Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Pháp luật về quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.16 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

VÕ THỊ MỸ HƢƠNG

PHÁP LUẬT VỀ QUỸ ĐẦU TƢCHỨNG KHOÁN Ở
VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.50

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Hà Nội 2009


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các ví dụ và trích dẫn
trong luận văn bảo đảm nguồn gốc rõ ràng,
đáng tin cậy, chính xác và trung thực. Những
kết luận khoa học nêu trong Luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất cứ công trình
khoa học nào khác.
TÁC GIẢ

VÕ THỊ MỸ HƢƠNG


DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT


QĐTCK:

Quỹ đầu tư chứng khoán

TTCK:

Thị trường chứng khoán

UBCKNN:

Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Danh mục các thuật ngữ viết tắt
Mục lục
Mở đầu
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG
KHOÁN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN
1.1

Những vấn đề chung về quỹ đầu tƣ chứng khoán

1

1.1.1 Khái niệm và phân loại quỹ đầu tư chứng khoán

1


1.1.2

Đặc điểm của quỹ đầu tư chứng khoán

8

1.1.3

Vai trò của quỹ đầu tư chứng khoán

12

1.1.4

Các nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển của

15

Quỹ đầu tư chứng khoán
1.2

Những vấn đề cơ bản về pháp luật quỹ đầu tƣ chứng

18

khoán
1.2.1

Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với tổ chức và


19

hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán
1.2.2
1.3

Yêu cầu của pháp luật về quỹ đầu tư chứng khoán

22

Pháp luật về quỹ đầu tƣ chứng khoán của một số nƣớc và

28

bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Kết luận Chương 1

37

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM
2.1

Pháp luật quỹ đầu tƣ chứng khoán trƣớc khi Luật chứng

39


khoán có hiệu lực (1998 – 2006)

2.1.1

Một số đặc điểm về nội dung của pháp luật quỹ đầu tư chứng

39

khoán giai đoạn 1998 – 2006
2.1.2

Những hạn chế pháp luật quỹ đầu tư chứng khoán giai đoạn

52

1998 – 2006
2.2

Luật chứng khoán 2006 và các văn bản hƣớng dẫn thi

56

hành – Bảo đảm pháp lý mới cho hoạt động của quỹ đầu
tƣ chứng khoán trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam
2.2.1

Tác động của sự ra đời Luật chứng khoán 2006 và các văn

56

bản hướng dẫn thi hành đối với sự phát triển quỹ đầu tư
chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam

2.2.2

Hoạt động xây dựng và một số nội dung cơ bản của pháp luật

60

về Quỹ đầu tư chứng khoán từ 2006 đến nay
2.2.3

Tình hình thực thi pháp luật quỹ đầu tư chứng khoán Việt

68

Nam từ 2006 đến nay
Kết luận Chương 3

80

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ Ý KIẾN GÓP PHẦN NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG
KHOÁN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1

Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật

81

quỹ đầu tƣ chứng khoán
3.1.1


Thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển

82

nhà đầu tư chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán
3.1.2

Xu hướng phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
với tính chất ngày càng phức tạp, chủ thể tham gia thị trường
tham gia ngày càng đông

84


3.1.3

Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thị trường chứng khoán

87

Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế và thực thi các cam
kết quốc tế về mở cửa thị trường dịch vụ chứng khoán bảo
đảm khuyến khích nhà đầu tư tổ chức tham gia thị trường
3.1.4

Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức để thị trường chứng

90

khoán Việt Nam trở thành kênh huy động vốn hữu hiệu, an

toàn, ổn định cho các doanh nghiệp và là “hàn thử biểu” cho
nền kinh tế đang trong giai đoạn hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế toàn cầu
3.1.5

Nâng cao hơn nữa vai trò của quỹ đầu tư chứng khoán trong

92

việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, trong việc nâng cao tính
minh bạch, khắc phục tình trạng đầu tư “bầy đàn” trên thị
trường chứng khoán Việt Nam
3.1.6

Chuẩn bị các điều kiện cần và đủ để cùng với các nước thành

94

viên ASEAN tiến tới thành lập một thị trường vốn ASEAN
3.1.7

Tạo đà cho thị trường phục hồi sau khủng hoảng tài chính

96

toàn cầu hiện nay
3.2

Một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả thực thi


97

pháp luật quỹ đầu tƣ chứng khoán ở Việt
3.2.1

Về phương diện lập pháp

3.2.1.1 Khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn các quy định về

97
98

công ty đầu tư chứng khoán
3.2.1.2 Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của khối 102
công ty quản lý quỹ
3.2.1.3 Cần có những nghiên cứu để bảo đảm hài hoà trong việc thực 104
thi chính sách thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt động kinh


doanh chứng khoán
3.2.1.4 Bổ sung thêm những chi tiết cần thiết, đảm bảo cho hoạt động 105
của quỹ đầu tư được an toàn và hiệu quả
3.2.2

Một số giải pháp khác

107

3.2.2.1 Nâng cao nhận thức của nhà đầu tư cá nhân về QĐTCK và 107
phương thức đầu tư qua quỹ, đây là giải pháp cần tiến hành

ngay
3.2.2.2 Tăng cường công tác giám sát các hoạt động của các QĐTCK

110

3.2.2.3 Thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán thuộc sở hữu nhà nước, 110
sau khi quỹ hoạt động ổn định, bán lại quỹ cho các nhà đầu tư
công chúng
3.2.2.4 Cho phép thành lập Quỹ đầu tư trước, sau đó chuyển sang cho 112
Công ty quản lý quỹ quản lý
3.2.2.5 Tăng cường đội ngũ chuyên gia kinh tế tài chính, tính chuyên 114
nghiệp trong hoạt động của các QĐTCK
3.2.2.6 Tăng cường công tác phổ biến về quỹ đầu tư chứng khoán cho 114
nhà đầu tư trên thị trường
Kết luận
Tài liệu tham khảo

