Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH xã hội đối với NGƯỜI yếu THẾ tại TRUNG tâm bảo TRỢ xã hội QUẢNG NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.24 KB, 76 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do tơi nghiên cứu; các số liệu trong
Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết quả nghiên cứu của Luận văn
chưa từng được công bố trong các cơng trình khác
Quảng Nam, ngàytháng
Tác giả luận văn

Lê Kiều Mỹ Phương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI YẾU THẾ TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI TỈNH
QUẢNG NAM: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN...........................................9
1.1. Khái niệm an sinh xã hội và chính sách an sinh xã hội cho người yếu thế
tại trung tâm Bảo trợ xã hội............................................................................. 9
1.2. Quy trình tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với người yếu
thế...................................................................................................................16
1.3. Chủ thể thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với người yếu thế........20
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới q trình thực hiện chính sách an sinh xã hội
đối với người yếu thế..................................................................................... 22
CHƯƠNG 2:

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH

SÁCH AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI YẾU THẾ TẠI TRUNG
TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI TỈNH QUẢNG NAM......................................25
2.1. Khái quát đặc điểm của người yếu thế và Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh
Quảng Nam.................................................................................................... 25
2.2. Q trình thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với người yếu thế tại


Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng Nam....................................................35
2.3. Thành tựu và hạn chế của việc thực hiện chính sách an sinh xã hội đối
với người yếu thế tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng Nam.................48
CHƯƠNG 3:

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO

HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI YẾU THẾ TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỔI TỈNH
QUẢNG NAM.............................................................................................. 56


3.1 Quan điểm, định hướng............................................................................56
3.2. Nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách an sinh xã
hội đối với người yếu thế tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng Nam.....56
KẾT LUẬN................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Từ
1
2
3
4
5
6

7
8
9
10


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

T

Bảng

Đ

2.1

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Số hiệu
Sơ đồ

Tên sơ đồ

Sơ đồ bộ máy tổ chức Trung tâm bảo tr

2.1 34

Quảng Nam.



MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Từ khi thực hiện đường lối đổi mới (1986) đến nay, Đảng và Nhà nước
Việt Nam luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách an
sinh xã hội (ASXH) cho người dân, đặc biệt là nhóm người yếu thế, coi đây
vừa là mục tiêu, vừa là động lực để ổn định chính trị - xã hội, phát triển bền
vững. ASXH được xác định là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội,
nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bảo đảm
ASXH là điều kiện để bảo đảm định hướng XHCN cho sự phát triển của nền
kinh tế thị trường, phản ánh bản chất tốt đẹp của chế độ.
Chính phủ Việt Nam đặt quyết tâm phát triển hệ thống ASXH phù hợp với
một quốc gia có thu nhập trung bình và với các chuẩn mực quốc tế, đảm bảo
ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của con người, Nghị quyết số 15-NQ/TW
ngày 1/6/2012 “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020” của
Ban chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: Đến năm 2020 cơ bản hình thành
hệ thống ASXH bao phủ toàn dân với các yêu cầu: bảo đảm để người dân có
việc làm, thu nhập tối thiểu; tham gia bảo hiểm xã hội, bảo đảm hỗ trợ những
người có hồn cảnh đặc biệt khó khăn (trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao
tuổi thu thập thấp, người khuyết tật nặng, người nghèo…); bảo đảm cho người
dân tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu (y tế, giáo dục, nhà
ở, nước sạch, thơng tin), góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc
sống an tồn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân.

Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự cố gắng của tồn dân, cơng
tác bảo đảm ASXH ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, được

quốc tế đánh giá cao: Hệ thống các chính sách an sinh xã hội ngày càng đồng
bộ và hồn thiện trên các lĩnh vực: xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm,
đào tạo nghề, phát triển hệ thống bảo hiểm, ưu đãi người có cơng với cách
1


mạng, trợ giúp xã hội, mở rộng các dịch vụ xã hội công cộng, tạo điều kiện
để người dân được hưởng thụ nhiều hơn về văn hóa, y tế và giáo dục. Cùng
với nguồn lực không ngừng tăng lên và những nỗ lực trong tổ chức thực hiện,
công tác an sinh xã hội ngày càng được bảo đảm tốt hơn, góp phần quan
trọng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội. Tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta đã giảm mạnh, từ hơn 58%
năm 1993, xuống còn khoảng 3,73%- 4,23% cuối năm 2019 theo chuẩn đa
chiều [Báo cáo số 551/BC- LĐTBXH ngày 16/12/2019 Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội] Thành tích giảm nghèo của Việt Nam tiếp tục là
điểm sáng, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao và coi Việt Nam là một điển
hình trong việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo toàn cầu. Năm 2006, Việt
Nam tuyên bố đã hoàn thành mục tiêu phát triển thiên niên kỷ về xóa nghèo,
về đích trước 10 năm so với thời hạn đề ra năm 2015. Việt Nam đã trở thành
một trong số những nước đi đầu ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương trong
áp dụng phương pháp đo lường nghèo đa chiều để giảm nghèo ở tất cả các
chiều cạnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn không thể phủ nhận, công
tác bảo đảm ASXH ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập do năng lực thực hiện
các chính sách ASXH ở Việt Nam còn nhiều hạn chế, đặc biệt là việc thực
hiện các chính sách ASXH đối với nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội. Điều
này dẫn đến tình trạng: khoảng cách giàu nghèo ngày càng doãng rộng, dẫn
đến nhiều hệ lụy trong xã hội. Quỹ BHYT đã và đang thâm hụt ngày càng lớn
với mức hàng nghìn tỷ đồng hàng năm [Báo cáo số 551/BC- LĐTBXH ngày
16/12/2019 Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.

