Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Dịch vụ công tác xã hội đối với người lang thang trong độ tuổi lao động, từ thực tiễn tại trung tâm bảo trợ xã hội tân hiệp, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.68 KB, 99 trang )

VIỆN HÀNG LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN NAM

DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI LANG
THANG TRONG ĐỘ TUỔI LAO ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN
TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI TÂN HIỆP,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ HẢI THANH

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu với đề tài “Dịch vụ công tác xa
hội đối với người lang thang trong độ tuổi lao động, từ thực tiễn tại Trung
tâm Bảo trợ Xa hội Tân Hiệp, Thành phố Hồ Chí Minh”, bên cạnh sự nỗ
lực của bản thân, tôi còn nhận được sự giúp đỡ, động viên nhiệt tình của Cán
bộ lãnh đạo, Nhân viên công tác xã hội tại trung tâm Trung tâm cùng các thầy,
cô và bạn bè.
Để hoàn thành nghiên cứu này, trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn
quý thầy, cô trong khoa Công tác xã hội Học viện Khoa học xã hội, các thầy,
cô giảng dạy tại học Viện xã hội Châu Á. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn


sâu sắc tới Tiến sĩ Lê Hải Thanh người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi
trong quá trình thực hiện nghiên cứu này. Bên cạnh đó, tôi xin được gửi lời
chân thành cảm ơn tới Ban giám đốc, cán bộ nhân viên và kiểm huấn viên
cũng như toàn thể Trại viên đang được nuôi dưỡng tại Trung tâm bảo trợ xã
hội Tân Hiệp đã giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Vì thời gian và kinh nghiệm còn hạn chế nên nghiên cứu này không
tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong sự góp ý của các thầy, cô, các
bạn cùng lớp và những người quan tâm đến nghiên cứu này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn “Dịch vụ công tác xa hội đối với
người lang thang trong độ tuổi lao động, từ thực tiễn tại Trung tâm Bảo trợ
Xa hội Tân Hiệp thành phố Hồ Chí Minh” là công trình ngiên cứu của cá
nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê Hải Thanh.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn
này là trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình, tác giả của luận văn
Nguyễn Văn Nam.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1
1.Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài..........................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................6
3.1. Mục đích nghiên cứu.............................................................................6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................6

4.1 Đối tượng nghiên cứu.............................................................................6
4.2. Khách thể nghiên cứu............................................................................6
4.3. Phạm vi nghiên cứu...............................................................................7

4.3.1. Phạm vi nội dung:..........................................................7
4.3.2. Phạm vi khách thê..........................................................7
4.3.3. Phạm vi không gian:.......................................................7
4.3.4. Phạm vi thời gian:..........................................................7
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu............................................7
5.1. Phương pháp luận..................................................................................7
5.2. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................8

5.2.1. Phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu:.....................8
5.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu..........................................8
5.2.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.............................8
5.2.4. Phương pháp quan sát...................................................9
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.....................................................9
6.1. Ý nghĩa lý luận......................................................................................9
6.2. Ý nghĩa thực tiễn.................................................................................10
7. Kết cấu của luận văn...................................................................................10
Chương 1...........................................................................................................12
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI LANG THANG TRONG ĐỘ TUỔI LAO ĐỘNG...........................12
1.1 Lý luận về người lang thang trong độ tuổi lao động.................................12
1.1.1 Khái niệm vô gia cư...........................................................................12
1.1.2. Khái niệm về người lang thang xin ăn..............................................12


1.1.3. Khái niệm về người xin ăn không có nơi cư trú nhất định, người sinh
sống nơi công cộng không có nơi cư trú nhất định:..........................12

1.1.4. Khái niệm tuổi lao động...................................................................13
1.1.5. Khái niệm về người lang thang trong độ tuổi lao động.....................13
1.1.6. Khái niệm dịch vụ, dịch vụ xã hội, dịch vụ công tác xã hội..............13
1.1.7. Đặc điểm của người lang thang trong độ tuổi lao động....................16
1.2. Lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với người lang thang trong độ tuổi
lao động..........................................................................................................19
1.2.1. Cơ sở lý luận.....................................................................................19
1.2.2. Nhu cầu Công tác xã hội đối với người lang thang trong độ tuổi lao
động..................................................................................................21
1.2.3. Nội dung dịch vụ công tác xã hội đối với người lang thang.............23
1.2.4.Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc cung cấp dịch vụ đối
với người lang thang trong độ tuổi lao động.....................................27
1.3. Các yếu tố tác động đến dịch vụ công tác xã hội đối với người lang thang
trong độ tuổi lao động.....................................................................................29
1.3.1. Kinh tế xã hội...................................................................................29
1.3.2. Chính sách và cơ chế về dịch vụ Công tác xã hội.............................29
1.3.3. Trình độ chuyên môn của đội ngũ Nhân viên công tác xã hội..........30
1.4. Cơ sở pháp lý của dịch vụ công tác xã hội đối với người lang thang.......32
Chương 2...........................................................................................................34
THỰC TRẠNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI LANG
THANG TRONG ĐỘ TUỔI LAO ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM
BẢO TRỢ XÃ HỘI TÂN HIỆP.......................................................................34
2.1 Tổng quan về địa bàn và khách thể nghiên cứu........................................34
2.1.1 Khái quát về tình hình người vô gia cư, lang thang xin ăn, người sinh
sống nơi công cộng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh...............34
2.1.2 Khái quát tình hình hoạt động của Trung tâm BTXH Tân Hiệp........36

2.1.2.1. Đặc điêm vị trí địa lí của Trung tâm Bảo trợ Xã hội Tân
Hiệp........................................................................................36
2.1.2.2 Sự hình thành và phát triên, chức năng và nhiệm vụ,

quyền hạn của Trung tâm.......................................................36
2.1.2.3 Chức năng và nhiệm vụ của Trung tâm.....................37
2.1.2.4. Quyền hạn của Trung tâm.........................................37
2.1.2.5. Cơ cấu tổ chức và sơ đồ tổ chức của Trung Tâm BTXH
Tân Hiệp.................................................................................39


2.1.2.6 Sơ đồ bộ máy tổ chức của Trung tâm.........................40
2.1.2.7. Về chức năng, nhiệm vụ của từng phòng ban..........41
2.1.2.8 Trình tự thủ tục tiếp nhận học viên vào Trung tâm
( thực hiện theo quy trình tiếp nhận trại viên vào Trung tâm
ngày 01/12/2014 và quy trình sửa đổi bổ sung năm 2016).. .43
2.1.2.9 tự thủ tục hồi gia thăm gặp học viên của thân nhân
trại viên..................................................................................44
2.1.2.10 Các quy định khi có thân nhân trại viên đến thăm và
thủ tục quản lý tư trang, tiền và tài sản có giá trị khác của đối
tượng......................................................................................45
2.1.3. Khái quát về người LTTĐTLĐ và thực trạng cung cấp dịch vụ CTXH
đối với NLLTĐTLĐ tại Trung tâm Bảo Trợ Xã Hội Tân Hiệp.........46

2.1.3.1. Khái quát người lang thang trong độ tuổi lao động tại
Trung tâm...............................................................................46
2.1.3.2. Thực trạng đội ngũ nhân viên công tác xã hội..........49
2.1.3.3. Thực trạng cung cấp các dịch vụ CTXH cho người
LTTĐTLĐ động tại Trung tâm và kết quả trong quá trình
nghiên cứu..............................................................................50
2.2 Kết quả việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với Người lang thang
trong độ tuổi lao động tại Trung tâm.................................................62
2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với
NLTTĐTLĐ từ thực tiễn Trung tâm Bảo Trợ Xã Hội Tân Hiệp.......63

