Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Thực trạng đánh giá công nghệ tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.97 KB, 9 trang )

Đề tài: Thực trạng đánh giá công nghệ ở Việt Nam

Nhóm 2 gồm các thành viên:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.

Mai Anh
Lê Phương Anh
Dương Thị Chinh
Nguyễn Thị Lý
Lê Văn Mạnh
Đồng Tố Minh
Nguyễn Hương Trà My
Nguyễn Thị Phượng
Hồ Thu Trang
Nguyễn Huyền Trang

BÀI LÀM


Nhìn chung, đánh giá công nghệ là một công việc còn mới mẻ, chưa được
thưc hiện rộng rãi và vẫn còn nhiều yếu kém tại Việt Nam, đặc biệt là trong các
doanh nghiệp.


1.

Cơ quan đánh giá công nghệ tại Việt Nam

-Ở cấp độ Nhà nước:Viện Đánh giá khoa học và Định giá công nghệ là tổ
chức khoa học và công nghệ công lập trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, giúp
Bộ trưởng thực hiện chức năng đánh giá khoa học và định giá công nghệ; nghiên
cứu khoa học, đào tạo, cung cấp dịch vụ đào tạo, tư vấn về đánh giá khoa học, định
giá công nghệ phục vụ quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ.

- Ở cấp độ Doanh nghiệp: Hiện nay, ở doanh nghiệp chưa có cơ quan, bộ
phận chính thức nào thực hiện đánh giá công nghệ. Do đó, doanh nghiệp sẽ đi thuê
chuyên gia hoặc các tổ chức Nhà nước thực hiện.
2. Các lĩnh vực của đánh giá công nghệ tại Việt Nam
Tuy đánh giá công nghệ còn chưa được phổ biến rộng rãi ở nhiều cơ sở,
doanh nghiệp nhưng ở tầng lớp vĩ mô là cấp Nhà nước thì hoạt động này được sử
dụng trong các lĩnh vực như: nông nghiệp, y tế, giáo dục…
a, Nông nghiệp
Đánh giá công nghệ được ứng dụng trong nông nghiệp như: trồng trọt, chăn
nuôi,...
VD:
- Đánh giá công nghệ thường xuyên các giống lúa mới để chọn ra giống
lúa có năng suất cao cho bà con nông dân.
- Đánh giá công nghệ trồng rau sạch để áp dụng công nghệ này đem lại sự
an toàn cho người dân.
b, Y tế
Đánh giá công nghệ được ứng dụng trong lĩnh vực này để nâng cao chất
lượng y tế đối với con người.
VD:



-

Đánh giá công nghệ để xem xét công dụng của các loại vắc xin mới và
phổ biển rộng rãi giúp cứu chữa nhiều người bệnh.
Đánh giá công nghệ về các chức năng của các thiết bị y tế hiện đại và áp
dụng rộng rãi.

c, Giáo dục
Đánh giá công nghệ được sử dụng khá giúp tăng chất lượng giáo dục.
VD:
- Đánh giá các công nghệ tiên tiến và xem xét áp dụng làm tăng chất lượng
đào tạo: Máy chiếu, tivi,....
Tại doanh nghiệp, đánh giá công nghệ xuất hiện tại các doanh nghiệp công
nghiệp nhưcông nghiệp năng lượng, công nghiệp luyện kim, cơ khí,....
VD:
- Đánh giá công nghệ để phân tích tác động của công nghệ đèn đường sử
dụng năng lượng mặt trời để phát sáng vào ban đêm, xe điện chạy bằng
năng lượng mặt trời,...
- Đánh giá công nghệ để xem xét áp dụng công nghệ xe tự lái rộng rãi
3.Thực trạng đánh giá công nghệ tại Việt Nam
Các nguyên tắc đánh giá công nghệ tại Việt Nam gồm 3 nguyên tắc: toàn
diện, khách quan, khoa học.
a, Tại các cơ quan đánh giá của chính phủ: quá trình đánh giá công nghệ
công nhiều yếu kém, Bộ khoa học và công nghệ chưa làm tròn được nhiệm vụ
chức năng của mình và không tuân thủ đúng cả 3 nguyên tắc: toàn diện, khách
quan, khoa học. Quá trình đánh giá công nghệ tại Việt Nam chưa có được cái nhìn
sâu rộng, bên cạnh đó cũng chưa đề cập đầy đủ các tác động của công nghệ đến
môi trường xung quanh đồng thời các vấn đề của các nhóm quyền lợi cũng chưa
được đề cập một cách đầy đủ và rõ ràng.

