Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Cải cách bộ máy hành chính ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.74 KB, 14 trang )

CẢI CÁCH BỘ MÁY HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY.
A. MỞ ĐẦU

Trong sự phát triển không ngừng của kinh tế xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh đất
nước ngày càng hội nhập sâu và rộng vào xu hướng toàn cầu hóa thì việc quản lí xã hội
cũng như quản lí nhà nước là một vấn đề quan trọng. Tuy nhiên, để có hiệu quả quản lí và
hoạt động hiệu quả, cần đặt ra nhiệm vụ không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt
động của cơ quan quản lí hành chính nhà nước. Để thực hiện yêu cầu đó, ngay từ rất sớm
Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng việc cải cách nền hành chính nhà nước, trong đó trọng
tâm là cải cách đối với bộ máy hành chính. Vì thế, trong bài tập nhóm này, chúng tôi xin
đi vào làm rõ hoạt động cải cách bộ máy hành chính nhà nước.
B. NỘI DUNG
I.
Lí luận chung về cải cách bộ máy hành chính
1. Khái quát về bộ máy hành chính nhà nước

Bộ máy hành chính nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước có tư cách pháp
nhân công quyền do cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp lập ra nhằm quản lý các công
việc hàng ngày của xã hội, cung cấp các dịch vụ công; thực hiện những chức năng, nhiệm
vụ nhất định của quản lý hành chính nhà nước.
Việc nghiên cứu, tìm hiểu về bộ máy hành chính nhà nước giúp chúng ta hiểu rõ
hơn và có cái nhìn khách quan hơn về cấu trúc, thực trạng tình hình của bộ máy hành
chính nhà nước, để từ đó có những quan điểm nhìn nhận đúng đắn nhằm xây dựng bộ
máy hành chính nhà nước gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hoạt động của bộ máy nhà nước có một số đặc điểm như: mang tính quyền lực
nhà nước, là một hệ thống thống nhất, tập trung theo hướng từ trung ương đến địa
phương, đứng đầu là Chính phủ, được tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc tập trung dân
1



chủ; có cơ cấu tổ chức mang tính độc lập tương đối, thực hiện chức năng chấp hành và
điều hành (quyền hành pháp), thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước được
pháp luật quy định trên cơ sở lãnh thổ, ngành hoặc lĩnh vực chuyên môn mang tính tổng
hợp; hoạt động mang tính lợi ích quốc gia, thông qua chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền,
bộ máy hành chính tổ chức thi hành luật, đưa luật vào cuộc sống, chấp hành ý chí của
nhân dân, trực tiếp phục vụ lợi ích của nhân dân, lợi ích của quốc gia, dân tộc…
Bộ máy hành chính nhà nước có vị trí, vai trò hết sức quan trọng cụ thể: là hệ
thống trực tiếp thực hiện các đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
góp phần cụ thể hoá hoặc điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các đường lối, chủ
trương chính sách, để bảo đảm thực hiện một cách hiệu quả nhất nền hành chính nhà
nước; điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội nhằm đạt hiệu quả cao nhất xuất phát từ
chức năng cụ thể của điều hành hành chính nhà nước là: định hướng, điều chỉnh, hướng
dẫn, tổ chức thực hiện, kiểm tra, thanh tra và xử lý những vi phạm pháp luật…; duy trì và
thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng; đảm bảo cung cấp dịch vụ công cho xã hội;
thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội.
2. Cải cách bộ máy hành chính nhà nước

Hoạt động của bộ máy hành chính luôn giữu vai trò quan trọng, tuy nhiên, trong
hoạt động quản lí hành chính nhà nước luôn tiềm ẩn những mâu thuẫn, bất đồng, không
phù hợp theo từng giai đoạn lịch sử. Do đó, để khắc phục những điểm trên thì cần phải có
hoạt động cải cách bộ máy hành chính, cốt yếu để khắc phục những trở ngại nảy sinh
trong quá trình quản lí hành chính nhà nước, nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động
của bộ máy hành chính nhà nước.
Cải cách bộ máy hành chính là hoạt động điều chỉnh, làm rõ chức năng, nhiệm vụ
của từng cơ quan trong hệ thống hành chính nhằm khắc phục những chồng chéo, trùng
lắp về chức năng, nhiệm vụ để đạt được hiệu quả tốt nhấy trong công tác quản lí.

