Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

Thực trạng việc thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công tại phường Lộc Vượng, TP.Nam Định, tỉnh Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.78 KB, 99 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong khóa luận là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả khóa luận

Trần Thanh Cường

1


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp này, tôi xin chân thành cảm
ơn:
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Lao động – xã hội, Ban Chủ nhiệm
Khoa Công tác xã hội, các Thầy/Cô giáo trong Khoa đã tạo mọi điều kiện
tốt nhất về cơ sở vật chất và đảm bảo giáo viên hướng dẫn cho tôi trong
suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa luận này.
Xin gửi lời cảm ơn tới các đồng chí lãnh đạo phường Lộc Vượng,
TP. Nam Định, tỉnh Nam Định đã tạo mọi điều kiện cung cấp các thông tin
để tôi có thể hoàn thành tốt được bài nghiên cứu của mình.
Xin cảm ơn gia đình - những người thân yêu của tôi, bạn bè đã động
viên, khích lệ và nhiều khi ủng hộ rất thầm lặng của họ có giá trị rất lớn để
tôi say mê hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn tới giảng viên hướng dẫn khoa
học TS. Nguyễn Thị Hương đã tận tình hướng dẫn và góp ý cho tôi thực
hiện đề tài nghiên cứu này trong suốt thời gian qua. Làm việc với giảng
viên, tôi không chỉ được hướng dẫn về mặt khoa học, mà còn hiểu thêm
nhiều điều về đạo đức nghề nghiệp của nhà nghiên cứu.



Sinh viên
Trần Thanh Cường

2


MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1

Chữ viết tắt
ASXH

Nguyên nghĩa
An sinh xã hội

2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

13
14
15
16
17

BCÐ
BCHTƯ
BHXH
BHYT
CP
HÐND
KCB
KT - XH
LÐ-TB&XH
NCC
TCXH
TTg
UBND
ƯĐXH
HĐKC
CĐHH

Ban chỉ đạo
Ban chấp hành Trung ương
Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm y tế
Chính phủ
Hội đồng nhân dân
Khám chữa bệnh

Kinh tế - xã hội
Lao động - Thương binh và xã hội
Người có công
Trợ cấp xã hội
Thủ tướng
Ủy ban nhân dân
Ưu đãi xã hội
Hoạt động kháng chiến
Chất độc hóa học

3


DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
1
Bảng 2.1: Bảng thống kê đối tượng người có công năm
44
2016
2
Bảng 2.2: Thống kê giới tính của người có công
48
3

49

4


Bảng 2.3:Trình độ học vấn của người có công với cách
mạng
Bảng 2.4: Mức trợ cấp hàng tháng của người có công

5

Bảng 2.5: Nguồn thu nhập chính của người có công

52

6

Bảng 2.6: Tình trạng nhà ở của người có công

53

7
8

Bảng 2.7: Đánh giá công tác chi trả trợ cấp, phụ cấp đối
với NCC
Bảng 2.8: Các hình thức khám chữa bệnh của NCC với
cách mạng

51

54
56

9


Bảng 2.9: Các hình thức ưu đãi trong giáo dục cho
người có công

58

10

Bảng 2.10: Tình hình việc làm của người có công với
cách mạng

59

11

Bảng 2.11:Kết quả vận động quỹ “ Đền ơn đáp nghĩa”
trên địa bàn phường Lộc Vượng từ năm 2012 – 2016.

65

12

Bảng 2.12: Chương trình tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa
trên địa bàn phường Lộc Vượng từ năm 2012 – 2016

66

13

Bảng 2.13: Các hoạt động động trong chương trình

chăm sóc bố, mẹ, vợ liệt sĩ già yếu, cô đơn, phụng
dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng,đỡ đầu con liệt sĩ mồ
côi trên địa bàn phường Lộc Vượng.

67

4


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
STT
1
2
3
4

Tên biểu đồ
Biểu đồ 2.1: Thống kê độ tuổi người có công với cách
mạng
Biểu đồ 2.2: Tình sức khỏe người có công với cách
mạng
Biểu đồ 2.3: Sự giúp đỡ của chính quyền địa phương
đối với gia đình người có công trong hoạt động sản
xuất.
Biểu đồ 2.4:Các hình thức hỗ trợ trong xây dựng và sửa
chửa nhà tình nghĩa.

5

Trang

47
50
60
63


A.Phần mở đầu.
1.Lí do chọn đề tài.
Thực hiện tốt công tác chăm sóc người có công, người tham gia
kháng chiến và phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa” là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị và của toàn Đảng, toàn dân. Qua các thời kỳ, Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta luôn dành sự quan tâm đối với người có công với
nước. Chăm lo đời sống người có công vừa là nhiệm vụ chính trị quan
trọng, vừa thể hiện đạo lý truyền thống “uống nước nhớ nguồn” cao đẹp
của dân tộc Việt Nam.Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng luôn
chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống chính sách an sinh xã hội của
Đảng, Nhà nước ta.
Hơn 70 năm qua, khởi đầu từ Sắc lệnh 20/SL, ngày 16-2-1947, “Quy
định chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”, với 3 đối tượng và 2
chính sách, hệ thống chính sách không ngừng được hoàn thiện, đối tượng
ưu đãi không ngừng được mở rộng, cơ bản đã bao phủ được hết các đối
tượng có công với cách mạng. Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 1-6-2012,
của Đảng ta về định hướng chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020 nêu rõ:
“Không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người
có công và bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng
của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”.
Kết luận Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI
về “Một số vấn đề về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và
ưu đãi người có công, định hướng cải cách đến năm 2020” tiếp tục khẳng
định: “Nghiên cứu cải cách chính sách ưu đãi người có công, sớm điều

chỉnh mức chuẩn bảo đảm tương ứng với mức chi tiêu bình quân toàn xã
hội để người có công có mức sống trung bình khá trong xã hội”. Điều đó
thể hiện chính sách nhất quán, liên tục của Đảng, Nhà nước ta đối với
thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng.