Chương 3...........................................................................................................64
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI LANG
THANG TRONG ĐỘ TUỔI LAO ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM
BẢO TRỢ XÃ HỘI TÂN HIỆP–THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.................64
3.1 Định hướng phát triển...............................................................................65
3.1.1 Định hướng phát triển nghề công tác xã hội......................................65
3.1.2 Định hướng đa dạng hoá các dịch vụ công tác xã hội........................68
3.1.3 Định hướng nâng cao chất lượng dịch vụ đối với người lang thang
trong độ tuổi lao động.......................................................................68
3.1.4 Định hướng xã hội hóa dịch vụ công tác xã hội.................................69


3.2 Giải pháp nâng cao nâng cao nhận thức và hiệu quả cung cấp dịch vụ công
tác xã hội đối với người lang thang trong độ tuổi lao động từ thực tiễn Trung
tâm bảo trợ xã hội Tân Hiệp...........................................................................70
3.2.1 Các giải pháp thuộc về Nhà nước, cộng đồng và xã hội....................70
3.2.2Giải pháp thuộc Trung tâm Bảo trợ Xã hội Tân Hiệp.........................72

3.2.2.1 Giải pháp nâng cao nhận thức với nghề ...................72
3.2.2.2 Giải pháp nâng cao vai trò, trình độ chuyên môn của
nhân viên công tác xã hội......................................................72
3.2.2.3 Giải pháp nâng cao chất lượng các dịch vụ tại Trung
tâm.........................................................................................73
3.3. Khuyến nghị............................................................................................74
3.3.1. Đối với nhà nước và xã hội...............................................................74
3.3.2. Đối với Trung tâm BTXH Tân Hiệp.................................................75
KẾT LUẬN........................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................78
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASXH

An sinh xã hội

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

Bộ LĐ-TB-XH

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

CTXH

Công tác xã hội

LTTĐTLĐ

lang thang trong độ tuổi lao động.



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 40 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, chúng ta đã đạt
được những thành tựu to lớn về kinh tế, văn hóa, xã hội. Đời sống vật chất, tinh

thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Từ năm 2008 chúng ta đã đạt mức thu nhập
bình quân đầu người trên 1.000 đô la, vượt qua ngưỡng nước nghèo chậm phát
triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Tỷ lệ các hộ nghèo
giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 8% năm 2014. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn
Quốc gia về xoá nạn mù chữ. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ.
Phúc lợi và an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở rộng. Vấn đề tạo điều
kiện ưu đãi về tín dụng, đào tạo nghề, phát triển sản xuất, xoá đói giảm nghèo cho
đối tượng chính sách được quan tâm. Công tác giải quyết việc làm và xóa đói, giảm
nghèo đạt kết quả tốt; sự nghiệp giáo dục từng bước phát triển mới về quy mô, đa
dạng hoá về loại hình trường lớp; khoa học công nghệ và tiềm lực khoa học - công
nghệ có bước phát triển nhất định; công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có tiến
bộ...vv. Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta vẫn còn một số mặt hạn chế
như do ảnh hưởng của chiến tranh, ảnh hưởng do thiên tai và mặt tiêu cực của cơ
chế thị trường và hội nhập quốc tế...vv dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, một bộ
phận không còn nhà cửa, đất đai, tài sản, một bộ phận do các vấn đề bệnh lý, tâm lý
và một số khác thanh niên ăn chơi đua đòi, chay lười lao động dẫn đến tình trạng
xuất hiện ngày càng nhiều người lang thang, người xin ăn, sinh sống nơi công cộng.
Họ là những người già không nơi nương tựa sống lang thang, xin ăn; họ là người
trong độ tuổi lao động sống lang thang không giấy tờ tùy thân, những trẻ em đường
phố và những người tâm thần không biết nhà cửa, gia đình của mình ở đâu...vv. Đó
là những hệ lụy của xã hội làm mất đi thuần phong mỹ tục của người Việt và làm
mất đi hình ảnh một đất nước Việt Nam với những con người cần cù, chịu khó, thân
thiện trong mắt bạn bè Quốc tế. Cho nên chúng ta cần có cái nhìn tổng thể, sâu sắc
để giải quyết các vấn đề trên.
Hiện nay, chúng ta chưa có được số liệu thống kê chính xác về số lượng người
lang thang sinh sống nơi công cộng trong cả nước. Vì trên thực tế, số lượng người
lang thang ngày một tăng và tăng giảm theo mùa vụ, không đồng đều ở các địa
phương.
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội và du lịch lớn
nhất cả nước. Bên cạnh đó tình trạng người lang thang, xin ăn, sinh sống nơi công

cộng, trẻ em đường phố hiện là vấn đề bức xúc của không những nhà quản lý,

1


người dân thành phố mà còn là vấn đề khó chịu cho các du khách nước ngoài đến
làm ăn, tham quan du lịch...vv.
Theo số liệu báo cáo của Sở Lao động Thương binh và xã hội Thành phố Hồ
Chí Minh từ năm 2012 đến 2016, số người lang thang, xin ăn, sinh sống nơi công
cộng được nuôi dưỡng tại các Trung tâm BTXH thuộc sở này qua các năm có giảm,
nhưng số lượng giảm không nhiều. Cụ thể, năm 2012 các đơn vị BTXH của Sở
chăm sóc quản lý 6844 người, trong đó người trong độ tuổi lao động 1351 người;
năm 2013 quản lý 6889 người, trong độ tuổi lao động 1365 người; năm 2014 quản
lý 6768 người, trong độ tuổi lao động 1169 người; năm 2015 quản lý 6623 người,
trong độ tuổi lao động 1357 người. Từ đầu năm 2016 đến nay, Sở Lao động Thương
binh và Xã hội thành phố đã tiếp nhận 1.879 đối tượng và chuyển đến các Trung
tâm Bảo trợ xã hội 1.272 trường hợp, giải quyết hồi gia hòa nhập cộng đồng tại
Trung tâm hỗ trợ xã hội 763 trường hợp, các đối tượng còn lại sẽ chuyển đến các
Trung tâm BTXH trực thuộc Sở để tiếp tục xác minh địa chỉ. Sau 3 tháng, những
người có địa chỉ thường trú, tạm trú, gia đình bảo lãnh sẽ được hòa nhập cộng đồng,
những ai không xác minh được nơi cư trú sẽ được hỗ trợ học văn hóa, học nghề và
giới thiệu việc làm để ổn định cuộc sống. Theo đó, trong năm 2016 đã có hơn 400
người được học nghề với các nghề như: xây dựng, chăm sóc cây kiểng, cắt tóc, may
dân dụng, sửa máy tính…Đã có hơn 400 người được học văn hóa với các lớp xóa
mù, cấp I, cấp II, trung cấp, cao đẳng, đại học và có 48 người được doanh nghiệp
nhận vào làm công nhân để ổn định cuộc sống. ; Đến 31/12/2016 Sở quản lý 6668
người, người trong độ tuổi lao động 1464 người.
Mặc dù Thành phố đã có nhiều nỗ lực để giải quyết tình trạng người lang
thang, ăn xin trên địa bàn nhưng công tác này vẫn còn gặp phải những khó khăn và
chưa được giải quyết triệt để, hiệu quả. Ghi nhận tại các khu vực như ngã ba Cát Lái