Xuất phát từ những lý do trên, gắn với thực tế tại địa phương đang cơng
tác tơi lựa chọn đề tài “Thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với người
yếu thế tại Trung tâm Bảo trợ xã hội Quảng Nam” để làm luận văn tốt
2


nghiệp chun ngành Chính sách cơng.
2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Công tác bảo trợ xã hội (BTXH) đã và đang là vấn đề mà các quốc gia
trên thế giới đặc biệt quan tâm, vì nó là một trong những biện pháp cơ bản tác
động đến các đối tượng yếu thế trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu ASXH,
bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội góp phần tăng trưởng và phát triển bền
vững. Trong những năm qua, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu, viết về
ASXH ở góc độ lý luận, chính sách và thực tiễn khác nhau. Một số cơng trình
tiêu biểu có thể kể đến như:
-

Tác giả Mai Ngọc Cường (2009) với cơng trình Cơ sở khoa học của

việc xây dựng, hồn thệ hệ thống chính sách ASXH ở nước ta giai đoạn 2006
-2015 đề tài nằm trong chương trình KH và CN trọng điểm cấp Nhà nước Bộ Khoa học và Cơng nghệ. Cơng trình đã làm rõ được những vấn đề cơ bản
về ASXH và hệ thống chính sách ASXH trong nền kinh tế thị trường; đánh
giá thực trạng của hệ thống chính sách và thực thi chính sách ASXH. Đề xuất
các giải pháp xây dựng hệ thống tổng thế quốc gia về ASXH ở Việt Nam giai
đoạn 2006-2015.
-Cơng trình Phát triển hệ thống ASXH tại Việt Nam đến năm 2020,
(2013) của Nhóm biên soạn: Nguyễn Thị Lan Hương, Đặng Kim Chung, Lưu

Quang Tuấn, Nguyễn Bích Ngọc, Đặng Hà Thu, Viện khoa học Lao động và
xã hội, Hà Nội. Các tác giả giới thiệu đến những vấn đề chung về ASXH, nội
dung cơ bản của Nghị quyết 15- NQ/TW, các kết quả đạt được, những tồn tại
của chính sách ASXH hiện hành và các định hướng chính sách cho giai đoạn
đến năm 2020. Trong đó, BTXH với định hướng đảm bảo mức tối thiểu một
số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, đặc biệt là người nghèo, dân tộc
thiểu số và người có hồn cảnh khó khăn.
- Tác giả Nguyễn Văn Chiểu với “Chính sách an sinh xã hội và vai trò
3


của nhà nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam”
(2014), đã đề cập đến một số vấn đề lý luận cơ bản chính sách an sinh xã hội
và kinh nghiệm một số nước; thực trạng thực thi chính sách ASXH ở Việt
Nam trong gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới; vai trò của nhà nước
trong việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam hiện nay; phương hướng
và những giải pháp chủ yếu nâng cao vai trò của nhà nước trong việc thực
hiện chính sách ASXH ở Việt Nam. Với những kết quả nghiên cứu của cơng
trình này đã giúp cho luận văn kế thừa được nội dung tính tất yếu, vai trò và
yêu cầu đặt ra đối với nhà nước trong việc thực hiện chính sách ASXH (tính
tất yếu được thể hiện ở các nội dung: bản chất, chức năng xã hội của nhà
nước, khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường, đảm bảo quyền cơ
bản của con người, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế).
Cơng trình “Thực trạng chính sách việc làm và trợ giúp thất nghiệp, định
hướng 2015” của tác giả Nguyễn Đại Đồng đã làm rõ những lý luận về việc
làm và thất nghiệp, trợ giúp thất nghiệp đồng thời phân tích mối quan hệ giữa
việc làm và thất nghiệp, trợ giúp thất nghiệp nhằm đưa ra những khuyến nghị
trong việc hồn thiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp, đặc biệt là sau khi
thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp từ năm 2009 theo quy định của Luật
BHXH.

Tác giả Nguyễn Hải Hữu (2013) với cơng trình “Thực trạng chính sách
trợ giúp xã hội và định hướng 2015”, đã tập trung phân tích thực trạng chính
sách trợ giúp xã hội cho các đối tượng yếu thế như: Trẻ em mồ côi cả cha và
mẹ, trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng, người khuyết tật, người cao tuổi
thuộc hộ nghèo, hoặc người cao tuổi từ 80 tuổi trở lên không có lương hưu
hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội.
Cơng trình “Phát triển hệ thống an sinh xã hội Việt Nam đến năm 2020”
do tác giả Nguyễn Thị Lan Hương (2013) làm chủ nhiệm đã khái quát lý luận
4


