Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Giai cấp nông dân với sự nghiệp CNH hđh nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh bình định (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.86 KB, 24 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giai cấp nông dân là giai cấp ra đời sớm và tồn tại cùng với sự phát triển của nhiều chế độ
xã hội khác nhau. Trong từng thời kỳ lịch sử, GCND đều có những đóng góp nhất định vào sự phát
triển chung của xã hội. Tuy nhiên, lý luận về GCND chỉ thực sự hoàn thiện và mang tính cách mạng
khi Chủ nghĩa Mác ra đời và đƣợc bổ sung, phát triển bởi V.I.Lênin. Theo Chủ nghĩa Mác - Lênin,
vấn đề ND luôn có vị trí đặc biệt quan trọng và luôn đƣợc xác định là vấn đề chiến lƣợc của cách
mạng. V.I.Lênin đã khẳng định hầu hết các nƣớc thuộc địa, ND là lực lƣợng dân cƣ đông đảo nhất;
lực lƣợng lao động dồi dào nhất; lực lƣợng cách mạng hùng hậu nhất. Nông nghiệp là lĩnh vực sản
xuất chủ yếu của xã hội, nông thôn là địa bàn cƣ trú rộng lớn nhất của ND. Vì vậy, vấn đề nông
nghiệp, nông thôn và ND là vấn đề cơ bản và mấu chốt nhất trong quá trình xây dựng CNXH.
Ở Việt Nam, nông nghiệp, ND, nông thôn hay còn gọi là "tam nông" là vấn đề đƣợc
Đảng Cộng sản Việt Nam rất quan tâm và coi trọng trong suốt quá trình lãnh đạo đất nƣớc. Bởi
lẽ, điểm xuất phát của Việt Nam đi lên CNXH là từ một nƣớc nông nghiệp lạc hậu, ND luôn
chiếm tỷ lệ lớn trong lực lƣợng lao động. GCND Việt Nam là giai cấp gắn bó đầu tiên và lâu đời
với nền sản xuất và cội nguồn của dân tộc, là lực lƣợng có vai trò hết sức quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc Việt Nam. Lịch sử 85 năm dƣới sự lãnh đạo của Đảng
đã khẳng định những đóng góp to lớn của GCND đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bình Định là một tỉnh nông nghiệp với gần 70% dân số sống ở nông thôn [23, tr.
32]. Trong những năm qua, bên cạnh việc chú trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, phát
triển nông nghiệp vẫn là ƣu tiên số một trong quá trình phát kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Định.
Trên cơ sở đƣờng lối CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của Đảng, tỉnh Bình Định đã triển
khai thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, đƣa máy móc, thiết bị,
ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ và các phƣơng pháp sản xuất, các hình thức tổ chức
kiểu công nghiệp… vào sản xuất nông nghiệp; khắc phục và hạn chế những khó khăn, bất lợi;
khai thác các tiềm năng, lợi thế; phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ của các Bộ, ngành
Trung ƣơng… và bƣớc đầu đã đạt đƣợc những kết quả rất quan trọng, bộ mặt NTM từng bƣớc
đƣợc hình thành, đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận ND ngày càng đƣợc cải thiện; hệ


thống chính trị ở nông thôn đƣợc củng cố và tăng cƣờng; dân chủ cơ sở đƣợc phát huy, nhân dân
thêm tin tƣởng vào sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH. Tuy nhiên, việc
xây dựng GCND ở tỉnh Bình Định còn nhiều mặt yếu kém, tồn tại kéo dài, chậm khắc phục. Nền
sản xuất nông nghiệp Bình Định có mặt phát triển chƣa vững chắc, cơ cấu kinh tế nông thôn
chuyển dịch chậm; ND còn thiếu các điều kiện có bản nhƣ vốn, kỹ thuật, vật tƣ nông nghiệp, chế
biến, thị trƣờng… để phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Đời sống một bộ phận ND còn khó
khăn, sự phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng giữa các vùng, địa phƣơng trong tỉnh có xu hƣớng
gia tăng… Tình hình trên đã ảnh hƣởng không nhỏ đến tƣ tƣởng, tâm trạng, quá trình sản xuất
của ND Bình Định trên con đƣờng phát triển.
Từ cách đặt vấn đề nhƣ trên, việc nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh về GCND, về mối quan hệ giữa nông nghiệp, ND, nông thôn; chủ trƣơng của
Đảng Cộng sản Việt Nam về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn… làm cơ sở lý luận cho việc
nghiên cứu thực trạng phát huy vai trò của GCND Việt Nam nói chung, ND tỉnh Bình Định nói
riêng, tìm ra những luận cứ khoa học góp phần phục vụ quá trình hoàn thiện các chính sách nông
nghiệp, nông thôn và ND trên địa bàn tỉnh Bình Định; phát huy vai trò của GCND, củng cố vững


2

chắc khối liên minh công nhân - ND - trí thức trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn… là vấn đề bức thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến các vấn đề lý luận về vai trò, đặc điểm của GCND trong sự phát triển
xã hội và trong lịch sử nhân loại cũng nhƣ vấn đề GCND Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới,
CNH, HĐH đất nƣớc nói chung, đặc biệt là vấn đề GCND với sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định nói riêng, có nhiều tác phẩm, công trình của nhiều tác giả
nghiên cứu theo nhiều hƣớng khác nhau:

Hướng thứ nhất, các tác phẩm, công trình trong và ngoài nước nghiên cứu những vấn đề
lý luận về GCND và về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói chung bao gồm:

Một là, các tác phẩm kinh điển của C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lên in về GCND
nhƣ Ph.Ăngghen với tác phẩm Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức [63]; tác phẩm Chiến tranh nông
dân ở Đức [61]; hay V.I.Lênin với tác phẩm Hai sách lược của Đảng dân chủ - xã hội trong cách
mạng dân chủ [52]; tác phẩm Bàn về thuế lương thực [55]… và nhiều tác phẩm khác. Trong các
tác phẩm này, các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lênin đã phân tích tính hai mặt của
GCND; vừa là ngƣời lao động, vừa là ngƣời tƣ hữu; phân tích tính tất yếu của liên minh công nông, về vai trò của GCND trong đấu tranh cách mạng và trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, về chiến
lƣợc phát triển nông nghiệp, nông thôn…
Hai là, các tác phẩm, công trình (trong và ngoài nước) nghiên cứu các vấn đề lý luận
về GCND, về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói chung như Amsden, Alice, Asia’s Next
Giant với công trình South Korea and the Late Industrialization (Hàn Quốc với thời kỳ hậu công
nghiệp hoá) [106]; hay Lin, Yustin Yifu and Yang Yao với công trình Chinese Rural
Industrialization in the Context of East Asian Miracle (Công nghiệp hoá nông thôn Trung Quốc
trong bối cảnh hội nhập của khu vực Đông Á [108]; Công trình A Study of the China’s
Technology Industrialization Model and Strategy, Regional Study Series (Nghiên cứu về mô hình
và chiến lược công nghiệp hoá của Trung Quốc) của tác giả Seung Chan Park [112]; Công trình
Education for rural people (Giáo dục cho dân cư nông thôn) [109]; Farmers’ Association
Training Materials với tác phẩm China Canada Agriculture Development Program Farmers’
Association Development Strategy and Training Program (Chương trình đào tạo và phát triển
ND, nông thôn ở Trung Quốc - Canada ) [110]… Các tác giả này đã đề cập đến việc giải quyết
mối tƣơng quan giữa giáo dục ND, trao quyền cho ND và đảm bảo an ninh lƣơng thực; nghiên
cứu mô hình CNH, HĐH ở Trung Quốc, Hàn Quốc là lấy công nghiệp thúc đẩy nông nghiệp, lấy
thành thị lôi kéo nông thôn, tăng cƣờng địa vị cơ sở của nông nghiệp, thực hiện công nghiệp hoá
nông nghiệp, nông thôn nhằm tăng nhanh sản lƣợng nông nghiệp, nâng cao đời sống ngƣời dân
nông thôn…
Bên cạnh các công trình của các tác giả nƣớc ngoài, tại Việt Nam cũng có nhiều công
trình nghiên cứu tiêu biểu nhƣ Viện Chính sách và Chiến lƣợc phát triển nông nghiệp, nông thôn
– Đặng Kim Sơn, Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, ND trong quá trình công
nghiệp hoá [83]; PGS. TS. Mai Thị Thanh Xuân với công trình Một số mô hình công nghiệp hoá
trên thế giới và Việt Nam [105]; tác giả Đỗ Đức Định với công trình Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá: Phát huy lợi thế so sánh – Kinh nghiệm của các nền kinh tế đang phát triển ở Châu Á [40];

Công trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và các nước trong khu vực của tác giả
Phan Khiêm Ích – Nguyễn Đình Phan [47]; TS. Đặng Kim Sơn với công trình Nông nghiệp,
ND, nông thôn Việt Nam - Hôm nay và mai sau [84]; CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn - Từ
lý luận đến thực tiễn ở Việt Nam hiện nay của TS. Phạm Ngọc Dũng [27]; GS.TS. Đỗ Hoài Nam
với tác phẩm Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn [76]; Tác giả Xứng Cao


3

Quang với công trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn: tình hình phát triển 5 năm qua và một
số giải pháp [77] … Các công trình này đã bàn đến những vấn đề lý luận chung về mô hình công
nghiệp hoá nhƣ quan niệm và bản chất công nghiệp hoá, diễn biến của tiến trình công nghiệp hoá
trên thế giới, phân tích tính tất yếu, tác động và nội dung của công nghiệp hoá; một số vấn đề lý
luận về nông nghiệp, ND, nông thôn; vai trò của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; phân tích
thực trạng các vấn đề về nông nghiệp, ND, nông thôn ở Việt Nam hiện nay, những thành tựu và khó
khăn, vƣớng mắc còn tồn tại, từ đó đề xuất những định hƣớng và kiến nghị một số chính sách phát
triển nông nghiệp, ND, nông thôn Việt Nam.
Hướng thứ hai, các công trình nghiên cứu về đặc điểm, vai trò của GCND Việt Nam
trong xã hội và đặc biệt là trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở các tỉnh,
thành phố và ở Việt Nam, bao gồm:
Một là, các tác phẩm, bài viết của Hồ Chí Minh, Văn kiện, Nghị quyết của Đảng, Nhà
nước Việt Nam về GCND, về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Trong các tác phẩm và bài viết
của mình, Hồ Chí Minh đã giành nhiều trang viết về GCND, tiểu biểu nhƣ tác phẩm Đường cách
mệnh [72]; Về liên minh công nông [70]; Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ; Nước An Nam
dưới con mắt người Pháp [71]; Về Hợp tác xã [74] và nhiều bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh
qua các thời kỳ. Các tác phẩm này đã phân tích quá trình hình thành, đặc điểm và vai trò của
GCND Việt Nam, tính tất yếu của liên minh công - nông trong cách mạng Việt Nam.
Dƣới ánh sáng của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, vấn đề ND, nông nghiệp, nông thôn luôn
là vấn đề chiến lƣợc của cách mạng Việt Nam và luôn đƣợc thể hiện trong các Văn kiện của
Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt từ giai đoạn đổi mới đất nƣớc đến nay tiêu biểu nhƣ Cương

lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991), Nghị quyết Hội nghị giữa
nhiệm kỳ của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa VII (1/1994) đã xác định “chuyển dần
sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới từng bƣớc CNH, HĐH” và rất quan tâm tới CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) mở
đầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đã quyết định và chỉ đạo phải coi trọng
và đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng (2001) nêu rõ “tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh
CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn” [34, tr. 91- 92]. Đặc biệt Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa IX ra quyết định về Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn thời kỳ 2001 – 2010. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006)
khẳng định “Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề
nông nghiệp, nông thôn và ND” [35, tr. 88]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành
trung ƣơng Đảng Khóa X về nông nghiệp, ND, nông thôn (8/2008) đã chỉ rõ các vấn đề nông
nghiệp, ND, nông thôn phải đƣợc giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nƣớc. Trên cơ sỏ các quan điểm của Đảng, nhiều văn bản luật và văn bản dƣới Luật của
Nhà nƣớc đã đƣợc ban hành nhƣ Luật đất đai (2003), Luật Hợp tác xã (2003), Luật Bảo vệ môi
trƣờng (2005), Luật Đầu tƣ (2005)… Chỉ thị số 24/2005/CT-TTg ngày 28/6/2005 của Thủ
tƣớng Chính Phủ về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết trung ương 5 khóa IX về đẩy mạnh
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; Quyết định số 24/2008/QĐ-TTg ngày 5/2/2008 của Thủ
tƣớng Chính phủ ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với
các tỉnh vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ đến năm 2010; Thông tƣ liên tịch số
06/2006/TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày 19/1/2006 Bộ Tài chính - Bộ Lao động - Thƣơng binh
và Xã hội hướng dẫn chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn; Quyết
định số 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 của Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục
tiêu quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020…


