Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

TƯ TƯỞNG CỦA THOMAS L.FRIENDMAN VỀ TOÀN CẦU HÓA VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA NÓ (LA THẠC SĨ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.54 KB, 88 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

1


1. Lý do chọn đề tài

Toàn cầu hóa đang là xu thế khách quan tác động một cách trực tiếp và
sâu rộng tới các lĩnh vực của đời sống xã hội của các quốc gia, dân tộc. toàn
cầu hoá là một xu thế trong quá trình vận động, phát triển của xã hội loài
người nói chung và nền kinh tế thế giới nói riêng, là kết quả tất yếu do sự phát
triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin. Dù muốn hay không thì các quốc gia đều chịu sự tác động của quá
trình này thông qua con đường trực tiếp hay gián tiếp.
Cũng như bất kỳ một hiện tượng xã hội nào khác, toàn cầu hoá cũng
là một quá trình mang tính hai mặt, nó vừa có mặt tích cực, vừa có mặt hạn
chế. Không thể phủ nhận rằng toàn cầu hóa đem lại cho tất cả các quốc gia
trong thế giới những cơ hội được phát triển mạnh mẽ về mọi mặt mà trước hết
là về kinh tế. Nhờ quá trình toàn cầu hóa, một số nước có khả năng thỏa mãn
nhu cầu vật chất của người dân và đã có thể ước mơ đến một cuộc sống sung
túc hơn trong một tương lai không xa. Những bước tiến của công nghệ thông
tin đã cống hiến cho nhân loại tiềm năng kinh ngạc trong việc sử dụng lượng
thông tin khổng lồ, chế tạo thông tin, đưa thông tin tới bất cứ nơi đâu khiến
mọi người trở nên bình đẳng trong việc tiếp nhận thông tin.
Tuy nhiên, trong quá trình toàn cầu hóa luôn luôn tiềm ẩn vô vàn khó
khăn thách thức đòi hỏi các quốc gia trong quá trình hội nhập phải có lộ trình
và chiến lược phát triển rõ ràng để tránh tụt hậu, hoặc tạo ra nguy cơ đánh mất
bản sắc dân tộc. Vấn đề đặt ra là các quốc gia cần phải làm gì để có thể tận
dụng được tốt nhất những cơ hội mà quá trình toàn cầu hoá đem lại, đồng thời
giảm thiểu đến mức tối đa những tác động tiêu cực của nó.



2


Xu hướng toàn cầu hoá đã trở nên phổ biến với mọi người trong xã hội
hiện đại ngày nay, và quá trình này đang diễn ra hết sức sôi động trên hầu hết
mọi mặt của đời sống xã hội. Nhưng xung quanh khái niệm “toàn cầu hóa”
vẫn còn nhiều sự tranh luận chưa đi đến thống nhất, mỗi học giả có cách tiếp
cận khác nhau, vì vậy mà khái niệm về toàn cầu hóa cũng hết sức đa dạng.
Nhìn chung có hai khuynh hướng chính đó là: ủng hộ toàn cầu hóa cho rằng
đó là xu thế khách quan của vận động xã hội và xu hướng chống toàn cầu hóa
họ cho rằng toàn cầu hóa là sự gia tăng ảnh hưởng của các nước lớn trên quy
mô toàn cầu và những ảnh hưởng của toàn cầu hóa buộc con người phải đứng
trước những nguy cơ tiềm ẩn.
Đóng góp vào những tranh luận về toàn cầu hóa, Thomas L. Friedman
– một nhà báo nổi tiếng của tờ The New York Times đưa ra những phân tích,
nhận định hết sức mới mẻ thông qua các tác phẩm của mình để minh chứng
cho sự lạc quan của ông vào quá trình toàn cầu hóa. Trong số các tác phẩm
suất sắc của mình, hai tác phẩm mà Thomas L. Friedman đề cập đến vấn đề
toàn cầu hóa là: Chiếc lexus và cây ôliu và Thế giới phẳng.
Hai cuốn sách đã đưa ra lời giải đáp cho câu hỏi “Toàn cầu hoá là gì?”,
diễn tả một hiện tượng mới về xã hội và kinh tế đang diễn ra trong kỷ nguyên
toàn cầu đó là “thế giới phẳng”. Trong các lập luận của mình, toàn cầu hoá đã
được Friedman giải thích bằng những hình ảnh sinh động cùng lối so sánh rất
thuyết phục...
Đối với Việt Nam, chúng ta đang trong giai đoạn mở cửa và hội nhập
quốc tế. Chịu sự tác động mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa trên tất cả các
phương diện của đời sống xã hội. Xu thế toàn cầu hóa đã đặt Việt Nam trước
yêu cầu phải đổi mới tư duy chính trị nhằm định hướng cho việc hoạch định
đường lối chiến lược đúng đắn trong thực tiễn. Đó là yêu cầu nhận thức đầy

đủ về các mối quan hệ ở nước ta dưới tác động của toàn cầu hóa. Do đó việc
3


nghiên cứu bản chất, đặc điểm và sự tác động của toàn cầu hóa là việc làm hết
sức cần thiết.
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn cần phải nghiên cứu hiện tượng toàn
cầu hoá và nhận thấy được những giá trị tư tưởng nổi bật trong các tác phẩm
của Thomas L. Friedman, tác giả quyết định chọn đề tài: Tư tưởng của
Thomas L. Friedman về toàn cầu hóa và những vấn đề của nó làm đề tài luận
văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Toàn cầu hóa không còn xa lạ với các nhà nghiên cứu, chính vì vậy mà
trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về chủ đề này. Ở Việt Nam,
toàn cầu hoá được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, trong đó có thể
phân chia ra thành một số hướng chính như sau.
- Nghiên cứu tổng quan về các vấn đề lý luận và thực tiễn của toàn cầu
hoá: Tiêu biểu trong lĩnh vực này là công trình “ Những vấn đề toàn cầu
trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI” của nhà nghiên cứu Nguyễn Trọng
Chuẩn. Các tác giả chỉ ra lịch sử, khái niệm, phân loại những vấn đề toàn cầu
từ đó đưa ra những nhân tố tác động đến chiều hướng phát triển của các vấn
đề toàn cầu trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI. Các tác giả cho rẳng nhân tố
kinh tế là một trong những tác nhân chủ yếu của các vấn đề toàn cầu hiện nay.
Đồng thời đi sâu phân tích ba nhóm vẫn đề cơ bản đó là: những vấn đề toàn
cầu gắn liền với mỗi quan hệ giữa các cộng đồng xã hội cơ bản của nhân loại;
nhóm những vấn đề nảy sinh từ sự tác động qua lại giữa xã hội loài người với
giới tự nhiên; nhóm những vấn đề liên quan trực tiếp đến con người đến sự
tồn tại của con người.
“Toàn cầu hoá- những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Lê Hữu
Nghị – Lê Ngọc Tòng - NXB Chính trị Quốc gia năm 2002. Các tác giả đã chỉ