2



Như vậy, mục tiêu của cải cách bộ máy hành chính nhà nước là tiến tới xây dựng
và hoàn thiện trong hoạt động của các cơ quan nhà nước các cấp, đề cao chế độ trách
nhiệm đối với mỗi cấp, mỗi cơ quan và từng người lãnh đạo để nâng cao năng lực cá
nhân, vừa đánh giá đúng hiệu lực, hiệu quả chỉ đọa, điều hành của các cơ quan quản lí
hành chính nhà nước.
Trong các kì họp, Đảng và nhà nước ta đã xác định trong giai đoạn từ năm 2011
đến năm 2020, việc cải cách bộ máy hành chính cần thực hiện những nhiệm vụ cơ bản
sau: tiến hành tổng rà soát về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cơ cấu tổ chức và
biên chế hiện có của bộ máy hành chính nhà nước; tổng kết, đánh giá mô hình tổ chức và
chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương, hoàn thiện cơ chế phân cấp; tiếp tục
đổi mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước, thống nhất và nâng cao
chất lượng thực hiện cơ chế một cửa, đảm bảo sự hài lòng của nhân dân; cải cách và triển
khai trên diện rộng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công.
Hoạt động cải cách bộ máy hành chính cần phải tiến hành phù hợp với yêu cầu của
thực tiễn, phát huy những điểm mạnh sẵn có, đồng thời khắc phục những hạn chế còn tồn
tại. Cải cách phải mang lại hiệu quả, tạo được sự phục vụ tốt nhất.
II.

Cải cách bộ máy hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay
1. Nội dung cải cách

Cải cách tổ chức bộ máy hành chính bao gồm các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, tiến hành tổng rà soát và điều chỉnh phù hợp về vị trí, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế hiện có của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp , các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân
dân cấp tỉnh, cấp huyện, các cơ quan, tổ chức khác thuộc bộ máy hành chính nhà nước ở
Trung ương và địa phương (bao gồm cả các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước). Cụ thể là:
Các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước bao quát đầy đủ
các ngành, lĩnh vực; trong đó, thực hiện nguyên tắc mỗi ngành, lĩnh vực được Chính phủ

phân công cho 01 bộ chủ trì, chịu trách nhiệm chính, các bộ, ngành khác có trách nhiệm
3


phối hợp. Về cơ bản, đến nay đã khắc phục sự chồng chéo hoặc bỏ trống về chức năng,
nhiệm vụ giữa các bộ, cơ quan ngang bộ. Ví dụ như về lĩnh vực phát triển kinh tế nông
nghiệp sẽ do bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn chịu trách nhiệm chính, và Bộ Quốc
phòng sẽ hộ trợ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về hoạt động của lực lượng
Cảnh sát biển trên các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam được quy định tại Thông tư
liên tịch số 211/2011/TTLT-BQP-BNNPTNT
Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước được tổ chức, quản lý thống nhất từ Trung
ương đến địa phương, bảo đảm tính thông suốt trong quản lý nhà nước đối với ngành,
lĩnh vực. Thực hiện nhất quán nguyên tắc, không nhất thiết ở Trung ương có bộ, cơ quan
ngang bộ thì địa phương có tổ chức tương ứng để thu gọn đầu mối tổ chức các cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, đáp ứng yêu cầu cải cách hành
chính.
Qua 3 nhiệm kỳ Chính phủ (khóa XI, XII, XIII), số lượng cơ quan chuyên môn cấp
tỉnh giảm từ 22 xuống 17 (tổ chức cứng), cơ quan chuyên môn cấp huyện cơ bản giữ ổn
định là 12 cơ quan (có tính đến yếu tố đặc thù theo đơn vị hành chính ở cấp huyện).
Thứ hai, việc chuyển giao những công việc mà cơ quan hành chính nhà nước không
nên làm hoặc làm hiệu quả thấp cho xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức phi Chính phủ
đảm nhận. Nhà nước có trách nhiệm chăm lo đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân,
nhưng không phải vì thế mà mọi công việc về dịch vụ công đều do cơ quan nhà nước trực
tiếp đảm nhiệm. Thực tế là trong những năm trở lại đây thì nước ta đã thực hiện xã hội
hóa trên nhiều lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao,dịch vụ giao thông công cộng,…
và đã đem lại nhiệu hiệu quả tích cực. Việc làm này cho thấy không chỉ đổi mới trên
phương diện tư duy, nhận thức mà chúng ta đã có chủ trương, chính sách cụ thể về xã hội
hóa.
Nhà nước không quá ôm đồm công việc mà chuyển giao tất cả những gì có thể
cho xã hội thực hiện thông qua việc từng bước việc tách hoạt động sản xuất, kinh doanh

