Ở toàn bộ phận phát đoan, về thể văn: không có yêu cầu về vần và đối (tức là văn ở đây
không phải là văn biền ngẫu), về ý: các phần phá đề và thừa đề được coi là lời người
viết bài nói; các phần từ khởi giảng về sau, người viết phải thay lời người xưa ma nói.
B - Phần sau là "nghị luận" gồm 4 phần nhỏ:
4. Khởi cổ (hoặc khai giảng - mở ý đề bài, cuối đoạn này có một câu hoàn đề nhắc lại
câu đề bài)
5. Trung cổ (giải thích rõ nghĩa của đề bài)
6. Hậu cổ (bàn rộng về ý của đề bài)
7. Mạt cổ (hoặc kết cổ, kết tị - đóng lại ý của đề bài, cuối đoạn này có một vài câu thắt
đầu bài lại, gọi là thúc đề hoặc thúc kết)
Mỗi phần nhỏ (4-7) đều gồm hai vế đối nhau; toàn bộ phần nghị luận có 8 vế; bát cổ
thực sự chỉ gồm phần nghị luận 8 vế này.
Văn bát cổ được dùng trong khoa cử Trung Hoa từ giữa thế kỉ XV và được áp dụng vào
khoa cử Việt Nam từ năm Bảo Thái thứ chín (1728) đời Lê Dụ Tông, do sáng kiến của
Nguyễn Công Hãng (1680 - 1732) và chấm dứt cùng với việc bãi bỏ khoa cử Hán Nho,
kể từ sau khoa thi chữ Hán cuối cùng (1919) dưới triều Nguyễn.
2 - Bia
Một loại hình văn bản văn hóa, đồng thời cũng là một thể loại văn học phổ biến ở các
nền văn học phương Đông thời cổ. Tập quán dựng bia và làm văn bia có nguồn gốc từ


Trung Hoa và được tiếp nhận ở nước ta từ rất sớm. Văn bia dùng để ghi chép công đức,
được khắc lên các chất liệu bền vững như đá, đồng với dụng ý rõ dàng là để truyền tụng
lâu dài cho đời sau biết, nên thường ngắn gọn. Bia gắn với một con người cụ thể và
thường là một phần của lăng mộ; tùy theo vị trí đặt bia mà có các loại: bia đề trên mộ
(mộ bi, mộ biểu,...), bia để cạnh hành lang trước mộ (thần đạo bi), bia chôn cùng với
quan tài (mộ chí, mộ chí minh, khoáng chí, khoáng minh,...). Về sau bia không chỉ để
trên mộ mà còn dựng ở chùa, lầu, gác, thậm chí ở đầu đường. Nhưng dù dựng ở đâu, bia
cũng nhằm ghi khắc hoặc ca tụng công đức một hoặc nhiều nhân vật có nghĩa cử tốt đẹp
hoặc sự nghiệp liên quan đến địa điểm dựng bia. Văn bia chỉ ghi những nét lớn về phẩm
cách, đức hạnh, những thành đạt về học vấn, công danh, không ghi những điều thiện
nhỏ hoặc tâm sự sâu kín, càng không bao giờ ghi những nhược điểm, lầm lỗi của người
được dựng bia.
Bia như một loại văn bản vẫn còn được dùng trong đời sống hàng ngày, chủ yếu là loại
bia mộ và một số bia công đức dựng ở các chùa, đền; ngoài ra còn thấy một số loại hình
bảng đồng("bảng lưu niệm", gắn ở một số địa danh lịch sử, văn hóa, v.v...). Xét về ý
nghĩa văn học, đáng chú ý nhất là những văn bản bia thời Lý - Trần, như "Ngưỡng Sơn
Linh Xứng tự bi minh" (bài minh trên bia chùa Linh Xứng, 1126), và "Sùng Nghiêm
Diên Thánh tự bi minh" (bài minh trên bia chùa Sùng Nghiêm,1118) do thiền sư Pháp
Bảo ( thế kỉ XII) soạn, "Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi" (Bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc, thế
kỉ XII) do Lý Thừa Ân (thế kỉ XII) soạn, "Sùng Thiện Diên Linh tháp bi" (bia tháp Sùng
Thiện Diên Linh,1121) do Nguyễn Công Bật (thế kỉ XII) soạn, "Lam Sơn Vĩnh Lăng
thần đạo bi" (Bia Vĩnh Lăng Lam Sơn) do Nguyễn Trãi soạn, v.v...