(quận 2), khu vực Hàng Xanh (quận Bình Thạnh), khu vực công viên 23/9 (quận 1),
khu vực ngã tư Phú Nhuận(quận Phú Nhuận)…vv, hiện vẫn còn xuất hiện những
người vừa bán vé số vừa ăn xin sinh sống tại vĩa hè, công viên..vv.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do người lang thang, ăn xin, sinh sống nơi
công cộng phân bố khắp thành phố và thường xuyên di chuyển nên khó phát hiện.
Trong quá trình xác minh, do đối tượng không nhớ hoặc không cung cấp địa chỉ cư
trú, thông tin về thân nhân, gia đình nên kết quả xác minh không chính xác, dẫn đến
kéo dài thời gian quản lý. Hiện nay, theo ghi nhận của Sở lao động thì hơn 90 %
người lang thang, người ăn xin, sinh sống nơi công cộng tại Thành phố là đến từ
các tỉnh thành khác nhau, do chưa có chính sách hỗ trợ, tạo việc làm hiệu quả cho
các đối tượng trong độ tuổi lao động cũng như chính sách hỗ trợ các gia đình khó
khăn, nên họ tìm về các Thành phố lớn để tìm việc làm, tìm kế mưu sinh. Bên cạnh
2


đó, hệ thống các trung tâm bảo trợ xã hội để tiếp nhận, chăm sóc số người lang
thang tại một số tỉnh thành chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Vì thế, một phần
không nhỏ những người đã hòa nhập cộng đồng về các địa phương, tiếp tục trở lại
Thành phố Hồ Chí Minh tái lang thang, xin ăn.
Để giải quyết tình trạng trên, cả nước nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh
nói riêng đã thực hiện giải pháp đưa người lang thang trong độ tuổi lao động vào
các Trung tâm bảo trợ xã hội nhằm cung cấp dịch vụ công tác xã hội cho đối tượng
này. Tuy nhiên, dịch vụ CTXH đối với người lang thang trong độ tuổi lao động là
một vấn đề mới, phức tạp, nó khác hẳn với người già, người bệnh tâm thần, người
nghiện ma túy... vv.
Để tìm hiểu vấn đề này và cũng là những trăn trở trong hoạt động thực tiễn
của bản thân, tôi chọn đề tài “ Dịch vụ công tác xa hội đối với người lang thang
trong độ tuổi lao động từ thực tiễn tại Trung tâm Bảo trợ Xa hội Tân Hiệp, thành
phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu, làm luận văn và trao đổi, chia sẻ với các cá
nhân, các cấp, các ngành và địa phương, Trung tâm bảo trợ xã hội, tổ chức có liên

quan trong việc xây dựng và nâng cao chất lượng dịch vụ công tác xã hội đối với
người LTTĐTLĐ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tổng quan tình hình nghiên cứu về người vô gia cư
Theo Bách khoa toàn thư đã nói về thực trạng người vô gia cư
ở các nước trên thế giới từ những buổi đầu lịch sử cho tới những năm 1800, thế kỷ
20 và thế kỷ 21 cụ thể:
Từ những buổi đầu lịch sử cho tới những năm 1800, sau cuộc nổi dậy nông
dân, những chỉ huy Anh được cho phép theo một điều luật năm 1383 tập hợp những
kẻ lang thang và buộc họ phải chứng minh các phương kế sinh nhai; nếu không thể,
hình phạt sẽ là bỏ tù. Theo một đạo luật năm 1495, những người lang thang sẽ bị kết
án cùm trong ba ngày đêm; năm 1530, hình phạt đánh roi được thêm vào. Với giả
định rằng những người lang thang là nhữngngười ăn xin không giấy phép. Năm
1547, một điều luật được thông qua với đối tượng là những người lang thang bị đặt
trước những điều khoản khe khắt hơn của luật hình sự, có nghĩa là hai năm khổ sai
và đóng dấu chữ “V” như hình phạt cho lần phạm tội đầu tiên và tử hình cho lần
thứ hai. Người tới các thuộc địa Mỹ ở thế kỷ 18 là các tù phạm bị phát vãng. Một số
lượng lớn người lang thang đã bị phát vãng cùng các tội phạm thông thường. Ở thế
kỷ 16 tại Anh, nhà nước lần đầu tiên tìm cách cung cấp nơi ở cho những người lang
thang thay vì trừng phạt họ, bằng cách đưa ra những trại cải tạo để tập hợp những
người lang thang lại và dạy cho họ một nghề. Ở thế kỷ 17 và 18, các trại cải tạo

3


được thay thế bằng các nhà tế bần nhưng có mục đích giảm bớt sự lệ thuộc vào sự
giúp đỡ của nhà nước. Năm 1848 Ngài Ashley cho rằng có hơn 30,000 trẻ em
“không quần áo, bẩn thỉu, lang thang và không người bảo lãnh”, ở trong và xung
quanh London. Dù không phải nói riêng về người vô gia cư, Jacob Riis đã viết, thu
thập tài liệu, và chụp ảnh người nghèo và thiếu thốn ở các căn phòng tại Thành phố

New York hồi cuối những năm 1800. Ông cũng viết một cuốn sách nổi tiếng với
những tài liệu đó trong How the Other Half Lives năm 1890. Có thể nói vô gia cư
bắt đầu từ khó khăn kinh tế trong xã hội, làm giảm khả năng đáp ứng nhu cầu nhà ở
của cá nhân. Theo đánh giá của Ủy ban Liên Hiệp Quốc về quyền con người (năm
2005) ước tính có khoảng 100 triệu người trên toàn thế giới là người vô gia cư.
Để giải quyết tình trạng vô gia cư, hầu hết các nước tìm cách cung cấp hàng
loạt dịch vụ hỗ trợ người vô gia cư như cung cấp thức ăn, chỗ ở, quần áo... vv từ các
tổ chức chính phủ, tổ chức từ thiện, nhà thờ và các nhà tài trợ cá nhân. Nhiều tổ
chức phi lợi nhuận như Goodwill Industries cung cấp phát triển kỹ năng và cơ hội
việc làm cho những người có rào cản đối với việc làm như nhiều thành phố có bảng
hiệu và những ấn phẩm được thiết kế để cung cấp cơ hội việc làm cho những người
vô gia cư...vv.
Tại Việt Nam, theo cục thống kê, kết quả “Báo cáo điều tra lao động việc
làm” năm 2015, cung cấp các thông tin về lao động và việc làm cho người sử dụng.
Do cuộc điều tra nhằm thu thập thông tin về các hoạt động đối với những người từ
15 tuổi trở lên hiện đang sống tại Việt Nam, các chỉ tiêu về thị trường lao động nêu
trong báo cáo chủ yếu được tính cho nhóm người từ 15 tuổi trở lên. Bên cạnh đó kết
quả điều tra gồm một số chỉ tiêu chủ yếu về thất nghiệp và thiếu việc làm đối với
nhóm người trong độ tuổi lao động.
Năm 2014, Trong Luận văn tốt nghiệp của Thạc sĩ Phạm Xuân Thắng tại
trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội về đánh giá
mô hình can thiệp với trẻ em lang thang nhìn từ góc độ quản lý ca, đề tài được
nghiên cứu tại “Tổ chức trẻ em Rồng Xanh” nhằm tìm hiểu hoạt động quản lý ca
của trẻ em lang thang để đưa ra các giải pháp và kiến nghị phương pháp can thiệp
phù hợp. Công trình này cho chúng tôi cách tiếp cận quản lý ca, nhưng do đối tượng
nghiên cứu khác nhau nên chúng tôi phải tìm các mô hình cung cấp dịch vụ công
tác xã hội cho người lang thang trong độ tuổi lao động.
Trong “ Báo cáo dân số vô gia cư” năm 2015 của Vũ Thị Huyền và nhóm
tác giả ở Khoa Môi trường Đại học khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội
đã chỉ ra bức tranh tổng quát về người vô gia cư, người lang thang của thế giới và