ra những vấn đề lý luận chung nhất của toàn cầu hóa như khái niệm, bản chất,
4


biểu hiện của quá trình toàn cầu hóa. Đồng thời chỉ ra những vấn đề thực tiễn
đối với các quốc gia trong việc tiếp nhận những thời cơ và hạn chế thách thức
mà toàn cầu hóa mang lại.
“Tính hai mặt của toàn cầu hoá” của Trần Văn Tùng - NXB Chính trị
Quốc gia, 2000. Công trình nghiên cứu chỉ ra toàn cầu hóa là xu thế khách
quan đối với tất cả các nước trên thế giới. Tính tất yếu khách quan của toàn
cầu hóa được thúc đẩy bởi các tiến bộ mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại, đặc biệt là sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông
tin. Toàn cầu hóa luôn tiềm ẩn những thời cơ cũng như mang đến vô vàn
thách thức đối với tất cả các quốc gia, dân tộc mà nó đi qua.
“Toàn cầu hóa và phát triển bền vững” của Trung tâm khoa học xã hội
và nhân văn Quốc gia xuất bản năm 2003. Sách được chia làm hai phần; phần
thứ nhất các tác giả trình bày về toàn cầu hóa, thương mại và sự phát triển.
Chỉ ra những bài học từ lịch sử; toàn cầu hóa kinh tế, các chính sách phát
triển trong một thế giới toàn cầu hóa. Phần thứ hai được giành để chỉ ra mối
quan hệ giưa toàn cầu hóa và người lao động ở các nước đang phát triển, quản
trị thương mại toàn cầu vì mục tiêu phát triển, toàn cầu hóa và phát triển con
người ở Đông Nam Á.
“Toàn cầu hóa – Những mặt tích cực và tiêu cực, ảnh hưởng của nó
đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc” của tác giả Dương
Xuân Sơn. Trong bài viết tác giả chỉ ra những thời cơ cũng như thách thức mà
toàn cầu hóa mang lại đối với nề văn hóa dân tộc của Việt Nam. Tác giả đặt
vấn đề để khắc phục những hạn chế, yếu kém tiếp tục bảo vệ, giữ gìn, phát
triển bản sắc văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cần
thực hiện một số biện pháp như: mạnh công tác tuyên truyền, vận động quần

chúng tích cực tham gia các hoạt động văn hóa, tích cực xây dựng đời sống
5


văn hóa đại chúng và môi trường văn hóa lành mạnh, tiếp thu có chọn lọc các
giá trị văn hóa nhân loại, nhân văn, khoa học nhân loại.
Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Hiên với cuốn sách “Lịch sử và nội dung
khái niệm toàn cầu hoá” được xuất bản 2001, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh. Những vấn đề cơ bản về lịch sử toàn cầu hóa, nội dung khái
niệm này được tác giả làm rõ trong cuốn sách.
- Nghiên cứu toàn cầu hoá dưới góc độ triết học: “Dạy và học triết học
Mác - Lênin ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa” của Trần Đăng Sinh.
Theo tác giả triết học Mác - Lênin có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá
trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, một đòi hỏi
khách quan được đặt ra cho cả người dạy lẫn người học, cho cả xã hội lẫn
những người trực tiếp làm công tác quản lý giáo dục để phát huy ngày càng
tốt hơn vai trò đó của triết học Mác - Lênin, cần đổi mới nội dung và phương
pháp dạy – học triết học Mác - Lênin.
“Toàn cầu hóa hội nhập và phát triển bền vững từ góc nhìn triết học
đương đại” của hai tác giả nhà nghiên cứu Hồ Bá Thâm - Nguyễn Thị Hồng
Diễm (Đồng chủ biên). Các bài nghiên cứu của các tác giả gợi mở việc nhận
thức đầy đủ hơn phép biện chứng của quá trình toàn cầu hóa hiện nay và sự
tác động của nó đến sự hội nhập và phát triển, tiến bộ của các nước đang phát
triển. Chỉ ra những ý nghĩa đặc biệt đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập
ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu hóa.
Cuốn sách “Toàn cầu hóa trong bối cảnh Châu Á – Thái Bình Dương
một số vấn đề triết học” (NXB Khoa học xã hội, 11/2007) do Phạm Văn Đức
chủ biên. Cuốn sách được chia làm ba phần, phần thứ nhất: Toàn cầu hóa và
toàn cầu hóa ở Châu Á- Thái Bình Dương; Phần thứ hai: Triển vọng của chủ

nghĩa xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa; Phần thứ ba: Vấn đề bảo vệ các giá
6


trị văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa. Cuốn sách cung cấp bổ ích trong việc
nhận thức thực chất của toàn cầu hóa và những vấn đề triết học đặt ra trong
bối cảnh toàn cầu hóa ở Châu Á – Thái Bình Dương.
Đồng chủ đề như vậy tác giả Trần Đức Cường có bài viết “Toàn cầu
hóa - Một số vấn đề triết học đặt ra ở châu Á - Thái Bình Dương hiện nay”
đăng trên tạp chí Triết , số 1, tháng 1 năm 2006. Tác giả cho rằng toàn cầu
hoá là một hiện tượng phức tạp, có tác động sâu rộng đến mọi quốc gia, dân
tộc trên thế giới. Trong bối cảnh đó, các nước thuộc khu vực châu Á - Thái
Bình Dương có thái độ đối với vấn đề bản sắc văn hoá dân tộc; phải giải
quyết các vấn đề quốc gia dân tộc, chủ quyền dân tộc, tính tự quyết dân tộc,
phân tầng xã hội, giá trị người và đời sống con người.
Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu, bài báo khác về đề tài toàn
cầu hóa. Các tác giả đứng trên quan điểm, góc độ khác nhau, nghiên cứu
nhiều chiều cạnh của vấn đề toàn cầu hóa. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chi tiết, cụ thể về tư tưởng của
Thomas L. Friedman về vấn đề toàn cầu hóa và các vấn đề của toàn cầu hóa
từ góc nhìn triết học trong các tác phẩm của ông.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Phân tích làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng của
Thomas L. Friedman về toàn cầu hóa và những vấn đề đặt ra trong bối cảnh
toàn cầu hóa, từ đó đưa ra những đánh giá về giá trị và hạn chế của tư tưởng
này.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau đây:
+ Trình bày về bối cảnh và những tiền đề ra đời tư tưởng của Thomas
L. Friedman về toàn cầu hóa.
+ Phân tích làm rõ nội dung cơ bản của tư tưởng Thomas L. Friedman

về toàn cầu hóa và các vấn đề đặt ra trong bối cảnh toàn cầu hóa.
7


+ Đưa ra đánh giá về các giá trị, hạn chế của tư tưởng của Thomas L.
Friedman về toàn cầu hoá và những vấn đề đặt ra trong bối cảnh toàn cầu hóa.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Đề tài sử dụng những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật
biện chứng làm cơ sở lý luận.
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài vận dụng hệ thống phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng của Thomas L.Friedman về toàn cầu
hóa và những vấn đề của toàn cầu hóa.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung vào nghiên cứu tư tưởng của
Thomas L.Friedman về toàn cầu hóa và những vấn đề của toàn cầu hóa trong
hai tác phẩm: “Thế giới phẳng” và “Chiếc lexus và cây ôliu” chủ yếu từ góc
nhìn triết học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn đóng góp một góc nhìn về toàn cầu hóa nói
chung và tư tưởng về toàn cầu hóa của Thomas L. Friedman nói riêng để từ
đó đưa ra một số nhận định đánh giá về những tư tưởng của Thomas
L.Friedman trong hai tác phẩm: Thế giới phẳng và Chiếc lexus và cây ôliu.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề toàn cầu hóa và nhà báo Thomas
L.Friedman.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương và 7 tiết.