3 - Biển ngẫu
(Biển:hai con ngựa chạy sóng đôi, ngẫu: có hai nghĩa: tình cờ, hoặc từng cặp)
Dạng thức câu văn( chữ Hán hoặc chữ Nôm) được tổ chức theo một số quy tắc tương
đối chặt chẽ về số lượng từ (chữ), về nhịp, về tính cân đối trong ngữ nghĩa. "Biển văn",
trong văn học chữ Hán ở Trung Hoa có từ thời Lục Triều với lối cổ thể, theo đó, chỉ cần
những cặp câu đối nhau, không cần có sự hiệp vần, cũng không hạn chế số lượng từ
(chữ) và cách đặt câu. Ví dụ: Hịch tướng sĩ văn (chữ Hán) của trần Quốc Tuấn (Việt
Nam) là được viết theo lối này.

Biền văn ở văn học chữ Hán đến thời nhà Đường (Trung Quốc) đi dần đến ổn định
thành từng cặp câu 10 từ, mỗi câu ngắt làm hai nhịp 4/6 gọi là lối cận thể (thời Đường
gọi là cận thể để phân biệt với lối cổ thể nói trên), lại cũng gọi thể biền lệ (biền:nghĩa
như trên, lệ: từng đôi một). Thể biền lệ đời Đường chưa bắt buộc phải có niêm, đến đời
Tống mới đặt thêm yêu cầu niêm và đưa vào trường ốc, gọi là thể tứ lục. Ví dụ: "Bình
Ngô đại cáo" do Nguyễn Trãi soạn, là được viết theo thể tứ lục này: "Thừa thắng trường
khu, Tây kinh kí vi ngã hữu - Tuyển phong tiến thủ, Đông đô tận phục cựu phong"
(nghĩa: thừa thắng ruổi dài, Tây kinh quân ta chiếm lại - Tuyển binh tiến đánh, Đông đo
đất cũ thu về).
Văn biền ngẫu được tiếp nhận ở văn học Việt Nam, cả trong những sáng tác viết bằng
chữ Hán lẫn những sáng tác bằng chữ Nôm. Ngay ở câu văn xuôi hiện đại Việt Nam
cũng còn những dấu vết của lối tổ chức câu văn theo kiểu biền ngẫu.
4 - Biểu
Một lại văn bản hành chính dưới chế độ quân chủ. Biểu là bài viết của thần dân hoặc
quan lại dâng lên vua để bày tỏ một việc gì (trần tình biểu), hoặc tạ ơn (tạ biểu), hoặc
chúc mừng (hạ biểu). Biểu cũng được đưa vào chương trình khoa cử theo học chế Hán
Nho như một môn thi cho thí sinh. Được dùng để viết biểu thường là văn biền ngẫu chữ
Hán.
5 - Ca dao
Một thể loại sáng tác thơ dân gian tiếng Việt. Ca dao còn được gọi là phong dao, cả hai
đều không phải là cách gọi thể loại của chính dân gian. Đây là những thuật ngữ Hán -
Việt, ít nhiều phỏng theo học thuật Trung Hoa (giới trí thức Hán học ở Trung Quốc đã
từng dùng thuật ngữ "ca dao" từ nhiều thế kỉ trước), được các nhà nho người Việt dùng
để gọi phần lời thơ trong vốn ca hát và lời nói ví truyền miệng trong dân gian mà họ đã
chú ý và ghi chép, sớm nhất là từ cuối thế kỉ XVIII.