ra khỏi hoạt động quản lý nhà nước, chuyển giao hoạt động cung ứng dịch vụ công cộng
4


cho các chủ thể phi nhà nước thực hiện; các chủ thể phi nhà nước không thụ động trong
việc tạo ra cơ hội, điều kiện để có thể tham gia cung ứng dịch vụ công cộng với các
phương thức khác nhau như: uỷ quyền, uỷ thác, hợp danh hoặc đại lý. Với tinh thần như
vậy, các chủ thể phi nhà nước cần chủ động nâng cao chất lượng nhân lực, kỹ thuật, công
nghệ, v.v... để có đủ năng lực đáp ứng yêu cầu khi được chuyển giao việc cung ứng dịch
vụ công cộng.
Thứ ba, tổng kết, đánh giá mô hình tổ chức và chất lượng hoạt động của chính
quyền địa phương nhằm xác lập mô hình tổ chức phù hợp, bảo đảm phân công đúng chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, sát thực tế, hiệu lực, hiệu quả.
Chính quyền địa phương là một tổ chức hành chính có tư cách pháp nhân được
Hiến pháp và Pháp luật công nhận sự tồn tại vì mục đích quản lý một khu vực nằm trong
một quốc gia có vai trò quan trọng trong việc thu chi ngân khố của nhà nước, sát với
nhân dân, phục vụ trực tiếp nhân dân, hiện thực hóa các quyết định, chính sách của chính
quyền trung ương. Cho nên, cải cách bộ máy nhà nước không thể không tiến hành ở
chính quyền địa phương. Việc cải cách chính quyền địa phương tập trung vào hai vấn đề
cơ bản là mô hình tổ chức và chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương.
Qua thực tiễn tổ chức và hoạt động, việc tổng kết và đánh giá cải cách chính
quyền địa phương có ý nghĩa tổng kết lại những gì địa phương đã làm được, chưa làm
được, đánh giá kết quả đó đã hoàn thành chỉ tiêu ở mức độ nào, mạnh ở đâu, yếu ở đâu để
tìm ra cách giải quyết các vấn đề còn tồn đọng, phát huy những tiềm lực của địa phương,
từ đó lựa chọn mô hình chính quyền phù hợp với điều kiện phát triển của địa phương
mình. Khi có sự tổng kết và đánh giá chất lượng các hoạt động địa phương giúp nâng cao
khả năng thực hiện chức năng quản lý và phục vụ nhân dân, đồng thời nâng cao chất
lượng hoạt động của chính quyền địa phương. Nên việc tổng kết và đánh giá tạo ra một
cơ sở quan trọng để chính quyền địa phương có thể phân công các công việc phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động.