Việt Nam. Các tác giả đã phân tích nguyên nhân, hệ quả của người lang thang, đồng

4


thời nêu các giải pháp mang tính vĩ mô để giải quyết tình trạng người vô gia cư,
người lang thang. Đây là một nghiên cứu rất có ý nghĩa, giúp cho tôi những số liệu
thống kê, một cái nhìn tổng thể về người lang thang.
Để giải quyết vấn đề người lang thang trong độ tuổi lao động, trong thời gian
qua Chính Phủ đã ban hành nhiều Nghị định, Thông tư như: Nghị định
136/2013/NĐ-CP ngày 21 /10/2013của Chính phủ về quy định chính sách trợ giúp
xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội; Quyết định 52/2012/QĐ-TTg ngày 16 /
11/2012 của Thủ tướng Chính phủ về quyết định chính sách hỗ trợ giải quyết việc
làm và đào tạo nghề cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp; Quyết định
1956/QĐ-TTg ngày 27 /11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án đào
tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020; Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày
20/4/2009 của Chính phủ về một số cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển
nhà ở cho học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo và nhà ở cho công nhân lao động tại
các khu công nghiệp tập trung, người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị; Quyết
định số 67/2009/QĐ-TTg ngày 24 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về
một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho người có thu nhập thấp tại khu vực
đô thị. Ngoài các chỉ đạo của Chính Phủ, Thành phố Hồ Chí Minh cũng ban hành
nhiều quyết định và đưa ra nhiều giải pháp đối với người lang thang sinh sống nơi
công cộng như: Quyết định số 49/2014/QĐ-UBND ngày 18-12-2014 của Ủy ban
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc quản lý người xin ăn không có nơi cư trú
nhất định, người sinh sống nơi công cộng không có nơi cư trú nhất định trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra Thành phố cũng có chủ trương như phối hợp với
các tỉnh thành trả người lang thang, xin ăn về nơi cư trú, tặng tiền cho người dân
báo tin khi phát hiện có người lang thang xin ăn qua đường dây nóng, hay chủ
trương tập trung tất cả các đối tượng lang thang, đặc biệt là những người trong độ

tuổi lao động vào Trung tâm hỗ trợ xã hội. Bằng các biện pháp như cấp cho mỗi
người 30.000đ/ngày, mở rộng, xây thêm nhà lưu trú, phân loại các đối tượng lang
thang để có các giải pháp thích hợp như như báo Tuổi trẻ số ra ngày 22/12/2004 đã
đề cập. Tuy nhiên, Đây chỉ là một chủ trương của Thành phố Hồ Chí Minh và với
những giải pháp tạm thời không mang tính bền vững.
Trong các đề tài nghiên cứu trên, các tác giả nghiên cứu ở góc độ môi trường
xã hội và về phía Nhà nước cũng đưa ra một số chính sách mang tính định hướng.
Đề tài của chúng tôi nghiên cứu việc cung cấp dịch vụ CTXH cho người lang thang
trong độ tuổi lao động trên địa bàn cụ thể, nhằm góp phần thêm góc nhìn mới về
cung cấp dịch vụ cho người lang thang trong độ tuổi lao động cũng như cung cấp
thêm các số liệu cho những ai quan tâm đến lĩnh vực nghiên cứu này.

5


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu nhằm thực hiện một số mục đích cơ bản:
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về cung cấp dịch vụ, đặc biệt là
dịch vụ CTXH cho người sống lang thang trong độ tuổi lao động tại Trung tâm
BTXH Tân Hiệp.
Nghiên cứu, phân tích, nhận xét thực trạng về việc cung cấp dịch vụ CTXH
và kết quả cung cấp dịch vụ cho người sống lang thang trong độ tuổi lao động đang
được nuôi dưỡng tại các Trung Tâm BTXH. Nghiên cứu, phát hiện các nguyên nhân
dẫn tới các hạn chế trong việc cung cấp các dịch vụ tại Tung tâm, đề xuất một số
giải pháp và đưa ra khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ CTXH
cho người sống lang thang trong độ tuổi lao động của Trung tâm cũng như của Việt
Nam trong các năm tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được những mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, luận văn tập trung

giải quyết những nhiệm vụ sau:
Nghiên cứu cơ sở lý thuyết về người vô gia cư, người lang thang trong độ
tuổi lao động và CTXH, dịch vụ CTXH, chính sách và pháp luật của Việt Nam đối
với người LTTĐTLĐ tại Trung tâm bảo trợ xã hội.
Đánh giá thực trạng hoạt động quản lý và việc cung cấp các dịch vụ đối với
người LTTĐTLĐ tại Trung tâm. Khái quát các loại hình dịch vụ tại Trung tâm
BTXH Tân Hiệp và Phân tích các loại hình dịch vụ CTXH đang được cung cấp cho
người lang thang trong độ tuổi lao động. Khái quát kết quả việc cung cấp dịch vụ và
sự hài lòng của người LTTĐTLĐ tại Trung tâm. Nghiên cứu, đánh giá các yếu tố
chủ quan, khách quan làm ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ CTXH cho người
lang thang trong độ tuổi lao động.
Đề xuất các giải pháp và đưa ra những khuyến nghị nhằm nâng cao chất
lượng cung cấp dịch vụ xã hội trợ giúp đối với người LTTĐTLĐ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là “dịch vụ công tác xã hội đối với
người sống lang thang trong độ tuổi lao động từ thực tiễn tại Trung Tâm bảo trợ xã
hội Tân Hiệp Thành phố Hồ Chí Minh”.
4.2. Khách thể nghiên cứu

6


Đề tài được triển khai nghiên cứu đối với các khách thể là người lang thang
trong độ tuổi lao động đang được nuôi dưỡng tại Trung tâm Bảo trợ xã hội Tân
Hịệp, các nhân viên xã hội và lãnh đạo Trung tâm.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
4.3.1. Phạm vi nội dung:
Nghiên cứu chỉ tập trung vào tìm hiểu về nhu cầu của người sống lang thang
trong độ tuổi lao động tại Trung tâm bảo trợ xã hội, những khó khăn và trở ngại

trong việc cung cấp dịch vụ và vai trò can thiệp của Nhân viên công tác xã hội.
Nội dung nghiên cứu của đề tài bao gồm 7 dịch vụ công tác xã hội cụ thể như
sau:
- Dịch vụ chăn sóc, nuôi dưỡng
- Dịch vụ tư vấn, tham vấn.
- Dịch vụ cung cấp thông tin, chính sách.
- Dịch vụ dạy văn hóa – dạy nghề.
- Dịch vụ giúp hoà nhập cộng đồng.
- Dịch vụ cung cấp pháp lý cá nhân ( giấy tờ tùy thân; hộ khẩu thường trú,
tạm trú).
- Dịch vụ giới thiệu việc làm.
4.3.2. Phạm vi khách thể
Đề tài tập trung nghiên cứu 100 người sống lang thang trong độ tuổi lao động
và 07 lãnh đạo, nhân viên xã hội tại Trung tâm.
4.3.3. Phạm vi không gian:
Khảo sát tại Trung Tâm bảo trợ xã hội Tân Hiệp – Thành phố Hồ Chí Minh.
4.3.4. Phạm vi thời gian:
Thời gian bắt đầu nghiên cứu từ ngày 01.10.2016 đến ngày 30.03.2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận chung là phép
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Công tác xã hội là một ngành khoa học xã
hội, có nền tảng là triết học Mác – Lênin, do đó mọi phương pháp tiếp cận vấn đề
của khoa học này đều dựa trên nền tảng là phương pháp luận khoa học cơ bản nhất.
Mọi hiện tượng, sự kiện trong đề tài đều được phân tích, nhìn nhận dưới
góc độ lịch sử, đặt trong mối tương quan, liên hệ chặt chẽ với nhau. Quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là phương pháp luận để
lý giải các hiện tượng, các vấn đề xã hội. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng cho rằng, mỗi sự vật và hiện tượng có muôn vàn mối quan hệ qua lại với các