4

Hai là, các công trình nghiên cứu về GCND trong quá trình CNH, HĐH nông

nghiệp, nông thôn ở các tỉnh, thành phố và ở Việt Nam. Đề tài cấp Bộ của GS.TS. Nguyễn
Đình Hƣơng, Sản xuất và đời sống của các hộ ND không có đất hoặc thiếu đất ở đồng bằng
sông Cửu Long. Thực trạng và giải pháp [44]; hay Đề tài cấp Bộ của TS. Bùi Thị Ngọc Lan
Việc làm của ND vùng đồng bằng sông Hồng trong quá trình CNH, HĐH [49]...Các công trình
này bƣớc đầu làm rõ thực chất, nguyên nhân cơ bản và sâu xa của tình trạng các hộ ND không
có đất hoặc thiếu đất sản xuất; nghiên cứu về vấn đề giải quyết việc làm cho ND, xu hƣớng
biến đổi của ND khi chuyển sang kinh tế thị trƣờng... ở một số địa phƣơng trên cả nƣớc.
Luận án tiến sĩ triết học Sự chuyển hướng của GCND trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Đức Hƣớng [45]; Luận án tiến sĩ triết học Đặc điểm
và xu hướng biến đổi của GCND nước ta trong giai đoạn hiện nay của tác giả Bùi Thị
Thanh Hƣơng [46];Tác giả Đinh Thế Định với công trình nghiên cứu Mối quan hệ giữa
sự phát triển kinh tế và việc giải quyết các vấn đề xã hội ở vùng nông thôn các tỉnh Bắc
trung bộ trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay [39]... đã đề cập đến xóa đói giảm
nghèo, giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, khuyến
khích phát triển và giảm bất bình đẳng giới để phát triển nông thôn theo định hƣớng xã hội chủ
nghĩa, thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các vùng trên phạm vi toàn quốc, thực hiện mục tiêu
bình đẳng giới. Các tác giả cũng đề cập đến sự cần thiết phải nhanh chóng phát triển nông nghiệp
Việt Nam theo hƣớng sản xuất hàng hóa, nghiên cứu sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn...
trong xu thế hội nhập và công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nƣớc.
Luận án tiến sĩ kinh tế của Dƣơng Trí Thảo, Phương hướng và biện pháp đổi mới
công nghệ trong các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu tỉnh Khánh Hoà [90] hay
luận án tiến sĩ kinh tế chính trị của Nguyễn Thị Thu Hƣơng, Phát triển ngành công nghiệp
chế biến thuỷ sản theo định hướng xuất khẩu tại Đà Nẵng [43] đã phân tích cơ sở lý luận
chung về phát triển ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản theo hƣớng xuất khẩu; phân tích
thực trạng phát triển của ngành chế biến thuỷ sản xuất khẩu ở Khánh Hòa, Đà Nẵn g trên các
mặt nhƣ tốc độ tăng trƣởng, sự phát triển về quy mô chế biến, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu,
trình độ phát triển công nghệ, hiệu quả kinh tế - xã hội... Đánh giá khả năng phát triển của
ngành thuỷ sản Khánh Hòa, Đà Nẵng theo hƣớng tiếp cận cạnh tranh, đề xuất những giải
pháp chủ yếu nhằm phát triển ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản theo hƣớng xuất khẩu.


Hướng thứ ba, văn kiện của Đảng bộ, Chính quyền tỉnh Bình Định và các công trình
nghiên cứu về GCND trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định
Một là, các văn kiện của Đảng bộ, Chính quyền tỉnh Bình Định về GCND, về CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định như Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình
Định lần thứ XVIII, Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo tiền đề đến
năm 2020, Bình Định cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp [01]. Chương trình hành động thực hiện
Nghị quyết Đại hội X của Đảng và Nghị quyết Đại hội XVII Đảng bộ tỉnh về đẩy mạnh CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2006 – 2010 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định [02];
Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 26 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về
nông nghiệp, ND, nông thôn của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định [03]; Chương trình hành
động thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Đại hội XVIII Đảng bộ tỉnh về Xây
dựng NTM giai đoạn 2011 – 2015, tầm nhìn 2020 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định [04];
Chỉ thị về việc phát động phong trào thi đua xây dựng NTM của UBND tỉnh Bình Định và Tài liệu
tuyên truyền về xây dựng NTM của tỉnh Bình Định giai đoạn 2011 - 2015, tầm nhìn đến 2020 của
Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Bình Định [06]. Báo cáo của Cục Thống kê Bình Định về thực trạng nông


5

thôn, nông nghiệp và xây dựng NTM tỉnh Bình Định [17]; Nghị quyết số 6/2007/NQ-HĐND ngày
19/7/2007 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Định về việc thông qua một số chính sách khuyến khích
phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng hiệu quả, bền vững; Sở thuỷ sản Bình Định, Tóm tắt điều
chỉnh, bổ sung Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thuỷ sản Bình Định đến năm 2015, tầm nhìn
đến 2020 [80]; Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Bình Định, Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ngành thuỷ sản Bình Định trong thực hiện chính sách nông nghiệp, ND, nông thôn [81]; Báo cáo kết
quả thực hiện Nghị quyết số 26 – NQ /TW về nông nghiệp, ND, nông thôn của Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Bình Định [82]; Báo cáo Công tác Hội và Phong trào ND năm 2012, phương
hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2013 của Hội Nông dân Việt Nam tỉnh Bình Định [41]... đã đánh
giá tình hình sản xuất nông nghiệp và đời sống ND Bình Định trong những năm qua, phân tích

những thành tựu và hạn chế trong nông nghiệp, ND, nông thôn và đề ra các phƣơng hƣớng, giải
pháp, chƣơng trình hành động cho giai đoạn tới.
Hai là, các công trình nghiên cứu về ND Bình Định và về quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định nhƣ công trình Nghiên cứu địa bạ Triều Nguyễn Bình Định [38];
Lịch sử Hội Nông dân và phong trào ND Việt Nam tỉnh Bình Định (1930 - 2000) [05]; Công trình Bình
Định thế và lực mới trong thế kỷ XXI của tác giả Chu Viết Luân [59]; Cục Thống kê Bình Định trong
công trình Bình Định 10 năm phát triển kinh tế - xã hội (2001 - 2010) [16]; Nguyễn Tấn Tuấn với đề
tài Kinh tế trang trại - hướng đi mang tính tự phát của ND Bình Định [92]; Phan Trọng Hổ với công
trình Nông nghiệp, ND, nông thôn tỉnh Bình Định trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá [42]...
Các công trình này đã đề cập đến các nội dung nhƣ tổng quan tình hình phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh Bình Định trong 10 năm 2001 – 2010; phân tích vai trò của ND và Hội ND Việt Nam tỉnh Bình
Định giai đoạn 1930 - 2000; đánh giá tác động của các chính sách khuyến khích phát triển nông
nghiệp, ND, nông thôn ở tỉnh Bình Định trong những năm qua, từ đó đề xuất lộ trình và giải pháp phát
triển nông nghiệp, ND, nông thôn của tỉnh Bình Định đến năm 2015 và 2020...
Nhƣ vậy, với hình thức, mức độ và ở các phạm vi nghiên cứu khác nhau, các công trình
nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều nội dung (lý luận và thực tiễn) của vấn đề GCND và công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trên thế giới, ở Việt Nam và trên địa bàn tỉnh
Bình Định. Tuy nhiên, chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu vai trò của GCND và thực trạng
phát huy vai trò của GCND trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn ở tỉnh Bình Định.Vì vậy tác giả chọn đề tài Giai cấp nông dân với sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định làm đề tài nghiên cứu cho luận án
tiến sĩ triết học của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là nhằm làm rõ vai trò của GCND trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định; phân tích thực trạng,
nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với tỉnh Bình Định trong việc phát huy vai trò
của ND Bình Định trong quá trình CNH, HĐH; khuyến nghị Đảng bộ và Chính quyền tỉnh
Bình Định thực hiện một số phƣơng hƣớng và giải pháp phát huy vai trò của ND Bình
Định trong giai đoạn hiện nay.
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, phân tích một cách hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan
điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về GCND, về quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn ở Việt Nam, về vai trò của GCND Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn.
Thứ hai, phân tích vai trò của ND Bình Định và thực trạng phát huy vai trò của ND
Bình Định; nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò của ND Bình Định


6

trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Thứ ba, khuyến nghị Đảng bộ, Chính quyền tỉnh Bình Định thực hiện một số phƣơng
hƣớng, giải pháp nhằm phát huy vai trò của GCND ở tỉnh Bình Định giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là GCND, vai trò của GCND trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn dƣới góc độ triết học.
Vấn đề GCND có phạm vi rất rộng và ở tỉnh Bình Định đƣợc thực hiện trong thời gian
dài (từ khi tỉnh đƣợc tái lập năm 1989 đến nay). Vì vậy, trong khuôn khổ luận án, nhiệm vụ
nghiên cứu về GCND với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bình Định đƣợc giới hạn
ở giai đoạn từ 2001 đến 2012. Luận án không đi sâu tìm hiểu về GCND thời kỳ trƣớc và sau đổi
mới cho đến năm 2000. Phần đề xuất các phƣơng hƣớng, giải pháp đƣợc xác định từ nay đến năm
2020 và triển vọng đến năm 2030. Về không gian, phạm vi cả nƣớc đƣợc xác định để nghiên cứu
cơ sở lý luận, kinh nghiệm thực tiễn; địa bàn tỉnh Bình Định đƣợc xác định là phạm vi nghiên
cứu thực trạng để đề xuất phƣơng hƣớng, giải pháp thúc đẩy phát triển.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Luận án đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan
điểm Hồ Chí Minh về GCND, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề ND, về
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Trong quá trình thực hiện, tác giả luận án đã sử dụng hệ thống các phƣơng pháp nghiên
cứu cụ thể nhƣ phân tích và tổng hợp, thống kê và so sánh, phƣơng pháp lịch sử, lôgich, hệ thống

hóa, khái quát hóa, sơ đồ hoá...
6. Đóng góp mới của luận án
Một là, luận án góp phần hệ thống hoá và có luận giải mới về vấn đề GCND, về CNH,
HĐH, nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định;
Hai là, phân tích vai trò “chủ thể” của GCND trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định; đánh giá thành tựu mà tỉnh Bình Định đã đạt đƣợc, làm rõ
nguyên nhân và những vấn đề đặt ra hiện nay;
Ba là, đề xuất các phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm phát huy vai trò chủ thể của ND Bình
Định trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận, luận án góp phần nâng cao nhận thức của Đảng bộ, Chính quyền
và nhân dân tỉnh Bình Định về vấn đề ”tam nông”; góp phần gợi mở cho Đảng bộ và Chính
quyền tỉnh Bình Định trong việc hoàn thiện các chủ trƣơng, chính sách về vấn đề ND, về
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Bình Định.
Về mặt thực tiễn, các giải pháp nêu trong luận án có thể giúp ND tỉnh Bình Định
thực hiện vai trò chủ thể của mình trong quá trình phát triển mọi mặt kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội... thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Luận án cũng
có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy và nghiên cứu các vấn đề về
ND, nông nghiệp, nông thôn.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
đƣợc kết cấu làm 3 chƣơng, 8 tiết.