115


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tế đã chứng minh là, khi TTCK phát triển đến một giai đoạn nhất định,
các hoạt động đầu tư cần phải được tiến hành thông qua các nhà đầu tư có tổ chức,
có kinh nghiệm để nhà đầu tư nhỏ có thể đạt được lợi nhuận cao nhất với độ rủi ro
và chi phí thấp nhất. Người thực hiện hoạt động đầu tư thay cho các nhà đầu tư
nhỏ, năng lực tài chính thấp, thiếu kỹ năng phân tích, đánh giá để đưa ra các quyết
định đầu tư, đó là các QĐTCK. Các QĐTCK chỉ có thể phát huy được vai trò của
mình trong việc ổn định, phát triển thị trường theo hướng minh bạch, an toàn khi
TTCK hoạt động theo những quy luật vốn có của nó.

Khi TTCK mới xây dựng, nhà đầu tư nước ta còn khá e dè khi đầu tư vào thị
trường, nhưng khi cảnh kiếm tiền trên TTCK quá dễ đã thôi thúc nhà đầu tư, bất kể
họ là ai lao vào kinh doanh chứng khoán. Chứng khoán vượt quá giá trị thật. Nhà
đầu tư biết nhưng họ vẫn mua. Họ chấp nhận mạo hiểm vì tin rằng trên thị trường
sẽ còn có người mua lại nó với giá cao hơn nữa. Lòng tham của con người khiến
họ hành động, bởi khi còn nhìn thấy cơ hội kiếm lợi, họ còn nhảy vào. Sự phát
triển theo kiểu “bong bóng” của TTCK Việt Nam trong năm 2006 có mức tăng
trưởng cao nhất khu vực Châu Á - Thái Bình Dương với 145% và đầu năm 2007
tăng thêm 46% - cao nhất trên thế giới [24] buộc các nhà hoạch định chính sách
phải suy nghĩ bảo đảm sự phát triển bền vững của thị trường, đến mức Ngân hàng
Nhà nước ban hành Quyết định 03/QĐ-NHNN về hạn chế cho vay kinh doanh
chứng khoán của các ngân hàng thương mại để tránh một cuộc khủng hoảng tài
chính như đã xảy ra ở các nước Đông Nam á những năm 1997.
Thực trạng trên kết hợp với tình trạng từ đầu năm 2008 tới nay, TTCK Việt


Nam sụt giảm tới mức đáng lo ngại, nhiều nhà đầu tư đã mất hết nguồn vốn đầu tư,
tài sản riêng do chứng khoán mất giá, hoặc có nhà đầu tư chuyển hướng sang kinh
doanh vàng hoặc đô la Mỹ càng làm cho tình trạng rối ren trên thị trường tài chính
nước ta.
Để thị trường phát triển ổn định, an toàn, nhà nước cần có các biện pháp để
khuyến khách nhà đầu tư chuyên nghiệp và các QĐTCK. Muốn làm được điều
này, cần nâng cao nhận thức của nhà đầu tư về những lợi ích thoong qua việc đầu
tư thông qua QĐTCK, các quy định pháp luật về mô hình QĐTCK, nhất là các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của nhà đầu tư để nhà đầu tư nhận thức được nếu đầu tư
qua QĐTCK học sẽ được bảo đảm rằng nguồn vốn đầu tư sẽ mang lại lợi nhuận tối
đa và sự bảo vệ của các quy định pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về QĐTCK hiện nay phần lớn mới chỉ tập trung vào các biện
pháp nhằm khuyến khích, phát triển QĐTCK trong điều kiện TTCK Việt Nam

ngày càng phát triển, như Nguyễn Lê Cường (2007) Quỹ đầu tư chứng khoán – mô
hình tổ chức và giải pháp thúc đẩy phát triển trên thị trường chứng khoán Việt
Nam, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Tài chính; Phương Hoàng Lan Hương
(2001), Hình thành và phát triển quỹ đầu tư chứng khoán và Công ty quản lý quỹ ở
Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ; Viện Hàn lâm khoa học Quốc gia
Ucraine, TS. Nguyễn Minh Đức (2006), Thị trường chứng khoán trong nền kinh tế
chuyển đổi, Nxb Tài chính, Hà Nội; Viên Thế Giang, Võ Thị Mỹ Hương (2008),
“Quỹ đầu tư chứng khoán mô hình thích hợp để nhà đầu tư nhỏ tham gia thị trường
chứng khoán”, Tạp chí Ngân hàng số 19, tháng 9/2008; Viên Thế Giang, Võ Thị
Mỹ Hương (2009), “Phát triển quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng
khoán Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 82, tháng 3/2009;
Viên Thế Giang, Võ Thị Mỹ Hương (2009), Thực trạng pháp luật quỹ đầu tư
chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng số tháng 7/2009; Võ Thị


Mỹ Hương (2009), Vài nét về pháp luật quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam, Tạp
chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 84, tháng 5/2009; Bùi Nguyên Hoàn
(2004), “Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư”, Tạp chí Chứng khoán số 10,
tháng 11/2004...
Như vậy, các nghiên cứu này phần lớn tập trung chỉ rõ mô hình tổ chức, cách
thức vận hành QĐTCK hoặc khai thác những lợi ích từ việc đầu tư thông qua
QĐTCK hoặc nghiên cứu QĐTCK song song với công ty quản lý quỹ. Trong tác
tài liệu giảng dạy tại các trường đại học hiện nay, QĐTCK được đề cập rất ít, chỉ là
những nét khái quát hay được đề cập như một chủ thể kinh doanh trên TTCK, như
Học viện Tài chính (2008), Giáo trình thị trường chứng khoán, Nxb Tài chính, Hà
Nội; TS. Đào Lê Minh (Chủ biên, 2004) Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng
khoán và thị trường chứng khoán, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; PGS NGƯT
Đinh Xuân Trình, PTS Nguyễn Thị Quy (1998), Giáo trình thị trường chứng
khoán, Nxb Giáo dục, Hà Nội... Các nghiên cứu chuyên sâu, có tính hệ thống các
quy định pháp luật về QĐTCK hiện nay hầu như chưa được đề cập nhiều.