6


Xuất phát từ những lí do trên tôi đã lựa chọn đề tài: “Thực trạng
việc thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công tại
phường Lộc Vượng, TP.Nam Định, tỉnh Nam Định” làm đề tài nghiên
cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình nhằm tìm hiểu, đánh giá kết quả
hoạt động của việc chăm sóc người có công tại địa phương, đồng thời cũng
tìm hiểu những ưu điểm và nhược điểm của quá trình này. Qua đó tôi đề
xuất một số kiến nghị và giải pháp, nhằm nâng cao hiệu quả, hoạt động
công tác chăm sóc người có công tại phường Lộc Vượng, TP.Nam Định.
2.Tổng quan về vấn đề nghiên cứu.
2.1.Những nghiên cứu về chính sách ưu đãi xã hội đối với người có
công trên thế giới.
Vào năm 1949, nhà xã hội học người Anh Thomas Marshall là người
đầu tiên gắn khái niệm an sinh xã hội với khái niệm quyền công dân và cho
rằng quyền được hưởng an sinh (hay nói gọn là quyền xã hội) là nhóm
quyền thứ ba mà các thành viên của xã hội đã giành được trong thế kỷ 20,
sau nhóm các quyền dân sự (đã giành được trong thế kỷ 18) và nhóm các
quyền chính trị (giành được trong thế kỷ 19). Marshall nhấn mạnh rằng
việc được hưởng các khoản an sinh xã hội hay phúc lợi xã hội cần được
quan niệm như một loại quyền mang tính pháp lý và tính phổ quát.Như vậy,
quyền có nhà ở, quyền được học hành, quyền được chăm sóc sức khỏe là
những quyền cơ bản của con người hay nói rộng ra là quyền của mỗi người
được hưởng một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm của mình.

Dù ở chế độ chính trị khác nhau nhưng ở bất kỳ quốc gia nào trên thế
giới cũng có một bộ phận dân cư là những người có công với Tổ quốc của
họ. Chính vì vậy ở các nước đều có chính sách đối với những người có
công, đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước. Tuy nhiên tùy
theo từng điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia mà có các
loại chế độ, chính sách, các loại trợ cấp và mức trợ cấp khác nhau.Đồng

7


thời ở các nước đều có cơ quan quản lý nhà nước để thực hiện các chính
sách này ( như Bộ Xã hội, Bộ Lao động, Bộ an sinh xã hội...).(6, 53)
Ở Irắc, sau chiến tranh vùng Vịnh, các quân nhân tham gia chiến
tranh, khi giải ngũ được cấp một căn hộ và một khoản tiền 60.000 USD.
Những người lính chết trận được ghi công và thân nhân của họ được trợ
cấp đủ sống suốt đời.(6, 53)
Pháp luật bảo trợ của Liên Xô cũ có nhiều hình thức như: Bảo hiểm
tuổi già, bảo hiểm bệnh tật, bảo hiểm về tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp...Trong đó có những quy định đối với thương binh trong chiến tranh
vệ quốc thì trợ cấp được nâng lên 10% so với những quân nhân bị tai nạn
lao động trong khi thực hiện nhiệm vụ quân sự có cùng hạng thương tật.
Các thương binh nhóm 01, 02 sống cùng gia đình được giảm 50% tiền nhà
ở, tiền lò sưởi, chất đốt, tiền điện, nước. Tất cả thương binh được miễn trả
tiền cước phí đi lại khi đi trên các phương tiện giao thông trong thành
phố( trừ taxi).Gia đình liệt sĩ được hưởng chế độ trợ cấp đặc biệt.(6, 53)
Nói tóm lại, dù ở các nước, đối tượng có công có khác nhau và mức
độ tùy theo điều kiện của mỗi nước nhưng đều thấy rõ những điểm sau:
+ Thực hiện nhiệm vụ ưu đãi những người có công với cách mạng là
nhiệm vụ chính trị, phục vụ các mục tiêu chính trị của giai cấp cầm quyền.
+ Chính sách ưu đãi xã hội phản ánh bản chất giai cấp của giai cấp

cầm quyền.
+ Chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công với cách mạng do
Nhà nước đảm nhận là chính.
+ Người có công với cách mạng được Nhà nước đảm bảo về các mặt
trợ cấp như trợ cấp vật chất, chăm sóc sức khỏe, bảo đảm việc làm...
+ Các chế độ ưu đãi được quy định chặt chẽ và được điều chỉnh tùy
vào điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi giai đoạn lịch sử.(6,53)
2.2. Những nghiên cứu về chính sách ưu đãi xã hội ở Việt Nam.

8


Trong nhiều năm gần đây, công tác nghiên cứu về các chính sách ưu
đãi xã hội và trợ giúp xã hội đã có những bước phát triển mạnh tại Việt
Nam như: Bài viết “Phúc lợi xã hội trên thế giới: quan niệm và phân loại”
của Trần Hữu Quang đăng trên Tạp chí Khoa học Xã hội, số 4, 2009. Bài
viết đề cập đến Sự phát triển của các hệ thống phúc lợi xã hội là một trong
những thành tựu lớn lao của nhiều quốc gia trên thế giới trong thế kỷ XX.
Phúc lợi xã hội được nhìn nhận như là một trong những quyền căn bản của
con người trong một quốc gia văn minh và hiện đại. Bài viết này lược thuật
lại một số quan niệm chính về phúc lợi xã hội, đồng thời đưa ra những
quan điểm cũng như những nhận định của nhiều tác giả trên thế giới về các
thuật ngữ liên quan như: an sinh xã hội, bảo trợ xã hội, phúc lợi xã hội,
chính sách xã hội,… Bên cạnh đó, tác giả phân tích một số lý thuyết phân
loại các hệ thống phúc lợi xã hội trên thế thông qua các đánh giá của các
nhà phân tích trên thế giới về phúc lợi xã hội(15, 40)
Cuốn sách “Hoàn thiện pháp luật ưu đãi người có công ở Việt Nam.
Lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Đình Liêu, Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn Hà Nội, 1996. Cuốn sách được nêu ra những vấn đề mấu chốt
của chính sách ưu đãi, khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp

luật này, đưa ra thực trạng của pháp luật này, đồng thời đưa ra những nhận
định và khuyến nghị để hoàn thiện pháp luật về ưu đãi xã hội tại Việt Nam
trong thời gian tới(10, 57).
Nguyễn Hải Hữu (2007), Báo cáo chuyên đề “Thực trạng trợ giúp xã
hội và ưu đãi xã hội ở nước ta, năm 2001 – 2007 và khuyến nghị đến năm
2015” đưa ra một bức tranh tổng thể về trợ giúp xã của Việt Nam trong cả
một giai đoạn với những thuận lợi và không ít thách thức khi đất nước bước
vào quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, từ đó đưa ra những
khuyến nghị cụ thể để hoàn thiện hệ thống chính sách trợ giúp xã hội và ưu
đãi xã hội Việt Nam trong tổng thể hệ thống an sinh xã hội nói chung.(9, 84)

9


Luận văn Xã hội học về : “Đánh giá hoạt động ưu đãi xã hội ở Việt
Nam” năm 2010. Luận văn bao gồm các phần: Đánh giá thực trạng chính
sách ưu đãi xã hội ở Việt Nam bao gồm các hoạt động như: đền ơn đáp
nghĩa, xây dựng nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa,… ; Quan điểm
của đảng và nhà nước về ưu đãi xã hội; chính sách ưu đãi xã hội Việt Nam
qua các thời kỳ; Quan điểm cụ thể về mức độ trợ cấp,ưu đãi hàng tháng đối
với người có công với cách mạng; Một số hoạt động đền ơn đáp nghĩa tiêu
biểu năm 2010. Luận văn tập chung nghiên cứu sâu về vấn đề ưu đãi xã hội
đối với cá nhân, gia đình, nhóm người có công với tổ quốc như chính sách
ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, những người tham gia kháng chiến
và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc da cam. Chính sách ưu đãi đối với gia
đình liệt sỹ, gia đình có công giúp đỡ Cách mạng. Luận văn cũng đã chỉ ra
những điểm hạn chế trong công tác thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối
với người có công như: việc thực thi Pháp lệnh chưa đồng bộ, mức độ trợ
cấp không phù hợp với điều kiện sống của người dân hiện tại.(8, 37)
Luận văn về “Tình hình thực hiện ưu đãi người có công với cách

mạng ở xã Nghi Sơn - Tĩnh Gia - Thanh Hóa”. Khoa Công tác trường Đại
học Lao Động 2010. Báo cáo đánh giá tổng quan vấn đề thực hiện chính
sách ưu đãi xã hội đối với người có công như thân nhân liệt sỹ, thương
bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học. Báo
cáo chỉ ra được tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách với những đối
tượng có công với cách mạng, đã tạo điều kiện cho các đối tượng có cuộc
sống ổn định hơn về cả vật chất và tinh thần. Những chính sách ưu tiên cho
con em đối tượng có công với cách mạng, đồng thời đưa ra những giải pháp
để hoàn thiện lại bộ máy chính quyền địa phương cũng như việc thực hiện
các chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước đối với các đối tượng
này.(7, 45)
Đề tài cấp nhà nước về "Hoàn thiện chính sách trợ cấp xã hội trong
hệ thống an sinh xã hội Việt Nam giai đoạn 2006- 2010", Đề tài nghiên cứu
10


và hệ thống hoá các vấn đề lý luận về trợ cấp xã hội, hệ thống an sinh xã
hội trong mối quan hệ biện chứng với sự phát triển và ổn định xã hội. Phân
tích thực trạng chính sách trợ cấp xã hội ở nước ta giai đoạn vừa qua, từ đó
rút ra những vấn đề cần phải hoàn thiện để nâng cao chất lượng chính sách
và mở rộng đối tượng thụ hưởng nhằm xây dựng hệ thống an sinh xã hội
hiện đại, phù hợp với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Luận
văn tập chung nghiên cứu vấn đề lý luận, thực tiễn việc xác định cơ sở
khoa học, hình thành chính sách trợ cấp xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2006 2010. Phân tích thực trạng hình thành và tổ chức thực hiện chính sách trợ
cấp xã hội ở nước ta giai đoạn vừa qua và một số bài học kinh nghiệm nước
ngoài có liên quan. Đóng góp của đề tài:
+ Nghiên cứu hệ thống các vấn đề lý luận của việc lựa chọn căn cứ
khoa học cho các chính sách trợ cấp xã hội và hệ thống an sinh xã hội;
+ Phân tích thực trạng thực hiện chính sách trợ cấp xã hội ở nước ta
giai đoạn vừa qua và một số kinh nghiệm của một số nước ngoài;

+ Đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện việc ban
hành và thực hiện các chính sách trợ cấp xã hội giai đoạn tới.(3, 89)
3.Mục tiêu nghiên cứu.
Đưa ra thực trạng về việc thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối với
người có công tại phường Lộc Vượng, từ đó đề xuất một số giải pháp hỗ
trợ trong việc thực hiện công tác chăm sóc người có công trên địa bàn
phường.
4.Nhiệm vụ nghiên cứu.
Làm rõ nội dung cơ sở lý luận về thực hiện chính sách ưu đãi xã hội
đối với người có công.
Đưa ra thực trạng việc thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối với
người có công tại phường Lộc Vượng, TP.Nam Định, tỉnh Nam Định.