7


sự vật hiện tượng khác, không có một sự vật hiện tượng nào trong thế giới khách
quan tồn tại riêng rẽ, tách rời.
Như vậy khi xem xét vấn đề dịch vụ công tác xã hội với người lang thang
trong độ tuổi lao động cần xem xét, chú ý đến bối cảnh xã hội, hoàn cảnh cụ thể của
từng đối tượng và nhiều yếu tố khác mà nó có liên hệ. Mặt khác, chủ nghĩa duy vật
biện chứng còn cho rằng các sự vật hiện tượng quá trình cũng như sự phản ánh của
chúng luôn biến đổi phát triển không ngừng. Vì thế phải đánh giá vấn đề dịch vụ
công tác xã hội với người lang thang trong độ tuổi lao động theo quá trình vận động
và phát triển của nó tại quốc gia Việt Nam nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu:
Nhiều tài liệu, báo cáo, giáo trình, tạp chí chuyên ngành trên tư liệu sách báo
và mạng Internet liên quan đến nhu cầu và khả năng cung cấp dịch vụ đối với người
sống lang thang trong độ tuổi lao động và các chính sách về người sống lang thang
trong độ tuổi lao động được thu thập. Các tài liệu này được tổng hợp, phân tích để
làm rõ thực trạng người lang thang trong độ tuổi lao động, chất lượng việc cung cấp
các dịch vụ cho người sống lang thang trong độ tuổi lao động dựa trên các nội dung
về chăm sóc về sức khỏe, vật chất, tinh thần, cung cấp các dịch vụ giúp đối tượng
có đủ năng lực khi hòa nhập cộng đồng. Tìm ra các hạn chế và phân tích nguyên
nhân chính của các hạn chế trong việc cung cấp các dịch vụ. Nghiên cứu các mô
hình cung cấp dịch vụ CTXH cho người lang thang trong độ tuổi lao động trên cả
nước, đồng thời phân tích những khả năng và điều kiện cần thiết để có thể tham
khảo, vận dụng thành công những kinh nghiệm, mô hình cung cấp dịch vụ cho
người lang thang trong độ tuổi lao động tại Trung Tâm.
5.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
Là phương pháp thu thập thông tin qua hỏi đáp. Người điều tra đặt câu hỏi

cho đối tượng khảo sát, sau đó ghi vào phiếu hoặc sẽ tái hiện nó vào phiếu sau khi
kết thúc cuộc phỏng vấn, hoặc người phỏng vấn ghi âm lại cuộc phỏng vấn sau đó
nghe lại và phân tích thông tin thu được. Ở đây người phỏng vấn và đối tượng khảo
sát tiếp xúc trực tiếp với nhau. Phỏng vấn sâu không nhằm đo lường tần số, tỷ lệ
hay mối liên quan giữa các biến số mà chỉ giúp góp phần xác định lại và bổ sung
thêm thông tin trong phần nghiên cứu điều tra bằng bảng hỏi. Việc chọn mẫu gồm
05 trại viên, Giám đốc Trung tâm, 1 trưởng phòng và 5 cán bộ trực tiếp quản lý trại
viên.
5.2.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

8


Tiến hành điều tra bằng bảng hỏi với 100 người trong độ tuổi lao động hiện
đang sống tại Trung tâm. Việc chọn mẫu được tiến hành theo phương pháp ngẫu
nhiên hệ thống. Rà soát lập danh sách tất cả người lang thang trong độ tuổi lao
động hiện đang sống tại Trung tâm và xếp theo thứ tự tên theo vần A,B,C. Căn cứ
theo sổ danh sách số thứ tự của Trung tâm, lấy người đầu tiên trong danh sách, bỏ 2
người kế tiếp trong danh sách và lấy 1 người tiếp theo trong danh sách cho đến khi
hết danh sách.
5.2.4. Phương pháp quan sát
Là phương pháp thu thập thông tin của nghiên cứu xã hội học thực nghiệm
thông qua các tri giác như nghe, nhìn để thu thập các thông tin từ thực tế xã hội
nhằm đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Trong đề tài, tác giả sử dụng phương pháp này nhằm thu thập, bổ sung thông
tin còn thiếu và kiểm tra đối chiếu, so sánh các thông tin từ việc quan sát để đánh
giá độ tin cậy của các thông tin thông qua việc quan sát bối cảnh sống, thái độ, thể
trạng... của người được điều tra. Cũng thông qua đó hình thành được câu trả lời đầy
đủ và có được những thông tin chính xác cho bảng hỏi cũng như bảng phỏng vấn
sâu. Cụ thể đề tài tập trung quan sát các hoạt động công tác xã hội hoặc các hoạt

động mang tính chất CTXH. Quan sát về môi trường, không gian sống của người
LTTĐTLĐ. Quan sát về thể chất, thái độ giao tiếp và trạng thái tâm lý của đối tượng
khảo sát với người điều tra, nhằm xác định xem họ có gặp phải những vấn đề khó
khăn về sức khỏe, tâm lý hay không…vv.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Với mục đích tìm hiểu thực tế để nâng cao hiệu quả trong quá trình nghiên
cứu, những thông tin thực nghiệm thu được từ thực tế sẽ đóng góp thêm vào nguồn
tham khảo cho việc phân tích và nghiên cứu lý luận của công tác xã hội ở khía cạnh
hỗ trợ các dịch vụ xã hội cho người lang thang trong độ tuổi lao động.
Vận dụng sự hiểu biết về an sinh xã hội và các chính sách xã hội, đề tài đi
sâu vào nghiên cứu, đánh giá về các dịch vụ công tác xã hội của Trung tâm Bảo trợ
Xã hội Tân Hiệp. Đó là sự ứng dụng các kiến thức, kỹ năng công tác xã hội đã lĩnh
hội được vào thực tế để làm phong phú thêm kho tàng nghiên cứu về dịch vụ công
tác xã hội.
Đồng thời dưới góc độ tiếp cận các lý thuyết công tác xã hội đặc biệt là lý
thuyết hệ thống, lý thuyết nhu cầu, lý thuyết vai trò, bằng nhiều biện pháp thu thập
và phân tích thông tin, đặc biệt là phương pháp điều tra bằng bảng hỏi và phương
pháp phỏng vấn sâu dành cho người lang thang trong độ tuổi lao động và nhân viên