7

PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
KHÁI LUẬN VỀ GIAI CẤP NÔNG DÂN VÀ CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM

1.1. KHÁI LUẬN CHUNG VỀ GIAI CẤP NÔNG DÂN
1.1.1. Quan điểm của các nhà tƣ tƣởng ngoài mác-xít về GCND
Trong lịch sử nhân loại, GCND là giai cấp hình thành từ rất sớm và tồn tại cùng với sự
phát triển của nhiều chế độ xã hội. Ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, bản chất xã hội và địa vị
của GCND là do phƣơng thức sản xuất thống trị của xã hội quy định. Và ở những hoàn cảnh kinh
tế - xã hội khác nhau, quan điểm về GCND cũng khác nhau. Trong thời kỳ cổ đại, các nhà triết
học ở cả phƣơng Đông và phƣơng Tây đều xem những ngƣời nông dân là tầng lớp bên dƣới của
xã hội, phải lao động và phục tùng tầng lớp trên của xã hội. Các đại biểu tiêu biểu nhƣ Mạnh Tử
(372 - 289 tr. CN), Tuân Tử (298 – 238 tr. CN) hay Héraclite (554 - 541 tr. CN), Démocrite (460 370 tr. CN) hay Socrate (469 - 399 tr. CN) và Platon (427 - 347 tr. CN)… Sang thời kỳ trung đại,
do hoàn cảnh kinh tế - xã hội của chế độ phong kiến đã làm cho triết học và khoa học đã trở thành
nô tì của thần học, tồn tại và hiện thân trong vai ngƣời ca tụng, biện minh cho các tín niệm của
tôn giáo, phản bác, loại bỏ các tƣ tƣởng dị giáo, đa thần và các quan niệm vô thần tiến bộ. Do đó,
thời kỳ này cũng không có nhà tƣ tƣởng nào bàn đến vấn đề giải phóng GCND thoát khỏi sự bóc
lột, nô dịch của xã hội phong kiến. Đến thời kỳ cận đại đã xuất hiện nhiều tƣ tƣởng tiến bộ, phê phán
xã hội đƣơng thời, lên án thời kỳ tích lũy ban đầu của CNTB và bên vực những ngƣời nông dân. Tiêu
biểu là các nhà XHCN không tƣởng nhƣ Tomát Morơ (1478 - 1535), Giăng Mêliê (1664 – 1729)…
Hay tƣ tƣởng của chủ nghĩa trọng nông mà đại biểu tiêu biểu là Francois Quesnay (1694 - 1771)
đề cao vai trò của sản xuất nông nghiệp, của GCND…
Nhƣ vậy, ở những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, hoàn cảnh lịch sử khác nhau đã có
những quan điểm khác nhau về GCND, về vai trò của sản xuất nông nghiệp... Những tƣ tƣởng đó
góp phần làm phong phú thêm kho tàng tƣ tƣởng nhân loại, tạo tiền đề cho sự nghiên cứu của C.
Mác và Ph.Ăngghen sau này. Lý luận về GCND mang tính cách mạng chỉ thực sự hình thành từ
những năm 40 của thế kỷ XIX trong học thuyết Mác và đƣợc bổ sung phát triển bằng sự đóng góp
của Lênin.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp ND
Trên cơ sở kế thừa quan điểm của các nhà tƣ tƣởng trong lịch sử và quá trình nghiên
cứu, tổng kết thực tiễn phong trào cách mạng thế giới, C.Mác và Ph.Ăngghen, Lênin đã xây dựng
một hệ thống các quan điểm khoa học về GCND.
Về định nghĩa GCND, trên cơ sở phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
GCND nói chung, các quan niệm khác nhau về GCND, chúng tôi kết luận GCND là giai cấp của

những người lao động cư trú ở nông thôn, tham gia lao động sản xuất trong nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp… trực tiếp sử dụng các tư liệu sản xuất cơ bản và đặc thù, gắn với thiên nhiên
là đất, rừng, biển… để sản xuất ra nông sản, bản chất xã hội và địa vị của GCND là do phương
thức sản xuất thống trị quy định và được thay đổi cùng với sự thay đổi của hình thái kinh tế - xã hội.
Về nguồn gốc, GCND là một giai cấp xã hội đặc biệt, hình thành trong quá trình
tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ và quá trình phát triển của chế độ tƣ hữu về tƣ liệu
sản xuất, tồn tại cho tới khi xây dựng xong chủ nghĩa cộng sản 1. Trong các hình thái tiền tƣ
1

A.M. Ru-mi-an-txép (1986), Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học, Sự thật, Hà Nội, tr. 227.


8

bản chủ nghĩa, ND bao gồm những ngƣời sản xuất nông nghiệp phân tán và chủ yếu là
những ngƣời sản xuất nhỏ. Trong điều kiện của chủ nghĩa tƣ bản, ND với tính cách là một tầng
lớp tiểu tƣ hữu - sản xuất hàng hóa, một bộ phận của tiểu tƣ sản, tất yếu ngày càng bị phân
hóa. ND phân hóa thành ba nhóm khác nhau xét theo địa vị giai cấp của họ: tiểu nông (bần
nông, cố nông), trung nông và tƣ sản nông nghiệp. Việc tích tụ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa và
việc tăng cƣờng tƣớc đoạt đẫn tới chỗ làm xói mòn tầng lớp trung nông, do địa vị kinh tế - xã
hội của mình, ND phải đi theo hoặc là công nhân, hoặc là tƣ sản. Ở xã hội tƣ bản chủ nghĩa, do
lợi ích của GCND và giai cấp công nhân cơ bản giống nhau nên tạo điều kiện để thực hiện liên
minh giữa hai giai cấp này. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, khi ND bị khổ cực vì sự bóc lột
ngày càng tăng của các tổ chức độc quyền, vì sƣu thuế ngày càng cao, vì món nợ nô dịch đối
với các ngân hàng, ND trở thành đồng minh của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh
chống giai cấp tƣ sản độc quyền. Ở những nƣớc mà phong trào giải phóng dân tộc đan g phát
triển thì ND là động lực có tính quần chúng nhất của phong trào đó 2.
Về đặc điểm của GCND, thứ nhất, ND vừa là những người lao động, vừa là những
người tư hữu nhỏ. Mặc dù khác nhau về trình độ, địa vị kinh tế và lợi ích, nhƣng giữa họ có một
điểm chung là đều sinh sống bằng cách làm thuê cho các giai cấp bóc lột ở nông thôn hoặc là tồn

tại bằng chính lao động của bản thân mình với những điều kiện sẵn có về tƣ liệu sản xuất chứ
không sống bằng việc bóc lột lao động của ngƣời khác. Lao động đó có thể đủ đáp ứng nuôi sống
gia đình và nhu cầu sản xuất của họ; thậm chí, với trung nông thì lao động đó có thể tạo ra sản
phẩm dƣ thừa để tích luỹ. “Giai cấp đó, một mặt là ngƣời tƣ hữu, mặt khác lại là ngƣời lao động.
Nó không bóc lột những ngƣời lao động khác” [54, tr. 237].
Thứ hai, ND không có hệ tư tưởng độc lập. Tƣ tƣởng của họ luôn dao động, đầy tính
thực tế và phụ thuộc rất lớn vào hệ tƣ tƣởng của giai cấp thống trị. ND chỉ sẵn sàng tin và đi theo
giai cấp nào mang lại lợi ích cho họ. Đây có thể đƣợc xem là một đặc điểm quan trọng của ND
trong bất kỳ giai đoạn nào. Với bản chất tƣ hữu và thái độ dao động, ngả nghiêng, ngƣời ND
không dễ dàng và ngay tức khắc tin theo và ủng hộ giai cấp vô sản đƣợc. Ngƣời viết: “ND sẽ
không tin bất cứ một lời nói nào, bất cứ một cƣơng lĩnh nào… ND chỉ tin vào hành động, vào
kinh nghiệm thực tiễn”3. Chính vì đặc điểm đó của ND mà Lênin yêu cầu những ngƣời cộng sản,
bất luận thế nào, cũng không thể dùng bạo lực để ép ND đi theo mình, mà phải cƣơng quyết xây
dựng mối quan hệ hoà thuận với họ.
Thứ ba, cùng với sự phát triển của cơ cấu kinh tế thì cơ cấu GCND luôn có sự biến đổi
mạnh mẽ.
Trƣớc cách mạng xã hội chủ nghĩa, do sự tác động của cơ chế kinh tế hàng hoá và nền sản
xuất tƣ bản chủ nghĩa, cơ cấu GCND có sự biến đổi mạnh mẽ. Một phần trong số họ gia nhập vào
giai cấp bóc lột ở nông thôn, một phần lớn trở thành những ngƣời lao động làm thuê. Điển hình
trong đó là tầng lớp trung nông. Tầng lớp này có thể do điều kiện vốn có của mình mà phát triển trở
thành những ngƣời bóc lột sức lao động của ngƣời khác, nhƣng cũng có không ít trung nông không
chịu nổi sự cạnh tranh, bị phá sản và phải tham gia vào đội quân lao động làm thuê. Cách mạng vô
sản thành công đã xoá bỏ sự áp bức, bóc lột giai cấp, xoá bỏ sự thống trị của bọn địa chủ đối với
GCND, nhƣng cũng chính điều kiện đó lại giúp cho ngƣời ND thiết lập cơ sở để trở thành tiểu chủ.
Chính vì lẽ đó mà GCND còn có cơ sở tồn tại lâu dài, cho dù cách mạng vô sản đã thành công.
Do vậy, Lênin cho rằng, nếu ai đó nghĩ tới việc có thể nhanh chóng xoá bỏ đƣợc GCND trong
2

A.M. Ru-mi-an-txép (1986), Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học, Sự thật, Hà Nội, tr. 228.


3

V.I. Lênin (2006), Toàn tập, tập 38, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 443.


9

một thời gian ngắn thì ngƣời đó là những ngƣời viển vông, không tƣởng.
Thứ tư, GCND tất yếu sẽ đi theo giai cấp vô sản, ủng hộ giai cấp vô sản tiến hành
thắng lợi cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong xã hội có áp bức, bóc lột, ND là giai cấp bị áp bức, bóc lột một cách nặng nề, bị
giam hãm và phải sống trong những điều kiện thấp kém. Vì vậy, để thay đổi cuộc sống của mình,
GCND chỉ có thể ủng hộ và đi theo con đƣờng cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo nhằm xoá
bỏ tầng lớp địa chủ và giai cấp tƣ sản. Lênin khẳng định: “Do địa vị kinh tế của mình trong xã hội
tƣ sản, ND nhất định phải đi theo hoặc công nhân, hoặc giai cấp tƣ sản. Không có con đƣờng
trung gian”4 . Một khi ND đã hoàn toàn tin tƣởng vào giai cấp vô sản thì họ sẽ hết lòng đi theo và
phục vụ cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và khi đó, cách mạng nhất định thành công.
Về vai trò của GCND trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, một là, GCND là lực lượng
cách mạng cơ bản trong đấu tranh giành chính quyền nhà nước. Lênin đã chỉ rõ một trong những
điều kiện để giai cấp công nhân giữ vững đƣợc vai trò lãnh đạo và hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của mình là giai cấp công nhân phải đƣợc sự ủng hộ của ND. Chỉ có sức mạnh của sự liên minh
giai cấp giữa giai cấp công nhân và GCND, giai cấp công nhân mới có cơ sở để thực hiện thắng
lợi cuộc đấu tranh cách mạng nhằm lật đổ giai cấp tƣ sản thống trị và các thế lực phản động khác,
giành lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động. Hai là, cùng
với giai cấp công nhân, GCND có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.Vai
trò của GCND không chỉ ở giai đoạn giành chính quyền mà còn có ý nghĩa hết sức to lớn trong
quá trình gìn giữ chính quyền và xây dựng xã hội mới. Cách mạng xã hội chủ nghĩa muốn thắng
lợi, theo Lênin cần có hai điều kiện; Một là điều kiện bên ngoài, tức là sự ủng hộ kịp thời của một
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một hay nhiều nƣớc tiên tiến. Hai là điều kiện bên trong, tức
là liên minh công – nông. Trong đó điều kiện bên trong là bắt buộc, có ý nghĩa quyết định thắng

lợi của cách mạng. Giai cấp công nhân phải liên minh với ND, kéo ND ra khỏi ảnh hƣởng của
giai cấp tƣ sản; giải phóng họ khỏi ách áp bức, bóc lột của giai cấp tƣ sản; làm cho họ đứng về
phía mình để cùng nhau chiến thắng bọn bóc lột. Có nhƣ vậy mới giữ đƣợc chính quyền. Lênin
đã luận chứng tính tất yếu của liên minh công - nông mà trƣớc hết là liên minh về kinh tế, coi đó
là nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc Nga. Ba là, ND cung
cấp sản phẩm nông nghiệp để đảm bảo nhu cầu của xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đồng
thời góp phần khôi phục và phát triển nền đại công nghiệp, tạo cơ sở vững chắc để giai cấp công
nhân từng bước xây dựng và phát triển nền kinh tế mới cũng như các lĩnh vực khác của đời sống
xã hội.
1.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về giai cấp nông dân
Theo Hồ Chí Minh, GCND là cộng đồng những ngƣời lao động, sản xuất nhỏ trong nông
nghiệp gồm cả lâm nghiệp và ngƣ nghiệp, đều có đặc điểm chung là ngƣời lao động - nhân tố chủ yếu
của lực lƣợng sản xuất và là ngƣời tƣ hữu nhỏ. Từ những đặc điểm chung của GCND, Hồ Chí Minh đã
đứng trên lập trƣờng mácxít để nhấn mạnh hơn tính cách mạng, tính tích cực của GCND Việt Nam.
Đồng thời với việc nhấn mạnh tính cách mạng, tính tích cực của ND Việt Nam, Hồ Chí Minh không
quan niệm sức mạnh chung chung của GCND mà thấy rõ sức mạnh đó khi đặt nó trong hệ thống tổ
chức của cách mạng. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao GCND với tƣ cách là lực lƣợng cách mạng khi
đƣợc tổ chức lại. Đây là quan điểm thống nhất với những nguyên lý mácxít về vai trò của quần chúng
trong cách mạng. Vấn đề giải phóng dân tộc, theo Hồ Chí Minh thực chất là vấn đề giải phóng ND, vì
ND chiếm tuyệt đại đa số trong dân cƣ, ND gắn bó với cội nguồn dân tộc, có ý thức dân tộc sâu sắc.
Các truyền thống dân tộc in dấu ấn đậm nét trong ND và cũng đƣợc bộc lộ qua ND nhƣ tinh thần yêu
4

V.I. Lênin (2006), Toàn tập, tập 38, Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr. 438.