11


Từ thực trạng nêu trên, đưa ra kết luận, khuyến nghị và một số giải
pháp giúp cho những người làm công tác chính sách xã hội ở phường Lộc
Vượng thấy được thực trạng để điều chỉnh, bổ sung.
5.Khách thể nghiên cứu.
Khảo sát: 30 người có công với cách mạng đang được hưởng chính
sách ưu đãi xã hội tại phường Lộc Vượng.
Phỏng vấn sâu: 3 cán bộ phụ trách thực hiện chính sách đối với
người dân
6.Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng việc thực hiện chính sách ưu đãi
xã hội đối với người có công tại phường Lộc Vượng, TP.Nam Định, tỉnh
Nam Định.
7.Phạm vi nghiên cứu.
Nội dung nghiên cứu:

+ Nghiên cứu cơ sở lí luận về các chương trình, chính sách ưu đãi
NCC.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách ưu đãi xã
hội với NCC tại địa bàn phường Lộc Vượng, TP.Nam Định.
Thời gian nghiên cứu: Số liệu nghiên cứu giai đoạn 2012 - 2017.
Không gian nghiên cứu: Phường Lộc Vượng, TP.Nam Định.
8.Phương pháp nghiên cứu.
8.1.Phương pháp nghiên cứu, phân tích văn bản, tài liệu.
Phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu là phương pháp sử dụng
kỹ thuật chuyên môn nhằm thu thập hoặc rút ra từ những nguồn tài liệu các
thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu thực trạng đời sống vật chất và tinh
thần của NCC và gia đình họ trên địa bàn phường Lộc Vượng đồng thời
đánh giá được việc thực hiện, triển khai các chính sách ƯĐXH đối với
NCC trên địa bàn phường.

12


Các tài liệu được tập chung thu thập bao gồm: các văn bản, chính
sách của Nhà nước và địa phương về người có công với cách mạng; các
bản báo cáo tổng kết về công tác thực hiện chính sách với người có công
của Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội phường Lộc Vượng; các bài
viết, thông tin từ kết quả nghiên cứu về NCC của nhiều tác giả.
Những nơi thu thập tài liệu là: Phòng Lao động – Thương binh và Xã
hội phường Lộc Vượng, thư viện Trường Đại học Lao động – Xã hội và
thông tin tài liệu trên internet.
8.2.Điều tra bằng phương pháp bảng hỏi.
Bảng hỏi là hệ thống các câu hỏi được xếp đặt trên cơ sở các nguyên
tắc tâm lý, logic và theo nội dung nhất định nhằm tạo điều kiện cho người
được hỏi thể hiện quan điểm của mình với những vấn đề thuộc về đối

tượng nghiên cứu và người nghiên cứu thu nhận được các thông tin cá biệt
đầu tiên đáp ứng các yêu cầu của đề tài và mục tiêu nghiên cứu về thực
trạng việc thực hiện các chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công tại
phường Lộc Vượng, TP.Nam Định, tỉnh Nam Định.
Mục đích của bảng hỏi:
+ Mục đích chung: Bảng hỏi dùng để đo lường, nhờ đó mà người ta
đo được các biến số nhất định, đo những nhân tố nhất định liên qua đến cá
nhân người được hỏi. Nó còn được dùng để mô tả, so sánh, giải thích về
kiến thức, thái độ, hành vi, và các đặc trưng nhân khẩu – xã hội của một
nhóm khách thể nghiên cứu.
+ Mục đích trong nghiên cứu: Sử dụng bảng hỏi để điều tra, thu thập
thông tin từ 30 đối tượng người có công với cách mạng trên địa bàn
phường Lộc Vượng, TP.Nam Định nhằm tìm hiểu chính sách ưu đãi xã hội
đối với người có công.
8.3.Phương pháp quan sát.
Quan sát là phương pháp thu thập thông tin xã hội sơ cấp về đối
tượng nghiên cứu bằng cách quan sát lại các hành vi, cử chỉ và ghi chép lại
13


những nhân tố có liên quan đến đối tượng nghiên cứu và có ý nghĩa với
mục đích nghiên cứu.
Sinh viên chủ động đi sâu vào thực tế để có cái nhìn toàn diện về
tình hình thực tế của công tác chăm sóc người có công tại phường Lộc
Vượng.
8.4.Phương pháp phỏng vấn sâu.
Phỏng vấn sâu là những cuộc đối thoại được lặp đi lặp lại giữa nhà
nghiên cứu và người cung cấp thông tin nhằm tìm hiểu cuộc sống, kinh
nghiệm, và nhận thức của người cung cấp thông tin thông qua chính ngôn
của người ấy.

Tiến hành phỏng vấn sâu đối với cán bộ, công nhân viên chức phòng
Lao động – Thương binh và Xã hội, cùng với các cán bộ phụ trách Hội Cựu
chiến binh phường Lộc Vượng về thực trạng việc thực hiện công tác chăm
sóc NCC tại phường Lộc Vượng cũng như hiệu quả của các chương trình,
chính sách đó mang lại.
8.5.Phương pháp thống kê toán học.
Thống kê là khoa học về các phương pháp thu thập, tổ chức, trình
bày, phân tích và xử lý số liệu. Thống kê giúp ta phân tích các số liệu một
cách khách quan và rút ra các tri thức, thông tin chứa đựng trong các số liệu
đó. Trên cơ sở này, chúng ta mới có thể đưa ra được những dự báo và quyết
định đúng đắn.
Sinh viên sử dụng phương pháp thống kê để xử lý các thông tin, các
số liệu đã thu thập được qua phiếu điều tra dành cho NCC và cho cán bộ
quản lý. Thông qua phương pháp thống kê từ phiếu điều tra dành cho NCC
ta có thể biết được thực trạng đời sống vật chất NCC trên địa bàn phường.
Thông qua phương pháp thống kê từ phiếu phỏng vấn sâu dành cho cán bộ
quản lý ta có thể đánh giá được thực trạng việc thực hiện các chương trình,
chính sách ƯĐXH đối với NCC tại phường Lộc Vượng.