an sinh xã hội, an sinh xã hội ở Việt Nam, xu hướng phát triển của chính sách
an sinh ở Việt Nam qua các hợp phần: chính sách hỗ trợ tạo việc làm, chính
sách bảo hiểm xã hội, nhóm chính sách trợ giúp xã hội, đảm bảo mức tối
thiểu các dịch vụ xã hội cơ bản. Đặc biệt, nghiên cứu này đã đưa ra khuyến
nghị áp dụng sàn an sinh xã hội của ILO phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội của nước ta.
Tác giả Lê Tấn Dũng – Thứ trưởng Bộ Lao động thương binh và xã hội
với bài viết “Việt Nam hướng đến xây dựng một hệ thống an sinh xã hội bền
vững” (2021) đăng trên Tạp chí Cơng sản. Theo tác giả, trên cơ sở xác định
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính
sách phát triển và giải quyết tốt lao động, việc làm, thu nhập cho người lao
động, bảo đảm an sinh xã hội,... để mọi người dân đều có cơ hội và điều kiện
phát triển toàn diện.... Bài viết đã chỉ ra được những kết quả nổi bật mà Việt
Nam đạt được trong thời gian qua. Đó là chính sách giải quyết việc làm, tăng
thu nhập và giảm nghèo đạt được nhiều thành quả tích cực; chính sách bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế được bổ sung, sửa đổi đã mở rộng cơ hội tham
gia, thụ hưởng của người dân và tăng cường bền vững tài chính của các quỹ
bảo hiểm; cơng tác trợ giúp xã hội cho người có hồn cảnh đặc biệt khó khăn,
từng bước chuyển sang hướng tiếp cận dựa trên quyền con người, lấy con

người là trung tâm; hệ thống các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu được chú
trọng đầu tư, phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận và thụ
hưởng; tài chính cho an sinh xã hội được tăng cường, trong đó ngân sách nhà
nước giữ vai trò chủ đạo và phát huy sự tham gia đóng góp của doanh nghiệp,
người dân và cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó hệ thống an sinh xã
hội còn tồn tại một số hạn chế, bài viết đã chỉ ra được 3 hạn chế còn tồn tại và
chú trọng thực hiện 5 giải pháp: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; phát huy
vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội,
5


sự tham gia của nhân dân trong thực hiện chính sách an sinh xã hội; tiếp tục
hoàn thiện cơ chế, chính sách và nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách an
sinh xã hội hướng đến bao phủ toàn dân; đa dạng hóa nguồn lực, đồng thời
thực hiện lồng ghép để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực cho thực hiện
chính sách xã hội; hiện đại hóa hệ thống quản lý đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội; tăng
cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan hoạch định chính sách và cung
cấp dịch vụ xã hội. Đồng thời, tăng cường các nghiên cứu, đánh giá độc lập
về chính sách và kết quả thực hiện chính sách an sinh xã hội.
Các nghiên cứu trên đã đưa ra được cách nhìn tổng qt về ASXH với
các mơ hình, chính sách trên thế giới và ở Việt Nam, các giải pháp hồn thiện
luật ASXH …trong đó có chính sách về BTXH (tại mỗi thời điểm nghiên
cứu). Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu, bài viết nào đi sâu vào phân tích những
việc thực hiện chính sách ASXH đối với người yếu thế tại Trung tâm Bảo trợ
xã hội tỉnh Quảng Nam. Từ những vấn đề nêu trên cho thấy cần phải tiếp cận
trên góc độ khoa học quản lý để lý giải cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của việc
thực hiện chính sách đối với người yếu thế một cách tồn diện, từ đó đề xuất
các giải pháp đề hồn thiện hơn nữa q trình thực hiện chính sách đối với
người yếu thế cho phù hợp với quá trình phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh

Quảng Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích và làm rõ việc thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với
người yếu thế tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng Nam từ đó đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chính sách an
sinh xã hội đối với người yếu thế tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng
Nam trong thời gian tới.
6


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách an sinh xã

hội đối với người yếu thế.
-

Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách an sinh xã hội đối

với người yếu thế tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng Nam; chỉ rõ
những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế;
-

Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện

chính sách an sinh xã hội đối với người yếu thế tại Trung tâm Bảo trợ xã hội
tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện chính sách an sinh xã hội
đối với người yếu thế tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tại tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện chính sách an
sinh xã hội đối với người yếu thế tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tại tỉnh Quảng
Nam.
Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách
an sinh xã hội tại tỉnh Quảng Nam từ năm 2016 - 2020.
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm chỉ đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước
Việt Nam về chính sách bảo trợ xã hội nói chung và chính sách an sinh xã hội
đối với người yếu thế nói riêng.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
7


Để thực hiện được các mục tiêu trên, luận văn sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp sau:
-

Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp; Phương pháp phân tích, so sánh,

tổng hợp; Phương pháp thống kê, tổng kết thực tiễn:.
6.


Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận
Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận về thực hiện
chính sách an sinh xã hội đối với người yếu thế tại Trung tâm Bảo trợ xã hội
tỉnh Quảng Nam góp phần làm rõ hơn những luận cứ khoa học nhằm đánh
giá khách quan, chính xác về q trình thực hiện chính sách đối với người
yếu thế ở địa phương.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu khoa học, học
tập các chuyên đề có liên quan đến thực hiện chính sách an sinh xã hội đối
với người yếu thế tại Trung tâm Bảo trợ xã hội ở các địa phương nói chung
và tỉnh Quảng Nam nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu làm 3 chương, 13 Tiết.