10

nƣớc nồng nàn, đức tính cần cù, chăm chỉ, đoàn kết hiệp tác trong lao động sản xuất….
Dƣới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh

đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định GCND là một lực lƣợng có vai trò hết sức
quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Lịch sử 85 năm qua dƣới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng
định những đóng góp to lớn của GCND Việt Nam đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nắm vững và giải quyết đúng đắn vấn đề ND, đáp ứng nhiệm vụ cách
mạng của từng giai đoạn lịch sử là một trong những nguyên nhân quan trọng làm nên những thắng
lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam.
1.2. QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM
1.2.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về CNH, HĐH nhƣng có thể xem quan niệm của
Đảng Cộng sản Việt Nam là quan niệm chính thống về CNH, HĐH trong điều kiện hiện nay, vừa
thể hiện đƣợc tính chất toàn diện của công nghiệp hóa, lại vừa thể hiện đƣợc tính hiện đại, rút
ngắn của quá trình CNH, HĐH. Đó là “quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp
tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo
ra năng suất lao động xã hội cao” 5.
1.2.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam
Trên cơ sở phân tích các khái niệm CNH, HĐH nông nghiệp và CNH, HĐH nông thôn,
chúng tôi thống nhất CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình xây dựng nông thôn có kết
cấu hạ tầng kinh tế- xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn
nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch, xã hội nông thôn ổn
định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc, dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, hệ
thống chính trị ở nông thôn được tăng cường. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay một mặt
là hiện đại hóa phương cách sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất thích ứng với sản xuất nông
nghiệp mang tính thời vụ. Mặt khác, kỹ thuật sản xuất nông nghiệp phải được hiện đại hóa. Hiện
đại hóa phương thức sản xuất nông nghiệp còn là chuyển nông nghiệp từ sản xuất cá thể phân tán,
tách rời sang sản xuất mang tính xã hội quy mô lớn, có sự phân công và hiệp tác chặt chẽ.
Trên cơ sở phân tích quá trình hình thành, mục tiêu, nội dung của quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam, tác giả kết luận qua các kỳ Đại hội và các Nghị

quyết của Đảng, tƣ duy lãnh đạo của Đảng đã thay đổi qua các thời kỳ: từ ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ
(1960) đến tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu (1982); phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng NTM là nhiệm vụ quan trọng
để ổn định tình hình kinh tế - xã hội (1991); CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, giải quyết
đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và ND (2006). Phát triển nông - lâm - ngư
nghiệp toàn diện theo hướng CNH, HĐH gắn với giải quyết tốt vấn đề ND, nông thôn
(2011)… Việc xác định vị trí quan trọng của nông nghiệp, nông thôn và ND trong quá trình

Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.
45.
5


11

hiện đại hóa đất nƣớc trong thời kỳ đổi mới là thực tế khách quan. Với tỷ lệ lớn cƣ dân nông
thôn Việt Nam hiện nay, không có sự giàu có của ND thì không có sự giàu có của đất nƣớc,
không có hiện đại hóa nông thôn thì không có hiện đại hóa quốc gia.
1.3. GIAI CẤP NÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
1.3.1. Mối quan hệ giữa nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Nông nghiệp, ND và nông thôn là bộ phận quan trọng của nền kinh tế - xã hội, góp phần quan
trọng cho tăng trƣởng kinh tế, ổn định chính trị, đảm bảo sự phát triển của đất nƣớc trong suốt quá trình
CNH, HĐH theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nông nghiệp, ND, nông thôn luôn gắn bó
mật thiết với nhau trong đó ND vừa là đối tƣợng, vừa là chủ thể quan trọng nhất của quá trình phát
triển. Nông nghiệp tạo cơ sở đảm bảo an ninh lƣơng thực cho quốc gia, thu nhập cao cho nông thôn, là
thị trƣờng lớn cho kinh tế cả nƣớc; kinh tế nông thôn phát triển tạo ra việc làm và thu nhập cho phần
lớn dân cƣ, là nguồn thu ngoại tệ quan trọng để phát triển kinh tế; ND có việc làm và thu nhập là nền
tảng để xóa đói giảm nghèo, công bằng và ổn định cho toàn xã hội. Nông thôn cũng là nơi duy trì và

phát triển môi trƣờng sống, bảo tồn và phát triển môi trƣờng văn hóa lành mạnh, trong sạch cho đất
nƣớc. Mục tiêu của sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn là nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của ND thông qua phát triển bền vững nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn có hiệu quả và khả
năng cạnh tranh cao, xây dựng NTM văn minh, kinh tế phát triển, chính trị dân chủ, kết cấu hạ tầng
hiện đại, môi trƣờng sinh thái cân bằng, bản sắc dân tộc phong phú… Ba yếu tố cấu thành chỉnh thể
“tam nông” có mối liên hệ chặt chẽ, hữu cơ, biện chứng đến mức không thể bàn đƣợc một yếu tố nào
nếu tách rời những yếu tố còn lại. Mối quan hệ không tách rời này không phải do ý muốn chủ quan tạo
ra mà xuất phát từ bản chất khách quan vốn có của mỗi yếu tố cấu thành chỉnh thể tam nông, là kết quả
của sự vận động tất yếu các yếu tố cấu thành đó. Ngƣời ND mặc dù là chủ thể trong mối quan hệ này
thì họ cũng không thể tạo ra nó chỉ theo ý muốn hay lợi ích chủ quan của mình. Ở đây họ thực hiện vai
trò là động lực thúc đẩy sự phát triển mối quan hệ ấy và đƣơng nhiên họ cúng sẽ là ngƣời đầu tiên đƣợc
hƣởng thụ những thành quả do phát triển nông nghiệp, nông thôn đem lại. Trên ý nghĩa đó, có thể nói,
trong mối quan hệ biện chứng giữa nông nghiệp, ND, nông thôn thì ND vừa là động lực trực tiếp (vì
mọi sự vận động phát triển của mối quan hệ này trƣớc hết do ngƣời ND tiến hành theo yêu cầu khách
quan của phát triển), vừa là mục tiêu của sự phát triển mối quan hệ đó. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7
Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa X (8/2008) về vấn đề “tam nông” đã khẳng định trong mối
quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, ND và nông thôn, ND là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng
NTM gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản,
phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt 6.

1.3.2. Vai trò của GCND Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
Là một lực lƣợng xã hội đông đảo, GCND Việt Nam cùng với giai cấp công nhân và đội
ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa là những lực lƣợng cơ bản của cách mạng. ND, GCND, nhƣ Nghị
quyết Trung ƣơng 7 khóa X của Đảng xác định, là chủ thể của quá trình phát triển. Vai trò đó đã
từng đƣợc thể hiện trong quá trình cách mạng giải phóng dân tộc trƣớc đây, trong các cuộc kháng
chiến bảo vệ nền độc lập tự do của tổ quốc, vì độc lập dân tộc và CNXH. Ngày nay, vai trò chủ
thể của GCND Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thể hiện:
Thứ nhất, GCND Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc biến những Chủ trƣơng, Nghị
quyết của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đi vào cuộc sống.


6

Ban Tuyên giáo Trung ƣơng (2008), Tài liệu học tập các Nghị quyết Hội nghị Trung ương bảy, Khóa X, Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 35.


12

Thứ hai, GCND Việt Nam có kinh nghiệm phong phú trong khai thác, sử dụng tiềm năng
đất đai, tài nguyên biển, rừng… một cách hợp lý, hữu ích, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Thứ ba, GCND Việt Nam trực tiếp tiếp thu, ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật
và công nghệ vào trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và xây dựng NTM.
Thứ tư, GCND Việt Nam là chủ thể tích cực, sáng tạo trong xây dựng đời sống văn hóa xã hội ở nông thôn.
Thứ năm, GCND Việt Nam là lực lƣợng cơ bản góp phần quan trọng vào xây dựng hệ thống
chính trị cơ sở vững mạnh, đảm bảo an ninh trật tự xã hội ở nông thôn.

Kết luận Chƣơng 1
GCND là một giai cấp hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân loại và có vai trò đặc biệt
quan trọng trong tiến trình phát triển của xã hội loài ngƣời. Trong lịch sử đã có nhiều tƣ tƣởng,
quan điểm khác nhau bàn về GCND nhƣng lý luận về GCND chỉ mang tính cách mạng và khoa
học từ những năm 40 của thế kỷ XIX, khi học thuyết Mác ra đời và đƣợc bổ sung, phát triển bằng
sự đóng góp của Lênin. Nếu nhƣ C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhìn thấy vai trò quan trọng của
GCND trong cách mạng vô sản, chỉ ra khả năng kết hợp giai cấp vô sản với ND là điều kiện để
giành chính quyền thì cuối thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tƣ bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa, Lênin đã trực tiếp lãnh đạo việc thực hiện liên minh công- nông trong hiện thực. Lênin đã
phát triển tƣ tƣởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về chiến lƣợc, sách lƣợc của cách mạng xã hội chủ
nghĩa, trong đó nhấn mạnh việc phát huy vai trò của GCND trên cơ sở phát triển nông nghiệp,
nông thôn, xem đây là vấn đề trọng tâm trong suốt thời kỳ xây dựng xã hội mới.
Dƣới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, với nhận thức sâu sắc về
đặc điểm của nƣớc ta đi lên CNXH từ một nền nông nghiệp lạc hậu, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn

khẳng định tầm quan trọng của nông nghiệp, ND, nông thôn. Sự đột phá đầu tiên về chính sách của
Đảng trong thời kỳ đổi mới cũng đƣợc khởi đầu từ lĩnh vực nông nghiệp, ND, nông thôn. Tiếp sau đó,
nhiều Nghị quyết của Đảng đã bàn tới vấn đề này, tiêu biểu là Nghị quyết Trung ƣơng 7 Khóa X về
vấn đề “tam nông”, trong đó khẳng định vai trò chủ thể của GCND trong sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp và xây dựng NTM ở Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta xác định quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam phải tập trung vào các nội dung cơ bản là phát triển
nông nghiệp toàn diện theo hƣớng hiện đại, hiệu quả, bền vững, phát huy lợi thế của nền nông nghiệp
nhiệt đới. Phát triển lâm nghiệp toàn diện, bền vững, trong đó chú trọng cả rừng sản xuất, rừng phòng
hộ và rừng đặc dụng; tăng diện tích trồng rừng và độ che phủ rừng trên cơ sở khuyến khích các thành
phần kinh tế cùng tham gia đầu tƣ. Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản đa dạng theo quy hoạch, phát
huy lợi thế từng vùng gắn với thị trƣờng; coi trọng hình thức nuôi công nghiệp, thâm canh là chủ yếu
đối với thuỷ sản nƣớc ngọt, nƣớc lợ và nƣớc mặn; gắn nuôi trồng với chế biến bảo đảm vệ sinh, an toàn
thực phẩm. Không ngừng xây dựng, phát huy vai trò của GCND, chủ thể của quá trình phát triển nông
nghiệp, nông thôn.