Với những suy nghĩ trên, việc lựa chọn nội dung “Pháp luật về Quỹ đầu tư
chứng khoán ở Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học luật là có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Nội dung nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở khái quát hệ thống lý luận về QĐTCK, luận văn tập trung làm rõ
hơn những vấn đề lý luận pháp luật QĐTCK, phân tích thực trạng và đề xuất các
nhóm giải pháp sửa đổi, bổ sung những bất cập, hạn chế của pháp luật hiện hành
và đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật QĐTCK trên
thực tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Là luận văn chuyên ngành luật học, Luận văn không phân tích dưới giác độ
kinh tế mà tập trung chủ yếu vào việc đánh giá, bình luận về các quy định pháp


luật hiện hành về QĐTCK. Để làm được điều này, Luận văn tập trung xây dựng hệ
thống các vấn đề lý luận về QĐTCK, trong đó nhấn mạnh đến đặc điểm đặc thù
của QĐTCK; những vấn đề lý luận pháp luật QĐTCK trên cơ sở phân tích, so sánh
với pháp luật một số nước trên thế giới. Đồng thời Luận văn phân tích thực trạng
của pháp luật QĐTCK qua các giai đoạn phát triển nhằm chỉ ra những bất cập, hạn
chế và đề xuất phương án sửa đổi, bổ sung phù hợp với tiến trình cải cách TTCK
Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp phân tích so sánh tổng
hợp để chỉ rõ mô hình pháp lý của QĐTCK, chỉ ra những bất cập, hạn chế trong
các quy định để chỉ ra biện pháp sửa đổi, bổ sung. Ngoài các phương pháp trên, tác
giả cũng sử dụng phương pháp điều tra xã hội học để chỉ rõ những khó khăn trong
việc vận hành mô hình QĐTCK, đồng thời làm rõ nhu cầu, phương hướng xây
dựng, vận hành QĐTCK theo quy định của pháp luật hiện hành, nhất là thành lập
và vận hành mô hình công ty đầu tư chứng khoán theo quy định của Luật chứng
khoán 2006.

6. Những đóng góp mới của Luận văn
- Luận văn đã khái quát được hệ thống các vấn đề lý luận về QĐTCK, lý luận
pháp luật QĐTCK và nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của một số nước về
QĐTCK và rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam;
- Luận văn khái quát quá trình phát triển pháp luật QĐTCK Việt Nam qua các
giai đoạn, chỉ rõ những nội dung, kết quả công tác lập pháp và những bất cập trong
thực tiễn thi hành pháp luật QĐTCK làm tiền đề lý luận và thực tiễn đề xuất các
nhóm giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật QĐTCK trong giai
đoạn hội nhập kinh tế quốc tế;
- Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, Luận văn đã xây dựng cơ sở
lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật QĐTCK, đề xuất các nhóm giải


pháp pháp lập pháp và thực thi pháp luật QĐTCK trên thực tế.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
trình bày bao gồm 3 chương. Cụ thể như sau
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN VÀ
PHÁP LUẬT QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái niệm và phân loại quỹ đầu tƣ chứng khoán
1.1.1.1 Khái niệm quỹ đầu tƣ chứng khoán
Trên cơ sở khái quát sự ra đời của QĐTCK, luận văn đã chỉ ra cách tiếp cận
QĐTCK trong pháp luật của các nước và QĐTCK tại Việt Nam. QĐTCK được
luận văn tiếp cận dưới ba góc độ:
Dưới góc độ kinh tế, QĐTCK là một loại hình quỹ đầu tư trên TTCK, trong
đó lượng vốn đầu tư của quỹ được tập trung vào chứng khoán các loại như cổ
phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn
mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng

khoán.
Dưới góc độ xã hội, QĐTCK là một chủ thể tham gia đầu tư vàoTTCK thông
qua việc tập hợp những nhà đầu tư nhỏ, ít kinh nghiệm lại với nhau để cùng chung
vốn đầu tư thông qua các nhà đầu tư có kinh nghiệm, am hiểu thị trường nhằm đạt
lợi nhuận cao nhất với chi phí và độ rủi ro thấp nhất tạo nên sự ổn định và phát
triển bền vững của TTCK. Trong trường hợp thị trường có những biến động xấu
ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển, QĐTCK là sự lựa chọn tối ưu của nhà đầu
tư, vì các QĐTCK ít chịu tác động của tâm lý đám đông, tâm lý bầy đàn, nhất là ở