8


CHƯƠNG 1
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI YẾU
THẾ TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI TỈNH QUẢNG NAM:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm an sinh xã hội và chính sách an sinh xã hội cho người
yếu thế tại trung tâm Bảo trợ xã hội
1.1.1. Khái niệm an sinh xã hội
An sinh xã hội là một khái niệm có nội hàm rộng và ngày càng hoàn
thiện về nhận thức và thực tiễn thực hiện trên toàn thế giới. Tuy nhiên tùy
theo quan điểm của một số tổ chức quốc tế mà khái niệm an sinh xã hội có

mức độ rộng, hẹp và đối tượng hướng tới khác nhau.
Mặc dù mỗi tổ chức có cách định nghĩa khác nhau về an sinh xã hội,
nhưng khái quát lại có thể thấy rằng các quan niệm về an sinh xã hội đều có
những điểm chung sau đây:
(i)

Là các chính sách đều do nhà nước tổ chức thực hiện là chính, ngồi

ra cịn có sự tham gia của các tổ chức xã hội, cộng đồng và thị trường trong
việc tổ chức thực hiện và cung cấp dịch vụ an sinh xã hội. Các chính sách này
hướng đến mọi thành viên trong xã hội, bảo đảm cho mọi thành viên được
bình đẳng về tiếp cận và chất lượng dịch vụ, tuy nhiên, nhấn mạnh đến nhóm
đối tượng yếu thế.
(ii)

Là lưới an toàn cho mọi thành viên trong xã hội.

1.1.2. Khái niệm người yếu thế
Thuật ngữ "yếu thế/ thiệt thòi" được sử dụng theo truyền thống như một
tính từ nhằm mơ tả chất lượng vốn có của một nhóm đối tượng - yếu thế/ thiệt
thịi.
Đó là nhóm người ln ln có sự hiện diện của "rào cản đối với khả
năng tự túc của họ “ Đây là những cách thức mà người dân bị từ chối tiếp cận
9


với các phương tiện cần thiết bao gồm các nguồn lực mà bản thân họ khơng
có.
Đó là nhóm có hồn cảnh khó khăn, được xác định theo những mơ hình
cụ thể của nguồn lực bị từ chối và rào cản nó phải đối mặt. Một nhóm có thể

gặp phải nhiều rào cản. Một số rào cản có thể dễ dàng vượt qua được. Mỗi
nhóm có mơ hình thiệt thịi riêng của mình và các rào cản cho việc tự cung tự
cấp; điều này có ngụ ý rằng tùy theo từng nhóm để hình thành các giải pháp
được cho là phù hợp và tốt nhất cho nhóm.
Khi vượt qua được sự yếu thế/thiệt thịi, thì họ khắc phục được khả năng
khơng tiếp cận được các phương tiện thiết yếu hoặc loại bỏ rào cản đối với sự
tự cung tự cấp. Điều này có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức, tùy
thuộc vào mơ hình yếu thế của họ, nhưng nó sẽ cho phép họ nâng cao vị thế ở
chính nỗ lực của nhóm để phát triển các cơng cụ hoặc các nguồn lực cần thiết
cho khả năng tự túc của riêng nhóm.
Điều đáng chú ý là nhóm có “những hồn cảnh khó khăn” nhưng khơng
có nghĩa rằng "cho họ nhiều tiền mặt hơn" sẽ giải quyết được vấn đề của họ;
và cũng khơng có nghĩa rằng "Chính phủ trợ giúp nhiều" sẽ khắc phục những
gì đã gây ra cho họ.
Rào cản đối với tự cung tự cấp là cách mà mọi người không được tiếp
cận với các công cụ cần thiết để tự cung tự cấp. Hàng rào bao gồm:
1.

Chưa có nguồn tài nguyên vốn: Tài nguyên (việc làm, v.v..) có thể

khơng có sẵn đủ số lượng cơ hội cho nhóm nhất định; một số cơng cụ có thể
được thiết kế với các giá trị và giả định của xã hội trong điều kiện cụ thể,
nhưng không phải phù hợp với họ. Để có ích, một cơng cụ phải được phù hợp
với nền văn hóa của nhóm. Một số cơng cụ có sẵn khơng phải là hữu ích cho
các nhóm khác.
2.
tài

Khơng thể tiếp cận nguồn tài ngun: Nếu có sẵn, các nguồn


10


ngun vẫn có thể khơng được tiếp cận từ những người nhất định, vì vùng
miền địa phương hoặc từ xa, hoặc thiếu công khai. Năng lực cá nhân cần thiết
để tiếp cận các tài nguyên như lòng tự trọng, y tế… cịn hạn chế … Ngồi ra,
năng lực cần thiết để phát triển hoặc theo đuổi các nguồn lực khác, chẳng hạn
như giáo dục, thơng tin, hoặc việc làm, có thể khơng có sẵn do các nhu cầu
khác, như ni gia đình hoặc theo đuổi vốn tự cung tự cấp.
3.