Ca dao không có ranh giới rõ rệt với dân ca. Nó là phần lời thơ của các bài dân ca. Thêm
nữa, do xu hướng của những người sưu tập thời xưa là chỉ ghi chép những câu, những
bài hay nhất, giàu ý nghĩa nhất (về phong tục, đạo đức, triết lí, v.v...), cho nên khái niệm
ca dao còn hẹp hơn nữa: nó không phải toàn bộ mà chỉ là một phần quan trọng của thơ
ca dân gian, chủ yếu thuộc thể trữ tình và mang một phong cách riêng. Phong cách này

phân biệt nó với một số thể loại khác của thơ ca dân gian ( như thơ sử thi, vè,v.v...) và
với thơ ca của văn học thành văn.
Ca dao ra đời, tồn tại và được diễn xướng dưới hình thức những lời hát trong các sinh
hoạt dân ca mà đối đáp là sinh hoạt trọng yếu và phổ biến nhất; mặt khac ca dao cũng
phần nào được hình thành từ xu hướng cấu tạo những lời nói có vần, có nhịp trong sinh
hoạt dân gian, do đó vẫn thường được dùng trong lời nói hàng ngày. Như vậy cả trong
hai lĩnh vực ca hát và lời nói hàng ngày, ca dao đều có xu hướng được dùng như một
loại ngôn ngữ trao đổi trực tiếp. Đặc điểm về chức năng trên đây của ca dao cổ truyền
sẽ chi phối nhiều đặc điểm khác về cấu tứ và cấu trúc hình thức câu thơ của ca dao.
Ca dao cổ truyền Việt Nam dùng các thể thơ tiếng Việt như lục bát và song thất lục bát.
Đơn vị tác phẩm thường có hai loại: loại những câu ca dao( là những sáng tác chỉ gồm
một khổ lục bát hoặc song thất lục bát), và loại những bài ca dao (là những sáng tác có
số khổ thơ nhiều hơn).
Trong ca dao có thể tìm thấy những kí ức dân gian về một số sự kiện và nhân vật lịch
sử, những bằng chứng về tập quán làm ăn sinh sống, tập tục gia đình và xã hội, tâm lí và
thị hiếu của các tầng lớp cư dân thời xưa. Ở ca dao được tích lũy những kinh nghiệm lao
động, những tâm trạng, tư tưởng, tình cảm của con người đối với cuộc mưu sinh. Ca dao
thường hướng về một hình mẫu gia đình gia trưởng điền viên lí tưởng, ca ngợi những
biểu hiện tốt đẹp, phê phán các biểu hiện xấu; xấu tức là đi chệch khỏi hình mẫu lí
tưởng ấy. Nhân vật người phụ nữ như là loại người chịu nhiều nỗi khổ do địa vị thấp
kém và bị phụ thuộc trong gia đình phụ quyền là nhân vật trữ tình chính của những bài
ca dao lấy để tài ở các quan hệ gia đình. Trong đề tài xã hội, ca dao nêu lên những nỗi
bất công do những khác biệt về giai cấp, thông cảm với những đau khổ của lớp người ở
tầng lớp dưới, đồng tình với tâm trạng phản kháng của họ đối với các tầng lớp trên, đối
với các đại diện được xem là xấu và ác của chính quyền làng xã. Loại ca dao trào phúng,
ngoài việc đả kích đám cường hào, còn đả kích những kẻ bị xem là lừa bịp, đồi trụy
trong lớp người thực hành các lễ thức tín ngưỡng, tôn giáo.
Lĩnh vực sáng tác phong phú nhất của ca dao cổ truyền là đề tài tình yêu nam nữ. Sự
phát triển của loại ca dao thuộc đề tài này phản ánh nhu cầu bộc lộ và thực hiện một loại
sinh hoạt tình cảm cơ bản nhất của con người.Sinh hoạt hát đối nam nữ, còn gọi là hát

giao duyên, vốn là một trong những sinh hoạt ca hát dân gian lâu đời và phổ biến nhất.