13

Chƣơng 2
PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA GIAI CẤP NÔNG DÂN TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH
2.1. KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ
ĐẶC ĐIỂM CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP,
NÔNG THÔN Ở TỈNH BÌNH
2.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định
Trên cơ sở phân tích các đặc điểm về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn
hóa, xã hội… luận án đã xác định những điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và phát triển
GCND ở tỉnh Bình Định, tạo cho ND Bình Định đức tính cần cù, chăm chỉ, hiếu học… là cơ sở

quan trọng để thực hiện tốt chủ trƣơng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, quá trình phát huy vai trò của GCND
trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định còn gặp nhiều khó khăn;
là một tỉnh “đất chật, ngƣời đông”, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, sản xuất nông nghiệp vẫn
còn mang nặng yếu tố truyền thống, tự cung, tự cấp, manh mún, phân tán lạc hậu. Điểm xuất
phát kinh tế của tỉnh thấp, cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn chuyển dịch chậm. Tài
nguyên khoáng sản ít, các cơ sở công nghiệp trong nông thôn chƣa nhiều, nhất là công nghiệp
chế biến. Tƣ tƣởng, tập quán canh tác tự cung, tự cấp, tính bảo thủ, trì trệ còn nặng nề trong
một bộ phận lao động ở nông thôn. Trình độ, năng lực quản lý, điều hành của một số cán b ộ cơ
sở còn hạn chế… Những khó khăn trên là rào cản của quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói
chung và quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định.

2.1.2. Đặc điểm của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định
Thực hiện chủ trƣơng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của Đảng, trong những năm
qua, nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, Chƣơng trình hành động của Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Bình
Định đã đƣợc ban hành và tổ chức thực hiện. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định đã ban hành
Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng và Nghị quyết Đại hội XVII
Đảng bộ tỉnh về đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2006 – 2010 [02];
Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 26 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về
nông nghiệp, ND, nông thôn [03]; Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của
Đảng và Nghị quyết Đại hội XVIII Đảng bộ tỉnh về Xây dựng NTM giai đoạn 2011 – 2015, tầm nhìn
2020 [03]; Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Bình Định phát hành Tài liệu tuyên truyền về xây dựng NTM của
tỉnh Bình Định giai đoạn 2011 - 2015, tầm nhìn đến 2020 [06]... Với mục tiêu nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ tỉnh Bình Định, phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân, tỉnh Bình Định đang ra sức phát huy nội lực, tranh thủ tối đa ngoại lực; khai thác có hiệu
quả tiềm năng, lợi thế của tỉnh; tích cực thu hút đầu tƣ, liên kết hợp tác với các tổ chức kinh tế trong
và ngoài nƣớc; gắn phát triển kinh tế với giải quyết tốt các vấn đề xã hội; nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trƣờng
sinh thái; tạo tiền đề đến năm 2020, Bình Định cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp. Xuất phát từ
điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Định, quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,

nông thôn ở tỉnh Bình Định có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định bắt đầu từ quá trình cơ
giới hóa trong sản xuất nông nghiệp.
Thứ hai, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định hƣớng vào thành phần
kinh tế hộ ở nông thôn.


14

Thứ ba, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định gắn với việc phát triển các
ngành nghề thủ công nghiệp và làng nghề truyền thống
2.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÕ CỦA GIAI CẤP NÔNG DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG
THÔN
2.2.1. Một số đặc điểm của GCND tỉnh Bình Định trong quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn
ND Bình Định là một bộ phận của GCND Việt Nam, có quá trình hình thành và phát
triển cùng với sự phát triển của GCND Việt Nam và mang đầy đủ những đặc điểm của GCND
Việt Nam nhƣ tinh thần yêu nƣớc, ý thức tự lực tự cƣờng, tinh thần đoàn kết gắn bó trong cộng
đồng, đức tính cần cù, chịu khó, cách ứng xử linh hoạt… Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nƣớc, đặc biệt trong sự nghiệp xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh Bình Định hiện nay,
những đặc điểm này đang tiếp tục tồn tại và phát triển, đồng thời ở GCND tỉnh Bình Định đang
hình thành một số đặc điểm sau:
Một là, GCND tỉnh Bình Định là ngƣời chủ thực tế đối với tƣ liệu sản xuất.
Hai là, GCND tỉnh Bình Định có sự khác nhau về ngành nghề và thu nhập
Ba là, tính năng động của ND Bình Định từng bƣớc đƣợc phát huy, nhu cầu dân chủ
hoá ngày càng tăng.

2.2.2. Vai trò của GCND tỉnh Bình Định trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn

Bình Định là một tỉnh nông nghiệp với đại bộ phận dân số là ND. Trong những thập kỷ
qua, đƣợc Đảng bộ tỉnh Bình Định tổ chức và rèn luyện, lực lƣợng ND Bình Định đã chiến đấu hy
sinh, lao động cần cù sáng tạo vì sự nghiệp chung giải phóng quê hƣơng, giải phóng dân tộc, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm, đã có biết bao
cán bộ, chiến sĩ, ND Bình Định đã anh dũng vƣợt qua gian khổ, hy sinh phục vụ chiến đấu, góp
phần vào mỗi chiến công trong từng trận đánh của quân và dân tỉnh Bình Định, cùng nhân dân cả
nƣớc làm nên thiên anh hùng ca bất diệt trong lịch sử dân tộc. Trong thời kỳ đổi mới, phát triển đất
nƣớc, ND Bình Định là lực lƣợng lao động cơ bản, cần cù, sáng tạo, cùng với giai cấp công nhân và
tầng lớp trí thức tỉnh Bình Định, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh
Bình Định, phấn đấu xây dựng quê hƣơng ngày càng văn minh, giàu đẹp. Trong quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn, vai trò chủ thể của GCND ở tỉnh Bình Định đang đƣợc thể hiện trên
các mặt sau:
Thứ nhất, GCND tỉnh Bình Định là ngƣời trực tiếp tham gia phát triển kinh tế, tổ chức
sản xuất, thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
Thứ hai, GCND tỉnh Bình Định tham gia đóng góp sức ngƣời, sức của, góp phần xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH
Thứ ba, GCND tỉnh Bình Định trực tiếp tiếp thu, ứng dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật để
thực hiện chủ trƣơng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp
2.3. THỰC TRẠNG PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA GIAI CẤP NÔNG DÂN TRONG
SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở TỈNH
BÌNH ĐỊNH
2.3.1. Thành tựu phát huy vai trò GCND trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn ở tỉnh Bình Định
Phát huy vai trò của GCND ở tỉnh Bình Định là động lực và là nguồn lực mạnh mẽ, trực
tiếp góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Định. Quá trình phát
huy vai trò chủ thể của ND Bình Định trong những năm qua đã đạt đƣợc những thành tựu sau:


15


Một là, cơ cấu kinh tế nông nghiệp Bình Định chuyển dịch theo hƣớng tích cực, hình thành
những vùng sản xuất tập trung chuyên canh theo hƣớng sản xuất hàng hóa
Hai là, đời sống kinh tế - xã hội của GCND tỉnh Bình Định có nhiều cải thiện, tỷ lệ
hộ nghèo giảm
Ba là, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn Bình Định phát triển ngày càng văn
minh, hiện đại, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của nông dân
Bốn là, hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn Bình Định đƣợc củng cố và tăng cƣờng, vị thế
chính trị của GCND tỉnh Bình Định ngày càng đƣợc nâng cao
2.3.2. Hạn chế trong phát huy vai trò của ND Bình Định trong sự nghiêp CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn
Bên cạnh thành tựu đạt đƣợc, luận án cũng chỉ ra những hạn chế trong việc phát huy
vai trò của GCND tỉnh Bình Định, đó là:
Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Bình Định diễn ra còn chậm, phát
triển chƣa vững chắc, chƣa theo kịp sự biến động của thị trƣờng trong và ngoài nƣớc
Thứ hai, mô hình liên kết 4 nhà ( nhà nông - nhà khoa học - nhà doanh nghiệp và nhà nƣớc)
trong sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Bình Định chƣa mang lại hiệu quả thiết thực cho ngƣời ND.
Thứ ba, trình độ dân trí và trình độ tay nghề của ND Bình Định chƣa đáp ứng yêu cầu của
quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
Thứ tư, sự phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng về kinh tế ở tỉnh Bình Định có xu hƣớng
gia tăng
2.3.3. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò GCND trong
sự nghiêp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định
Từ việc phân tích những thành tựu và hạn chế nêu trên, có thể khẳng định rằng quá
trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định đã chuyển dịch đúng hƣớng và đạt
đƣợc những kết quả quan trọng, bộ mặt NTM đang từng bƣớc đƣợc hình thành, đời sống vật chất
và tinh thần của đại bộ phận ND ngày càng đƣợc cải thiện; hệ thống chính trị ở nông thôn đƣợc
củng cố và tăng cƣờng; dân chủ cơ sở đƣợc phát huy, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
đƣợc giữ vững, nhân dân thêm tin tƣởng vào sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của sự nghiệp
CNH, HĐH.
Tuy nhiên, việc phát huy vai trò GCND trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông

thôn ở tỉnh Bình Định còn nhiều mặt yếu kém, tồn tại kéo dài, chậm khắc phục. Nền sản xuất
nông nghiệp Bình Định có mặt phát triển chƣa vững chắc, cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch
chậm; tiềm năng kinh tế biển của tỉnh Bình Định chƣa đƣợc khai thác và phát huy đúng mức; ND
Bình Định còn thiếu các điều kiện có bản nhƣ vốn, kỹ thuật, vật tƣ nông nghiệp, chế biến, thị
trƣờng… để phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Các mô hình liên kết kinh tế giữa ND với
các chủ thể khác (doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà nƣớc…) còn mang tính chất chung chung,
chƣa xác định chủ thể chính và chƣa mang lại hiệu quả thiết thực cho ND. Trình độ tay nghề của
ND Bình Định nhìn chung còn thấp, chƣa đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH, HĐH. Đời sống
một bộ phận ND Bình Định còn khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, hải đảo… Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến những hạn chế nêu trên, trong đó có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân
chủ quan:
Về nguyên nhân khách quan, trước hết là do điểm xuất phát của tỉnh Bình Định khi
tiến hành CNH, HĐH còn thấp. Ở tỉnh Bình Định ND chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu dân số, lao
động chủ yếu là làm nông nghiệp truyền thống, chủ nghĩa kinh nghiệm còn nặng nề trong ý thức
ngƣời ND, việc từ bỏ những tập quán và lối canh tác lạc hậu, năng suất thấp để thực hiện sản xuất
hàng hóa, hƣớng ra thị trƣờng, tiếp thu thành tựu khoa học - công nghệ mới… là rất khó thực