8


CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ RA ĐỜI TƯ
TƯỞNG CỦA THOMAS L.FRIEDMAN VỀ TOÀN CẦU HÓA VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA NÓ
1.1.

Bối cảnh kinh tế - xã hội cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI
*Về chính trị
Sau khi Liên Xô sụp đổ vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, đã diễn

ra hàng loạt biến động trong cục diện chính trị toàn cầu, thế giới dường như
đã diễn ra một giai đoạn chuyển tiểp với nhiều sự xáo động, quan hệ quốc tế
mới chưa được định hình.
Năm 1989 bức tường Béc-lin sụp đổ, đến năm 1991 Liên Xô chính
thức tan rã, chiến tranh lạnh kết thúc và cũng chấm dứt luôn sự tồn tại của trật
tự thế giới hai cực, đối đầu giữa hai khối nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô
đứng đầu và tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu. Sau khi chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào giai
đoạn thoái trào, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiếp tục cải cách, đổi mới
và đã thu được những thành tựu bước đầu khẳng định vai trò vị trí của mình
trong khu vực và thế giới, khẳng định tính tất yếu của thời đại quá độ từ Chủ
nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội. Các nước đế quốc tư bản chủ nghĩa có ưu
thế hơn các nước chủ nghĩa xã hội đang tìm mọi cách gây sức ép về chính trị,
kinh tế, quân sự, áp đặt các giá trị dân chủ, nhân quyền, tiếp tục sử dụng chiến
lược diễn biến hòa bình nhằm thu hẹp dần phạm vi, ảnh hưởng tiến tới thủ
tiêu các nước xã hội chủ nghĩa còn lại; các nước đang phát triển đang có xu
hướng đoàn kết lại nhằm chống lại sự áp đặt của các nước lớn vì lợi ích của
quốc gia - dân tộc mình.

Bối cảnh quốc tế đó đang tạo ra cục diện mới tập hợp lực lượng trong
cuộc đấu tranh giữa các nước xã hội chủ nghĩa với các nước tư bản chủ nghĩa,
giữa các trung tâm tư bản với nhau, giữa các nước đang phát triển với chủ

9


nghĩa đế quốc và cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân với giai cấp tư sản
trong long Chủ nghĩa đế quốc ngày càng phức tạp, đa dạng, nhiều chiều và
xuất hiện nhiều hình thái mới đan xen.
Hiện Mỹ vẫn là siêu cường duy nhất, nhưng có nhiều dấu hiệu cho thấy
Mỹ đang ở thế đi xuống, không còn ở đỉnh cao của thời kỳ "hoàng kim". Sau
khi giành chiến thắng trong Chiến tranh lạnh, Mỹ liên tục triển khai nhiều
chính sách đối ngoại để thiết lập trật tự thế giới đơn cực do Mỹ làm chủ nhằm
mục tiêu củng cố vai trò lãnh đạo của Mỹ trong hệ thống kinh tế, chính trị
toàn cầu, đồng thời sẵn sàng sử dụng vũ lực để ngăn chặn bất kỳ một hay một
nhóm quốc gia nào toan tính cạnh tranh ảnh hưởng với Mỹ. Các căn cứ quân
sự của Mỹ hiện diện dày đặc ở mọi châu lục, với số lượng lớn. Mặc dù Khối
Quân sự Vác-sa-va - khối đối trọng trong thời kỳ trật tự thế giới hai cực
không còn, nhưng Khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) do Mỹ chi
phối vẫn tiếp tục mở rộng, từ 15 nước thành viên tăng lên 28 nước thành viên.
Chiến lược can dự và hợp tác của Mỹ tạo thành một vành đai an ninh xuyên
suốt từ Âu sang Á, một mặt Mỹ củng cố và tăng cường sức mạnh của NATO
ở Châu Âu, mặt khác tăng cường hợp tác an ninh ở Châu Á - Thái Bình
Dương với các nước Nhật Bản, Hàn Quốc,Thái Lan, Xingapo, Philipin, Úc
trong đó hợp tác an ninh Nhật - Mỹ là trục chính đảm bảo cho Mỹ triển khai
thế chiến lược toàn cầu của khu vực. Mỹ đơn phương thực hiện những biện
pháp trừng phạt hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác
bằng biện pháp quân sự như: chiến tranh vùng Vịnh Péc-xích năm 1991,
chiến tranh tại Nam Tư năm 1999, chiến tranh Áp-ga-ni-xtan năm 2001, chiến

tranh I-rắc năm 2003, triển khai kế hoạch phòng thủ tên lửa quốc gia...Cùng
với sức mạnh quân sự, Mỹ có sức mạnh kinh tế to lớn: chiếm 1/3 GDP toàn
cầu; nắm hầu hết các công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới, có vai trò chi
phối đối với các tổ chức kinh tế tài chính - tiền tệ và thương mại quốc tế lớn
10


nhất hành tinh. Ngoài ra sức mạnh của Mỹ được thể hiện trên các lĩnh vực,
như giáo dục - đào tạo, truyền thông, công nghệ.
Tuy nhiên, khoảng thời gian mà vị thế siêu cường duy nhất của Mỹ
không có đối thủ cạnh tranh kéo dài không lâu. Nhiều biến động lớn đã diễn
ra trên thế giới và ngay chính tại nước Mỹ khiến người ta bắt đầu nói tới sự
suy yếu của Mỹ cả về kinh tế, chính trị trên vị thế siêu cường lãnh đạo toàn
cầu. Một số nguyên nhân là do các nước trên thế giới phát triển nhanh chóng
và sự trỗi dậy này là tất yếu, không thể ngăn chặn được, gia tăng ảnh hưởng ở
khu vực và trên toàn cầu, đe dọa vị thế siêu cường của Mỹ. Ngoài ra, chính
những chính sách sai lầm của Mỹ tạo điều kiện cho các trung tâm sức mạnh
khác trỗi dậy, hậu quả của quá trình toàn cầu hóa cũng tác động tiêu cực tới vị
thế “độc tôn” của Mỹ.
Chính trị thế giới hiện nay nổi lên xu hướng hội nhập về chính trị, các
nước cùng tham gia vào các cơ chế quyền lực tập thể nhằm theo đuổi những
mục tiêu nhất định và hành xử phù hợp với các luật chơi chung. Một quốc gia
có thể tiến hành hội nhập chính trị quốc tế thông qua ký hiệp ước với một hay
một số quốc gia khác trên cơ sở thiết lập các mối liên kết quyền lực giữa họ
hoặc tham gia vào các tổ chức chính trị khu vực chẳng hạn như ASEAN,
EU… hay một tổ chức có quy mô toàn cầu chẳng hạn như Liên Hiệp quốc.
Tiến trình hội nhập toàn diện trong EU đã đạt đến mức cao, biến tổ chức này
trở thành một thực thể gần giống như một nhà nước liên bang. ASEAN như là
một định chế về chính trị-an ninh ở khu vực Đông Nam Á cũng đang tiến
hành mở rộng và làm sâu sắc tiến trình hội nhập khu vực một cách toàn diện