5


Thứ tư, xây dựng mô hình chính quyền đô thị và mô hình chính quyền nông thôn
phù hợp. Vì nông thôn có những đặc thù khác với đô thị, đặc biệt là tính cộng đồng rất
cao, do đó, mô hình quản lý nhà nước ở nông thôn phải phù hợp, và có những nét khác so
với chính quyền đô thị. Những khác biệt này đặc biệt nhấn mạnh đến các khuôn khổ tự
quản và tổ chức các cấp chính quyền. Do trình độ dân trí thấp hơn so với khu vực đô thị,
phong cách quản lý và cách thức giao tiếp cộng đồng cũng khác nên các vấn đề quản lý
mọi mặt kinh tế - xã hội phải được xử lý theo cách thức thể hiện tốt nhất ý chí của cộng
đồng.
Đối với những khu vực nông thôn gắn với đô thị, phát triển nông thôn phải kiểm
soát được các tác động của quá trình đô thị hóa, hài hòa và đồng bộ với phát triển đô thị.
Bên cạnh đó, đô thị có tính tập trung rất cao với các điều kiện sinh sống đa dạng và phức
tạp nên quản lý nhà nước ở đô thị phải phù hợp với tính chất này cũng như phù hợp đặc
thù về cơ sở hạ tầng đô thị. Do vậy, xây dựng chính quyền đô thị đòi hỏi tính thống nhất,
đồng bộ, liên thông, cân bằng và đa diện, đòi hỏi công tác quản lý nhà nước ở đô thị phải
đa chiều, xử lý trên nhiều góc độ khác nhau. Đô thị càng lớn, phạm vi khối lượng công
việc giải quyết càng nhiều, xu hướng ngày càng tăng, nhịp độ, mức độ phức tạp của công
việc càng cao, việc tuân thủ quy trình, quy chuẩn, quy hoạch, kế hoạch, pháp luật càng
phải triệt để, chính xác, kịp thời. Vì vậy, việc tổ chức bộ máy chính quyền đô thị phải bảo
đảm việc quản lý nhà nước tập trung, thống nhất, thông suốt, có hiệu lực, hiệu quả cao.
Thứ năm, hoàn thiện cơ chế phân cấp để đề cao vai trò chủ động, tinh thần trách
nhiệm, nâng cao năng lực của từng cấp, từng ngành.
Cơ chế phân cấp ở đây là sự phân cấp giữa trung ương và địa phương và giữa các
cấp chính quyền địa phương. Đẩy mạnh phân cấp đồng bộ hiện nay ở Việt Nam chính là
xu hướng chuyển từ tập trung sang dân chủ hay là có sự chuyển động về hướng chính
quyền địa phương tự quản, nhưng không nhất thiết phân cấp ở mức độ nào để trở thành tự
quản. Về nguyên tắc, đó là quá trình hợp lý hoá mức độ phân cấp giữa chính quyền trung

ương và chính quyền địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau. Xu
hướng chung trong lĩnh vực cải cách này là đẩy mạnh quá trình phân quyền cho địa
6


phương để tăng tính chủ động, sáng tạo cho địa phương. Nhiều nước đã áp dụng nguyên
tắc “tự quản địa phương” cho phép các địa phương tự quyết định các vấn đề liên quan tới
công việc của địa phương mình và chỉ khi nào cấp dưới không thể hoàn thành được
nhiệm vụ thì cấp trên mới tiến hành can thiệp. Trong khi đó, trung ương cần tập trung vào
việc giải quyết những vấn đề chính trị, quốc phòng, ngoại giao, ban hành hệ thống pháp
luật, điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Điều này còn có ý nghĩa khơi dậy tính chủ động tự
quản, tự quyết định đến từng cơ sở sẽ giúp khai thác hết các tiềm năng vật chất và trí tuệ
của từng người dân, từng cộng đồng cơ sở - mà tiềm năng này rất nhiều.
Thứ sáu, tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra; đồng thời, đề cao vai trò chủ
động, tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực của từng cấp, từng ngành. Ví dụ như kiểm
soát nghiêm ngặt ngân sách nhà nước chi cho hành chính công và đầu tư công,….Không
những kiểm tra giám sát nội bộ mà còn tiến hành nhiều phương thức và mức độ giám sát
cả trực tiếp và gián tiếp từ nhân dân; tăng cường sự tham gia của người dân vào việc
giám sát hoạt động quản lý của các cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước, vào việc xây
dựng chính sách, củng cố tổ chức bộ máy nhà nước.
Thứ bảy, tiếp tục đổi mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước;
thực hiện thống nhất và nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên
thông tập trung tại bộ phận tiếp nhận, trả kết quả thuộc Văn phòng Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân cấp huyện; bảo đảm sự hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ
của cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên 80% vào năm 2020. Ở đây ta có thể dễ
dàng nhận thấy trong thực tiền, ví dụ như là tiếp nhận hồ sơ tại các điểm liên thông…
Thứ tám, cải cách và triển khai trên diện rộng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; khuyến khích thành lập các tổ chức cung ứng dịch
vụ công thuộc các thành phần ngoài nhà nước, nhất là lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế,
khoa học; chất lượng dịch vụ công từng bước được nâng cao, nhất là trong các lĩnh vực

giáo dục, y tế; bảo đảm sự hài lòng của cá nhân đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công
cung cấp trong các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt mức trên 80% vào năm 2020.
2. Những thành tựu đạt được
7