16

hiện. Thứ hai, ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới trong những năm qua. Sự bất ổn định,
những biến động bất lợi của nền kinh tế thế giới nhƣ khủng hoảng tài chính, giá xăng dầu, nguyên liệu
tăng cao, đồng đô la Mỹ biến động, giá vàng tăng giảm bất thƣờng, dẫn tới tình trạng lạm phát gíá cả
tiêu dùng, lãi suất cho vay duy trì ở mức khá cao, tình trạng thiếu điện phục vụ sản xuất… đã ảnh
hƣởng không nhỏ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng
trên địa bàn tỉnh Bình Định, nhiều doanh nghiệp phải tạm ngừng sản xuất không có thời hạn, cắt giảm
lao động, giải thể... Thứ ba, mặt trái của quá trình đô thị hóa nông thôn. Quá trình đô thị hóa nông thôn
đã ảnh hƣởng đến sự biến động về lao động do chuyển đổi ngành, nghề, di dời, giải tỏa, lao động di
chuyển đến...và tác động đến đời sống ngƣời dân. Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm là kết quả tất
yếu của nền kinh tế thị trƣờng, của quá trình CNH, HĐH. Do thiếu việc làm, một bộ phận ND phải đi

làm thuê để kiếm sống, những hoạt động này chủ yếu là lao động phổ thông, vì vậy nhiều ND chƣa
mặn mà với các lớp học nghề dài hạn, chỉ muốn học ngắn hạn…
Ngoài ra trong giai đoạn này, sản xuất nông nghiệp của tỉnh Bình Định còn bị ảnh
hƣởng bởi dịch bệnh nhƣ cúm gia cầm, lở mồm long móng ở gia súc, và nhất là diễn biến thời
tiết thất thƣờng; số cơn bão mạnh ngày càng tăng, tình hình nắng nóng, khô hạn kéo dài, lũ lụt
diễn biến khó lƣờng… ảnh hƣởng nặng nề đến hoạt động sản xuất nông nghiệp và tác động xấu
đến mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh Bình Định.
Về nguyên nhân chủ quan, trước hết do nhận thức của cán bộ và nhân dân tỉnh Bình Định
về vị trí, vai trò của nông nghiệp, ND, nông thôn còn thấp, chƣa phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh CNH,
HĐH. Hai là, công tác tổ chức, thực hiện chủ trƣơng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình
Định còn nhiều bất cập, yếu kém. Ba là, các chính sách, quy định của tỉnh Bình Định đã ban hành
trong những năm qua tuy đã có tác dụng thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển, song chƣa
đủ mạnh để khai thác hết tiềm năng nội lực cũng nhƣ ngoại lực. Bốn là, trình độ cán bộ lãnh đạo, quản
lý về nông nghiệp, nông thôn ở các xã, huyện chƣa đồng đều, trình độ chuyên môn, quản lý nhà nƣớc
còn yếu.
Để phát huy vai trò của GCND trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn ở tỉnh Bình Định hiện nay, cần phải giải quyết hàng loạt vấn đề đang đặt ra, trong đó
những vấn đề cấp bách là:
Thứ nhất, vấn đề xác định ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh Bình Định trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH nông nghiêp, nông thôn.
Xác định đúng ngành kinh tế mũi nhọn là một trong những nội dung quan trọng để có
định hƣớng phát triển kinh tế phù hợp với tiềm năng và thế mạnh của địa phƣơng.Trong các văn
bản của Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Bình Định đã xác định Công nghiệp chế biến và Công
nghiệp khai thác là hai ngành kinh tế trọng điểm của tỉnh Bình Định trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, theo chúng tôi, cùng với sự phát triển hai ngành công nghiệp chế
biến và khai thác, với tiềm năng và ƣu thế của Bình Định, Kinh tế biển có thể trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn của tỉnh từ nay đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030.
Thứ hai, giải quyết các vấn đề về vốn, khoa học - công nghệ và thị trường cho nông
nghiệp, ND, nông thôn tỉnh Bình Định trong quá trình CNH, HĐH
Đây là khó khăn lớn nhất đối với nông nghiệp, ND, nông thôn ở tỉnh Bình Định trong giai

đoạn hiện nay. Mặc dù Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Bình Định đã nổ lực thực hiện chính sách đầu tƣ
và có cơ chế huy động các nguồn vốn đầu tƣ cho nông nghiệp, ND, nông thôn nhƣng nhìn chung hiệu
quả còn thấp. Đa số ND Bình Định vẫn thiếu vốn để đầu tƣ mở rộng quy mô sản xuất hoặc chuyển đổi
sang cây trồng, vật nuôi có năng suất, giá trị cao, hay chuyển sang nghề mới. Song vốn tín dụng của
các ngân hàng thƣơng mại chủ yếu mới đến đƣợc các hộ trung bình và có kinh tế khá giả; mức vay


17

thƣờng thấp hơn nhu cầu cần vay và thƣờng là vay ngắn hạn. Nhiều hộ ND không đủ điều kiện và tài
sản thế chấp để vay tín dụng từ các ngân hàng, thời gian và thủ tục xét duyệt để đƣợc vay còn rƣờm rà,
làm mất cơ hội kinh doanh của nhiều ND. Bên cạnh đó, do trình độ dân trí, trình độ chuyên môn kỹ
thuật còn thấp nên ND tỉnh Bình Định rất khó khăn trong tiếp cận các tiến bộ của khoa học kỹ thuật và
phƣơng pháp sản xuất mới. Số đông ND tỉnh Bình Định không có khả năng tự giải quyết khâu sơ chế,
thƣơng mại, dịch vụ, thị trƣờng tiêu thụ… giúp sản phẩm của họ đến trực tiếp ngƣời tiêu dùng, hoặc
không có khả năng đàm phán, thỏa thuận về giá cả với các tổ chức trung gian tiêu thụ sản phẩm khiến
hàng nông sản của họ bị ép giá, trong khi giá đầu vào cao nên giá trị thu nhập từ sản phẩm nông nghiệp
của họ rất thấp. Vì vậy, giải quyết các vấn đề về vốn, khoa học công nghệ và thị trƣờng cho nông
nghiệp, ND, nông thôn ở tỉnh Bình Định hiện nay là rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành
bại của quá trình CNH, HĐH.
Thứ ba, vấn đề khắc phục sự phân hóa giàu nghèo, sự bất bình đẳng giữa các vùng, địa
phương trên địa bàn tỉnh Bình Định trong quá trình CNH, HĐH.
Phân hóa giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội là hệ quả không thể tránh khỏi của quá trình
CNH, HĐH. Trong những năm qua, cùng với các tỉnh, thành trên cả nƣớc, Bình Định đã triển khai
thực hiện hàng loạt chính sách khác nhau nhằm thu hẹp phân hóa giàu nghèo, khắc phục sự chênh lệch
giữa các vùng, địa phƣơng nhƣ Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng
dân tộc thiểu số và mền núi (QĐ 135/1998/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ Việt Nam); Chương
trình 134 - chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện nghèo; Đề án “Chính
sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn”… Kinh tế phát triển, mức thu
nhập và tiêu dùng của ngƣời dân Bình Định đƣợc cải thiện và nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo giảm… Tuy

nhiên, tỷ lệ hộ nghèo vẫn tập trung ở các huyện miền núi và nông thôn tỉnh Bình Định, chênh lệch về
thu nhập, bất bình đẳng về kinh tế ngày càng mở rộng, gây bất bình trong xã hội (nhƣ đã phân tích ở
mục 2.2.2.)… Vì vậy, vấn đề phân hóa giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội nếu không đƣợc giải quyết
tốt sẽ trở thành một trong những nhân tố gây mất ổn định chính trị - xã hội, ảnh hƣởng đến tiến trình
CNH, HĐH và quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Định.
Kết luận Chƣơng 2
Bình Định là một tỉnh nông nghiệp với gần 70% dân số là ND. Trong những năm
qua, dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bình Định, GCND tỉnh Bình Định đã phát huy tinh
thần yêu nƣớc, truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, cùng với giai cấp công nhân và tầng lớp
trí thức trở thành lực lƣợng cơ bản, nòng cốt, quyết định quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh Bình Định. Trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định
hiện nay, GCND tỉnh Bình Định là ngƣời trực tiếp tham gia vào quá trình tổ chức sản xuất và
phát triển kinh tế nông nghiệp; trực triếp tiếp thu, ứng dụng những thành tựu mới của khoa học
kỹ thuật để thực hiện chủ trƣơng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp; tham gia đóng góp
sức ngƣời, sức của để xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, phục vụ cho quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp và xây dựng NTM ở tỉnh Bình Định.
Xuất phát từ điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội và đặc điểm của GCND tỉnh
Bình Định, Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Bình Định đã triển khai, tổ chức thực hiện các chủ
trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về “tam nông”, về phát huy vai trò chủ thể của ND...
và bƣớc đầu đạt đƣợc một số thành tựu nhất định; vai trò của GCND tỉnh Bình Định từng bƣớc
đƣợc tăng cƣờng, an ninh chính trị đƣợc giữ vững, góp phần tác động tích cực đến sự phát triển


18

kinh tế - xã hội ở địa phƣơng, tạo tiền đề cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp và xây dựng nông thôn Bình Định ngày càng văn minh, hiện đại.
Thành tựu lớn nhất của việc phát huy vai trò GCND trong sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định là đã chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng tích cực, phổ
biến và áp dụng, nhân rộng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, hiện đại vào sản xuất nông nghiệp.

Nhiều mô hình, điển hình mới đƣợc hình thành và phát triển qua công tác nghiên cứu, khảo
nghiệm, tuyển chọn và lai tạo con giống, cây trồng có chất lƣợng tốt và phù hợp với điều kiện khí
hậu, thổ nhƣỡng của từng vùng, đƣa lại hiệu quả kinh tế cao. Các chƣơng trình, dự án chuyển đổi
mùa vụ, chƣơng trình giống lúa lai, giống cây trồng cạn, cải tạo giống bò, nạc hóa đàn lợn,
chƣơng trình giống thủy sản và cây lâm nghiệp, góp phần quan trọng tăng năng suất và chất
lƣợng cây trồng, vật nuôi, thúc đẩy tăng trƣởng của ngành nông nghiệp. Cơ sở hạ tầng nhƣ điện,
đƣờng, trƣờng, trạm và bƣu chính viễn thông ngày càng phát triển rộng khắp từ nông thôn đến
miền núi và hải đảo. Đời sống của đại bộ phận ND Bình Định từng bƣớc đƣợc nâng lên, an ninh
chính trị đƣợc giữ vững, nhu cầu dân chủ hoá ngày càng tăng… Tuy nhiên, quá trình CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định mới ở giai đoạn đầu, tiềm năng kinh tế nông nghiệp của
tỉnh Bình Định chƣa đƣợc khai thác đầy đủ và hiệu quả, quy mô còn nhỏ bé, chất lƣợng, hiệu quả
bền vững còn thấp. Sản xuất nông nghiệp tuy phát triển tƣơng đối toàn diện, song tốc độ chuyển
dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp diễn ra còn chậm chạp, chƣa rõ nét và thiếu bền vững.
Trình độ khoa học kỹ thuật của ND Bình Định nhìn chung còn thấp, chƣa đáp ứng yêu cầu của
giai đoạn mới… Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế nêu trên trong đó chủ yếu là các
nguyên nhân chủ quan nhƣ nhận thức của cán bộ và nhân dân tỉnh Bình Định về vị trí, vai trò của
nông nghiệp, ND, nông thôn còn thấp, chƣa phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH; công tác
tổ chức, thực hiện chủ trƣơng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định còn nhiều
bất cập, yếu kém; các chính sách, quy định của tỉnh Bình Định đã ban hành trong những năm qua
tuy đã có tác dụng thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển, song chƣa đủ mạnh để
khai thác hết tiềm năng nội lực cũng nhƣ ngoại lực; trình độ cán bộ lãnh đạo, quản lý về nông
nghiệp, nông thôn ở các xã, huyện chƣa đồng đều, trình độ chuyên môn, quản lý nhà nƣớc còn
yếu… Trƣớc yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình
Định, nhiều vấn đề đang đặt ra đòi hỏi tỉnh Bình Định phải có những giải pháp hữu hiệu để phát
triển sản xuất nông nghiệp theo hƣớng sản xuất hàng hóa lớn, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho ND Bình Định, đƣa ND Bình Định trở thành “chủ thể” thực sự của sự nghiệp CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn và phát triển bền vững vì mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh.
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA GIAI CẤP NÔNG DÂN

TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH
3.1. PHƢƠNG HƢỚNG PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA GIAI CẤP NÔNG DÂN
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH
Trên cơ sở phân tích các tiềm năng kinh tế, điều kiện tự nhiên, xã hội và thực trạng CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn của tỉnh Bình Định trong những năm qua; trên tinh thần Nghị quyết