các thị trường mới nổi.
Dưới góc độ pháp lý, do bản chất hoạt động của mình, quỹ đầu tư chứng
khoán, được gọi tắt trong các nội dung dưới đây là các quỹ đầu tư đã trở thành một
phần quan trọng của mọi thị trường chứng khoán và các nhà đầu tư nhỏ, ít kinh
nghiệm thường dựa vào các định chế này để tham gia đầu tư trên thị trường. Vì
vậy, định nghĩa về quỹ đầu tư thường được các cơ quan pháp luật lựa chọn để thực
hiện khả năng bảo hộ tối đa cho những người đầu tư, đảm bảo sự tin tưởng hoàn
toàn của công chúng đầu tư vào thị trường chứng khoán.
Đối với Việt Nam, khái niệm QĐTCK lần đầu tiên được quy định tại Nghị
định 48/1998/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 1998 của Chính phủ về chứng khoán và
thị trường chứng khoán, Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003
của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán được ban hành thay thế
cho Nghị định 48/1998/NĐ-CP và Luật chứng khoán 2006. Luật chứng khoán quy
định, QĐTCK được hiểu là quỹ hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với mục đích
kiếm lợi nhuận từ việc đầu tư vào chứng khoán hoặc các dạng tài sản đầu tư khác,
kể cả bất động sản, trong đó nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hàng ngày đối
với việc ra quyết định đầu tư của quỹ.
Với quy định này của Luật chứng khoán, QĐTCK không chỉ là QĐTCK dạng
hợp đồng dạng tín thác đầu tư mà còn được thiết lập theo mô hình công ty – công
ty đầu tư chứng khoán. Mô hình QĐTCK dù được thiết lập dưới dạng hợp đồng

hay công ty đều có thể được thiết lập dưới dạng Quỹ đại chúng hay Quỹ thành
viên. Đây là cơ hội thuận lợi để phát triển mô hình QĐTCK trong điều kiện TTCK
nước ta đang có những bước điều chỉnh theo hướng ngày càng hiện đại và chuyên
nghiệp hơn.
1.1.1.2. Phân loại quỹ đầu tƣ chứng khoán
a) Căn cứ vào nguồn vốn huy động, QĐTCK gồm hai loại:
- Quỹ đầu tư tập thể (quỹ công chúng)


- Quỹ đầu tư cá nhân (Quỹ thành viên)
b) Căn cứ vào cấu trúc vận động vốn, QĐTCK gồm
- Quỹ đóng
- Quỹ mở
c) Căn cứ vào cơ cấu tổ chức và hoạt động của quỹ, QĐTCK gồm
- Quỹ đầu tư dạng công ty
- Quỹ đầu tư dạng hợp đồng
1.1.2. Đặc điểm của quỹ đầu tƣ chứng khoán
Một là, QĐTCK hoạt động trên cơ sở quan hệ ủy thác tài sản, theo đó, nhà
đầu tư – những người có tiền tạm thời nhàn rỗi chuyển giao tiền vốn của mình cho
các nhà đầu tư chuyên nghiệp thực hiện hoạt động đầu tư hộ mình.
Hai là, hoạt động của QĐTCK được thực hiện thông qua các công ty quản lý
quỹ.
Ba là, QĐTCK là loại quỹ đầu tư mà tỷ trọng vốn của quỹ được sử dụng chủ
yếu vào để đầu tư kinh doanh chứng khoán.
Bốn là, mô hình hoạt động của QĐTCK rất đa dạng, linh hoạt, giúp cho các
nhà đầu tư lựa chọn phù hợp với nhu cầu của mình như quỹ đại chúng, quỹ thành
viên, quỹ mở, quỹ đóng…
Năm là, QĐTCK là mô hình đáp ứng được các nhu cầu khác nhau của nhà
đầu tư
1.1.3. Vai trò của quỹ đầu tƣ chứng khoán

Thứ nhất, QĐTCK cung cấp cho các nhà đầu tư riêng lẻ, cho công chúng cơ
hội đầu tư tốt hơn để đạt được mục đích tối đa hóa lợi ích
Thứ hai, QĐTCK góp phần quan trọng vào việc huy động vốn cho đầu tư
phát triển kinh tế
Thứ ba, QĐTCK góp phần quan trọng vào sự phát triển ổn định của TTCK
1.1.4. Các nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển của Quỹ đầu


tƣ chứng khoán
Một là, Mức độ phát triển và hoàn thiện của TTCK cho phép nhà quản lý, nhà
đầu tư dễ dàng tiếp cận nhiều cơ hội đầu tư, song giống như những hoạt động kinh
doanh khác, đầu tư chứng khoán tiềm ẩn không ít rủi ro.
Hai là, nhận thức của nhà đầu tư về chứng khoán, TTCK và các phương thức
đầu tư chứng khoán.
Ba là, yêu cầu của bản thân QĐTCK cần có đội ngũ chuyên gia giỏi, giàu
kinh nghiệm tham gia thị trường để bảo đảm khả năng sinh lời, lựa chọn danh mục
đầu tư chứng khoán có hiệu quả nhất.
Bốn là, môi trường pháp lý cho tổ chức và hoạt động của QĐTCK.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT QUỸ ĐẦU TƢ
CHỨNG KHOÁN
1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với tổ chức và hoạt
động của quỹ đầu tƣ chứng khoán
- Pháp luật QĐTCK góp phần rất lớn vào việc giảm thiểu rủi ro và gia tăng lợi
ích cho các bên tham gia. Nói khác đi, pháp luật về QĐTCK góp phần rất lớn vào
việc bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư
- Pháp luật về QĐTCK hạn chế các hành vi trục lợi bất hợp pháp, hạn chế đến
mức thấp nhất các giao dịch bất lợi cho nhà đầu tư từ đó góp phần vào việc bảo vệ
nhà đầu tư
- Pháp luật QĐTCK góp phần vào việc phát triển hệ thống quản lý đầu tư
chuyên nghiệp, giảm công việc lưu giữ chứng từ và cung cấp thông tin cho cơ quan

thuế hơn đầu tư chứng khoán trực tiếp. Nói khác đi, pháp luật QĐTCK góp phần
quan trọng vào việc nâng cao tính minh bạch trên TTCK
- Đáp ứng các điều kiện của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng như việc
triển khai thực hiện các cam kết quốc tế trong điều kiện Việt Nam đã là thành viên
của tổ chức thương mại thế giới