Công cuộc cải cách bộ máy hành chính đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng,
góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển và ổn đinh kinh tế - xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội. Những thành tựu phải kể đến bao gồm:
Một là, bộ máy hành chính tiếp tục được hoàn thiện về tổ chức, chức năng, nhiệm
vụ, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động. Hoạt động tổng rà soát và ban hành các quy
định mới về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế hiện có của các
cơ quan hành chính từ trung ương đến địa phương đã được tiến hành theo hướng khắc
phục những chồng chéo, trùng lặp. Một số loại công việc trước đây do Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ giải quyết, nay đã được chuyển cho các bộ, ngành trung ương và phân
cấp cho chính quyền địa phương thực hiện; phân định rõ thẩm quyền của bộ, cơ quan
ngang bộ, làm rõ chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước với các đơn vị
sự nghiệp, dịch vụ công… Trên cơ sơ đó, thực hiện hợp nhất các tổng cục, cục, vụ; cơ
bản không thực hiện cấp phòng trong các đơn vị tham mưu thuộc cơ quan trung ương.
Hai là, kiện toàn các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện theo hướng thu gọn đầu mối, quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Thực hiện nguyên tắc
chỉ thành lập tổ chức mới trong trường hợp thực sự cần thiết; không thành lập các tổ chức
trung gian.
Ba là, cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương được điều
chỉnh, sắp xếp tinh gọn, hợp lý hơn. Số bộ, cơ quan ngang bộ được giảm đi rất nhiều so
với thời kỳ đầu đổi mới. Năm 1987, Hội đồng bộ trưởng có 37 bộ. Hiện nay, trên cơ sở
đổi mới chức năng, nhiệm vụ, đầu mối quản lý chỉ còn 22 bộ, cơ quan ngang bộ. Công
tác quản lý nhà nước do các bộ, cơ quan ngang bộ đảm nhiệm đã tách khỏi hoạt động
quản lý kinh doanh trực tiếp.
Bốn là, quá trình triển khai phân cấp trung ương – địa phương tiếp tục được đẩy

mạnh trên hầu hết các lĩnh vực quản lý, như ngân sách, nhân sự, đất đai, tài nguyên,
doanh nghiệp nhà nước, kế hoạch và đầu tư, ban hành văn bản quy phạm pháp luật…góp
phần tạo ra những chuyển biến tích cực trong hoạt động của các Bộ, ngành ở trung ương
8


và địa phương, thúc đẩy tính độc lập, tự chịu trách nhiệm trong ra quyết định và tổ chức
thực hiện của chính quyền địa phương các cấp, giúp cải thiện môi trường kinh doanh
chung.
Năm là, cùng với việc đẩy mạnh phân cấp, Chính phủ tăng cường giải quyết các
vấn đề chiến lược, tiến hành nhiều phương thức và mức độ giám sát cả trực tiếp và gián
tiếp từ nhân dân; tăng cường sự tham gia của người dân vào việc giám sát hoạt động quản
lý của các cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước, vào việc xây dựng chính sách, củng
cố tổ chức bộ máy nhà nước.
Sáu là, có sự phân biệt các đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước với các tổ
chức sự nghiệp cung ứng dịch vụ công. Hoàn thành việc phân loại đơn vị sự nghiệp công
lập để có các hình thức chuyển đổi phù hợp. Triển khai trên diện rộng cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập. Khuyến khích thành lập các tổ chức
cung ứng dịch vụ công thuộc các thành phần ngoài nhà nước, nhất là lĩnh vực giáo dục –
đào tạo, y tế, khoa học.
3. Những bất cập, hạn chế