Tiêu biểu như dự án đầu tư của Formosa vào Việt Nam, hay nhà máy lọc dầu
Dung Quất,… Trong vụ việc của nhà máy Formosa ta có thể rõ nhà nước đã quá
“lơ là” khi không cảnh giác với Formosa - một trong những tập đoàn đã lọt vào
danh sách đen của nhiều nước trên thế giới. Công nghệ của nhà máy thuộc loại
lạc hậu (phải sử dụng coke để luyện gang). Quy trình sản xuất gang thuộc loại liên


hoàn và liên tục. Khối lượng chất thải các loại (rắn, lỏng, khí) rất lớn, có chứa
nhiều chất độc hại, và được thải ra liên tục. Chỉ riêng chất thải lỏng được phê duyệt
thải ra môi trường tới hàng chục nghìn m3/ngày.Thế nhưng, việc quan trắc, giám
sát từ phía các cơ quan của nhà nước lại chỉ thực hiện theo chu kỳ. Đặc biệt, việc
xử lý các chất cực độc phát sinh từ công nghệ luyện coke-gang-thép đã không
được kiểm soát khách quan và liên tục. Đây là một kẽ hở lớn mà chủ đầu tư có thể
lợi dụng để chỉ cần trong vòng vài phút có thể thải hết ra biển hàng tấn chất cực
độc như Chlorine, Phosphorous, Arsenic. Chúng ta cần nhìn rõ sự xảo quyệt của
tập đoàn này: thay vì phải đầu tư cho công nghệ xử lý chất thải hàng chục tỷ đô thì
họ chỉ phải đền bù cho Việt Nam 500 triệu đô và nhận lại vô số những ưu đãi về
thuế và đất đai.
Đến trường hợp của nhà máy lọc dầu Dung Quất thì cho thấy sự thiếu khoa
học vô cùng khó hiểu trong công tác đánh giá công nghệ. Nhà máy được xây dựng
và nhập công nghệ từ Pháp, Malaysia, Nhật và Tây ban Nha tuy nhiên công nghệ
cũng như cơ sở vật chất tại đây luôn gặp nhiều vấn đề. Kể từ khi được đưa vào
hoạt động đến nay, nhà máy lọc dầu Dung Quất đã phải nhiều lần đóng cửa để sửa
chữa, bảo trì. Ngay từ tháng 7 năm 2011 (tức chỉ 6 tháng sau khi chính thức khánh
thành) nhà máy đã phải đóng cửa 2 tháng để sửa chữa.Đến cuối tháng 5 năm 2012,
nhà máy lại đóng cửa gần 2 tháng để xử lý các vấn đề kỹ thuật.Ngày 8 tháng 7 năm
2012 nhà máy hoạt động trở lại, nhưng chỉ 1 tháng sau, đến ngày 8 tháng 8 năm
2012 nhà máy lại phải đóng cửa để sửa chữa. Từ ngày 19 tháng 5 đến ngày 11
tháng 7 năm 2014 nhà mày ngưng hoạt động để bảo dưỡng. Mặt khác tính chung từ
khi nhà máy hoạt động vào năm 2010 đến năm 2014, nhà máy đã lỗ trên 1.000 tỉ

đồng.

b, Tại các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay thường đánh giá công nghệ dựa trên
công cụ phân tích kinh tế. Ví dụ khi so sánh cácdự án công nghệ để triển khai, dự
án nào có giá trị hiện tại ròng cao nhất được coi là tốt nhất.
Cũng như các cơ quan chức năng của Chính Phủ, tại các doanh nghiệp việc
đánh giá công nghệ cũng không được chú trọng, đó chỉ là một hoạt động thêm thắt
đồng thời các doanh nghiệp thực hiện đánh giá chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Đặc biệt do
các nguồn lực của các doanh nghiệp còn hạn chế nên công tác đổi mới trong đánh
giá công nghệ còn gặp nhiều khó khăn.