1.2.2. Yêu cầu của pháp luật về quỹ đầu tƣ chứng khoán
Một là, bảo đảm sự bình đẳng của các nhà đầu tư khi tham gia quỹ đầu tư
chứng khoán.
Hai là, pháp luật phải ngăn chặn có hiệu quả các hành vi trục lợi của cơ quan
quản lý QĐTCK.
Ba là, pháp luật QĐTCK bảo đảm phù hợp, thống nhất hệ thống với hệ thống
pháp luật.
Bốn là, pháp luật QĐTCK phải quy định cụ thể phương thức thành lập, quản
lý và hoạt động của QĐTCK.
1.3. PHÁP LUẬT VỀ QUỸ ĐẦU CHỨNG KHOÁN MỘT SỐ NƢỚC VÀ
BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM
1.3.1. Pháp luật về quỹ đầu tƣ chứng khoán của Bungari
So với nền kinh tế thị trường non trẻ mà Bulgari đang xây dựng và hoàn thiện,
thị trường vốn của Bulgari lại hình thành từ rất sớm (đầu thế kỷ XX). Luật Chứng
khoán, lần đầu tiên được thông qua vào năm 1907 đã trực tiếp điều chỉnh tổ chức
và hoạt động của thị trường chứng khoán và các quỹ đầu tư. Ngày 15-4-1914, nhà
vua Bulgari ra Chỉ dụ số 7, cho phép thị trường chứng khoán đầu tiên ở Bulgari
chính thức mở cửa hoạt động.
Về QĐTCK, Luật chứng khoán Bulgari quy định có hai loại công ty đầu tư
chứng khoán là công ty chứng khoán dạng mở và công ty đầu tư chứng khoán dạng
đóng với trình tự thủ tục thành lập, hoạt động được quy định cụ thể chi tiết từ Điều
164 đến Điều 201. Luật chứng khoán Bulgari quy định cụ thể trình tự thành lập
công ty đầu tư chứng khoán cũng như sự khác nhau giữa công ty đầu tư chứng

khoán dạng đóng và công ty đầu tư chứng khoán dạng mở. Điều 177 Luật chứng
khoán Bulgari quy định một công ty đầu tư không được tự chuyển đổi thành kiểu
công ty khác hoặc công ty thương mại hoặc thay đổi hoạt động của công ty. Việc
chuyển đổi công ty dạng mở thành công ty đầu tư dạng đóng và ngược lại chỉ được


tiến hành dưới sự cho phép của Uỷ ban. Bất cứ việc chuyển đổi nào như sáp nhập,
mua đứt, phân chia hay chia tách, cũng như kết thúc hoạt động đối với công ty đầu
tư đều phải tiến hành với sự cho phép của Uỷ ban. Các văn bản dưới luật quy định
về các điều kiện và thủ tục tiến hành việc chuyển đổi và kết thúc hoạt động của
công ty đầu tư như đề cập ở trên. Uỷ ban sẽ chỉ định người thanh toán và uỷ thác
trông coi công ty đầu tư. Để xin phép tiến hành các hoạt động trên, cần nộp hồ sơ
theo mẫu quy định. Uỷ ban sẽ xem xét và cấp quyết định trong thời hạn 14 ngày kể
từ ngày nhận hồ sơ và trong trường hợp cần bổ sung thông tin, tài liệu, thông báo
về việc bổ sung tài liệu trong vòng 7 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ.
1.3.2. Pháp luật quỹ đầu tƣ chứng khoán của Hoa Kỳ
Hoa Kỳ mới là nơi các quỹ đầu tư phát triển mạnh mẽ nhất. Năm 1893 các
khoản quyên góp và ủng hộ tài chính xây dựng và phát triển Đại học Harvard tại
Hoa Kỳ được ghi nhận như sự xuất hiện một quỹ đầu tư. Vào ngày 21/3/1994 quỹ
tương hỗ đầu tiên chính thức được thành lập bởi ba nhà kinh doanh chứng khoán
tại Boston (Hoa Kỳ) có tên gọi Quỹ Tín thác các nhà đầu tư Massachusetts
(Massachusetts Investors Trust-MIT). Có lẽ chính những người sáng lập cũng
không thể dự báo trước tương lai phát triển phổ biến của loại hình này.
Khủng hoảng 1929 làm chậm quá trình tăng trưởng các quỹ đầu tư tương hỗ
tại Hoa Kỳ. Luật chứng khoán năm 1933 và Luật Giao dịch chứng khoán năm
1934 được ban hành nhằm khôi phục thị trường. Theo hai đạo luật này các quỹ đầu
tư phải đăng ký hoạt động với Ủy ban SEC (Securities & Exchance Comission) và
cung cấp bản báo bạch tới các nhà đầu tư tiềm năng. Tới năm 1940, SEC tiếp tục
ban hành Luật Công ty đầu tư với các chỉ dẫn pháp lý bắt buộc các quỹ đầu tư phải
tuân theo được áp dụng tới tận ngày nay.