hơn thông qua xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột Cộng đồng
Chính trị-An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội. Hàng
loạt các hiệp định đối tác toàn diện hay đối tác chiến lược song phương được
ký kết gần đây bao quát khá toàn diện các lĩnh vực hợp tác và liên kết giữa
11


các bên. Nói một cách khác, đây là dạng thức ban đầu của hội nhập chính trịan ninh.
Ngoài ra, hội nhập về an ninh - quốc phòng cũng là xu hướng nổi lên
từ cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI các nước hội nhập phải tham gia vào các
thỏa thuận song phương hay đa phương về an ninh - quốc phòng trên cơ sở
các nguyên tắc chia sẻ và liên kết: mục tiêu chung, kẻ thù chung, tiến hành
các hoạt động chung về đảm bảo an ninh - quốc phòng… Có nhiều kiểu liên
kết an ninh - quốc phòng khác nhau, trong đó nổi lên những hình thức chủ yếu
được nhiều nước sử dụng như sau: Hiệp ước phòng thủ chung, Hiệp ước liên
minh quân sự song phương, các dàn xếp an ninh tập thể, các dàn xếp về an
ninh hợp tác...
Trong những thập niên cuối của thế kỉ XX và những năm đầu của thế kỉ
XXI, xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo và nạn khủng bố trở thành môi đe
doạ trực tiếp tới ổn định, hoà bình của thế giới. Nạn khủng bố ngày nay xuất
hiện ở nhiều nơi trên thế giới, với rất nhiều cách thức khác nhau như: sát hại
thủ lĩnh chính trị, bắt cóc con tin, huấn luyện và sử dụng người làm thuê vào
hoạt động khủng bố... Vụ khủng bố 11-9-2001 là phát súng dạo đầu cho chủ
nghĩa khủng bố và là một trong những vụ khủng bố gây thiệt hại nhiều nhất
về tất cả các mặt kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, và quân sự của lịch sử
Hoa Kỳ cũng như những nơi khác trên thế giới. Không tặc đã cướp 4 máy chở
khách rồi lao thẳng vào nhiều biểu tượng lớn của nước Mỹ như Tòa tháp đôi ở
Niu Yoóc, Lầu Năm Góc. Khoảng 3000 nghìn người đã thiệt mạng trong loạt
vụ tấn công khủng khiếp mà thủ phạm được xác định là tổ chức khủng bố alQaeda do Bin La-đen cầm đầu. Sự kiện 11-9 không chỉ tác động toàn diện đến
nước Mỹ mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống quốc tế, bắt đầu “thời đại

khủng bố và chống khủng bố” trên toàn cầu.. Năm 2011, mặc dù trùm khủng
bố Bin La-đen bị tiêu diệt, tinh thần của tổ chức khủng bố khét tiếng An Kê12


đa và các phong trào vũ trang Hồi giáo cực đoan bị giáng một đòn nặng nề,
nhưng một nhánh của An Kê-đa, một biến thể sinh ra từ tổ chức này - cái gọi
là Nhà nước Hồi giáo IS tự xưng ra đời vào tháng 6-2014 còn cực đoan hơn,
nguy hiểm hơn, tinh vi hơn, có tổ chức hơn, trở thành một dạng khủng bố
kiểu mới, chưa từng có tiền lệ. Điều đáng nói ở đây là các phần tử khủng bố
đã sử dụng các thành tựu của khoa học, công nghệ để thực hiện hoạt động
khủng bố như: tấn công bằng vũ khí sinh học, chất nổ, phá hoại mạng vi
tính… đây là những mối đe doạ đôi với hoà bình và ổn định trên thế giới. Để
giải quyết các vấn đề trên, cần phải có sự chung tay hợp tác tích cực giữa các
quốc gia và toàn thể cộng đồng quốc tế.
*Về kinh tế
Sau khi kết thúc chiến tranh lạnh chấm dứt sự đối đầu giữa hai hệ thống
chính trị - kinh tế - xã hội, các quốc gia đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên
hàng đầu. Nhiều quốc gia đã nhận thức được những hạn chế của cơ chế kế
hoạch hóa tập trung và đã chuyển nền kinh tế của nước mình sang nền kinh tế
thị trường. Kinh tế thị trường mở ra cơ sở, điều kiện cho sự phát triển của lực
lượng sản xuất làm cho quy mô sản xuất không bị bó hẹp trong phạm vi của
từng quốc gia mà mang tầm quốc tế.
Trong một thời kỳ phát triển của nền kinh tế thế giới sau chiến tranh có
một xu hướng phát triển có thể dễ dàng nhận ra ngay đó là xu hướng hợp tác
quốc tế đối với các nền kinh tế của các quốc gia trong khu vực hay trên phạm
vi toàn thế giới. Biểu hiện rõ nét nhất của xu hướng này là sự hình thành và
phát triển của những tổ chức thương mại, tổ chức kinh tế mang tính chất quốc
tế. Ngoài ra các hiệp định song phương hay đa phương giữa các chính phủ các
nước đóng vai trò quan trọng kích thích và góp phần đẩy mạnh xu hướng hội
nhập và hợp tác kinh tế quốc tế – nhân tố cơ bản của tiến trình toàn cầu hoá.

Những ví dụ cơ bản nhất cho xu hướng này có thể thấy ngay ở các tổ chức,
13


các hiệp hội kinh tế hay thương mại như uỷ ban Châu Âu EEC – tiền thân của
EU, hiệp hội các quốc gia Đông Nam á ASEAN với khu mậu dịch tự do
AFTA. hiệp ước chung về thuế quan và thương mại GATT tiền thân của tổ
chức thương mại thế giới WTO. Ngoài ra còn có một số các tổ chức và các
diễn đàn hợp tác kinh tế khác như WP, IMF, OPEC, APEC, NAFTA…. Mặc
dù các tổ chức hay các hiệp ước kinh tế này được lập ra với các mục đích có
thể không hoàn toàn giống nhau nhưng chúng cùng có một điểm chung đó là
dựa trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và mục đích chính là để thúc đẩy
và phát triển kinh tế của nền kinh tế quốc dân bằng cách triệt để khai thác các
lợi thế so sánh và tranh thủ các nguần lực từ bên ngoài hay đẩy mạnh thu hút
và khai thác các nguồn lực nội sinh.
Trong bối cảnh đa dạng và phức tạp của thế giới sau chiến tranh đặc
biệt là sau chiến tranh lạnh, xuất hiện nhiều những tổ chức hợp tác, liên minh
và liên kết kinh tế khu vực và thế giới thu hút sự tham gia của nhiều quốc gia,
vùng lãnh thổ các nền kinh tế khác nhau, trong số những tổ chức, những liên
minh về kinh tế được ra đời trong xu hướng chung của thời đại ấy phải kể đến
Tổ chức thương mại thế giới WTO – ra đời trên cơ sở hiệp định chung về thuế
quan và thương mại GATT, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình
Dương APEC khu vực mậu dịch tự do bắc mỹ NAFTA tổ chức hợp tác Á-ÂU
ASEM. Và hiệp ước các quốc gia Đông Nam A : ASEAN với AFTA – khu
vực mậu dịch tự do Đông Nam á. Ngoài ra còn có các tổ chức kinh tế tài
chính mang tính chất Quốc tế khác như: Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, ngân hàng
thế giới WB…Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với 162 thành viên (tính
đến tháng 7 - 2016) chiếm khoảng 90% số dân, chi phối 95% hoạt động
thương mại của thê' giới và có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tự do
hoá thương mại, làm cho nền kinh tế thế giới phát triển năng động hơn.