Sự kỳ thị của xã hội: Thực tế, trong cộng đồng luôn tồn tại sự

“thương hại“ những người yếu thế. Xuất phát từ cách nhìn nhận đó, nên nhiều
khi việc chia sẻ, tạo điều kiện, cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội đối với người
yếu được xem như làm phúc. Tất cả những điều đó khiến người yếu thế tự ti,
mặc cảm, thậm chí chấp nhận sự thương hại.
4.

Thể chế hóa (Chính phủ, chương trình, cơ quan, hệ thống tổ chức xã

hội). Về mặt thể chế có thể đầy đủ hoặc không đầy đủ hoặc phản tác dụng đối
với cảnh ngộ của các nhóm nhất định. Pháp luật có thể bảo vệ hoặc hỗ trợ
một nhóm, nhưng luật pháp cũng có thể khơng được thi hành, hoặc có thể
được thực hiện không đầy đủ. (Theo Steven. E. Mayer, Effective
Communitive Project, trên www.effectivecommunities.com, 11/ 2003).
Ngồi ra cịn kể đến người tị nạn, người xin tị nạn, người bị xã hội loại
trừ (theo ). Theo cách xác định này thì người nghèo,
người thất nghiệp cũng được coi thuộc nhóm yếu thế/ thiệt thòi.
Trong một số nghiên cứu ở Việt Nam còn kể thêm nhóm người là nạn

nhân chiến tranh, đặc biệt nạn nhân chất độc da cam, nhóm bị bạo lực gia
đình, nạn nhân bị quấy rối và lạm dụng tình dục, nạn nhân buôn bán người,
các đối tượng mắc bệnh xã hội, trẻ em bị ảnh hưởng của HIV/AIDS…
Như vậy có thể nói, nhóm yếu thế (hay nhóm thiệt thịi) là nhóm xã hội
đặc biệt, có hồn cảnh khó khăn hơn, có vị thế xã hội thấp kém hơn so với
với các nhóm xã hội “bình thường” có những đặc điểm tương tự.
11


Để nâng cao vị thế xã hội, giảm sự thiệt thòi, họ rất cần được sự quan
tâm, giúp đỡ, hỗ trợ từ xã hội, đặc biệt thể hiện qua việc thực hiện các chính
sách ASXH của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đối với nhóm đối tượng này.
1.1.3. Khái niệm trung tâm bảo trợ xã hội
Hiện nay, chưa có khái niệm riêng về Trung tâm bảo trợ xã hội. Mà chủ
yếu các văn bản quy định về cơ sở trợ giúp xã hội. Theo đó, cơ sở trợ giúp xã
hội bao gồm các cơ sở trợ giúp xã hội công lập và ngồi cơng lập, là một
trong những hình thức và phương thức hoạt động của hệ thống trợ giúp xã
hội, là nơi các đối tượng có hồn cảnh đặc biệt tìm đến để nương tựa và vượt
qua khó khăn trong cuộc sống. Trong đó, cơ sở trợ giúp xã hội công lập do cơ
quan nhà nước thành lập, quản lý, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm
kinh phí cho thực hiện các nhiệm vụ; cơ sở trợ giúp xã hội ngồi cơng lập do
các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư xây dựng cơ
sở vật chất và bảo đảm kinh phí cho thực hiện các nhiệm vụ của cơ sở.
Mặc dù có sự khác nhau về chủ thể thành lập, nhưng theo quy định của
pháp luật, một cơ sở trợ giúp xã hội dù là cơng lập hay ngồi cơng lập, để
được thành lập, tổ chức và hoạt động phải chịu sự quản lý của Nhà nước và
phải đảm bảo các yếu tố: có tư cách pháp nhân, con dấu và tài khoản riêng;
có tên gọi bằng tiếng Việt và tiếng nước ngồi, biểu tượng riêng (nếu có). Tên
và biểu tượng của cơ sở trợ giúp xã hội phải đáp ứng các điều kiện: không
trùng lắp hoặc gây nhầm lẫn với tên hoặc biểu tượng của cơ sở khác đã được

đăng ký trước đó; khơng vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và
thuần phong mỹ tục của dân tộc; trụ sở hoạt động của cơ sở trợ giúp xã hội
phải đặt trên lãnh thổ Việt Nam và có địa chỉ cụ thể.
Các loại hình cơ sở trợ giúp xã hội được quy định tại Điều 5 Nghị định
103/2017/NĐ-CP bao gồm:
1.

Cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc người cao tuổi.
12


4.

2.

Cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc trẻ em có hồn cảnh đặc biệt.

3.

Cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc người khuyết tật.

Cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc và phục hồi chức năng cho người tâm

thần, người rối nhiễu tâm trí.
5.

Cơ sở bảo trợ xã hội tổng hợp thực hiện việc chăm sóc nhiều đối

tượng bảo trợ xã hội hoặc đối tượng cần trợ giúp xã hội.
6.


Trung tâm công tác xã hội thực hiện việc tư vấn, chăm sóc khẩn cấp

hoặc hỗ trợ những điều kiện cần thiết khác cho đối tượng cần trợ giúp xã hội.
7.

Cơ sở trợ giúp xã hội khác theo quy định của pháp luật.