Một là, tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, nặng nềm nhiều tầng nấc; hoạt động còn
thiếu tập trung. Một số, trường hợp có những sai phạm trong quá trình thực hiện quyền
hạn và trách nhiệm vụ mình trong hoạt động công vụ gây ra những thiệt hại, xâm phạm
đến lợi ích của nhân dân,
Hai là, hoạt động phân cấp, phân quyền diễn ra còn rất chậm, nhiều điểm bất hợp
lí. Việc mà các cơ quan cấp trên còn ôm đồm quá nhiều công việc, kể cả những công việc
đáng lẽ ra nên giao cho các cơ quan cấp dưới, có thể nói đây là hiện tượng thể hiện đậm
chất tập trung chuyên chế của nền hành chính cũ để lại (thời kì tập trung, quan liêu, bao

cấp), làm cho các cơ quan cấp dưới không phát huy hết khả năng và sự sáng tạo trong
hoạt động quant lí hành chính nhà nước.
Ba là, hoạt động hiện đại hóa cơ quan hành chính; đổi mới phương thức, phong
cách làm việc còn chậm, kém hiệu quả. Biểu hiện là hoạt động của cơ quan hành chính
chưa bắt kịp xu thế phát triển của xã hội hiện đại, nền công vụ còn thiếu tính công khai,
9


minh bạch, giờ giấc của cán bộ, công chức chưa được tuân thủ một cách nghiêm ngặt,
vẫn còn hiện tượng đi trễ về sớm, thiếu ý thức kỉ luật, văn hóa công sở…
Bốn là, thiếu sự kiểm tra, giám sát bên trong cũng như từ bên ngoài hoạt động của
cơ quan hành chính nhà nước, dẫn đến tình trạng lộng quyền, lạm quyền của một số bộ
phận cán bộ, công chức. Nảy sinh tệ nạn quan liêu, tham nhũng, hách dịch, cửa quyền…
làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào cơ quan nhà nước và chính quyền.
Năm là, thực tiễn cải cách hành chính nói chung và cải cách bộ máy hành chính
nói riêng còn chậm, chưa đáp ứng kịp thực tiễn phát triển của kinh tế-xã hội của đất
nước, đặc biệt là trong lĩnh vực thủ tục hành chính.
4. Nguyên nhân

Thứ nhất, nhận thức của cán bộ, công chức về vai trò, chức năng quản lý, về
xây dựng bộ máy hành chính nhà nước trong tình hình mới, điều kiện mới chưa thật rõ
ràng và chưa thống nhất, còn nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn chưa được làm sáng tỏ,
còn nhiều chủ trương, chính sách, quy định của pháp luật ra đời trong cơ chế tập trung,
quan liêu bao cấp chưa được kịp thời sửa đổi, thay thế.
Thứ hai, mặc dù chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm các cơ quan
hành chính nhà nước đã được điều chỉnh, nhưng nhìn chung vẫn chưa phù hợp với yêu
cầu của quản lý xã hội và quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Nguyên nhân chủ yếu là tư duy về kinh tế và hành chính chậm được đổi
mới.
Thứ ba, Ccải cách bộ máy hành chính gặp trở ngại lớn do đụng chạm đến lợi ích

cục bộ của nhiều cơ quan hành chính, nhiều cán bộ công chức trong bộ máy nhà nước ở
trung ương và địa phương, ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp vẫn còn đè
nặng lên nếp nghĩ, cách làm của khong ít cán bộ, công chức; cuộc cải cách bộ máy nhà
nước có lúc, có nơi chưa được chuẩn bị tốt về mặt tư tưởng.

10


Thứ tư, chế độ, chính sách về tổ chức cà cán bộ, về tiền lương còn nhiều điều
chưa phù hợp, chưa tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc cải cách bộ máy hành chính nahf
nước.
Thứ năm, những thiếu sót trong công tác chỉ đạo của Chính phủ, các bộ, ngành
trung ương và Ủy ban nhân dân các địa phương trong tiến trình cải cách hành chính; sự
chỉ đạo thực hiện các chủ trương đã đề ra thiếu cương quyết và chưa thống nhất.
5. Giải pháp, định hướng trong thời gian tới

Việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy hành chính ở nước ta hiện nay để nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động là một việc tất yếu, cần thiết và phải được thực hiện với
những định hướng, quan điểm phù hợp với thực tiễn của đất nước, phù hợp với những
mục tiêu và nội dung của Đảng và nhà nước đề ra trong từng giai đoạn. Xuất phát từ thực
tiễn cải cách bộ máy hành chính nhà nước trong những năm qua, việc xây dựng và hoàn
thiện bộ máy hành chính nhà nước trong những năm tới cần tập trung vào những vấn đề
sau:
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện bộ máy hành chính nhà nước phải xuất phát từ
thực tiễn Việt Nam; đồng thời tham khảo, học hỏi kiến thức, kinh nghiệm của các nước
về tổ chức và hoạt động quản lý để vận dụng thích hợp. Đặt công cuộc xây dựng và hoàn
thiện bộ máy hành chính trong tổng thể cải cách bộ máy nhà nước và sắp xếp lại tổ chức
bộ máy đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng và hoàn thiện bộ máy hành chính gắn với cải cách kinh tế
với yêu cầu phát triển đất nước trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế

quốc tế nhằm hình thành và hoàn thiện các yếu tố của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền vững kinh tế đất nước, nâng cao đời
sống của nhân dân.
Thứ hai, trên cơ sở rà soát, đánh giá và tổng kết việc thực hiện chức năng, nhiệm
vụ, cơ cấu tổ chức của Chính phủ, bộ, ngành Trung ương để từ đó xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ của các có quan hành chính nhà nước, khắc phục sự chồng chéo về chức năng,
11


thẩm quyền giữa các cơ quan. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Chính theo
hướng tinh gọn, hợp lý, đề cao tính chủ động, chịu trách nhiệm của Chính phủ trước
những công việc hệ trọng của đất nước, trong việc lãnh đạo nền hành chính Nhà nước, tổ
chức bộ máy, biên chế, tiền lương...; tăng cường thẩm quyền của Chính phủ trong việc
quyết định các chương trình, dự án quốc gia, đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế với
chính phủ các nước.
Thứ ba, tiếp tục phân cấp quản lý hành chính giữa trung ương và địa phương, giữa
các cấp chính quyền địa phương theo nguyên tác cấp dưới có khả năng làm tốt thì giao
công việc cho cấp dưới thực hiện; định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức
bộ máy hành chính ở đô thị và nông thôn. Ổn định các đơn vị hành chính, hạn chế tình
trạng sáp nhập, chia tách; sắp xếp các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân nhân cấp
tỉnh, thành, tăng cường tính chuyên nghiệp, bảo đảm kỹ năng hành chính trong việc giải
quyết các công việc của công dân và tổ chức.
Thứ tư, tăng cường kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan, tạo điều kiện để cho các
tổ chức xã hội, công dân tham gia tích cực hơn nữa vào việc giám sát hoạt động của các
cơ quan hành chính, một mặt nhằm hạn chế, khắc phục những sai phạm trong nền công
vụ, một mặt, phát huy tinh thần dân chủ của nhân dân trong hoạt động quản lí nhà nước.
Thứ năm, cải cách các đơn vị dịch vụ công, phân định hành chính với sự nghiệp,
hoàn thiện thể chế tự chủ, tự chiu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công
trong tổ chức và hoạt động; nghiên cứu thành lập cơ quan tài phán qiải quyết khiếu kiện
hành chính; dân sự hóa một số hoạt động của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an.

Thứ sáu, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức về kĩ năng, trình độ, đạo
đức nghề nghiệp và tác phong trong hoạt động công vụ, hạn chế, đẩy lùi tệ tham nhũng,
quan liêu lạm quyền…góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy hành chính
nhà nước.
Cải cách bộ máy hành chính phải được tiến hành chính phải được tiến hành tích
cực, từng bước, khẩn trương, thận trọng và vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm, lựa chọn
12


khâu đột phá trong từng giai đọan cụ thể. Cải cách bộ máy hành chính là nhiệm vụ rộng
lớn, phức tạp đòi hỏi cần có tầm nhìn bao quát với những giải pháp động bộ.
C. KẾT LUẬN

Như vậy, trong thời gian tới cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cải cách hành chính
nói chung và hoạt động cải cách với bộ máy hành chính nói riêng để đáp ứng như cầu
quản lí và điều hành xã hội, nâng cao chất lượng hoạt động của nền hành chính, phục vụ
tốt hơn với quần chúng nhân dân, tiến tới xây dựng một nền hành chính phục vụ trong
tương lai.

Mục lục

TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Hành chính trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
2. Giáo trình Luật Hành chính trường Đại học Luật Hà Nội
3. />
cach-hanh-chinh-8335/
4. />
13



5. />
cach-nen-hanh-chinh-nha-nuoc-giai-doan-2011-2015.aspx
6. />
14



×