Cụ thể đó là 90% các doanh nghiệp Việt Nam đang sử dụng công nghệ lạc hậu
hoặc vô cùng lạc hậu từ những năm 80-90. Công tác đánh giá thiếu khách quan do
tình trạng nhận hối lộ từ những chủ thầu, chưa đủ trình độ đánh giá,…
4. Tác động của đánh giá công nghệ
a, Đối với doanh nghiệp
Về mặt tích cực:
Đánh giá công nghệ giúp doanh nghiệp:
-

Phát hiện dịch vụ hay sản phẩm mới còn tiềm tàng.
Đánh giá phương pháp kinh doanh mới, tạo sức mạnh kinh tế mới.
Đánh giá kết quả đổi mới của doanh nghiệp, thay đổi thị trường...
Đánh giá công nghệ sẽ cung cấp một bức tranh công nghệ tổng thể mà tương
lai của doanh nghiệp sẽ phụ thuộc vào, từ đó có căn cứ để xác định một số
công nghệ trọng yếu mà doanh nghiệp cần ưu tiên đầu tư. Từ đó, tạo lợi thế
cạnh tranh trong tương lai cho doanh nghiệp


Về mặt tiêu cực:
-

Nếu việc đánh giá thiếu chính xác sẽ dễ dẫn đến những bước đi sai lầm cho
doanh nghiệp về mặt chiến lược, khả năng sản xuất và cung ứng dịch vụ trên
thị trường trong tương lai,…

b, Đối với xã hội, môi trường
Về mặt tích cực:
-

Đánh giá công nghệ giúp điều chỉnh, kiểm soát công nghệ, tạo tiền đề cho
việc đổi mới nâng cao công nghệ. Qua đó, sẽ kích thích phát triển kinh tế xã
hội, giáo dục, y tế…

Về mặt tiêu cực:
-

Việc đánh giá công nghệ mà sai sót, lơ là sẽ dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm
trọng đối với xã hội, môi trường. Ví dụ như trong vụ Formosa Hà Tĩnh đã
làm ô nhiễm môi trường biển nghiêm trọng, làm hải sản các tỉnh miền Trung
chết bất thường…


Hoặc nếu đánh giá không kĩ lưỡng, không triệt để, thiếu trách nhiệm sẽ làm
cho các công nghệ thực phẩm bẩn như hoa quả, thịt ngâm hóa chất, rau có thuốc
sâu… tràn lan trên thị trường, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con
người. Minh chứng cho thấy, tại Việt Nam có khoảng 160000 ca ung thư mỗi
năm do thực phẩm bẩn.
5. Ví dụ về đánh giá công nghệ thành công tại Việt Nam

Đánh giá công nghệ sản xuất và thử nghiệm hiện trường nhiên liệu sinh học
(BIODIESEL) từ mỡ cá nhằm góp phần xây dựng tiêu chuẩn Việt Nam về
BIODIESEL
Nội dung công trình
Trong một vài năm gần đây, không nằm ngoài xu thế thế giới, nhiên liệu sinh
học biodiesel đã bắt đầu được nghiên cứu và sản xuất thử nghiệm ở Việt Nam. Tuy
nhiên, kết quả đánh giá hiện trạng công nghệ ở một số cơ sở sản xuất thử nghiệm
biodiesel vào năm 2007 cho thấy các mẫu sản phẩm biodiesel đều không đạt tiêu
chuẩn chất lượng làm nhiên liệu, chứng tỏ công nghệ của các cơ sở này chưa thực
sự hoàn thiện. Công trình đã tiến hành nghiên cứu hoàn thiện công nghệ sản xuất
biodiesel, một mặt để có thể tư vấn, trợ giúp về kỹ thuật cho các cơ sở nói trên
hoàn thiện công nghệ của mình, mặt khác, để có thể thử nghiệm sản xuất được
lượng biodiesel đủ về số lượng, đạt về chất lượng để thử nghiệm trên xe ô tô.
Theo đó, mỡ cá loại III đã được chọn làm nguyên liệu mẫu để nghiên cứu vì
nó có sản lượng lớn (gần 100 000 tấn/năm). Hơn nữa, mỡ cá loại III, có hàm lượng
axit béo tự do cao, không thể sử dụng hiệu quả làm thực phẩm hoặc thức ăn gia súc
nên có thể được coi là nguyên liệu không cạnh tranh với lương thực. Kết quả thử
nghiệm nhiên liệu trên 2 băng thử (300 giờ), 3 xe ô tô thí nghiệm (chạy 10000
km/xe), 6 xe đại trà (chạy 30000 km/xe) cho thấysự tương đồng giữa hai loại nhiên
liệu (B5 và diesel) và không có gì bất thường xảy ra đối với động cơ dùng nhiên
liệu B5.
Tính mới
Lần đầu tiên ở Việt Nam, nhiên liệu diesel sinh học được nghiên cứu một
cách hệ thống và bài bản. Ngoài ra, công nghệ tinh chế và thu hồi sản phẩm phụ