19

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Định lần thứ XVIII
(2011 - 2015); Quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bình Định đến 2015, tầm nhìn đến
2020… phƣơng hƣớng phát huy vai trò của GCND ở tỉnh Bình Định đƣợc xác định là:
3.1.1. Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vấn đề “tam nông”, về vai trò chủ thể của
GCND trong sự nghiệp CNH, HĐH
Nông nghiệp, ND và nông thôn là ba vấn đề lớn mà Đảng và Nhà nƣớc đặc biệt quan
tâm, nó có vị trí chiến lƣợc trong sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Ba
lĩnh vực này có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó ND đƣợc coi là “chủ thể” của quá
trình phát triển, phát triển kinh tế là phát triển nông nghiệp, còn phát triển xã hội là phát
triển nông thôn. Đổi mới nhận thức là cơ sở để có những chủ trƣơng, chính sách đúng đắn,
phù hợp với lòng dân, phát huy dân chủ, tạo sự đồng thuận trong xã hội để thực hiện thắng
lợi sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp và xây dựng NTM ở tỉnh Bình Định theo tinh thần
của Nghị quyết trung ƣơng 7 Khóa X của Đảng.
3.1.2. Tích cực huy động các nguồn lực để giúp ND Bình Định phát triển kinh tế theo
hướng thoát khỏi đói nghèo, chuyển sang no đủ và làm giàu
Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, cải thiện đời sống ND không phải chỉ là
trách nhiệm, việc làm riêng của Đảng, Chính phủ hay của GCND, mà là trách nhiệm chung
của toàn xã hội. Vì vậy, cần tập trung nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, mọi cấp mọi ngành,
mọi thành phần kinh tế, mọi thể nhân và pháp nhân; nỗ lực của tất cả các doanh nghiệp

không phân biệt thành phần kinh tế, quy mô ngành nghề kinh doanh, n ếu có liên quan đến
ngành nông nghiệp, ngƣời ND và khu vực nông thôn thì đều phải có trách nhiệm chung tay
với Chính quyền, chung sức với ngƣời ND để giải quyết. Khuyến khích các thành phần kinh
tế tham gia đầu tƣ, nâng cao chất lƣợng các loại hình dịch vụ , du lịch, góp phần đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao đời sống của cƣ dân nông thôn. Thu hút mạnh các
nguồn vốn trong xã hội để đầu tƣ xây dựng kết cấu hạ tầng; tích cực huy động nguồn lực
trong dân và các nguồn vốn khác từ các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, kết hợp với
sử dụng hiệu quả nguồn vốn từ các chƣơng trình mục tiêu quốc gia và ngân sách địa
phƣơng.
3.1.3. Phát triển khoa học - công nghệ, nâng cao dân trí và đào tạo nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
Phát triển khoa học - công nghệ, nâng cao dân trí và đào tạo nguồn nhân lực là chủ
trƣơng lớn của Đảng và Nhà nƣớc trong Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội nói chung và
trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy đây là nội dung không thể thiếu
trong các Nghị quyết, Chỉ thị, Chƣơng trình hành động của Đảng bộ, Chính quyền các cấp ở
tỉnh Bình Định. Trong thời gian tới, cần đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ khoa
học - công nghệ vào sản xuất; ƣu tiên phát triển công nghệ sinh học, công nghệ bảo quản sau
thu hoạch và cơ giới hóa trong sản xuất. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao kiến thức
cho ND về kinh tế, về khoa học - kỹ thuật, văn hóa xã hội, pháp luật, thị trƣờng… trong đó
trọng tâm là chuyển giao khoa học - kỹ thuật nông nghiệp; trƣớc mắt cần làm thí điểm xây
dựng mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tại các vùng chuyên canh lớn, có thế mạnh
nhƣ nuôi trồng thủy sản, trồng rau, hoa, cây ăn quả, chăn nuôi bò sữa và gia súc… tại một số
địa phƣơng trong tỉnh.
3.1.4. Gắn tăng trưởng kinh tế với xóa đói giảm nghèo, với thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định
Sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định không chỉ nhằm đạt tới
mục tiêu kinh tế mà cả mục tiêu xã hội, vì vậy quá trình này vừa phải đáp ứng yêu cầu tăng


20


trƣởng kinh tế, vừa phải đảm bảo cho mọi ngƣời dân nông thôn có cơ hội phát triển năng lực,
tham gia có hiệu quả nhất vào quá trình này. Xóa đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản để bảo đảm
công bằng xã hội và tăng trƣởng kinh tế bền vững, ngƣợc lại chỉ có tăng trƣởng cao, bền vững
mới có sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho ngƣời nghèo vƣơn lên thoát khỏi đói nghèo.
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định phải hƣớng tới công nghệ cao, năng suất
cao nhƣng vẫn tạo thêm nhiều việc làm và tăng thu nhập cho ngƣời lao động; tạo nền tảng để đảm
bảo xóa đói giảm nghèo, hƣớng tới sự công bằng trong phát triển, thu hẹp khoảng cách chênh
lệch giữa các vùng miền, giữa thành thị và nông thôn, xây dựng NTM văn minh, kinh tế phát
triển, chính trị dân chủ, kết cấu hạ tầng hiện đại, môi trƣờng sinh thái cân bằng, bản sắc dân tộc
phong phú.
3.1.5. Không ngừng đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp,
nông thôn ở tỉnh Bình Định hướng vào lợi ích của ND
Với gần 70% dân số sống ở nông thôn, những vấn đề liên quan đến nông nghiệp, ND và
nông thôn luôn đƣợc tỉnh Bình Định đặt lên hàng đầu để tạo động lực cho sự phát triển bền vững.
Để thực hiện chủ trƣơng CNH, HĐH nông nghiệp, xây dựng NTM thì việc không ngừng đổi mới và
hoàn thiện các cơ chế, chính sách liên quan đến phát triển nông nghiệp, ND, nông thôn là rất quan
trọng. Vì vậy Đảng bộ, Chính quyền tỉnh Bình Định phải thƣờng xuyên đổi mới các cơ chế, chính
sách về nông nghiệp, ND, nông thôn; đảm bảo phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phƣơng, khơi
dậy và phát huy mọi nguồn lực hỗ trợ cho quá trình CNH, HĐH diễn ra một cách hiệu quả nhất và
mang lại hiệu quả cao nhất cho GCND. Trong giai đoạn hiện nay, tỉnh Bình Định cần đổi mới đồng
bộ các chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn, trƣớc mắt cần đổi mới các chính sách phát
triển kinh tế nông nghiệp nhƣ chính sách tài chính, tín dụng; chính sách đất đai; chính sách khoa học
công nghệ và khuyến nông, khuyến ngƣ; chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho ND...
phục vụ cho phát triển bền vững và CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Bình
Định.
3.2. NHÓM GIẢI PHÁP CHÍNH PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA GIAI CẤP NÔNG DÂN
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH
3.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân về ý nghĩa, mục đích, tầm quan trọng của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn;
về vai trò chủ thể của GCND trong xây dựng NTM. Thứ hai, Đảng bộ, Chính quyền cấp xã ở Bình
Định cần tổ chức tập huấn cho các ban ngành, đoàn thể xã, các thành viên của các Ban tại xã
nhận thức rõ và nắm chắc nhiệm vụ của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi thành viên về thực hiện xây
dựng NTM. Qua đó tổ chức họp dân, tuyên truyền đến ngƣời dân hiểu rõ và thông suốt vai trò,
nhiệm vụ và quyền lợi của mình trong xây dựng NTM. Thứ ba, đa dạng hóa hình thức tuyên
truyền, đổi mới nhận thức trong nhân dân về vai trò chủ thể của GCND trong xây dựng NTM.
Thứ tư, để giúp ngƣời ND hiểu rõ hơn vai trò chủ thể của mình, nội dung công tác tuyên truyền
cần tập trung làm rõ mục tiêu của chƣơng trình xây dựng NTM là vì ngƣời dân, hƣớng đến ngƣời
dân. Theo đó, công tác tuyên truyền cần tạo cho đƣợc sự đồng thuận trong nhân dân, tạo ra một
nhận thức mới cho ngƣời dân tự nguyện tham gia xây dựng NTM, trƣớc hết là vì cuộc sống của
chính bản thân họ và gia đình họ; tất cả mọi ngƣời dân đều đƣợc hƣởng và toàn xã hội đƣợc
hƣởng thành quả đó.
3.2.2. Nhóm giải pháp về công tác quy hoạch và cơ chế, chính sách
Trong điều kiện hiện nay, tỉnh Bình Định cần tập trung quy hoạch vùng cho phát triển


21

nông nghiệp bền vững; vùng nào có lợi thế về phát triển cây trồng, vật nuôi nào thì khuyến khích
vùng đó phát triển, tránh phát triển tràn lan mà không có quy hoạch. Bên cạnh đó, nhất thiết phải có
chính sách thiết lập các vùng nông nghiệp chuyên canh dựa trên lợi thế so sánh của mỗi vùng, địa
phƣơng trong tỉnh. Cùng với quy hoạch vùng, tỉnh Bình Định cần xây dựng quy hoạch phát triển
các ngành kinh tế trọng điểm. Trong giai đoạn hiện nay, cần điều tra chi tiết về điều kiện phát triển
kinh tế biển tại Bình Định, từ đó có quy hoạch tổng thể cho phát triển kinh tế biển một cách hiện
đại. Bên cạnh việc thực hiện tốt công tác quy hoạch, tỉnh Bình Định cần tiếp tục đổi mới cơ chế,
chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn hƣớng vào lợi ích của ND, trong giai đoạn hiện nay
cần tập trung vào các chính sách tài chính tín dụng, chính sách đầu tƣ, chính sách lao động và việc
làm, chính sách khuyến khích nguồn nhân lực...

3.2.3. Nhóm giải pháp về phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo
Trên cơ sở phân tích thực trạng, luận án đề xuất những giải pháp phát triển kinh tế, đẩy
mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định trên cơ sở áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật nâng cao hiệu quả sản xuất. Phát triển sản xuất hàng hóa, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hƣớng hiện đại, với cơ cấu hợp lý về cây trồng và vật nuôi để
khai thác hiệu quả lợi thế so sánh của từng vùng.
Tăng trƣởng kinh tế là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội nhƣng để đảm bảo cho
sự phát triển bền vững, tăng trƣởng kinh tế phải đi đôi với xóa đói giảm nghèo, với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội. Vì vậy bên cạnh các giải pháp phát triển kinh tế, luận án cũng đề cập đến một
số giải pháp nhằm thực hiện xóa đói giảm nghèo mà tỉnh Bình Định cần chú trọng trong quá trình
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
3.2.4. Nhóm giải pháp về phát triển khoa học - công nghệ
Phát triển khoa học - công nghệ gắn với định hƣớng và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Bình Định, tạo động lực đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH là mục tiêu đã đƣợc
đề ra trong Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Định lần thứ XVIII (7/2010). Điều này khẳng
định quyết tâm của lãnh đạo và nhân dân tỉnh Bình Định phấn đấu đến năm 2020, Bình Định
cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp. Để đẩy mạnh phát triển khoa học - công nghệ, phục vụ sự
nghiệp CNH, HĐH tỉnh Bình Định nói chung, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng,
luận án chú trọng các giải pháp nhƣ lựa chọn áp dụng công nghệ phù hợp với từng giai đoạn
phát triển, không nhập khẩu công nghệ và thiết bị đã lạc hậu; Phát triển thị trƣờng khoa học
- công nghệ, hình thành các tổ chức xúc tiến mua bán công nghệ, phát triển dịch vụ pháp lý
về sở hữu trí tuệ và các dịch vụ pháp lý khác liên quan tới mua bán công nghệ; Đổi mới cơ
cấu và phƣơng thức hoạt động của các tổ chức khoa học - công nghệ. Thực hiện chuyển các
tổ chức khoa học - công nghệ sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; Gắn
chặt nghiên cứu với đào tạo và khuyến nông, hỗ trợ cho ND, doanh nghiệp (giảm thuế, cho
vay vốn ƣu đãi, hỗ trợ chuyển giao khoa học công nghệ, hỗ trợ đào tạo cho những đơn vị áp
dụng khoa học công nghệ mới) để khuyến khích tiếp thu ứng dụng khoa học công nghệ trong
sản xuất kinh doanh; đa dạng hóa phƣơng thức chuyển giao công nghệ…
3.2.5. Nhóm giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực
Cùng với việc phát triển khoa học - công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực là nhiệm vụ quan
trọng, là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định.
Vì vậy, cùng với các giải pháp phát triển khoa học – công nghệ, luận án cùng đã đề cập đến một số giải

pháp đào tạo nguồn nhân lực nhằm phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH nhƣ tiếp tục phát triển mạng
lƣới trƣờng lớp ở các cấp học, ngành học nhằm đáp ứng nhu cầu học tập thƣờng xuyên, liên
tục, suốt đời của các tầng lớp nhân dân. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công