9


công tác xã hội. Nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ các lý thuyết, kiến thức cũng như
phương pháp kỹ năng thực hành công tác xã hội được sử dụng trong hoạt động
chăm sóc, nuôi dưỡng, tái hòa nhập cộng đồng cho đối tượng tại Trung tâm bảo trợ
xã hội Tân Hiệp. Qua đó đánh giá mức độ và khả năng ứng dụng của các lý thuyết,
kiến thức, kỹ năng công tác xã hội trong xây dựng mô hình cung cấp dịch vụ công
tác xã hội chuyên nghiệp tại Việt Nam.Thông qua quá trình nghiên cứu, góp phần
giúp người nghiên cứu kiểm nghiệm mức độ phù hợp của các lý thuyết, phương

pháp tiếp cận và kỹ năng công tác xã hội trong hoàn cảnh cụ thể tại Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu cũng sẽ là nguồn tư liệu tham khảo cho nghiên cứu sau
này về lĩnh vực cung cấp các dịch vụ công tác xã hội cho người lang thang trong độ
tuổi lao động.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu các quy trình hoạt động công tác xã hội của Trung tâm Bảo trợ
Xã hội Tân Hiệp nơi nuôi dưỡng các đối tượng là người lang thang cơ nhỡ không
nơi nương tựa sống trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, giúp người làm công tác
xã hội có cái nhìn về các hoạt động cung cấp dịch vụ cho đối tượng tại trung tâm
trong công tác trợ giúp đối tượng yếu thế để giúp họ thấy rõ những tồn tại, hạn chế
cơ bản trong hoạt động cung cấp dịch vụ công tác xã hội. Từ đó nghiên cứu đề xuất
giải pháp xây dựng mô hình công tác xã hội chuyên nghiệp góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động của Trung tâm Bảo trợ xã hội.
Nghiên cứu cũng giúp hệ thống hóa các chính sách, hoạt động trong công tác
trợ giúp các đối tượng yếu thế. Từ đó, kiểm nghiệm sự phù hợp cũng như đánh giá
ưu và nhược điểm của các chính sách và hoạt động bảo trợ đang được áp dụng tại
các trung tâm BTXH. Thông qua sự kiểm nghiệm và đánh giá, nghiên cứu đề xuất
các kiến nghị để nâng cao hiệu quả trong công tác cung cấp các dịch vụ đối với
người lang thang trong độ tuổi lao động tại trung tâm cũng như cộng đồng.
Dưới góc độ tiếp cận của các lý thuyết, phương pháp công tác xã hội, nghiên
cứu góp phần làm thay đổi nhận thức của cán bộ nhân viên đang làm công tác xã
hội tại các cơ sở bảo trợ xã hội, cơ quan quản lý và các đối tượng. Nghiên cứu giúp
họ nhận thức đúng về hoạt động công tác xã hội chuyên nghiệp, ý thức được vai trò
của mình trong các hoạt động đó. Đó là nhân tố quyết định đảm bảo cho hoạt động
bảo trợ xã hội có tính bền vững; đối tượng yếu thế có thêm các cơ hội phục hồi, hòa
nhập cộng đồng và xã hội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được
kết cấu gồm 3 chương như sau:


10


Chương 1. Những vấn đề lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với người
lang thang trong độ tuổi lao động, khái quát về đặc điểm, vai trò và những nhu cầu
cần thiết của người lang thang trong độ tuổi lao động. Trên cơ sở đó cũng nói lên
được lý thuyết về dịch vụ CTXH và nội dung của dịch vụ CTXH để đáp ứng những
nhu cầu cơ bản của người lang thang trong độ tuổi lao động.
Chương 2. Thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với người lang thang
trong độ tuổi lao động từ thực tiễn trung tâm bảo trợ xã hội Tân Hiệp.
Khái quát về bộ máy, cơ cấu, chức năng hoạt động của Trung Tâm.
Thực trạng cung cấp dịch vụ CTXH đã và đang thực hiện tại Trung Tâm.
Kết quả của việc cung cấp dịch vụ.
Những yếu tố ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ CTXH tại Trung tâm.
Chương 3. Định hướng phát triển và giải pháp nâng cao hiệu quả cung cấp
dịch vụ công tác xã hội đối với người lang thang trong độ tuổi lao động từ thực tiễn
trung tâm bảo trợ xã hội Tân Hiệp. Đưa ra các giải pháp và khuyến nghị để thực
hiện.

11


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI LANG THANG TRONG ĐỘ TUỔI LAO ĐỘNG
1.1 Lý luận về người lang thang trong độ tuổi lao động
1.1.1 Khái niệm vô gia cư
Theo từ điển Tiếng Việt ghi lại: “lang thang” là không nơi chốn nhất định,
rày đây mai đó. Có thể coi thuật ngữ “lang thang” gần với khái niệm “vô gia cư”.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia:

Vô gia cư là điều kiện và tính chất xã hội của người không có một ngôi nhà
hay nơi trú ngụ thường xuyên bởi họ không thể chu cấp, chi trả, hay không thể duy
trì được một ngôi nhà thường xuyên, an toàn, và thích hợp, hay họ thiếu "nơi trú
ngụ cố định, thường xuyên và thích hợp vào buổi đêm" [1] Định nghĩa pháp lý hiện
tại khác biệt tuỳ theo quốc gia.[2]
Thuật ngữ vô gia cư có thể gồm những người mà nơi cư ngụ buổi tối chủ yếu
của họ là trong một nơi cư trú cho người vô gia cư, trong một định chế cung cấp nơi
trú ngụ tạm thời cho các cá nhân muốn được định chế hoá, hay trong một địa điểm
tư nhân hay công cộng không được dự định để trở thành một nơi cư ngụ thường
xuyên cho con người.[3][4]
1.1.2. Khái niệm về người lang thang xin ăn
Theo Quyết định số 104/2003/QĐ-UB ngày 27 tháng 06 năm 2003 của Ủy
ban nhân dân thành phố về quản lý người lang thang xin ăn, sinh sống nơi công
cộng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, các định nghĩa cụ thể:
- Người lang thang xin ăn : Là những người đi xin dưới bất kỳ hình thức
nào như đàn hát để xin, giả danh Tu sĩ Phật giáo để đi khất thực hoặc những hành vi
đi xin nhưng có tính đối phó khi kiểm tra như bán vé số, bán bánh, kẹo,v.v...
- Sinh sống nơi công cộng: Là hành vi của những người mà mọi sinh hoạt
hàng ngày (tắm giặt, ăn, ngủ) đều diễn ra nơi công cộng.
- Nơi công cộng : Vỉa hè, lòng-lề đường, gầm cầu, quảng trường, công viên,
vườn hoa, nơi vui chơi giải trí, nhà ga, trạm dừng xe buýt, bến xe, bến tàu, bến
cảng, chợ và những nơi công cộng khác.
1.1.3. Khái niệm về người xin ăn không có nơi cư trú nhất định, người sinh
sống nơi công cộng không có nơi cư trú nhất định:
Theo Quyết định số 49/2014/QĐ-UBND ngày 18 tháng 12 năm 2014 của
Ủy ban nhân dân Thành phố về việc quản lý người xin ăn không có nơi cư trú nhất