glyxerin của quá trình đã được đăng ký giải pháp hữu ích. Công nghệ này chưa
từng được thực hiện ở Việt Nam.
Tính sáng tạo
Công trình đã sử dụng nhiều kỹ thuật và thiết bị hiệnđại, tiên tiến trong

nghiên cứu thực nghiệm để tạo ra kết quả nghiên cứu có độ tin cậy cao. Từ hệ
thống thiết bị pilot có sẵn, đang được sử dụng cho mục đích khác, công trình đã
nghiên cứu, cải tiến thành hệ thiết bị sản xuất thử nghiệm biodiesel phục vụ việc
nghiên cứu sự ổn định của các thông số côngnghệ.
Hiệu quả
Hiệu quả kinh tế: Công nghệ đề xuất trong công trình này có thể phù hợp
với nhiều loại nguyên liệu khác nhau nên có thể tận dụng được nguyên liệu sẵn có,
đồng thời tận dụng được sản phẩm phụg lyxerin nên mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Hiệu quả kỹ thuật: Những kết quả nghiên cứu của công trình có thể được sử
dụng như một tài liệu kỹ thuật tham khảo để các cơ sở đang sản xuất diesel sinh
học trong nước hoàn thiện qui trình công nghệ của mình. Ngoài ra, các nhà phân
phối và kinh doanh nhiên liệu sinh học cũng có thể tham khảo các kết quả nghiên
cứu để đánh giá ảnh hưởng của nhiên liệu đến động cơ, việc phát khí thải.
Hiệu quả xã hội: Các kết quả của công trình đã được sử dụng làm cơ sở
khoa học để xây dựng Tiêu chuẩn và Qui chuẩn Việt Nam, xây dựng hành lang
pháp lý phục vụ việc phát triển nhiên liệu sinh học tại Việt Nam, nhằm sớm đưa B5
vào sử dụng đại trà. Công trình đã đào tạo được đội ngũ cán bộ có chuyên môn
cao, hiểu biết sâu và rộng về lĩnh vực này, sẵn sàng tham gia và có thể có nhiều
đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển nhiên liệu sinh học của Việt Nam.
Khả năng áp dụng Các kết quả của công trình có thể chuyển giao cho các cơ sở
sản xuất hoặc các địa phương có nhu cầu sản xuất diesel sinh học phục vụ nhu cầu
tại chỗ, tận thu nguồn nguyên liệu tại địa phương. Công ty CP Đầu tư và Xây dựng
Delta đã đề xuấ táp dụng các kết quả nghiên cứu của công trình để giải quyế tcác
vấn đề l iên quan đến việc hoàn thiện công nghệ sản xuất biodiesel ở Côngty.
Ngoài ra, nhờ những kếtquả của công trình này, Viện Hóa học công nghiệpViệt
Nam đã được Hàn quốc chọn làm đối tác để thử nghiệm công nghệ sản xuất
biodiesel của Hàn Quốc qui mô 4000 tấn B5/năm, được đánh giá là c ông nghệ
mới, hiện đại nhất thế giới hiện nay. Công nghệ của dự án sẽ được triển khai sản



xuất lớn và được xem là mô hình mẫu về công nghệ biodiesel ở Việt Nam
6. Hạn chế trong việc đánh giá công nghệ tại Việt Nam
-