Như vậy: Trung tâm bảo trợ xã hội là một loại hình cơ sở trợ giúp xã
hội, thực hiện nhiệm vụ chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội (có thể một hoặc
nhiều đối tượng khác nhau).
1.1.4. Nội dung chính sách an sinh xã hội đối với người yếu thế
Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, tồn diện, từng bước mở
rộng diện bao phủ, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa
các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ đang là đích đến của các
quốc gia trên thế giới. Theo đó, chính sách an sinh xã hội cần tập trung vào
nội dung chính như sau:
Một là, hỗ trợ thường xun đối với người có hồn cảnh đặc thù và hỗ
trợ đột xuất cho người dân khi gặp các rủi ro không lường trước hoặc vượt
quá khả năng kiểm soát (mất mùa, thiên tai, động đất, chiến tranh, đói
nghèo,...) thơng qua các khoản tiền mặt và hiện vật do ngân sách nhà nước
bảo đảm.
Hai là, tăng cường tiếp cận của người dân đến hệ thống dịch vụ xã hội
cơ bản, như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và vệ sinh môi trường, thông tin.


Việt Nam, an sinh xã hội được xác định là một bộ phận quan trọng

của chính sách xã hội, nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất
13



nước. Bảo đảm an sinh xã hội là điều kiện để bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường, phản ánh bản chất tốt đẹp
của chế độ ta.
Hiện nay, hệ thống văn bản chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam rất
phong phú, đa dạng với nhiều hợp phần, nội dung đan xen. Nhưng chủ yếu
tập trung vào 4 nhóm sau:
(1) Chính sách bảo hiểm xã hội.
(2) Chính sách hỗ trợ các đối tượng khó khăn và được chia thành hai
nhóm nhỏ: trợ giúp xã hội và hỗ trợ rủi ro đột xuất do thiên tai và rủi ro thị
trường.
(2) Chính sách hỗ trợ tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu và được chia
thành 5 nhóm nhỏ: hỗ trợ giáo dục tối thiểu; hỗ trợ y tế tối thiểu; hỗ trợ nhà ở,
bảo đảm nước sạch và bảo đảm thông tin truyền thông cho người nghèo.

Tuy nhiên, trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn tập trung vào đối
tượng yếu thế đang được chăm sóc, ni dưỡng tại Trung tâm Bảo trợ xã hội
cho nên các chính sách tập trung cho nhóm đối tượng là:
(1) Chính sách trợ cấp xã hội hàng tháng (trợ cấp xã hội thường
xuyên).
-

Đối tượng được hưởng trợ cấp thường xuyên

Trẻ em dưới 16 tuổi khơng có nguồn ni dưỡng thuộc một trong các
trường hợp quy định sau đây: Bị bỏ rơi chưa có người nhận làm con ni; Mồ
cơi cả cha và mẹ; Mồ cơi cha hoặc mẹ và người cịn lại mất tích theo quy
định của pháp luật; Mồ cơi cha hoặc mẹ và người còn lại đang hưởng chế độ
chăm sóc, ni dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội; Mồ cơi cha hoặc

mẹ và người cịn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam
hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo
dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; Cả cha và mẹ mất
14


tích theo quy định của pháp luật; Cả cha và mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc,
ni dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội; Cả cha và mẹ đang trong thời
gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý
vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai
nghiện bắt buộc; Cha hoặc mẹ mất tích theo quy định của pháp luật và người
cịn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, ni dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà
xã hội; Cha hoặc mẹ mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại
đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành
quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục
bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; Cha hoặc mẹ đang hưởng chế độ chăm
sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội và người còn lại đang
trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết
định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt
buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc. Người từ 16 tuổi đến 22 tuổi thuộc một
trong các trường hợp quy định tại Khoản 1 nêu trên mà đang học phổ thông,
học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất. Trẻ
em bị nhiễm HIV thuộc hộ nghèo; người bị nhiễm HIV thuộc hộ nghèo
khơng cịn khả năng lao động mà khơng có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã
hội hàng tháng, trợ cấp ưu đãi người có cơng hàng tháng, trợ cấp hàng tháng
khác.
-

Người cao tuổi.


-

Người khuyết tật.

(2) Chính sách trợ giúp về y tế
-

Đối tượng được cấp thẻ BHYT:

Theo quy định tại Điều 9, Nghị định 136 thì các đối tượng sau đây
được nhà nước cấp thẻ BHYT bao gồm: Trẻ em dưới 16 tuổi khơng có nguồn
ni dưỡng: Người từ 16 tuổi đến 22 tuổi thuộc một trong các trường hợp
15


quy định tại Khoản 1 Điều này mà đang học phổ thông, học nghề, trung học
chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất; Trẻ em bị nhiễm HIV
thuộc hộ nghèo; người bị nhiễm HIV thuộc hộ nghèo không cịn khả năng lao
động mà khơng có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, ưu đãi
người có công hàng tháng, trợ cấp hàng tháng khác. Người cao; Con của
người đơn thân nghèo đang nuôi con. Người thuộc hộ nghèo khơng có chồng
hoặc khơng có vợ; có chồng hoặc vợ đã chết; có chồng hoặc vợ đã chết theo
quy định của pháp luật Người khuyết tật nặng và người khuyết tật đặc biệt
nặng. Người từ đủ 80 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp tuất bảo hiểm xã hội
hàng tháng, trợ cấp hàng tháng khác mà chưa được cấp BHYT miễn phí.
(3)