Niềm tin được phục hồi trên thị trường chứng khoán và các quỹ tương hỗ bắt
đầu nở rộ. Tới cuối thập kỷ 60 của thế kỷ trước Hoa Kỳ có khoảng 270 quỹ với giá
trị tài sản nắm giữ ước khoảng 48 tỷ đô-la Mỹ. Năm 1976 John C. Bogle mở quỹ


đầu tư chỉ số thị trường đầu tiên có tên First Index Investment Trust. Vào tháng 11
năm 2000 đây là quỹ tương hỗ có giá trị lớn nhất trong lịch sử với 100 tỷ đô-la Mỹ
tài sản. Quỹ này ngày nay có tên gọi Vanguard 500 Index.
Quỹ đầu tƣ uỷ thác (UIT) là một dạng công ty đầu tư của Mỹ phát hành
danh mục chứng khoán cố định trong một thời gian xác định. Các quỹ đầu tư uỷ
thác được liên kết bởi nhà tài trợ và được bán cho nhà đầu tư thông qua các nhà
môi giới chứng khoán. Danh mục đầu tư của quỹ có thể bao gồm một vài loại
chứng khoán khác nhau. Hai loại chứng khoán chính mà quỹ đầu tư là uỷ thác cổ
phiếu và uỷ thác trái phiếu.
Uỷ thác đầu tư có thể được tạo ra thông qua những công ty như Regulated
Investment Coporation (RIC) hoặc Grantor Trust. RIC là một dạng công ty mà các
nhà đầu tư được tham gia như là chủ sở hữu. Grantor Trust thì ngược lại cho phép
nhà đầu tư một phần sở hữu bằng các chứng khoán cơ bản.
Từ những phân tích về pháp luật quỹ đầu tư chứng khoán một số nước nêu
trên có thể rút ra những bài học kinh nghiệm sau đây:
Một là, pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của QĐTCK là bộ phận không
thể thiếu của pháp luật về chứng khoán và TTCK các nước. Luật chứng khoán các
nước đều dành một chương riêng quy định về thành lập, tổ chức và hoạt động của
QĐTCK. Theo đó, việc hình thành và phát triển các QĐTCK cần có những bước
chuẩn bị kỹ lưỡng, đặc biệt là theo kịp sự phát triển của thị trường. Pháp luật
QĐTCK ở các nước thường ra đời sau khi QĐTCK đã được vận hành trên thực tế.
Điều này giúp cho các quy định pháp luật về QĐTCK gần hơn với thực tiễn hoạt
động, với các yêu cầu về quản lý QĐTCK. Pháp luật QĐTCK các nước là kết quả
của việc muốn thiết lập hệ thống các chủ thể tham gia thị trường ngày càng chuyên
nghiệp hơn nhằm hạn chế đến mức tối đa những rủi ro cho nhà đầu tư.

Hai là, tùy thuộc vào sự phát triển của thị trường các nước trong các giai đoạn
phát triển khác nhau, Luật chứng khoán các nước thường quy định linh hoạt trong


việc lựa chọn mô hình QĐTCK của nhà đầu tư. Mỗi mô hình QĐTCK đều có
những ưu điểm và nhược điểm khác nhau, nhưng tất cả các QĐTCK đều có một
điểm chung là chúng đều là những nhà đầu tư chuyên nghiệp.
Ba là, nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của QĐTCK các nước
là làm rõ mối quan hệ giữa công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám giám với QĐTCK
và giữa QĐTCK với nhà đầu tư (người mua chứng chỉ quỹ) vừa bảo đảm tài sản
hoạt động, vừa bảo đảm tính độc lập, tự chủ của quỹ trong hoạt động. Đây là nội
dung xuyên suốt trong các quy định pháp luật QĐTCK các nước.
Các quỹ đầu tư với quyền tự quyết đầy đủ mà khách hàng giao cho doanh
nghiệp tư vấn đầu tư chứng khoán hoặc doanh nghiệp đầu tư tín thác chứng khoán
và tài sản riêng của doanh nghiệp đó sẽ được duy trì độc lập. Các chủ nợ không
được đòi hỏi hay thực thi các quyền khác đối với quỹ do khách hàng giao cho hoặc
tài sản mua được nhờ sử dụng quỹ để thực hiện các nghĩa vụ của doanh nghiệp tư
vấn đầu tư chứng khoán hay được doanh nghiệp tín thác chứng khoán liên quan
đến tài sản riêng của mình.
Các quy định pháp luật QĐTCK nước ta cần quan tâm hơn nữa đến nội dung
này vì đây là những vấn đề có ý nghĩa quyết định đến việc bảo toàn, phát triển vốn
của nhà đầu tư. Nếu trong các quy định pháp luật thiếu vắng hoặc quy định quá sơ
sài các quy định này thì sẽ là rào cản không nhỏ đối với sự phát triển của QĐTCK
trong tương lai.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
QĐTCK là một loại hình quỹ đầu tư trên thị trường, trong đó lượng vốn đầu
tư của quỹ được tập trung đầu tư vào các loại chứng khoán. QĐTCK được thiết lập
chủ yếu trên cơ sở huy động tiền nhàn rỗi của các nhà đầu tư cá nhân. Nói khác đi,
QĐTCK phục vụ chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân, những người có tiềm lực tài
chính không đủ mạnh, thiếu kỹ năng đầu tư trên thị trường nhằm mang lại lợi ích

tối đa cho họ và giảm thiểu các rủi ro nếu họ tự mình tiến hành các hoạt động đầu