Ca dao tình yêu,vì vậy, là bộ phận mang tính trữ tình sâu đậm nhất của sáng tac dân
gian, ghi lại được nhiều nhất những sắc thái tâm trạng, tình cảm của con người trong
đau khổ và hạnh phúc. Ở ca dao về tình yêu còn đồng thời bộc lộ các quan điểm về hôn
nhân, về mẫu người yêu lí tưởng, phản ánh các quan niệm thẩm mĩ vốn mang nhiều mâu
thuẫn của các cư dân sống trong cộn đồng làng xã.
Ở ca dao còn có một bộ phận sáng tác thể hiện những tư tưởng triết lí, những kinh
nghiệm lịch sử - xã hội, được diễn đạt như những nhận thức và phương châm xử thế
phổ biến.
Trong vốn ca dao cổ truyền đã hình thành những môtíp thơ ca đặc trưng trên cơ sở
những kinh nghiệm sống, quan niệm sống đặc trưng của dân tộc (ví dụ các môtíp "con
thuyền", "dòng sông", "trầu cau", "chiếc áo rách vai", phẩm vật địa phương, v.v...)
Vốn ca dao cổ truyền, với phong cách đặc trưng của nó, trở thành cơ sở cho sự phát
triển của các loại ca dao mới, được sáng tác trong các thời kì về sau. Trong cư dân làng
xã vẫn thấy có những người thạo ca dao, những người giàu năng khiếu ứng tác bằng ca
dao. Đồng thời nhiều nhà thơ của văn học thành văn cũng vận dụng ca dao, hoặc có
những sáng tác theo phong cách ca dao.
6 - Cáo
Một thể loại văn bản hành chính của nhà nước quân chủ, thường được dùng cho vua
chúa hoặc thủ lĩnh, nhằm tổng kết một công việc, trình bày một chủ trương xã hội chính
trị cho dân chúng biết. Cáo đã có ở Trung Quốc từ đời Tam Đại.
Cáo có thể được viết bằng văn xuôi, nhưng thường là được viết bằng biền văn. Được
biết đến nhiều nhất trong thể loại này của văn học chữ Hán của Việt Nam là "Bình Ngô
đại cáo" (1428) do Nguyễn Trãi soạn, nhân danh vua Lê Thái Tổ tuyên cáo với thiên hạ
về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Minh, được viết theo thể văn tứ lục.
7 - Câu đối
(Từ chữ Hán: doanh thiếp hoặc doanh liên, trong đó doanh: cột; thiếp: mảnh giấy có
viết chữ; liên: đối nhau). Những câu văn đi đôi với nhau theo phép đối sao cho ý, chữ và
luật bằng trắc cân xứng nhau.
Người ta chia ra các thể: câu tiểu đối, câu đối thơ, câu đối phú.

Câu tiểu đối (hoặc câu đối vặt): là những câu đối nhỏ, từ 4 chữ trở lại; hay nhất là theo
được đúng luật đối bằng với trắc (và ngược lại), ví dụ: Tôi tôi vôi // bác bác trứng; nếu
không thì chữ cuối vế trên phải trái luật bằng trắc với chữ cuối vế dưới, ví dụ: Ô, quạ
tha gà // Xà, rắn bắt ngóe.
Câu đối thơ là những câu làm theo thể ngũ ngôn hoặc thất ngôn, trên thực tế là hai câu
thực và hai câu luận trong thơ Đường luật. Ví dụ: "Vạn kim bảo kiếm tàng thu thủy //
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ "(Khuyết danh - Đề hồ Hoàn Kiếm, chữ Hán, nghĩa:
Gươm quý ngàn vàng, nước xanh lưu giữ. Tấm lòng trong trắng, ngọc hồ in); "Thiên hạ
xác rồi còn đốt pháo // Nhân tình bạc thế lại bôi vôi" (Tế Xương - Thơ Tết).