12



định, người sinh sống nơi công cộng không có nơi cư trú nhất định trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh, các định nghĩa cụ thể:
- Người xin ăn: là những người đi xin dưới bất kỳ hình thức nào như đàn hát
để xin, giả danh Tu sĩ Phật giáo để đi khất thực hoặc những hành vi đi xin nhưng có
tính đối phó khi kiểm tra như bán vé số, bán bánh, kẹo và các hành vi tương tự.
- Sinh sống nơi công cộng: là hành vi của những người mà mọi sinh hoạt
hàng ngày (tắm, giặt, ăn, ngủ) đều diễn ra nơi công cộng.
- Nơi công cộng: Vỉa hè, lòng - lề đường, gầm cầu, quảng trường, công viên,
vườn hoa, nơi vui chơi giải trí, nhà ga, trạm dừng xe buýt, bến xe, bến tàu, bến
cảng, chợ và những nơi công cộng khác.
- Người không có nơi cư trú nhất định là người không xác định được nơi đăng
ký hộ khẩu thường trú hoặc nơi đăng ký tạm trú và thường xuyên đi lang thang,
không có nơi ở cố định; người có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú nhưng
không sinh sống tại đó mà thường xuyên đi lang thang, không có nơi ở cố định.
1.1.4. Khái niệm tuổi lao động
Theo bộ luật lao động năm 2012 và luật người cao tuổi thì độ tuổi lao động
được được hiểu là người từ đủ 15 tuổi đến dưới 60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối
với nữ.
1.1.5. Khái niệm về người lang thang trong độ tuổi lao động
Từ những khái niệm trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm người lang thang
trong độ tuổi lao động như sau: Là người vô gia cư, không có nơi cư trú nhất định là
người không xác định được nơi đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc nơi đăng ký tạm
trú và thường xuyên đi lang thang, không có nơi ở cố định; người có nơi đăng ký hộ
khẩu thường trú hoặc tạm trú nhưng không sinh sống tại đó mà thường xuyên đi
lang thang, không có nơi ở cố định, trong độ tuổi từ 15 đến đến dưới 60 tuổi đối
với nam và 55 tuổi đối với nữ.
1.1.6. Khái niệm dịch vụ, dịch vụ xã hội, dịch vụ công tác xã hội
- Khái niệm dịch vụ:
Dịch vụ được hiểu theo nhiều cách khác nhau và gắn liền với quá trình phát
triển xã hội. Theo Đại từ điển tiếng Việt: dịch vụ là công việc phục vụ cho đông đảo

dân chúng (Nguyễn Như Ý, 1999, , NXB Văn hóa, Đại từ điển tiếng Việt). Tác giả
Trần Hậu, Đoàn Minh Huấn (2012) cho rằng dịch vụ là những hoạt động lao động
mang tính xã hội tạo ra các sản phẩm hàng hóa tồn tại dưới hình thái vô hình nhằm
thỏa mãn các nhu cầu sản xuất và đời sống của con người.

13


- Khái niệm dịch vụ xã hội
Tác giả Trần Hậu, Đoàn Minh Huấn (2012) cũng xem dịch vụ xã hội là
những dịch vụ đáp ứng nhu cầu cộng đồng, cá nhân nhằm phát triển xã hội. Nó có
vai trò đảm bảo hạnh phúc, phúc lợi và công bằng xã hội, đề cao tính nhân văn vì
con người. Đó là những hoạt động mang bản chất kinh tế-xã hội do Nhà nước, thị
trường hoặc xã hội cung ứng tùy theo tính chất thuần công, không thuần công hay
tư của từng lĩnh vực dịch vụ. Nó bao gồm các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, khoa
học, công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục thể thao và các trợ giúp xã hội khác.
Theo các tác giả, dịch vụ xã hội có đặc điểm sau:
Là loại dịch vụ nhằm mục tiêu phát triển xã hội có tính chất xã hội. Dịch vụ
xã hội tồn tại nhằm đảm bảo giá trị chuẩn mực xã hội, hỗ trợ cho các thành viên
trong xã hội phòng ngừa rủi ro, hạn chế rủi ro.
Do cơ quan Nhà nước, thị trường hoặc xã hội thực hiện.
Luôn bị điều tiết bởi giá trị đạo đức, giá trị văn hóa, nhân sinh, trách nhiệm
xã hội của Nhà nước, doanh nghiệp hoặc tư nhân.
Mọi người dân đều có quyền hưởng dịch vụ không tính việc họ đóng thuế
bao nhiêu.
Là dịch vụ thiết yếu với người dân.
Dịch vụ xã hội có loại dịch vụ công hay dịch vụ tư nhân. Nếu là dịch vụ công
thì tất cả mọi người đều có quyền được hưởng. Nếu là loại dịch vụ không thuần
công (dịch vụ tư) thì tùy thuộc vào nhu cầu và khả năng chi trả của cá nhân.
- Khái niệm dịch vụ CTXH

Dich vụ CTXH và sự chuyên nghiệp trong cung cấp dịch vụ CTXH đang là
vấn đề được quan tâm trong hoạt động nghề CTXH. Việc nghiên cứu lý luận về vấn
đề này như khái niệm, vai trò, đặc điểm của nó có thể là cơ sở cho việc nghiên cứu
thực trạng về tính chuyên nghiệp trong cung cấp dịch vụ CTXH cho người yếu thế.
Nước ta đang trong quá trình đổi mới và phát triển dựa trên nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với sự xuất hiện sự phân hóa giàu nghèo và
phân hóa sâu sắc trong xã hội. Trong khi đó, nghề công tác xã hội mới được hình
thành, chưa phát triển theo đúng tầm và ý nghĩa của nó trên tất cả các khía cạnh.
Cán bộ làm CTXH còn thiếu và chưa được đào tạo chính quy, các tổ chức cung cấp
dịch vụ xã hội ở cộng đồng còn thiếu cả về số lượng và yếu chất lượng. Điều này
ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của các chính sách xã hội và trợ giúp các đối tượng
yếu thế. Các nghiên cứu chỉ ra rằng: Nhu cầu về dịch vụ xã hội hiện nay khá lớn,
trong tương lai sẽ ngày càng lớn hơn và đòi hỏi việc cung cấp dịch vụ chuyên
nghiệp hơn, nhu cầu về dịch vụ đa dạng hơn, chuyên sâu hơn… Trong đó việc cung

14


cấp dịch vụ một cách chuyên nghiệp bởi những nhà chuyên môn là một vấn đề cần
đặt ra.
Do vậy, việc đào tạo CTXH tại các trường đại học hướng đến việc chuyên
nghiệp hóa các dịch vụ CTXH trong thực tiễn là một định hướng mang tầm vóc thời
đại và mang đến sự chuyên môn hóa và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực CTXH tại
Việt Nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đào tạo gắn với chuyên nghiệp dịch vụ
CTXH, sự chuyên nghiệp trong cung cấp các dịch vụ CTXH cho các nhóm đối
tượng yếu thế ở Việt nam có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Dịch vụ CTXH đối với các nhóm đối tượng yếu thế chính là việc cung cấp
các hoạt động mang tính chất phòng ngừa – khắc phục rủi ro và hòa nhập cộng đồng
cho các nhóm đối tượng yếu thế dựa trên các nhu cầu cơ bản của họ nhằm đảm bảo
các giá trị và chuẩn mực xã hội.

Dịch vụ CTXH góp phần thực hiện nhiều vai trò như: nâng cao chất lượng
cuộc sống cho người yếu thế; đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội; tạo nhiều cơ hội
tiếp cận dịch vụ cho người yếu thế; phát triển cơ hội cho nhà chuyên môn; tạo môi
trường gần gũi giữa các nhà hoạt động trong lĩnh vực xã hội; giữ gìn và phát huy
bản sắc tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, đồng thời xóa đi những hủ tục, thói
quen thiếu lành mạnh trong cộng đồng.
Xuất phát từ những lý luận và thực tiễn đáp ứng nhu cầu của dịch vụ CTXH,
chúng ta có thể nhận thấy dịch vụ CTXH thực hiện các vai trò sau:
Thứ nhất, với tính chất phục vụ con người thì dịch vụ CTXH đã đóng góp
khá lớn vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người, nhất là những
người yếu thế, giúp họ thay đổi cuộc sống, vượt qua khó khăn về thể chất, tinh thần
để hòa nhập cuộc sống.
Thứ hai, dịch vụ CTXH góp phần ổn định xã hội, tạo ra nhiều cơ hội như:
giáo dục, việc làm… cho các đối tượng yếu thế gặp khó khăn trong cuộc sống và
góp phần giảm đi các vấn đề để lại do nghiện ma túy, bán dâm, buôn bán, bạo lực,
giảm đi tỉ lệ nghèo đói, thất nghiệp, vô gia cư,… vv tạo ra.
Thứ ba, dịch vụ CTXH góp phần thực hiện triển khai các chính sách xã hội,
trợ giúp xã hội, chính sách CTXH đảm bảo công bằng, tiến bộ xã hội như: bình đẳng
giới, chăm sóc trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo… Việc thúc đẩy
các dịch vụ công và tư nhân trong lĩnh vực công tác xã hội đóng vai trò chủ yếu trong
việc tạo cơ hội cho người yếu thế được tiếp cận các dịch vụ xã hội khác.
Thứ tư, sự phát triển của dịch vụ CTXH được cung cấp bởi hệ thống các trung
tâm CTXH và đã tạo ra một cơ hội nghề nghiệp khá lớn cho các nhân viên CTXH,
những người có chuyên môn nghề nghiệp được đào tạo tại các cơ sở giáo dục.