tư.
Về cơ bản, mô hình QĐTCK được thiết lập dưới dạng hợp đồng, dạng tín thác
đầu tư hoặc dưới dạng công ty. Mỗi mô hình QĐTCK có những ưu điểm, nhược
điểm khác nhau, việc lựa chọn mô hình QĐTCK dạng nào tuỳ thuộc vào sự phát
triển của TTCK, bởi lẽ, QĐTCK không phải ra đời ngay từ khi TTCK hình thành
mà nó ra đời khi thị trường đã phát triển đến một giai đoạn nhất định.
Pháp luật QĐTCK là một bộ phận không thể thiếu của pháp luật về chứng
khoán và TTCK. Pháp luật ghi nhận QĐTCK là một nhà đầu tư trên thị trường.
Hoạt động đầu tư của QĐTCK được thực hiện thông qua công ty quản lý quỹ và
ngân hàng giám sát. Nội dung quan trọng nhất của pháp luật QĐTCK là bảo đảm
hài hoà lợi ích của nhà đầu tư, công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát. Nếu
không bảo đảm hài hòa lợi ích này sẽ dẫn đến xung đột lợi ích giữa các bên tham
gia quan hệ đầu tư.
Những nội dung về QĐTCK, pháp luật QĐTCK được trình bày trong Chương
này là cơ sở lý luận để nghiên cứu các quy định pháp luật QĐTCK ở nước ta nhằm
luận giải một cách đầy đủ nhất những thành tựu mà pháp luật QĐTCK đã đạt được
đồng thời đề ra những bất cập, những hạn chế cần khắc phục để pháp luật QĐTCK
là công cụ hữu hiệu xây dựng đội ngũ những nhà đầu tư chuyên nghiệp trên TTCK
Việt Nam.
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT
QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Trên cơ sở khái quát các quy định pháp luật về QĐTCK, luận văn tập trung
phân tích nội dung các quy định pháp luật về QĐTCK ở Việt Nam qua hai giai
đoạn cơ bản sau đây:
2.1. PHÁP LUẬT QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN TRƢỚC KHI LUẬT
CHỨNG KHOÁN CÓ HIỆU LỰC (1998-2006)



2.1.1. Một số đặc điểm về nội dung của pháp luật quỹ đầu tƣ chứng
khoán giai đoạn 1998 – 2006
Một là, pháp luật quỹ đầu tư chứng khoán giai đoạn này chỉ có mô hình tín
thác đầu tư dạng hợp đồng dưới dạng QĐTCK dạng đóng và QĐTCK dạng mở.
Hai là, với sự ra đời các quy định quỹ đầu tư chứng khoán, TTCK nước ta đã
có thêm chủ thể tham gia thị trường, góp phần tạo nên tính đa dạng, phong phú trên
thị trường, là tiền đề cho TTCK phát triển ổn định, an toàn, bảo vệ tối đa quyền lợi
cho nhà đầu tư, khắc phục được tình trạng đầu tư theo bầy đàn – khuynh hướng
phổ biến của các thị trường mới nổi.
Ba là, các quy định pháp luật về QĐTCK giai đoạn này đã quy định khá chi
tiết trình tự thủ tục thành lập và hoạt động của các QĐTCK.
Bốn là, các quy định về quỹ đầu tư chứng khoán đã làm rõ được vị trí, vai trò
của công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát trong việc điều hành, giám sát hoạt
động của quỹ
Năm là, pháp luật QĐTCK giai đoạn này đã quy định cụ thể, chi tiết về quản
lý nhà nước về quỹ đầu tư chứng khoán đồng thời quy định chi tiết, cụ thể các biện
pháp bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.
2.1.2. Những hạn chế pháp luật QĐTCK giai đoạn 1998 - 2006
Thứ nhất, quy định pháp luật QĐTCK giai đoạn này chưa có quy định về
công ty đầu tư chứng khoán.
Thứ hai, TTCK Việt Nam vẫn còn bộc lộ không ít sự non yếu và ngày càng
tiếp tục thể hiện những nhược điểm của nó, giá chứng khoán tăng giảm liên tục
không tuân theo thị trường, khó dự đoán, làm cho tính hấp dẫn của đầu tư chứng
khoán thông qua thị trường có tổ chức này bị ảnh hưởng khá nghiêm trọng.
Thứ ba, Nghị định 48/1998/NĐ-CP được ban hành trước khi TTCK hoạt
động cho nên các quy chế ban hành vào lúc đó chịu sự tác động rất nhiều yếu tố
tâm lý của thị trường, đặc biệt là sau khủng hoảng tài chính của khu vực, bản thân



Nghị định đã có những ràng buộc rất chặt, trong khi lại phải sử dụng nhiều quy
định của quốc tế chưa phù hợp với hoạt động ban đầu của TTCK Việt Nam.
Thứ tƣ, trình độ quản lý đúng tầm đối với hoạt động của QĐTCK thay mặt
các nhà đầu tư trong việc quản lý một nguồn vốn rất lớn, trong đó cần thiết phải
phối hợp tìm kiếm những kinh nghiệm tốt của quốc tế.
2.2. LUẬT CHỨNG KHOÁN 2006 VÀ CÁC VĂN BẢN HƢỚNG DẪN
THI HÀNH - BẢO ĐẢM PHÁP LÝ MỚI CHO HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ
ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT
NAM
2.2.1. Tác động của sự ra đời Luật chứng khoán 2006 và các văn bản
hƣớng dẫn thi hành đối với sự phát triển quỹ đầu tƣ chứng khoán trên thị
trƣờng chứng khoán Việt Nam
Luật chứng khoán được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
khó XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 06 năm 2006, có hiệu lực từ ngày 01
tháng 01 năm 2007. Sự ra đời của Luật chứng khoán 2006 đánh dấu bước phát
triển trong nhận thức của nhà nước trong việc quản lý thị trường.
Về các loại hình kinh doanh dịch vụ chứng khoán, Luật Chứng khoán đã bao
trùm các hoạt động kinh doanh, dịch vụ chứng khoán như: môi giới, tự doanh, bảo
lãnh phát hành, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư, lưu ký
chứng khoán… Theo đó, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức này đã được quy định
rõ ràng, tạo điều kiện cho các tổ chức trung gian trên TTCK có cơ hội phát triển và
chính họ sẽ là người xây dựng và phát triển TTCK. Luật Chứng khoán cũng tạo cơ
sở pháp luật đầy đủ để tăng cường công tác quản lý thị trường nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các tổ chức tham gia thị trường; tạo cơ sở
pháp lý để giám sát, cưỡng chế thực thi, đảm bảo các doanh nghiệp tham gia trên
thị trường phải hoạt động công khai, minh bạch, từ đó góp phần làm minh bạch
hóa nền kinh tế.