14


9.Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu, mục lục, nội dung
của khóa luận gồm 3 chương sau đây:
CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận về việc thực hiện chính sách ưu đãi xã
hội với người có công.
CHƯƠNG 2: Thực trạng việc thực hiện các chính sách ưu đãi xã hội đối với
NCC tại phường Lộc Vượng – TP.Nam Định, tỉnh Nam Định.
CHƯƠNG 3: Kết luận, giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu

quả công tác thực hiện chính sách ưu đãi xã hội với NCC tại phường Lộc
Vượng – TP.Nam Định, tỉnh Nam Định

15


B.Phần nội dung
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH ƯU ĐÃI XÃ HỘI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG.
1.1.Một số khái niệm cơ bản.
1.1.1.Khái niệm ưu đãi xã hội
Ưu đãi xã hội là việc xã hội dành những quyền lợi, điều kiện đặc biệt
hơn so với những đối tượng khác vì được đề cao, được coi trọng hơn.
1.1.2.Khái niệm ưu đãi xã hội với người có công với cách mạng.
Ưu đãi xã hội đối với người có công với cánh mạng là việc quan tâm,
chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần cho người có công với cách mạng
và gia đình của họ. Ưu đãi xã hội với người có công với cách mạng là trách
nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, mang tính chất chính trị, xã hội rộng lớn,
sâu sắc, thể hiện truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt
Nam, tạo điều kiện ổn định cuộc sống gia đình người có công và gia đình
họ(6, 13).
1.1.3.Khái niệm người có công với cách mạng.
Pháp lệnh ưu đãi người có công đã được hình thành ngay từ khi nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Theo dòng thời gian, pháp lệnh ưu đãi
người có công luôn luôn phát triển, để phù hợp với các điều kiện kinh tế xã
hội và lịch sử cụ thể.
Theo nghĩa rộng: “Người có công là những người không phân biệt
tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, đã tự nguyện dâng hiến
cuộc đời mình cho sự nghiệp dựng nước, giữ nước và kiến thiết đất nước.
Họ có những đóng góp, những cống hiến xuất sắc, phục vụ cho lợi ích của

đất nước, của dân tộc”.(6, 6)
Theo nghĩa hẹp: “Người có công là những người không phân biệt tôn
giáo, tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, có những đóng góp, những
cống hiến xuất sắc trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945,

16


trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, được các
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận”.(6, 6)
Theo quy định tại điều 2 Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách
mạng số 26/2005/PL-UBTVQH11 ngày 26/6/2005 và Pháp lệnh số
04/2012/UBTVQH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi
người có công với cách mạng.Người có công với cách mạng gồm:
+ Người hoạt động cách mạng trước ngày mùng 01 tháng 01 năm
1945;
+ Người hoạt động cách mạng từ ngày mùng 01 tháng 01 năm 1945
đến ngày khởi nghĩa cách mạng tháng Tám năm 1945;
+ Liệt sĩ;
+ Bà mẹ Việt Nam Anh Hùng;
+ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; Anh hùng lao động trong
thời kỳ kháng chiến;
+ Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh;
+ Bệnh binh;
+ Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học;
+ Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù,
đày;
+ Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc
và làm nghĩa vụ quốc tế;
+ Người có công giúp đỡ cách mạng (18, 1)

Tóm lại, người có công là những người không phân biệt tôn giáo, tín
ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, có những đóng góp, những cống hiến
xuất sắc trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong các
cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, được các cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền công nhận.
1.1.4.Khái niệm chính sách ưu đãi xã hội với người có công.

17


Chính sách ưu đãi xã hội là “những quy định chung của Nhà nước
bao gồm mục tiêu, phương hướng, giải pháp, về việc ghi nhận công lao, sự
đóng góp, sự hi sinh cao cả của người có công với cách mạng, tạo mọi điều
kiện khả năng góp phần ổn định và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho người có công.” (6, 31)
Chính sách ưu đãi xã hội là sự phản ánh trách nhiệm của Nhà nước,
của cộng đồng xã hội, là thể hiện sự đãi ngộ đặc biệt về đời sống vật chất,
văn hóa và tinh thần đối với những người có công lao với đất nước. Đây là
một chính sách đặc biệt, thể hiện sự biết ơn của dân tộc, của Nhà nước
nhằm “ đền ơn, đáp nghĩa” với một bộ phận dân cư đặc biệt, góp phần đảm
bảo công bằng xã hội, phản ánh đạo lý, truyền thống dân tộc.(6, 14)
Như vậy, chính sách ưu đãi xã hội với người có công là hệ thống
công cụ của Đảng và Nhà nước cầm quyền nhằm ghi nhận công lao, sự
đóng góp của những người có công với cách mạng; đáp ứng phần nào sự
hi sinh của họ cho sự nghiệp của dân tộc.
1.2.Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách ưu đãi xã hội với
người có công.
Đất nước Việt Nam do trải qua các cuộc chiến tranh ác liệt đấu tranh
bảo vệ tổ quốc nên chính sách ưu đãi xã hội chủ yếu được thực hiện đối với
những người có cống hiến đặc biệt trong công cuộc bảo vệ tổ quốc. Họ là

những người đã hy sinh một phần thân thể, tính mạng của mình cho sự
nghiệp giữ nước của dân tộc. Hiện nay, người có công vẫn đang phải chịu
hậu quả nặng nề của bom đạn, di chứng chiến tranh, chất độc hóa học...
không chỉ bản thân người có công mà con cháu họ cũng đang phải chịu
những đau thương đó. Do vậy chính sách ưu đãi xã hội được Đảng và Nhà
nước coi là một quốc sách, qua các thời kỳ, các giai đoạn lịch sử khác nhau
chính sách ưu đãi xã hội luôn được thực hiện theo các quan điểm sau:

18


1.2.1.Chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công
vừa là trách nhiệm của Nhà nước vừa là trách nhiệm tình cảm của toàn
dân.
Kế thừa truyền thống bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân
tộc Việt Nam anh hùng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam,
nhân dân ta đã nhất tề đứng dậy chiến đấu theo chân lý “ không có gì quý
hơn độc lập, tự do”. Dân tộc ta thà “ hy sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, chấp nhận những thử thách vượt qua
biết bao gian khổ, hy sinh để giành độc lập – tự do, thống nhất Tổ quốc. Để
có chiến thắng to lớn ấy, hàng triệu chiến sĩ, đồng bào ta đã hy sinh dưới
mưa bom, bão đạn của kẻ thù, hàng triệu người khác bị thương tật hoặc
gánh chịu di họa của chiến tranh suốt phần còn lại củ cuộc đời. “Ai đem
khăn tang, ai đong máu chiến trường” – lời bia văn tại đền tưởng niệm Bến
Dược Củ Chi còn vang mãi, tỏa sáng ngàn năm. Cả dân tộc Việt Nam sẽ
ghi tạc trong tim lòng biết ơn những người dùng máu đào “ Tô thắm là cờ
Tổ quốc”. Ngay từ ngày thương binh toàn quốc đầu tiên 27/7/1947, Hồ Chủ
tịch đã nêu rõ: “ Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh
sương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào...Vì vậy Tổ quốc và đồng
bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”. Quan điểm

của Đảng, Nhà nước và Bác Hồ về trách nhiệm chăm sóc thương binh, gia
đình liệt sĩ và người có công với cách mạng cũng là trách nhiệm và tình
cảm của toàn dân đối với họ.
Thấu hiểu sự hy sinh mất mát của hàng triệu người con dân tộc,
trước khi đi xa Người còn căn dặn: “ Đối với những người dũng cảm hy
sinh một phần xương máu của mình ( cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích,
thanh niên xung phong...) Đảng, Chính phủ và đồng bào tìm mọi cách làm
cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời mở những lớp dạy nghề thích
hợp với mỗi người, để họ có thể dần dần tự lực cánh sinh. Đối với liệt sĩ
mỗi địa phương cần xây dựng vườn hoa, bia kỷ niệm sự hy sinh anh dũng
19


của các liệt sĩ để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Đối
với cha mẹ, vợ con của thương binh và liệt sĩ mà thiếu sức lao động và túng
thiếu thì chính quyền địa phương ( nếu ở nông thôn thì chính quyền xã
cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có việc làm thích hợp, quyết
không để họ bị đói rét”.(17, 3)
Chính sách ưu đãi xã hội không chỉ là vấn đề đạo lý, là truyền thống
mà còn là vấn đề chính trị, tư tưởng, vấn đề kinh tế xã hội. Nó không chỉ là
vấn đề cấp bách trước mắt mà còn có ý nghĩa lâu dài.
Hơn nửa thế kỷ qua, Đảng và Nhà nước đã hình thành một hệ thống
chính sách về ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và
người có công. Hệ thống chính sách đó luôn được bổ sung, sửa đổi nhằm
từng bước cải thiện đời sống của những người có công với cách mạng phù
hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đời sống chung của
nhân dân.
Sự nhất quán đó còn được thể hiện trong pháp lệnh ưu đãi người có
công với cách mạng ban hành ngày 29 tháng 8 năm 1994 với tư tưởng chủ
đạo: Tổ quốc và nhân dân ta đời đời nhớ ơn những người đã hy sinh, cống

hiến cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Pháp
lệnh không chỉ pháp điển hóa các nội dung ưu đãi đối với người có công
với cách mạng mà còn một bước cải thiện đời sống các đối tượng này.
Thông qua hệ thống chính sách ưu đãi được quy định tại Nghị định số
28/CP ngày 29 tháng 4 năm 1995 của Chính phủ ( gồm các chế độ trợ cấp,
phụ cấp, chế độ chăm sóc sức khỏe và các ưu đãi về giáo dục đào tạo, về
thuế, về ruộng đất và việc làm...), pháp lệnh đã bao quát hầu hết các nhu
cầu cơ bản thiết yếu của người có công với cách mạng. Đây cũng là những
cố gắng lớn thể hiện quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm
mục tiêu dân giàu, nước mạng, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Song song với các chính sách ưu đãi trên, Nhà nước còn ban hành
hàng loạt chính sách như : Việc làm, đào tạo, dạy nghề, chăm sóc sức khỏe,
20


các ưu đãi về ruộng đất, về thuế...Đồng thời theo thời gian và truyền thống
của dân tộc ta, một phong trào quần chúng sâu rộng, với nhiều hình thức
phong phú và giải pháp phù hợp với từng địa phương đã góp phần cùng
Nhà nước đem lại cho hàng triệu gia đình người có công với cách mạng
một cuộc sống ổn định về vật chất, thoải mái về tinh thần.(6, 36)
1.2.2.Xã hội hóa việc chăm sóc người có công với cách mạng.
Bên cạnh hệ thống chính sách ưu đãi của Nhà nước, cần huy động
sức mạnh của toàn dân trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia
đình liệt sĩ và người có công. Bởi vì:
Đây là truyền thống quý báu của dân tộc ta.
Cộng đồng có tiềm năng to lớn, nếu huy động sẽ góp phần cùng Nhà
nước giải quyết những yêu cầu bức xúc của người có công mà chính sách
của Nhà nước với tư cách là mặt bằng chung cho từng loại đối tượng không
thể quán xuyến hết.
Hơn nửa thế kỷ qua, tiếp nối truyền thống nhân ái của dân tộc, với