14


Xét về phạm vi hội nhập, có thể nói tiến trình hội nhập kinh tế hiện nay
diễn ra ở cả cấp độ song phương, khu vực và toàn cầu. Trong khi tiến trình hội
nhập đa phương trong WTO đang trì trệ, hội nhập song phương và khu vực
đang trở thành một xu hướng nổi trội.
Sự nổi lên của các nước lớn đang phát triển, với sự phát triển năng
động của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là sự trỗi dậy của
Trung Quốc. Các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước lớn có nền kinh tế
mới nổi đã duy trì được đà tăng trưởng khá cao của mình ngay cả trong giai
đoạn thế giới trải qua cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế, trở thành trụ đỡ để
ngăn tốc độ tăng trưởng kinh tế của thế giới không giảm quá sâu. Ngoài các
nhóm các nước công nghiệp phát triển G7 (gồm Mỹ, Đức, Nhật Bản, Pháp,
Anh, I-ta-li-a, Ca-na-đa) xuất hiện nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi
hàng đầu thế giới - G20 (gồm G7, EU, Ác-hen-ti-na, Ô-xtrây-li-a, Bra-xin,
Trung Quốc, Ấn Độ, In-đô-nê-xi-a, Mê-hi-cô, Nga, A-rập Xê-út, Nam Phi,
Hàn Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ) được đánh giá là trung tâm điều phối các nỗ lực
quốc tế nhằm tạo ra sự phục hồi bền vững. Thế giới sau thập niên đầu của thế
kỷ XXI đang chứng kiến quá trình hình thành trật tự kinh tế mới.
*Về văn hóa – xã hội
Giao lưu văn hóa là hoạt động không thể thiếu giữa các cộng đồng
người với nhau, những hình thức giao lưu văn hóa chủ yếu trong lịch sử như:
hoạt động trao đổi buôn bán, thương mại; các cuộc di cư lớn nhỏ; sự hòa
huyết, hôn phối giữa các tộc người; hoạt động truyền giáo; ngoại giao… Hiện
nay, bước vào thời kỳ toàn cầu hóa giao lưu văn hóa được thực hiện với
những sắc thái mới dựa vào các thành tựu của toàn cầu hóa: phân công lao
động toàn cầu, công nghệ thông tin và mạng viễn thông không dây toàn cầu.
Ở đây các phương tiện giao thông vận tải và công nghệ truyền thông hiện đại

cho phép chuyển giao những khối lượng lớn của giá trị vật chất và tinh thần
15


khổng lồ vượt qua những khoảng cách lớn, trong một khoảng thời gian ngắn
hơn nhiều.
Những trở ngại về không gian và thời gian đối với giao lưu văn hóa
ngày càng bị thu hẹp. Nhờ vậy mà các dân tộc và những nền văn hóa khác
nhau trên thế giới ngày càng thường xuyên tiếp xúc với nhau. Tần số hấp thu
cũng không ngừng gia tăng đối với từng cá thể. Giao lưu và hội nhập văn hóa
trên thế giới hiện nay đang diễn ra trên qui mô lớn hơn bao giờ hết. Những
hoạt động trao đổi kinh tế, mậu dịch, đầu tư quốc tế, trao đổi văn hóa, học
thuật trên phạm vi quốc tế và làn sóng di dân đã mở rộng hơn nữa diện giao
lưu. Do đó, nếu như trước kia giao lưu văn hóa chỉ mang tính lẻ tẻ, bộ phận
nằm trong khuôn khổ tự phát, thẩm thấu một cách tự nhiên, thì nay nó đã
mang một tầm cao mới với tính toàn thể, phát triển từ qui mô quốc gia đến qui
mô khu vực và qui mô toàn cầu.
Kết quả của những giao lưu văn hóa mang tính đa phương và đa
khuynh hướng như vậy đang hình thành nên một hệ giá trị và vật thể văn hóa
chung cho tất cả các nền văn hóa trên trái đất. Có nhiều nhà học giả gọi đó
là nền văn hóa toàn cầu hay văn minh toàn cầu.
Hiện nay, giao lưu văn hóa toàn cầu đang hiện hữu dưới nhiều hình
thức khác nhau, từ phân công lao động quốc tế cho đến thị trường tài chính
toàn cầu, Nhưng đặc trưng nhất của trong số các hình thái giao lưu của toàn
cầu hóa phải kể đến: (1) thị trường toàn cầu hóa trong các ấn phẩm văn hóa;
(2) giao lưu văn hóa qua Internet; (3) các hệ thống truyền thông đại chúng.
Một biểu hiện mới của giao lưu văn hóa làm xúc tiến các hoạt động kinh tế
trong giai đoạn cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI đó là thực tiễn của các công ty
xuyên quốc gia. Để có thể điều hành tốt quá trình đàm phán kinh doanh,
nghiên cứu thị trường các công ty phải thiết lập được cầu giao tiếp liên văn