2.2.2. Hoạt động xây dựng và một số nội dung cơ bản của pháp luật về
Quỹ đầu tƣ chứng khoán từ 2006 đến nay
Sau khi Luật chứng khoán có hiệu lực thi hành, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 14/2007/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật chứng khoán.
Nghị định 14/2007/NĐ-CP đã có nhiều quy định cụ thể về công ty đầu tư chứng
khoán. Có thể khái quát nội dung các quy định về QĐTCK của Luật chứng khoán
và các văn bản hướng dẫn thi hành trên những khía cạnh cơ bản sau đây:
Một là, ngoài việc hoàn thiện quy định pháp lý về QĐTCK dạng hợp đồng,
Luật chứng khoán quy định thêm mô hình QĐTCK mới đó là công ty đầu tư chứng
khoán.
Hai là, Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định cụ
thể trình tự, thủ tục thành lập, phát hành chứng chỉ quỹ của quỹ công chúng.
Ba là, pháp luật QĐTCK bổ sung quy định huy động thành lập QĐTCK, niêm
yết chứng chỉ quỹ ở nước ngoài
Bốn là, Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành đã làm rõ hơn
quan hệ giữa công ty quản lý quỹ với các QĐTCK, công ty đầu tư chứng khoán và
với ngân hàng giám sát
Năm là, Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định cụ
thể hơn quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư tham gia đầu tư vào QĐTCK.
2.2.3. Tình hình thực thi pháp luật quỹ đầu tƣ chứng khoán Việt Nam từ
2006 đến nay
2.2.3.1. Những kết quả đạt được trong việc thực thi pháp luật quỹ đầu tư
chứng khoán
Thứ nhất, Pháp luật QĐTCK đã tạo thêm một phương thức đầu tư mới, để
nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư cá nhân lựa chọn tham gia thị trường. TTCK là
thị trường có nhiều rủi ro.


Thứ hai, Pháp luật QĐTCK đã góp phần hình thành nên hệ thống các nhà đầu tư
chứng khoán chuyên nghiệp, góp phần thiết lập môi trường cạnh tranh trong đầu tư

chứng khoán theo hướng lành mạnh, thúc đẩy TTCK Việt Nam ngày càng minh
bạch, công khai và hiệu quả hơn, đặc biệt là khắc phục được tình trạng đầu tư theo

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Bộ Tài chính, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (2004), Hệ thống văn bản
pháp luật về chứng khoán và thị trường chứngkhoán, Nxb Tài chính, Hà
Nội.
2. Bộ Tài chính, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (2007), Cẩm nang thị trường
chứng khoán Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.
3. Các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Lê Cường (2007) Quỹ đầu tư chứng khoán – mô hình tổ chức và
giải pháp thúc đẩy phát triển trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận
văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Tài chính.
5. TS. Nguyễn Minh Đức (2006), Thị trường chứng khoán trong nền kinh tế
chuyển đổi, Nxb Tài chính, Hà Nội.
6. Viên Thế Giang, Võ Thị Mỹ Hương (2008), “Quỹ đầu tư chứng khoán mô
hình thích hợp để nhà đầu tư nhỏ tham gia thị trường chứng khoán”, Tạp
chí Ngân hàng số 19, tháng 9/2008.
7. Viên Thế Giang, Võ Thị Mỹ Hương (2009), “Phát triển quỹ đầu tư chứng
khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào
tạo Ngân hàng số 82, tháng 3/2009.
8. Viên Thế Giang, Võ Thị Mỹ Hương (2009), Thực trạng pháp luật quỹ đầu
tư chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng số tháng 7/2009.
9. Bùi Nguyên Hoàn (2004), “Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư”, Tạp


chí Chứng khoán số 10, tháng 11/2004.
10. Học viện Tài chính (2008), Giáo trình thị trường chứng khoán, Nxb Tài

chính, Hà Nội
11. Phương Hoàng Lan Hương (2001), Hình thành và phát triển quỹ đầu tư
chứng khoán và Công ty quản lý quỹ ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Bộ (Thư viện Ủy ban Chứng khoán Nhà nước), Hà Nội.
12. Võ Thị Mỹ Hương (2009), Vài nét về pháp luật quỹ đầu tư chứng khoán ở
Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 84, tháng 5/2009.
13. ThS. Lê Thị Mai Linh (chủ biên, 2003) Giáo trình phân tích và đầu tư
chứng khoán, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. TS. Đào Lê Minh (Chủ biên, 2004) Giáo trình những vấn đề cơ bản về
chứng khoán và thị trường chứng khoán, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. TS. Đào Lê Minh (2006), “Nhu cầu và khả năng xây dựng Luật chứng
khoán: nhìn từ kết quả của một cuộc điều tra”, Tạp chí Những vấn đề kinh
tế thế giới số 4 (120) 2006, tr 49-56.
16. TS. Đào Lê Minh (2006), “Một số vấn đề chủ yếu về hoạt động của thị
trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2000-2006”. Tạp chí những vấn
đề kinh tế thế giới số 7 (123) 2006, tr 48-56.
17. Trần Minh, Nguyễn Ái Phượng (2007), “Quỹ đầu tư chứng khoán - Những
mặt tích cực, hạn chế và triển vọng, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng số
8,9/2007.
18. Nguyễn Nghiêm Thái Minh (2008), “Thực trạng hoạt động của các quỹ
đầu tư tại Việt Nam”, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng số 11/2008 tr 15-19.
19. TS. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật Kinh tế, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
20. PGS NGƯT Đinh Xuân Trình, PTS Nguyễn Thị Quy (1998), Giáo trình
thị trường chứng khoán, Nxb Giáo dục, Hà Nội.


×