-

Chính sách về hỗ trợ mai táng


Đối tượng BTXH khi chết được hỗ trợ chi phí mai táng bằng 20 lần

mức chuẩn trợ giúp xã hội (theo Điều 11, Nghị định 136/2013/NĐ- CP).
1.2. Quy trình tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với
người yếu thế
Chính sách là một tập hợp các biện pháp của Nhà nước nói chung và
Chính phủ nói riêng lựa chọn, được thể chế hóa và bảo đảm thực thi để giải
quyết các vấn đề xã hội hoặc phát triển xã hội theo kỳ vọng.
Rõ ràng, từ khi phát hiện thấy những mâu thuẫn, những vấn đề nảy sinh
trong đời sống chính trị, xã hội địi hỏi cần phải được giải quyết bằng chính
sách cơng.
Để tổ chức thực hiện chính sách ASXH đối với người yếu thế có hiệu
quả cần phải tuân thủ một quy trình chặt chẽ và thống nhất quy trình tổ chức
thực hiện chính sách là trình tự các bước trong tổ chức triển khai, thực hiện
chính sách. Quy trình tổ chức thực hiện chính sách ASXH đối với người yếu
thế gồm các bước, mỗi bước có yêu cầu, nhiệm vụ khác nhau, nhưng có hiệu
lực tác động qua lại lẫn nhau, hướng tới mục tiêu đảm bảo hiệu quả thực hiện
16


chính sách, quy trình tổ chức thực hiện chính sách ASXH đối với người yếu
thế gồm các bước sau:
Bước 1:
Kế hoạch là bản mô tả cụ thể, chi tiết, rõ ràng từng bước cụ thể để thực
hiện chính sách trên thực tế do chủ thể quản lý lập ra tác động lên đối tượng
quản lý để đạt dược mục tiêu đề ra theo một thời gian, nguồn lực xác định.
Kế hoạch thực hiện chính sách ASXH cho người yếu thế phải nêu được
cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp; nguồn lực bảo đảm thực hiện; thời gian
thực hiện..

Bước 2: Phổ biến tuyên truyền chính sách ASXH đối với người yếu thế:
Phổ biến, tun truyền hay truyền thơng chính sách (PBTTCS) là một
trong các bước không thể thiếu trong tổ chức THCS. PBTTCS có tác dụng
làm cho các đối tượng chính sách và tồn thể nhân dân nhận thức được vai
trị của mình trong xã hội để họ phát huy quyền làm chủ xã hội trong việc
chấp hành chính sách. PBTTCS cịn là hình thức cơng khai, mở rộng dân chủ
để “người dân biết, người dân bàn, người dân làm” trong tổ chức THCS.
Thơng qua đó, người dân mạnh dạn tham gia vào quản lý xã hội, tự giác chấp
hành chính sách, chủ động đề xuất, kiến nghị với các cơ quan nhà nước các
giải pháp thực hiện mục tiêu chính sách ASXH đối với người yếu thế, các
phương pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả của chính sách.
PBTTCS cần phải tập trung vào các nội dung: về mục tiêu của chính
sách, các giải pháp, cơng cụ chính sách, thể chế chính sách và đối tượng
chính sách. Cụ thể như, đối với chính sách ah sinh xã hội cho người yếu thế
hiện nay, cần phổ biến, tuyên truyền làm sao để các đối tượng cũng như toàn
thể nhân dân hiểu được mục tiêu chính sách ASXH là nhằm “cải thiện và
từng bước nâng cao điều kiện sống của người yếu thế, góp phần bảo đảm
cơng bằng xã hội.
17


Bước 3: Phân cơng phối hợp thực hiện chính sách ASXH đối với người
yếu thế:
Sự tương tác và trao đổi giữa các cơ quan và cá nhân trong thực thi
chính sách là một yếu tố quan trọng để thực thi chính sách có hiệu quả. Sự
tương tác và trao đổi nhằm mục đích làm cho các cơ quan và cá nhân có liên
quan nắm rõ nội dung của chính sách cũng như kế hoạch thực thi, từ đó tạo ra
sự thống nhất trong nhận thức đối với mục tiêu chính sách và các vấn đề có
liên quan. Sự tương tác và trao đổi có hiệu quả là một trong những điều kiện
quan trọng để thực thi thành cơng chính sách. Điều này là vì, theo chiều dọc,

sự tương tác và trao đổi làm cho cấp dưới nắm bắt được mục tiêu và u cầu
chính sách của cấp trên, cịn cấp trên cũng có thể nắm bắt được tình hình triển
khai thực hiện của cấp dưới hay cấp thực thi trực tiếp; theo chiềungang, việc
thực thi chính sách thường liên quan đến nhiều cơ quan và nhiều người với
chức năng, nhiệm vụ cụ thể, nhưng trong quá trình hợp tác giữa các cơ quan
và thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công không tránh khỏi việc nảy sinh một
số vấn đề, thậm chí là sự mâu thuẫn và xung đột. Vì vậy, sự tương tác, chia sẻ
ý kiến và trao đổi theo chiều ngang có tác dụng giải quyết một số vấn đề nảy
sinh trong quá trình thực hiện sự hợp tác, phối hợp giữa các cơ quan. Từ mối
quan hệ giữa chủ thể thực thi chính sách với đối tượng chính sách (hệ thống
tổ chức, cá nhân thực thi chính sách ASXH đối với người yếu thế và đối
tượng thụ hưởng chính sách) mức độ ủng hộ và tiếp nhận của đối tượng chính
sách được quyết định bởi sự tương tác giữa chủ thể thực thi chính sách và đối
tượng chính sách. Do đó, việc chủ thể thực thi chính sách thông qua các kênh
và phương thức khác nhau để truyền tải nội dung chính sách cho đối tượng
chính sách, làm cho đối tượng chính sách hiểu rõ ý nghĩa và mục đích của
chính sách cũng sẽ làm tăng lên sự tiếp nhận và ủng hộ của đối tượng chính
sách đối với chính sách.
18