hóa giữa các đối tác nằm trên vùng các lãnh thổ khác nhau của địa cầu. Từ
16


trên những hiểu biết thu được từ giao lưu văn hóa mà các công ty hoạch định
chính sách, chiến lược kinh doanh về sản phẩm, cũng như cách quản lý nhân
lực sau cho phù hợp với từng khu vực mà công ty của họ đầu tư. Có thể nói,
lần đầu tiên trong lịch sử một cấp độ liên kết văn hóa mới cao hơn đã xuất
hiện. Nó lấy không gian toàn cầu làm địa bàn tương tác mà không phải từng
khu vực văn hóa riêng lẻ như trước kia.
Trong những năm qua, ở nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới đã xảy ra
những cuộc xung đột, trong đó có một số cuộc xung đột liên quan đến dân
tộc, tôn giáo hoặc xen lẫn cả dân tộc và tôn giáo, như: xung đột giữa những
cộng đồng Hồi giáo theo dòng Sunni và Shiite hay các dòng khác nhau ở
trong một quốc gia như: Syria, Iraq; giữa một số quốc gia Ả-rập, Hồi giáo với
nhau và với Israel (Do Thái giáo); giữa Hồi giáo và Công giáo ở Philippines,
Indonesia; giữa Hồi giáo và Phật giáo ở miền Nam Thái Lan, Myanmar...
Ngoài ra, một số tổ chức đang có xu hướng lợi dụng dân tộc, tôn giáo để thực
hiện mưu đồ chính trị. Các cuộc xung đột dân tộc, tôn giáo thường rất phức
tạp, kéo dài và khó giải quyết do liên quan đến lịch sử, dân tộc, đạo đức,
truyền thống tôn giáo,... có khi ở một vùng miền, một quốc gia hay liên quan
đến nhiều quốc gia; mâu thuẫn, xung đột giữa các dân tộc, tôn giáo ngày càng
tăng, trở thành nhân tố gây mất ổn định ở nhiều nơi.
Dù là cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc hay đan xen luôn là mối quan
tâm, lo lắng của mọi người và làm cho lãnh đạo nhiều tổ chức quốc tế cũng
như quốc gia trên thế giới đau đầu. Tất cả các cuộc xung đột từ trước đến nay
đều để lại những hậu quả rất nặng nề, thậm chí biến thành những cuộc chiến
tranh kinh hoàng kéo dài nhiều năm. Biết bao dân thường vô tội ở nhiều nơi
luôn phải sống trong tình trạng căng thẳng, lo âu, sợ hãi. Để giải quyết xung
đột, việc tìm ra những nguyên nhân nhằm có giải pháp đúng đắn nhất, giải

quyết có hiệu quả nhất là nhiệm vụ quan trọng. Trong số các nguyên nhân thì
17


đáng chú ý đến nguyên nhân về sắc tộc, tôn giáo, như: một bộ phận người
thiểu số theo một tôn giáo với số ít tín đồ trong một quốc gia mà đa số người
theo một tôn giáo khác lại nắm quyền cai trị nên gây ra sự bất bình của cộng
đồng sắc tộc, tôn giáo đối lập. Cũng có trường hợp do không chịu sự thống trị
của chính quyền đương thời nên đã gây ra những cuộc đấu tranh đòi ly khai…
đều là những nguyên nhân gây nên xung đột.
Sau công cuộc cách mạng công nghiệp nền kinh tế thế giới phát triển
với tốc độ tăng trưởng kinh tế thần kì của nhiều nước. Nhưng mọi vấn đề đều
luôn có mặt trái của nó. Nhân loại cũng đang đứng trước nhiều vấn nạn xã hội
cần phải quan tâm. Thế giới đang phải gồng mình đối mặt với những nguy cơ
toàn cầu như: biến đổi khí hậu, thiên tai, dân số, vũ khí hạt nhân...
Dân số thế giới tăng nhanh, nhất là ở nửa sau của thế kỉ XX. Dân số thế
giới năm 1970 với gần 4 tỷ người lên hơn 7,3 tỷ người năm 2015. Dự báo dân
số sẽ tăng trên 9 tỷ người vào năm 2050, chủ yếu tăng ở khu vực cận Sahara
châu Phi. Thời kì 2001 - 2005, tỉ suất gia tăng dân số tự nhiên trung bình năm
của thế giới là 1,2%, các nước phát triển là 0,1%, các nước đang phát triển là
1,5%. 1.2. Dân số thế giới đang có xu hướng già đi. Trong cơ cấu theo độ
tuổi, tỉ lệ người dưới 15 tuổi ngày càng thấp, tỉ lệ người trên 65 tuổi ngày
càng cao và tuổi thọ dân số thế giới ngày càng tăng.
Cùng với quá trình gia tăng dân số là quá trình đô thị hóa. Năm 1970,
chỉ có khoảng 1,3 tỷ người (36% dân số) sống ở đô thị. Đến nay, dân số đô thị
chiếm 54%. Dự báo đến 2025 sẽ có thêm khoảng 1 tỷ người sống ở đô thị,
chủ yếu ở châu Á. Đô thị chiếm 70% lượng khí nhà kính phát thải. Đô thị
cũng là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, như gia tăng về
cường độ sóng nhiệt, tăng lượng mưa, ngập lụt, sạt lở đất, ô nhiễm, hạn hán.
Dân số và môi trường là hai yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự

biến động của dân số có tác động đến môi trường. Tình trạng ô nhiễm môi
18


trường đang là vấn đề nóng của dư luận. Nhiệt độ trung bình của Trái Đất
hiện nay nóng hơn gần 40 độ C so với nhiệt độ trong kỷ băng hà gần nhất,
khoảng 13. 000 năm trước. Tuy nhiên trong vòng 100 năm qua, nhiệt độ trung
bình bề mặt Trái Đất tăng khoảng 0,6-0,7 độ C và dự báo sẽ tăng 1, 4-5, 8 độ
C trong 100 năm tới.
Nồng độ khí nhà kính tiếp tục gia tăng. Năm 2010 ghi nhận khoảng 49
Giga tấn CO2 phát thải vào không khí, chủ yếu từ hoạt động đốt nhiên liệu
hóa thạch, gấp 2 lần lượng phát thải năm 1970. Năm 2013, nồng độ
CO2 trong không khí đạt mức 400 ppm. Những đợt sóng nhiệt tăng cường,
mưa bão, hạn hán, thiên tai nặng nề hơn, ngập lụt diễn ra trên phạm vi rộng,
đặc biệt là ở các thành phố ven biển, gây thiệt hại nặng nề đến cuộc sống
con người và tiếp tục hủy hoại các hệ sinh thái.
Một trong những hệ quả tất yếu của sự gia tăng nhiệt độ của trái đất là
sự gia tăng mực nước biển, gia tăng cường độ các cơn bão và các hiện tượng
thời tiết cực đoan, suy giảm tầng ôzôn, thay đổi ngành nông nghiệp, và làm
suy giảm axit trong đại dương, hàng triệu tấn chất thải rắn đổ ra biển mỗi năm
gồm đất, cát, rác thải, phế liệu xây dựng, chất phóng xạ...Sức ép lớn tới tài
nguyên thiên nhiên và môi trường trái đất do khai thác quá mức các nguồn tài
nguyên phục vụ cho các nhu cầu nhà ở, sản xuất lương thực, thực phẩm, sản
xuất công nghiệp.
Sự chênh lệch về tốc độ phát triển dân số giữa các nước công nghiệp
hoá và các nước đang phát triển gia tăng, dẫn đến sự nghèo đói ở các nước
đang phát triển và sự tiêu phí dư thừa ở các nước công nghiệp hoá. Sự chênh
lệch ngày càng tăng giữa đô thị và nông thôn, giữa các nước phát triển công
nghiệp và các nước kém phát triển dẫn đến sự di dân ở mọi hình thức.
Sự gia tăng dân số đô thị và sự hình thành các thành phố lớn - siêu đô