Câu đối phú là những câu làm theo lối đặt câu ở thể phú, mỗi vế có thể dải từ 8,9 đến
50,60 từ; mỗi vế gồm một đến ba đoạn hoặc nhiều hơn. nếu mỗi vế có hai đoạn, một
đoạn ngắn, một đoạn dài, gọi là cách cú (cách: ngăn, cú: câu). Ví dụ: "Ngói đỏ lợp nghè,
lớp trên đè lớp dưới // Đá xanh xây cống, hòn dưới nống hòn trên" (khuyết danh). Nếu
mỗi vế có từ ba đoạn trở lên thì gọi là "hạc tất" hay "gối hạc" (do chỗ thường có một
đoạn ngắn xen giữa hai đoạn dài hơn, nên được hình dung như khớp gối ở chân con
hạc). Ví dụ: " Quan chẳng quan thì dân, chiếu trung đình ngất ngưởng ngồi trên, nào
lềnh, nào trưởng, nào bàn ba, tiền làm sao, đóng góp làm sao, một năm mười hai tháng
thảnh thơi, cái thủ lợn nhìn thầy đà nhẵn mặt // Già chẳng già thì trẻ, đàn tiểu tử lau
nhau đứng trước, này thơ, này phú, này đoạn một, bằng là thế, trắc là thế khuyên điểm
là thế, ba vạn sáu ngàn ngày thấm thoắt, con mắt gà đeo kính đã mòn tai" (Nguyễn
Khuyến).
Về luật bằng trắc, ở câu đối phú chỉ xét đến chữ cuối vế và chữ cuối đoạn, gọi chung là
"chữ đặt câu": các chữ này ở hai vế phải đối nhau, bằng đối với trắc và ngược lại.
Tuy không được dùng làm môn thi trong khoa cử, nhưng câu đối lại hay được dùng
trong các giao tiếp trong giới Nho học (để thử tài học, khiếu thông minh, để bày tỏ chí
hướng, hoặc để mừng nhau, phúng điếu nhau, đề ở các bia đình chùa, miếu mạ, phong
cảnh, trang trí trong tư gia, v.v...) nên nảy sinh các loại câu đối tức cảnh (về cảnh vật),
câu đối sách (lấy chữ hoặc nghĩa sách vở mà đối), câu đối chơi chữ (các loại câu đối
dùng tiếng lóng, câu đối chiết tự, lấy ý nghĩa trong hình tượng chữ Hán mà đối). Nói
chung văn trong câu đối đòi hỏi cô đọng. Câu đôi và hoành phi là những thể tài tác

phẩm cỡ nhỏ nhất nhưng xung quanh chúng thường hình thành hàng loạt giai thoại.
Chiếu
Một thể loại văn bản hành chính của nhà nước quân chủ, được dùng cho vua để ban bố
các mệnh lệnh. Chiếu cũng được dùng trong khoa cử theo học chế Hán Nho như một
môn thi. Cũng như chế và biểu, chiếu được viết bằng văn xuôi chữ Hán, gọi là cổ thể
(thể xưa), từ đời Đường (Trung Hoa) mới theo lối tứ lục gọi là cận thể (thể gần đây).
Trong những bài chiếu còn lại có những bài đặc sắc về ý nghĩa lịch sử và văn hóa như
"Thiên đô chiếu" ( chiếu rời đô,1009) của Lý Công Uẩn, "Lâm chung di chiếu" (chiếu
để lại lúc lâm chung, 1128) của Lý Càn Đức, "Thiên vị chiếu" (chiếu nhường
ngôi,1225) do một tác giả khuyết danh soạn cho Lý Chiêu Hoàng.