-

-

-

Do hoạt động đánh giá công nghệ có kinh phí lớn, đòi hỏi các kĩ thuật tỉ mỉ,
công nghệ cao nên hầu như các doanh nghiệp tại Việt Nam đều không có
hoạt động này hoặc nó chưa được quan tâm đúng mức và có hiệu quả.
Việc đánh giá phụ thuộc rất nhiều vào các chuyên gia, những người có năng
lực chuyên môn cao nên không phải doanh nghiệp nào cũng đủ trình độ, khả
năng về nhân lực để thực hiện.
Vấn đề về thông tin trong đánh giá công nghệ cũng kém đầy đủ, chính xác.
Việt Nam chưa có cơ sở đào tạo nào cho việc đánh giá công nghệ; điều kiện
phát triển kinh tế, xã hội chưa chín muồi nên việc ĐGCN không được mở
rộng, phát huy.
Việc đánh giá còn xuất hiện nhiều vấn đề tiêu cực, không minh bạch làm cho
thất thoát tài chính nặng nề.

Ví dụ: Cụ thể từ năm 2006, Vinashin đã để Tổng Cty CNTT Nam Triệu nhận
bàn giao tàu Bạch Đằng Giang từ Cty TNHH 1 thành viên Vận tải Viễn Dương
với giá trị khoảng 155 tỷ đồng nhưng tàu vẫn không thể nhổ neo do đã hư hỏng.
Trong năm 2006 và 2007, Cty TNHH một thành viên Vận tải Viễn Dương thuộc
Vinashin mua 10 tàu vận tải biển số tiền 3.136 tỷ đồng (gần 200 triệu đô la). Số
tàu này đều có tuổi đời trên 15 năm.
Số tàu mua của Vinalines có tuổi tàu cao, thậm chí có tàu 33 tuổi, 17/73 tàu

(chiếm 23,3%) quá tuổi quy định, không được phép đăng ký tại Việt Nam. Thậm
chí tàu Lively Falcon 30 tuổi vẫn mua, được Bộ Giao thông vận tải cho phép đăng
ký và treo cờ nước ngoài.
7. Giải pháp giúp phát triển đánh giá công nghệ tại Việt Nam
a, Tăng cường quản trị trong hệ thống đánh giá công nghệ:
Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc đề ra định hướng ưu tiên phát
triển kinh tế và xã hội trong dài hạn, đảm bảo cung cấp đầy đủ nguồn lực phát triển


hệ thống ĐGCN, đảm bảo cho các tổ chức nhà nước vận hành tốt và các bộ phận
trong hệ thống ĐGCN gắn kết với nhau và tạo ra một chỉnh thể thống nhất.
b, Tăng cường nguồn nhân lực trong đánh giá công nghệ:
Việt Nam cần đảo chiều việc chảy máu chất xám thành thu hút chất xám,
nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp, tạo điều kiện nâng cao kỹ năng cho
lực lượng lao động, chú trọng hơn nữa đến năng lực kinh doanh và các kỹ năng
mềm, thúc đẩy trao đổi kiến thức giữa các trường đại học, các viện nghiên cứu của
nhà nước và khu vực doanh nghiệp
c, Tăng cường các mối liên kết trong ĐGCN:
Cần đẩy mạnh các mối liên kết giữa các cơ quan nhà nước với các trường
Đại học, các doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế có chuyên môn, tiên tiến về đánh
giá công nghệ
d, Đẩy mạnh sáng tạo và Nâng cao mức đóng góp trong các cơ quan nghiên
cứu:
Việc đẩy mạnh đổi mới ĐGCN trong các doanh nghiệp đòi hỏi phải cải thiện
khuôn khổ thể chế và các biện pháp chính sách hướng tới đổi mới sáng tạo.



×