22

chức, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cấp xã, cán bộ quản lý nông nghiệp, nông thôn, chú trọng công tác
tuyên truyền, tƣ vấn học nghề và việc làm cho ND. Tiến hành điều tra, khảo sát nhu cầu học nghề
của lao động nông thôn trên địa bàn toàn tỉnh làm cơ sở triển khai thực hiện đề án đào tạo nghề từ
nay đến 2020 và chƣơng trình phát triển NTM ở tỉnh Bình Định. Kiện toàn tổ chức bộ máy cán
bộ Trung tâm dạy nghề và hỗ trợ ND; mua sắm trang thiết bị dạy nghề theo kế hoạch phân bổ của
UBND tỉnh Bình Định, có cơ chế giám sát, đánh giá chất lƣợng lao động nông nghiệp, nông thôn …
3.2.6. Nhóm giải pháp về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa ở nông thôn
Để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của nông thôn Việt Nam nói chung,
Bình Định nói riêng trong quá trình CNH, HĐH, luận án đã nêu lên một số giải pháp có tính định
hƣớng nhƣ Một là, phải bảo tồn văn hóa truyền thống trên nguyên tắc phát triển, vì mục tiêu phát triển;
Hai là, phát huy văn hóa truyền thống, nguồn sức mạnh nội sinh trong quá trình hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn; Ba là, giữ gìn bản sắc văn hóa làng xã trong quá trình hiện đại hóa nông thôn; Bốn
là, phát triển du lịch làng nghề - một giải pháp quan trọng giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống nông
thôn Bình Định; Năm là, tiếp biến văn hóa nhân loại, làm phong phú văn hóa truyền thống nông thôn
Bình Định… Giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc không những góp phần phát triển kinh tế
nông thôn bền vững, xây dựng ngƣời nông dân mới với trình độ khoa học tiên tiến vừa có bản lĩnh, cốt
cách con ngƣời Việt Nam, mà còn là một nhân tố quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội nông
thôn bền vững.
3.2.7. Nhóm giải pháp về phát huy dân chủ cơ sở ở nông thôn
Phát huy dân chủ cơ sở ở nông thôn là một trong những nội dung quan trọng, là động lực
của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Để phát huy dân chủ cơ sở, nâng cao vị thế chính
trị của GCND ở Bình Định,luận án đã bàn đến các giải pháp nhƣ Một là, tiếp tục tăng cƣờng hệ thống
chính trị cơ sở ở nông thôn Bình Định theo tinh thần Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 18/3/2002 của

Hội nghị Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng lần thứ 5 (khoá IX) về Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ
thống chính trị cơ sở ở xã, phường, thị trấn; Hai là, tiếp tục đổi mới, cải cách thủ tục hành chính, giảm
bớt phiền hà cho ngƣời dân và các doanh nghiệp, đẩy mạnh phân cấp và tạo điều kiện cho chính quyền
cấp xã hoạt động có hiệu quả. Ba là, thực hiện bầu cử trực tiếp ngƣời quản lý ở cấp xã, thôn bản; phân
cấp, giao quyền và phân định trách nhiệm rõ ràng cho cộng đồng xã, thôn bản trong việc quản lý các
nguồn lực, đặc biệt là tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng, hoạt động phát triển văn hóa, xã hội…
Bốn là, xây dựng hệ thống thống kê nông nghiệp hƣớng tới thu thập thông tin về nông thôn, ND, phục
vụ công tác quản lý nhà nƣớc của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Năm là, đổi mới hoạt động
của Hội ND tỉnh Bình Định theo hƣớng tiếp tục làm tốt vai trò vận động, nâng cao trình độ giác ngộ
chính trị của GCND.
Kết luận Chƣơng 3
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam hiện nay là một trong những nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của CNH, HĐH đất nƣớc. Đối với một tỉnh nông nghiệp mà ND chiếm gần 70%
dân số nhƣ Bình Định thì vấn đề nông nghiệp, ND, nông thôn càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn.
Nhận thức đƣợc điều này, trong những năm qua, Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Bình Định đã ban hành
và tổ chức thực hiện nhiều chủ trƣơng, chính sách đúng đắn, kịp thời, phát triển kinh tế nông, lâm, ngƣ
nghiệp toàn diện theo hƣớng CNH, HĐH gắn với giải quyết tốt vấn đề ND, nông thôn; phát huy đƣợc
tính tích cực, năng động, sáng tạo của GCND tỉnh Bình Định. Trên tinh thần Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Định lần thứ XVIII (2011 2015); Quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bình Định đến 2015, tầm nhìn đến


23

2020… quan điểm CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định từ nay đến năm 2020 đƣợc
xác định là: Thứ nhất, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định gắn với xây dựng
NTM và phát triển bền vững; Thứ hai, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định gắn
với phát triển các ngành kinh tế trọng điểm của tỉnh Bình Định; Thứ ba, không ngừng nâng cao vai
trò của GCND trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định. Để phát huy
vai trò của GCND tỉnh Bình Định, các phƣơng hƣớng đƣợc xác định là không ngừng nâng cao nhận
thức của toàn xã hội về vấn đề “tam nông”, về vai trò chủ thể của GCND trong sự nghiệp CNH,

HĐH. Tích cực huy động các nguồn lực để giúp ND Bình Định phát triển kinh tế theo hƣớng thoát
khỏi đói nghèo, chuyển sang no đủ và làm giàu. Phát triển khoa học - công nghệ, nâng cao dân trí và
đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Gắn
tăng trƣởng kinh tế với xóa đói giảm nghèo, với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong quá
trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định. Không ngừng đổi mới và hoàn thiện cơ
chế, chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định hƣớng vào lợi ích của ND.
Để thực hiện các phƣơng hƣớng nêu trên, hoàn thành tốt các mục tiêu mà Đảng bộ và
Chính quyền tỉnh Bình Định đã đề ra đến năm 2020; sớm đƣa Bình Định ra khỏi tình trạng phát
triển không ổn định, đạt đƣợc bƣớc chuyển biến quan trọng trong nông nghiệp, nông thôn và phát
huy vai trò chủ thể, tích cực, sáng tạo của ND Bình Định; cần thực hiện đồng bộ nhiều nhóm giải
pháp; từ các giải pháp về nhận thức; dến các giải pháp về công tác quy hoạch và cơ chế, chính
sách; các giải pháp về tổ chức phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo; phát triển khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực; và các giải pháp về phát huy dân chủ cơ sở ở nông thôn…
Các nhóm giải pháp này có mối quan hệ mật thiết với nhau và trong quá trình tổ chức thực hiện,
không nên xem nhẹ giải pháp nào, phải tiến hành một cách tích cực và đồng bộ trên tất cả các
lĩnh vực kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội. Cần căn cứ vào tình hình thực tế của từng địa
phƣơng, từng vùng trong tỉnh để triển khai và có kế hoạch thống nhất. Mục tiêu chính là thúc đẩy
sản xuất nông nghiệp Bình Định phát triển gắn với thị trƣờng, tạo cho ND Bình Định có thu nhập
và đời sống ngày càng cao, xây dựng nông thôn Bình Định ngày càng văn minh, hiện đại.
PHẦN KẾT LUẬN
Từ những kết quả nghiên cứu trên, có thể rút ra một số kết luận chủ yếu sau:
1. Vấn đề ND là một trong những vấn đề quan trọng nhất quan hệ trực tiếp tới sự thành
bại của cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh và phân tích tình hình kinh tế - xã hội của đất nƣớc để đề ra những chủ
trƣơng đúng đắn, giải quyết vấn đề ND trên lập trƣờng vô sản. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, GCND Việt Nam đã từng bƣớc trƣởng thành và phát triển. Trong bất kỳ hoàn cảnh
nào, GCND Việt Nam cũng luôn là lực lƣợng nòng cốt, đi đầu trong các phong trào cách mạng.
GCND Việt Nam là lực lƣợng chủ yếu tham gia tất cả các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
Trong đấu tranh chống kẻ thù, GCND Việt Nam đã khẳng định vị trí chủ nhân của đất nƣớc, của
dân tộc. Ngày nay, GCND Việt Nam đang tiếp tục khẳng định vai trò to lớn của mình trên mặt
trận phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.

2. Bình Định là một tỉnh nông nghiệp, với gần 70% dân số ở nông thôn là ND, chiếm
72,6% lao động toàn tỉnh. Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định chỉ thành
công khi vai trò của ND Bình Định đƣợc khơi dậy và phát huy đúng mức. Nhận thức đƣợc điều này,
trong những năm qua, Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Bình Định đã ban hành và tổ chức thực hiện
nhiều chủ trƣơng, chính sách đúng đắn, kịp thời, phát huy đƣợc tính tích cực, năng động, sáng tạo


24

của ND Bình Định. Nền kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bình Định đã và đang chuyển dịch theo hƣớng
CNH, HĐH. Nhiều vùng sản xuất tập trung chuyên canh theo hƣớng sản xuất hàng hóa đã hình
thành; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn Bình Định phát triển ngày càng văn minh, hiện
đại; đời sống kinh tế - xã hội của ND Bình Định có nhiều cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm; dân chủ cơ
sở ngày càng đƣợc phát huy, vị thế chính trị của ND Bình Định ngày càng đƣợc nâng cao…Những
thành tựu đó góp phần rất quan trọng vào sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội của địa phƣơng, tạo
tiền đề đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định.
3. Bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc, việc phát huy vai trò của ND Bình Định còn tồn
tại nhiều hạn chế nhƣ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bình Định diễn ra
còn chậm, phát triển chƣa vững chắc; trình độ dân trí, văn hóa và trình độ tay nghề của ND tỉnh
Bình Định còn thấp, liên kết kinh tế của ND theo mô hình liên kết 4 nhà chƣa mang lại hiệu quả,
chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; phân hóa giàu nghèo,
bất bình đẳng giữa các vùng, địa phƣơng trong tỉnh ngày càng gay gắt; cơ chế, chính sách phát
triển nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định thiếu đồng bộ, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
nông nghiệp, nông thôn còn yếu... Từ việc phân tích các nguyên nhân của những hạn chế nêu
trên, luận án làm rõ những vấn đề đặt ra đối với GCND trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn ở tỉnh Bình Định, đó là vấn đề phải xác định các ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh Bình
Định từ nay đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030 để định hƣớng phát triển cho phù hợp; giải quyết
các vấn đề về vốn, khoa học - công nghệ và thị trƣờng cho nông nghiệp, ND, nông thôn tỉnh Bình
Định; khắc phục sự phân hóa giàu nghèo, sự bất bình đẳng giữa giữa các vùng, địa phƣơng trên
địa bàn tỉnh Bình Định trong quá trình thực hiện CNH, HĐH.

4. Để phát huy vai trò chủ thể tích cực, sáng tạo của GCND trong sự nghiệp CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định, luận án đã nêu lên các phƣơng hƣớng nhƣ không
ngừng nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vấn đề nông nghiệp, ND, nông thôn, về vai trò của
GCND; phát triển khoa học - công nghệ, nâng cao dân trí và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; gắn tăng trƣởng kinh tế với xóa đói giảm
nghèo, với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng đổi mới và hoàn thiện cơ chế,
chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định hƣớng vào lợi ích của ND.
5. Ðể thực hiện thắng lợi các phƣơng hƣớng nêu trên, sớm đƣa Bình Định ra khỏi tình
trạng phát triển không ổn định, đạt đƣợc bƣớc chuyển biến quan trọng trong nông nghiệp, nông
thôn và phát triển bền vững; tác giả luận án cho rằng cần phải áp dụng một cách tích cực và đồng
bộ nhiều giải pháp trong đó việc nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò của GCND; hoàn
thiện cơ chế, chính sách về nông nghiệp, ND, nông thôn; phát triển khoa học - công nghệ, đào tạo
và bồi dƣỡng nguồn nhân lực, đào tạo nghề cho ND; phát triển kinh tế đi đôi với xóa đói giảm
nghèo cho ND; phát huy dân chủ cơ sở ở nông thôn Bình Định… là những giải pháp rất quan
trọng trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bình Định.
6. Vấn đề GCND với sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một vấn đề rộng
lớn và phức tạp, vì vậy mặc dù có nhiều cố gắng nhƣng luận án vẫn chƣa đi sâu nghiên cứu các
nội dung nhƣ đặc điểm và xu hƣớng biến đổi của ND Bình Định; những biến đổi của nông thôn
trong quá trình CNH, HĐH; vấn đề phân hóa giàu nghèo, chênh lệch vùng miền; vấn đề an sinh
xã hội đối với ND… Tuy nhiên, từ các kết quả nghiên cứu, tác giả hy vọng luận án sẽ góp phần
gợi mở cho những nghiên cứu sâu hơn về vấn đề có ý nghĩa hết sức to lớn này.



×