Cổ phong
Một thể thơ tiếng Việt mô phỏng theo thể thức Trung Hoa, cổ phong hoặc cổ thể ở trung
Quốc là thể thơ có từ trước đời Đường, tức là thế kỉ thứ VI. Thể thơ này chỉ hạn định số
âm tiết (tiếng, chữ) trong mỗi câu thơ (thường là ngũ ngôn - câu thơ 5 âm tiết, hoặc thất
ngôn - câu thơ 7 âm tiết, đôi khi cả lục ngôn - câu thơ 6 âm tiết) và có yêu cầu về gieo
vần (cước vận - vần chân, gieo ở âm tiết cuối câu thơ, có thể vần bằng hoặc vần trắc, với
các dạng độc vận - toàn bài dùng nguyên một vần, hoặc liên vận - một bài thơ dùng
nhều vần), ngoài ra không có những yêu cầu chặt chẽ gì khác ( nghĩa là không có niêm,
luật, đối như thơ Đường). Bài thơ cổ phong cũng không hạn định số câu, thường cứ từ 4
câu trở lên và dài đến bao nhiêu cũng được. Các thi gia thường làm bài gồm 4 câu (ở
Trung Quốc gọi là tuyệt cú, ở Việt Nam gọi là Tứ tuyệt) hoặc 8 câu, cũng có bài 6 câu
hoặc 12 câu. Những bài thất ngôn dài quá 8 câu và ngũ ngôn dài quá 16 câu gọi là
trường thiên (thể hành).
Ví dụ bài "Đêm mùa hè" sau đây của Nguyễn Khuyến là bài cổ phong ngũ ngôn bát cú,
một vần trắc:
Tháng tư đầu mùa hạ
Tiết trời thực oi ả
Tiếng dế kêu thiết tha
Đàn muỗi bay tơi tả
Nỗi ấy ngỏ cùng ai

Cảnh này buồn cả dạ
Biếng nhắp năm canh chày
Gà đà sớm giục giã.
Thể thơ cổ phong được sử dụng ở văn học Việt Nam có phần ít phổ biến hơn so với thể
thơ Đường luật. Trong phong trào thơ mới (1932 - 1942), một số tác gia có lưu ý dùng
thể thơ này (ví dụ: Thế Lữ, Bích Khê làm những câu thơ 7 chữ dùng toàn thanh bằng
hoặc toàn thanh trắc; Thâm Tâm làm các bài hành ngũ ngôn hoặc thất ngôn...), nhưng
cách sử dụng của họ linh hoạt, gần như không nhằm khôi phục thể thơ này mà chỉ vận
dụng nó ít nhiều như những yếu tố tạo nên những phong cách thơ trong nền thơ tiếng
Việt hiện đại.
Điển cố
Thuật ngữ của giới nghiên cứu nhằm mô tả một trong những đặc điểm nổi bật của văn
học trung đại Việt Nam, vốn chịu ảnh hưởng văn học cổ và trung đại Trung Hoa.
Do những nguyên nhân khác nhau, đã hình thành một tâm thế, một phong cách của
những người làm văn: trong hành văn thường hay nhắc đến một sự tích xưa hoặc một
vài câu thơ, câu văn cổ để diễn tả ý mình, nhưng đây không phải là lối trích dẫn nguyên
văn, mà là lối dùng lại vài chữ cốt gợi nhớ được đến tích cũ ấy, câu văn cổ ấy. Lối này
được gọi chung là dùng điển cố, bao gồm phép dùng điển và phép lấy chữ.
"Dùng điển" (chữ Hán: dụng điển - dụng: vận dụng; điển: việc cũ; hoặc sử sự - khiến
việc) ý nói "sai khiến" các tích cũ chuyện xưa cho thích dụng vào văn mạch của mình.
Các "điển" gồm các tình tiết đã được chép trong sử sách, kinh truyện, kể cả các tình tiết
hoang đường, hư cấu đã được viết ra trong những tác phẩm nổi tiếng thời trước. Ví dụ ở
hai câu " Truyện Kiều": " Nghìn vàng gọi chút lễ thường - Mà lòng Xiếu Mẫu mấy vàng
cho cân", các từ "nghìn vàng" và "Xiếu Mẫu" là nhắc đến một sự việc đã chép trong "sử
kí"(của sử gia Trung Quốc Tư Mã Thiên: 145 - 86 trước Công nguyên): Hàn Tín thuở

×