Chủ thể ban hành và tổ chức thực thi chính sách là hệ thống các cơ quan
nhà nước và hành chính nhà nước có thẩm quyền nhưng đối tượng chính sách
lại là toàn dân, toàn diện. Điều này dẫn tới các nguy cơ về sự bất đồng trong
động lực chính sách, trong nhận diện vấn đề chính sách hay tìm kiếm các giải
pháp chính sách. í dụ, trong bối cảnh doanh nghiệp ưu tiên quan tâm về duy
trì sản xuất và kinh doanh, lợi nhuận và duy trì sức cạnh tranh trong nội địa
cũng như xuất khẩu nên khơng thích các biện pháp dãn cách hay cách ly xã
hội; còn người dân thì quan tâm nhiều hơn tới sức khỏe và sự tiện dụng của
các hình thức giao dịch khơng kèm theo các rủi ro lây bệnh; trong khi Nhà

nước vừa đặt mục tiêu kép là dập dịch (ưu tiên sức khỏe, nỗ lực hạn chế sự
lan rộng của dịch bệnh) đồng thời, nỗ lực phục hồi và duy trì sức khỏe nền
kinh tế một cách toàn diện. Các mục tiêu ưu tiên này dẫn tới các trông đợi
khác nhau và các động thái khác nhau, thậm chí mâu thuẫn trong đầu tư
nguồn lực từ phía các bên.
Bước 4: Duy trì chính sách ASXH đối với người yếu thế:
Duy trì chính sách an sinh xã hội đối với người yếu thế chính là q
trình các chủ thể làm cho chính sách tồn tại.
Bước 5: Điều chỉnh chính sách ASXH đối với người yếu thế:
Việc làm này là cần thiết, diễn ra thường xun trong q trình tổ chức
thực thi chính sách ASXH đối với người yếu thế. Nó được thực hiện bởi các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thơng thường cơ quan nào lập chính sách
thì có quyền điều chỉnh). Việc điều chỉnh này phải đáp ứng được việc giữ
vững mục tiêu ban đầu của chính sách, chỉ điều chỉnh các biện pháp, cơ chế
thực hiện mục tiêu. Hoạt động này phải hết sức cẩn thận và chính xác, khơng
làm biến dạng chính sách ban đầu.
Bước 6: Theo dõi, kiểm tra, đơn đốc việc thực hiện chính sách ASXH
đối với người yếu thế:
19


Năng lực thực hiện chính sách của đội ngũ CBCC được biểu hiện, phản
ánh cụ thể ở khả năng, kiến thức, kỹ năng và trách nhiệm trong việc theo dõi,
đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách. Khả năng, kiến thức, kỹ năng đó thể
hiện ở trình độ am hiểu sâu sắc mục tiêu của chính sách, đối tượng chính sách
và các quy định, các công cụ, các giải pháp thực hiện; nắm chắc, chính xác
các quy định trong kế hoạch, các quy chế, nội quy thực hiện chính sách
Bước 7: Đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm ASXH đối với người yếu thế
Là một giai đoạn của quy trình chính sách bao gồm hệ thống các hoạt
động nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả của việc lựa chọn, thực thi chính

sách, và đánh giá khả năng cần thiết dẫn đến sự thay đổi chính sách.
ĐGCS là để cung cấp các thơng tin liên quan đến kết quả chính sách và
các giá trị đạt được của chính sách; dựa trên nhiều tiêu chí đánh giá như hiệu
suất, hiệu quả, cơng bằng hay tính tương thích; hoặc các nguồn lực để thực
hiện, các yêu cầu đào tạo, nhân lực thực thi.
ĐGCS sẽ chứng minh sự thành công hay thất bại của một chính sách;
nếu thất bại thì cần làm rõ ngun nhân là do hoạch định chính sách sai hay
thực thi chính sách sai? Sau q trình thực thi thì cần xem chính sách có cịn
cần thiết khơng? Nên chấm dứt hay tiếp tục thực hiện, hoặc sửa đổi chính
sách hướng tới các mục tiêu mới.
1.3. Chủ thể thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với người yếu
thế
Nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực như: Quốc hội, Chính phủ,
các Bộ, ngành thực hiện chức năng quản lý Nhà nước vừa là chủ thể ban hành
chính sách, vừa là chủ thể thực hiện chính sách. Chính sách An sinh xã hội
đối với người yếu thế cũng là một trong những chính sách của Nhà nước. Do
đó, chủ thể thực hiện chính sách An sinh xã hội cho người yếu thế gồm các
cơ quan như: Quốc hội, Chính phủ, Bộ LĐ-TB&XH, Cục Bảo trợ
20


×