đạo lý “ uống nước nhớ nguồn”, “ Đền ơn đáp nghĩa”, nhiều phong trào của
các địa phương, các tổ chức xã hội và cá nhân đã làm công tác thương binh,
liệt sĩ trở thành công việc thường xuyên của toàn xã hôi. Phong trào “ Đón
thương binh về làng” từ những năm chống thực dân Pháp đến phong trào “
Chăm sóc thương binh nặng về nhà” những năm gần đây đã giúp phần lớn
thương bệnh binh nặng ổn định cuộc sống, ổn định thương tật, bệnh tật.
Nhân dân đã đóng góp tiền của, công sức, để xây dựng nghĩa trang liệt sĩ và
các công trình tưởng niệm liệt sĩ. Hàng chục vạn ngày công được nhân dân
đóng góp vào việc tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Các cháu thiếu nhi có
phong trào “ Đi tìm địa chỉ đỏ” và phong trào “ Đi tìm đồng đội” đã thể
hiện tính nhân văn sâu sắc.
Những năm gân đây lại dấy lên các phong trào chăm sóc người có
công với cách mạng như: tặng nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa,
phụng dưỡng bố mẹ liệt sĩ cô đơn, đỡ đầu con liệt sĩ mồ côi, phụng dượng
21


Bà mẹ Việt Nam anh hùng...Các phong trào này đã phát triển nhanh, mạnh
cả bề rộng lẫn bề sâu, góp phần cải thiện đời sống người có công. Các
phong trào trên đã phát triển thành năm chương trình với các hình thức, các
giải pháp phù hợp với hoàn cảnh của từng địa phương như tặng giếng nước
tình nghĩa, vườn cây tình nghĩa...
Như vậy, cùng với hệ thống chính sách ưu đãi của Nhà nước, việc
huy động toàn dân chăm sóc người có công đã góp phần chăm lo tốt hơn
đời sống mọi mặt của những thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có
công, đúng với quy trình trong Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách
mạng: Việc quan tâm chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần của người có
công với nước và gia đình họ là trách nhiệm của Nhà nước và toàn xã hội.(6,
38)


1.2.3.Động viên người có công với cách mạng và gia đình họ tiếp tục
phát huy truyền thống cách mạng, tiếp tục cống hiến cho xã hội.
Để người có công với cách mạng vươn lên trong cuộc sống, để đạt
mục tiêu của chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công, việc động
viên, cổ vũ tạo điều kiện giúp họ ổn định cuộc sống có vai trò rất quan
trọng. Bởi vì mặc dù nhiều người thương tật, bệnh tật nặng, nhiều người
còn chưa nguôi niềm đau mất mát người thân nhưng thông cảm với tình
hình đất nước còn khó khăn, với quyết tâm vượt qua đói nghèo, anh chị em
thương bệnh binh, thân nhân liệt sĩ đã nỗ lực vượt lên, tìm cho mình một
việc làm phù hợp, cải thiện và nâng cao đời sống cho bản thân và cho gia
đình. Chính sự nỗ lực này mà những ưu đãi của Nhà nước và sự động viên
tiếp sức của cộng đồng, quyết tâm của người có công mới trở thành hiện
thực.
Với quan điểm quần chúng sâu sắc đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhắc nhở: Thương binh, bệnh binh nỗ lực phấn đấu để xứng đáng là những
công dân kiểu mẫu và gia đình liệt sĩ mãi mãi xứng đáng là gia đình cách
mạng gương mẫu.
22


Lòng yêu nươc hòa quyện với ý thức công dân đã trở thành “điểm
tựa” để thương binh, gia đình liệt sỹ tiếp nhận và biến những lời dặn dò của
Bác thành hiện thưc.
Hàng triệu ông bố, bà mẹ, người vợ liệt sĩ, cùng với việc tiếp tục
động viên chồng con lên đường “trả thù nhà, đền nợ nước”, vẫn cần mẫn
trong công việc hằng ngày của một công dân, của một người lao động.Và
khi có giặc thì hậu phương lại vững vàng “ tay búa, tay súng, tay cày, tay
quốc”; khi giáp mặt với kẻ thù thì “một tấc ko đi một ly không rời” , để mãi
xứng đáng với tám chữ vàng “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
Khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, nhiều anh chị em thương

binh trên mình còn đầy thương tích vẫn vượt lên số phận, tìm một việc làm
phù hợp để vượt qua cái đói, cái nghèo, để tiếp tuc góp phần xây dựng quên
hương, đất nước. Nhiều thân nhân liệt sỹ tuổi đã cao sức đã yếu, nhưng
thông cảm với những khó khăn của đất nước vẫn tần tảo một nắng hai
sương để lo cho bản thân và gia đình một cuộc sống tốt đẹp, nuôi dạy con
cháu trở thành những công dân tốt của đất nước.
Và điều đáng mừng là ở bất kỳ địa phương nào, trong lĩnh vực nào
của đất nước cũng có những thương binh, thân nhân liết sĩ, thậm chí một số
có thương tật, bệnh tật nặng, tuổi cao, đã trở thành anh hùng, chiến sĩ thi
đua, trở thành những nhà khoa học, những nhà quản lý có uy tín, những
người làm ăn giỏi, không chỉ đem lại cuộc sống giàu sang cho gia đình, mà
còn tạo việc làm cho hàng chục, hàng trăm lao động là những gia đình
chính sách, những gia đình nghèo.
Cùng với việc vươn lên trong cuộc sống, nhiều thương binh, bệnh
binh, thân nhân liệt sĩ, vẫn phát huy truyền thống tốt đẹp, được nhân dân tin
yêu, giao phó những trọng trách ở địa phương.(6, 39)
1.3.Các biểu hiện của việc thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối với
người có công với cách mạng.