15


Thứ năm, sự phát triển của dịch vụ CTXH có thể làm cho các nhóm đối
tượng, các giai tầng xã hội, các lĩnh vực dịch vụ xã hội khác “xích” lại gần nhau

hơn trong việc trợ giúp một trường hợp hay nhóm đối tượng yếu thế nào đó.
Thứ sáu, dịch vụ CTXH góp phần gìn giữ và phát huy những bản sắc văn
hóa tốt đẹp, đồng thời góp phần xóa đi những hủ tục lạc hậu, thói quen không lành
mạnh của cộng đồng cũng như nâng cao hiểu biết cho người dân thông qua các hoạt
động phát triển cộng đồng, truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng.
Tóm lại, có thể khái quát dịch vụ CTXH là việc cung cấp các dịch vụ nhằm
hướng đến việc phòng ngừa, khắc phục rủi ro, hòa nhập xã hội và phát triễn cho các
nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội.
1.1.7. Đặc điểm của người lang thang trong độ tuổi lao động
- Về sức khỏe:
Người lang thang trong độ tuổi lao động thường là những người không có
ngôi nhà thích hợp, không có chổ ở an toàn. Họ thường tá túc và sinh sống tại các
nơi công cộng, như công viên, chợ ...vv trong cảnh màn trời, chiếu đất. Hàng ngày,
họ phải bương chảy trong xã hội để tìm kiếm việc làm nuôi sống bản thân. Họ
thường ăn uống thất thường, thiếu thốn thức ăn và chất dinh dưỡng. Chính vì vậy,
việc chăm sóc sức khỏe cho bản thân, họ thường ít quan tâm, phó mặt sức khỏe cho
trời đất. Họ là những người sống lang thang vô gia cư nên cơ hội để được tiếp cận
các dịch vụ công tác xã hội rất hạn chế, đặc biệt là tiếp cận dịch vụ y tế để chăm sóc
sức khỏe, điều trị bệnh cho bản thân. Mặt khác, do họ sống trong môi trường xã hội
thiếu an toàn nên thường có nguy cơ cao bị lạm dụng , bạo lực và dễ sa vào rượu
chè, ma túy..vv. Hoàn cảnh sống và môi trường xã hội thiếu an toàn nên người lang
thang trong độ tuổi lao động thường dễ tiềm ẩn những bệnh xã hội, bệnh hiểm
nghèo như HIV, Lao, ung thư, Giang mai, tim mạch ...vv dẫn đến sức khỏe của đa
số người lang thang trong độ tuổi lao động bị suy giảm, không có được sức khỏe
như những người bình thường.
- Về tâm lý, thể chất và sinh lý:
Về tâm lý:
Người trong độ tuổi lao động thường muốn tìm đến các thành phố lớn để tìm
kiếm việc làm nuôi sống bản thân và có thể giúp đỡ phần nào cho gia đình. Vì theo
họ, tại các thành phố lớn sẽ có nhiều công việc cho họ lựa chọn và các công việc

thường có thu nhập tốt hơn. Nhưng thực tế, họ thường là những người không có tay
nghề, học vấn thấp, không có nơi ở ổn định dẫn đến không có việc làm ổn định,
không tìm được nơi ở an toàn và phải sống lang thang. Họ rất sợ tiếp xúc với cơ
quan Nhà nước, chính quyền địa phương vì trên thực tế họ là những người lang

16


thang vô gia cư, sinh sống nơi công cộng, không có đăng ký tạm trú, tạm vắng, vi
phạm vào quy định của Nhà nước. Do không có việc làm ổn định, thu nhập thấp dẫn
đến họ nghĩ mình là tầng lớp nghèo nên họ thường mặc cảm và tự kỳ thị chính
mình. Họ cũng rất sợ khi lâm bệnh nặng sẽ không có người chăm sóc, không có tiền
để chạy chữa. Họ cũng thường không có kế hoạch cho tương lai, việc tích lũy tiền
bạc để đảm bảo cho cuộc sống về già cũng không được họ quan tâm. Họ thường
làm ra được đồng nào tiêu xài đồng nấy và có suy nghĩ chuyện ngày mai thì để ngày
mai tính tiếp. Họ thường mất niềm tin trong cuộc sống, ý chí vươn lên trong cuộc
sống không cao và thường phó mặt cho số phận vì họ thường không tìm được việc
làm do bị kỳ thị không được coi là thích hợp để thuê mướn. Họ muốn có nơi ở an
toàn và việc làm ổn định để vươn lên trong cuộc sống.
- Về thể chất và sinh lý:
Họ thường xuyên thiếu thốn về thức ăn, nước uống sạch hợp vệ sinh do
không có tiền nên phải ăn thức ăn thừa của các quán hoặc mua thức ăn kém chất
lượng. Đa phần thức ăn của họ thường không đủ chất dinh dưỡng cho một người lao
động bình thường. Họ thiếu thốn cả nơi tắm giặt, vệ sinh cá nhân cũng như chổ nghỉ
ngơi đúng nghĩa. Họ cũng như bao người khác, cũng có nhu cầu về sinh lý nhưng
lại sống trong hoàn cảnh thiếu thốn, nơi sinh hoạt là nơi công cộng nên nhu cầu này
không được đáp ứng hoặc được đáp ứng nhưng lại thiếu an toàn.
- Đặc điểm về kinh tế và xa hội của người lang thang trong độ tuổi lao
động.
Từ nhiều năm qua, lượng dân ngoại tỉnh đến thành phố Hồ Chí Minh ngày

càng đông. Trong đó, số người may mắn kiếm được việc làm ổn định không nhiều.
Đa phần còn lại không có công ăn việc làm ổn định, không nơi trú ngụ, sống lang
thang nay đây mai đó…Cuộc sống khó khăn trôi nổi là thế, nhưng nhiều người nhất
định không chịu trở về quê nhà để “an cư lập nghiệp” mà lại chọn cảnh sống lang
thang tại thành phố này.
Trong số người sống lang thang, sinh sống nơi công cộng tại thành phố Hồ
Chí Minh, có cả người già, trẻ em và thanh niên ở độ tuổi lao động, họ làm đủ mọi
nghề nhưng phần đông là xin ăn, sinh sống nơi công cộng. Người lang thang trong
độ tuổi lao động, phần lớn có gia đình kinh tế khó khăn, nên phải đi kiếm việc làm
để phụ giúp gia đình. Số còn lại thường buồn chán cảnh gia đình (bố mẹ không hoà
thuận, gia đình không hạnh phú, học hành dỡ dang, không có việc làm ổn định…)
nên bỏ nhà đi lang thang. Họ không có việc làm, không có tiền gửi về nhà, nhiều
người không dám trở về quê, nên ở lại thành phố kiếm sống, đó cũng là một nguyên

17


×