thị làm cho môi trường khu vực đô thị có nguy cơ bị suy thoái nghiêm trọng.
19


Nguồn cung cấp nước sạch, nhà ở, cây xanh không đáp ứng kịp cho sự phát
triển dân cư. Ô nhiễm môi trường không khí, môi trường nước tăng lên. Các
tệ nạn xã hội và vấn đề quản lý xã hội trong đô thị ngày càng khó khăn.
Trong những thập niên cuối của thế kỉ XX và những năm đầu của thế kỉ
XXI, xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo và nạn khủng bố trở thành môi đe
doạ trực tiếp tới ổn định, hoà bình của thê giới. Nạn khủng bố ngày nay xuất
hiện ở nhiều nơi trên thế giới, với rât nhiều cách thức khác nhau (sát hại thủ
lĩnh chính trị, bắt cóc con tin, huân luyện và sử dụng người làm thuê vào hoạt
động khủng bố...). Điều cực kì nguy hiểm là các phần tử khủng bố đã sử dụng
các thành tựu của khoa học, công nghệ để thực hiện hoạt động khủng bố (tấn
công bằng vũ khí sinh học, chất nổ, phá hoại mạng vi tính…). Bên cạnh
khủng bố, hoạt động kinh tế ngầm (buôn lậu vũ khí, rửa tiền...), tội phạm liên
quan đến sản xuất, vận chuyển, buôn bán ma tuý... cũng là những mối đe doạ
đôi với hoà bình và ổn định trên thế giới. Để giải quyết các vấn đề trên, cần
phải có sự hợp tác tích cực giữa các quốc gia và toàn thể cộng đồng quốc tế.
1.2. Tiền đề khoa học công nghệ và tiền đề lý luận
1.2.1. Tiền đề khoa học công nghệ
Một vài thập kỷ vừa qua, thế giới đã chứng kiến những bước nhảy vọt
trong sự phát triển của khoa học và công nghệ. Điều này đã thực sự thúc đẩy
sự gia tăng của cải vật chất, nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng ngày càng cao của con người. Khoa học và công nghệ đã trực tiếp
tác động nâng cao năng suất lao động, giảm nhẹ cường độ lao động, giảm chi
phí, giá thành sản xuất, giảm rõ rệt tỷ lệ tiêu hao vật chất, tăng tỷ lệ chất xám
trong cấu tạo sản phẩm.
Về công nghệ sinh học, việc khám phá ra cấu trúc AND hiểu biết được
mật mã của sự sống là bước ngoặt trong lịch sử sinh học. Đặc biệt vào năm


20


2000 nhóm nhà khoa học Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Trung Quốc và Nhật Bản đã
hoàn thành công trình giải mã bộ gien người, giúp khám phá cơ chế hoạt động
của sự sống, qua đó tìm cách khắc phục các loại bệnh tật. Bản phác thảo đầy
đủ đầu tiên về bản đồ bộ gen người - một trong những sự kiện lớn nhất có tầm
vóc đột phá lịch sử khoa học của con người. Ngoài ra các nhà khoa học Mỹ và
Nhật Bản tuyên bố đã thành công trong việc tạo ra tế bào gốc từ da người một bước đột phá trong y học - mở ra khả năng tạo tế bào gốc với mã gen cụ
thể của cá nhân để chữa các bệnh nan y và loại trừ nguy cơ thải ghép.
Công nghệ sinh học ngày nay đã cho phép phát hiện, chẩn đoán nhiều
loại bệnh ở mức phân tử; sản xuất nhiều loại thuốc và vaccine mới an toàn
hơn; sản xuất nông nghiệp với sản lượng tăng, chi phí giảm, chất lượng môi
trường và sức khỏe con người được cải thiện; sản xuất thực phẩm với chất
lượng dinh dưỡng cao, không bị hư hỏng, không gây dị ứng... Nhiều công
nghệ liên quan hiện đang được ứng dụng rộng rãi trong nghiên cứu và phát
triển công nghệ sinh học. Công nghệ sinh học nano với việc ứng dụng công
nghệ nano vào lĩnh vực khoa học sự sống và công nghệ sinh học dẫn đến sự
hình thành một lĩnh vực khoa học và công nghệ mới - Khoa học về sự sống ở
kích thước nano và công nghệ sinh học nano. Rất nhiều sản phẩm của ngành
khoa học mới mẻ này như hạt nano, cảm biến sinh học, microarray đã được
nghiên cứu và sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực y dược, sinh học, các ngành
công nghiệp thực phẩm và nông nghiệp.
Lĩnh vực công nghệ thông tin chứng kiến những tiến bộ phi thường,
đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xu thế toàn cầu hóa. Với hệ thống
các phương tiện và kỹ thuật thông tin hiện đại, cách mạng thông tin toàn cầu
như điện thoại, fax, Internet… mối liên hệ qua lại và giao dịch giữa các cá
nhân và doanh nghiệp ở mọi nơi trên thế giới trở nên nhanh chóng, thường
21



xuyên và thuận tiện với chi phí ngày càng giảm dần; biên giới giữa các quốc
gia trên nhiều phương diện đã và đang bị xóa mờ. Sự biến đổi trong lĩnh vực
thông tin, đặc biệt đã biến thông tin trở thành môt thứ hàng hóa, truyền thông
trở thành một trong những ngành công nghiệp hàng đầu trên thế giới. Nhờ vào
công nghệ thông tin, thương mại điện tử ra đời và phát triển ngày càng mạnh
mẽ. Nhờ vào công nghệ thông tin, phương thức tổ chức và quản lý sản xuất –
kinh doanh đã thay đổi vô cùng nhanh chóng.
Lĩnh vực khoa học vũ trụ, chứng kiến nhiều thành tựu vĩ đại trong công
cuộc khám phá không gian, chúng ta được ngắm những hình ảnh rõ, đẹp từ
các hành tinh thông qua tàu vũ trụ. Năm 2003, Trung Quốc phóng thành công
tàu vũ trụ Thần Châu 5 do nhà du hành Dương Lợi Vĩ điều khiển. Năm 2004,
các rôbốt tự hành Spirit và Opportunity của Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ
thực hiện nhiều cuộc nghiên cứu khoa học trên Sao Hỏa. Với sự kiện này,
Trung Quốc trở thành quốc gia thứ ba đưa được con người ra ngoài bầu khí
quyển trái đất, sau Liên bang Xô Viết trước đây và Mỹ.
Năm 2013, một từ khóa mới là "Công nghiệp 4.0" bắt đầu nổi lên xuất
phát từ một báo cáo của chính phủ Đức đề cập đến cụm từ này nhằm nói
tới chiến lược công nghệ cao, điện toán hóa ngành sản xuất mà không cần sự
tham gia của con người. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác
động mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, thông qua các công nghệ như Internet vạn
vật, trí tuệ nhân tạo, thực tế ảo, tương tác thực tại ảo, mạng xã hội, điện toán
đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn... để chuyển hóa toàn bộ thế giới thực
thành thế giới số với sự xuất hiện của robot có trí tuệ nhân tạo mang lại nhiều
ứng dụng trong xã hội. Nhờ công nghệ, người máy làm việc càng thông minh,
có khả năng ghi nhớ, học hỏi vô biên, trong khi khả năng đó ở con người càng
già càng yếu đi.