23


1.3.1.Hoạt động tri trả về mức trợ cấp, phụ cấp cho người có công với
cách mạng.
Việc chi trả trợ cấp chính sách người có công tại phường Lộc Vượng
được thực hiện bằng phương pháp chi trả trực tiếp đến tận tay đối tượng
được hưởng. UBND phường đã ký hợp đồng chi trả với Phòng LĐ - TBXH
Thành phố giao cho đồng chí Trần Đức Yên – Trưởng ban LĐ - TBXH trực
tiếp phát. Căn cứ cụ thể vào danh sách chi trả nhận tại phòng LĐTBXH,
hàng tháng cứ vào chiều ngày 14 đến hết ngày 18 phường chi trả lương

chính sách cho các đối tượng.Việc cấp phát được thực hiện đầy đủ, chính
xác, kịp thời, an toàn đến nay chưa có khiếu kiện xảy ra.
Hiện nay tại địa phương đang thực hiện công tác chi trả cho người có
công theo nghị định 20/2015/NĐ-CP của chính phủ, phân chia thành các
mức tiền trợ cấp cho từng đối tượng như sau:
Mức chuẩn được quy định là: 1.318.000 đồng.
a.

-

-

Tình hình thực hiện chế độ trợ cấp, phụ cấp đối với liệt sĩ, gia

đình liệt sĩ.
Đối với liệt sĩ:
+ Chi phí báo tử: 1.000.000 đồng
+ Trợ cấp một lần khi báo tử = 20 lần mức chuẩn
= 20 x 1.318.000 = 26360000
+ Mai táng phí = 10 tháng tiền lương tối thiểu
= 10 x 1.318.000 = 13180000
+ Đưa phần mộ vào nghĩa trang liệt sĩ và ghi tên vào bia ghi công.
Đối với thân nhân gia đình liệt sĩ:
+ Trợ cấp tiền tuất đối với thân nhân của 1 liệt sĩ: 1.318.000 đồng
+ Trợ cấp tiền tuất đối với thân nhân của 2 liệt sĩ: 2.636.000 đồng
+ Trợ cấp tiền tuất đối với thân nhân của 3 liệt sĩ trở lên: 3.954.000
đồng
+ Trợ cấp tiền tuất đối với vợ hoặc chồng liệt sĩ lấy chồng hoặc vợ
khác: 1.318.000 đồng
+ Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, người có công nuôi dưỡng liệt sĩ,

con từ đủ 18 tuổi trở lên sống cô đơn không nơi nương tựa hoặc con

24


dưới 18 tuổi mồ côi cha, mẹ đang hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng
được hưởng thêm trợ cấp tiền tuất nuôi dưỡng: 1.054.000 đồng.
b. Tình hình thực hiện chế độ trợ cấp, phụ cấp đối với bà mẹ Việt
-

-

-

-

-

Nam anh hùng.
Trợ cấp người phục vụ bà mẹ Việt Nam anh hùng sống ở gia đình:
1.318.000đ/ tháng
Phụ cấp bà mẹ Việt Nam anh hùng: 1.105đ/ tháng.
c. Tình hình thực hiện chế độ trợ cấp, phụ cấp đối với TB, người
hưởng chính sách như TB.
Trợ cấp thương tật = % mất sức lao động ( MSLĐ ) x Mức trợ cấp
Người phục vụ thương binh, thương binh loại B suy giảm KNLĐ
+ Từ 81% trở lên: 1.318.000đ/ tháng/ người
+ Từ 81% trở lên có VTĐB: 1.693.000đ/ tháng/ người.
d. Trợ cấp MSLĐ đối với bệnh binh.
Suy giảm khả năng lao động từ 41% - 50% : 1.376.000đ

Suy giảm khả năng lao động từ 51% - 60% : 1.713.000đ
Suy giảm khả năng lao động từ 61% - 70% : 2.184.000đ
Suy giảm khả năng lao động từ 71% - 80% : 2.519.000đ
Suy giảm khả năng lao động từ 81% - 90% : 3.015.000đ
Suy giảm khả năng lao động từ 91% - 100%: 3.357.000đ.
e. Trợ cấp hàng tháng với người tham gia kháng chiến bị nhiễm
CĐHH.
Bị mắc bệnh suy giảm KNLĐ từ 21% - 40% : 1.001.000đ
Bị mắc bệnh suy giảm KNLĐ từ 41% - 60% : 1.673.000đ
Bị mắc bệnh suy giảm KNLĐ từ 61% - 80% : 2.346.000đ
Bị mắc bệnh suy giảm KNLĐ từ 81% trở lên: 3.005.000đ
Con đẻ còn sống của người HĐKC bị nhiễm CĐHH:
+ Suy giảm KNLĐ từ 61% - 80% : 791.000đ
+ Suy giảm KNLĐ từ 81% trở lên: 1.318.000đ.
f. Người HĐCM hoặc HĐKC bị địch bắt tù đày: 791.000đ.

1.3.2.Các hoạt động về chăm sóc sức khỏe – điều dưỡng cho người có
công.
Hoạt động chăm sóc sức khỏe cho người có công, nhất là nhóm đối
tượng Thương binh, bệnh binh, người HĐKC nhiễm CĐHH là những
người rất cần đến chế độ chăm sóc nhất là về vấn đề chăm sóc sức khỏe và
nâng cao chất lượng cuộc sống. Cụ thể hoạt động này được tổ chức dưới
hình thức điều dưỡng phục hồi sức khỏe cụ thể như sau:
25


×