22



Như vậy, Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ cũng tạo ra nhiều loại
vật liệu mới có chất lượng tốt hơn, chi phí thấp hơn thay thế những vật liệu
truyền thống như: metamaterial, pin mặt trời giá rẻ, vật liệu nhiệt điện, vật
liệu tự phục hồi… Từ những năm 1980 cho đến nay, thế giới đã tăng cường sử
dụng những nguồn năng lượng và vật liệu mới. Tỷ lệ nguồn điện nguyên tử,
thủy điện, năng lượng mặt trời được sử dụng ngày càng cao trong sản xuất và
đời sống. Các vật liệu mới như chất dẻo đặc biệt, vật liệu tổng hợp, sợi quang
học, gốm sứ… thay thế ngày càng nhiều nguyên liệu truyền thống. Tự động
hóa cũng trở thành một nét đặc trưng của khoa học – công nghệ, nhiều khâu
trong sản xuất được tự động hóa, lập trình khoa học.
1.2.2. Tiền đề lý luận
* Tiền đề lý luận
Cơ sở lý luận quan trọng của toàn cầu hoá mà Friendman kế thừa là lý
thuyết về lợi thế so sánh do Adam Smith nêu ra năm 1776 và sau này David
Ricado năm 1987 đã bổ sung. Lý thuyết này cho rằng: Những nước có lợi thế
tuyệt đối hoàn toàn hơn hẳn các nước khác, hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối so
với các nước khác trong sản xuất mọi sản phẩm, thì vẫn có thể và vẫn có lợi
khi tham gia vào phân công lao động và thương mại quốc tế bởi vì mỗi nước
có một lợi thế so sánh nhất định về sản xuất một số sản phẩm và kém lợi thế
so sánh nhất định về sản xuất các sản phẩm khác. Bằng việc chuyên môn hoá
sản xuất và xuất khẩu sản phẩm mà nước đó có lợi thế so sánh, mức sản lượng
và tiêu dùng trên thế giới sẽ tăng lên, kết quả là mỗi nước đều có lợi ích từ
thương mại. Như vậy lợi thế so sánh là cơ sở để các nước buôn bán với nhau
và là cơ sở để thực hiện phân công lao động quốc tế. Trong lý thuyết so sánh
này có bốn điểm quan trọng:
Thứ nhất, Thương mại tự do làm cho sản xuất có hiệu quả cao hơn.
Thứ hai, Thương mại tự do làm cho tiêu dùng có hiệu quả cao hơn.
23



Thứ ba, Thương mại tự do làm cho cạnh tranh mạnh mẽ hơn, làm tăng
trưởng kinh tế.
Thứ tư, Thương mại tự do thúc đẩy quá trình đổi mới. Mọi quốc gia và
công ty tham gia vào toàn cầu hóa đều chịu tác động theo 4 hướng trên.
Cơ sở lý luận thực tiễn đó là lý thuyết về kinh tế thị trường. Trước hết
là những quy tắc của kinh tế thị trường bao gồm: sự đối xử về kinh doanh, về
quyền kinh doanh đối với công ty trong và ngoài nước, một đồng tiền quốc
gia chuyển đổi tiêu dùng, tác dụng giá cả, lãi suất, tác dụng thương mại... Đây
chính là một nguồn lực phát triển cho mọi quốc gia.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hội nhập quốc tế những thể chế này
có năm hình thức: thể hiện tiền tệ, quan hệ lao động, quan hệ cạnh tranh,
phương thức hội nhập quốc tế, bản chất và hình thức nhà nước. Ba lý luận
trên là cơ sở quan trọng cho quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế, đi theo hướng tiến bộ phù hợp với lợi ích của các quốc gia.
*Một số quan điểm khác nhau về toàn cầu hóa
Xuất hiện từ những năm 1960 “toàn cầu hóa” đã trở thành một trong
những vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất. Hiện nay, đang có rất nhiều quan điểm
trái ngược nhau về toàn cầu hoá. Một số ý kiến cho rằng, toàn cầu
hoá như người ta đang làm ồn ào hiện nay là không có thật hoặc ít ra là nó
chưa tồn tại đến mức như nhiều người tưởng. Một số ý kiến khẳng định sự tồn
tại của toàn cầu hoá chiếm số đông và cũng khác nhau theo nhiều khía cạnh.
Cùng điểm qua một số định nghĩa khác nhau của các học giả về toàn cầu hóa
để thấy được tính phức tạp của khái niệm này.
Khái niệm toàn cầu hóa lần đầu tiên được Theodore Levitt đưa ra năm
1983 toàn cầu hóa được xem là “quá trình liên kết thị trường của các sản
phẩm khác nhau được sản xuất bởi các tập đoàn xuyên quốc gia” [13, tr. 157]

24



M.Steger cho rằng: “toàn cầu hóa là quá trình kéo dài nhiều thiên niên kỷ
gồm năm giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất (tiền lịch sử) của toàn cầu hóa bắt đầu
từ thiên niên kỷ thứ 5 – 3 trước CN đến cuối thế kỷ trước CN. Giai đoạn thứ
hai của toàn cầu hóa kéo dài từ đầu thế kỷ I sau CN đến thế kỷ thứ XV và
được coi là toàn cầu hóa sớm. Giai đoạn thứ ba bắt đầu từ thế kỷ XVI đến
giữa thế kỷ XVIII được gọi là toàn cầu hóa thời cận đại. Giai đoạn thứ tư bắt
đầu từ giữa thế kỷ XVIII đến những năm 70 của thế kỷ XX được gọi là toàn
cầu hóa thời hiện đại. Giai đoạn thứ năm bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ
XX đến nay, được gọi là toàn cầu hóa đương đại” [13, tr. 157]
Theo thuyết tân mác xít, toàn cầu hóa được coi là chiến lược có mục đích
của nhà tư bản độc quyền và chủ nghĩa đế quốc nhằm tăng cường sự bất bình
đẳng về kinh tế trên thế giới và tình trạng bóc lột bởi các tổ chức độc quyền
lớn nhất đối với các khu vực “ngoại vi” và “nửa ngoại vi”.
Chủ nghĩa tự do mới cho rằng toàn cầu hóa là quá trình hạn chế dần dần
những lợi ích dân tộc của các quốc gia và hình thành cộng đồng các nước văn
minh, là kết quả của sự thâm nhập lẫn nhau của các nền kinh tế quốc dân, sự
gia tăng vai trò của các công ty xuyên quốc gia lớn nhất trong nền kinh tế thế
giới.
Theo A.I.Utkin, toàn cầu hóa là sự hợp nhất của nền kinh tế quốc dân
thành một hệ thống toàn thế giới trên cơ sở luận chuyển tư bản một cách dễ
dàng, tính mở của của thông tin mới, cách mạng công nghệ, các trào lưu xã
hội liên quốc gia, sự thực hiện công nghệ viễn thông giáo dục quốc tế...
Theo M. B.Korchinxkaya, toàn cầu hóa là kết quả phát triển nền văn
minh. Toàn cầu hóa bao gồm các yếu tố như sự thu hẹp về giao tiếp trên quy
mô toàn cầu, gia tăng nhanh chóng của mức độ phụ thuộc lẫn nhau của xã hội
25



×