Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

ĐỀ CƯƠNG MÔN KỸ NĂNG VẬN ĐỘNG NHÂN DÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.97 KB, 70 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN KỸ NĂNG VẬN ĐỘNG NHÂN DÂN
Câu 1. Phân tích vai trò của gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen trong công tác dân vận?
Câu 2. Phân tích các giải pháp để thực hiện tốt việc gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen trong công
tác dân vận?
Câu 3. Phân tích các giải pháp để thực hiện tốt việc phối hợp, liên kết trong công tác dân vận?
Câu 4. Phân tích vai trò, nội dung, phương pháp của gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen trong công
tác dân vận?
Câu 5. Phân tích giải pháp để nâng cao kỹ năng vận động người có uy tín?
Câu 6. Phân tích các giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác hòa giải trong công tác dân vận?
Câu 7. Phân tích vai trò, nội dung, phương pháp của phối hợp, liên kết trong công tác dân vận?
Câu 8. Phân tích các giải pháp nâng cao hiệu quả tiếp dân đến khiếu nại, tố cáo?
Câu 9. Vai trò, nội dung, phương pháp của phối hợp, liên kết trong công tác dân vận?
Câu 10. Vai trò, nội dung, phương pháp hòa giải trong công tác dân vận?
Câu 11. Vai trò, nội dung, phương pháp tiếp dân trong công tác dân vận?
Câu 12. Vai trò, nội dung, phương pháp tiếp dân đến khiếu nại, tố cáo trong công tác dân vận?
Câu 13. Vì sao phải phối hợp, liên kết trong công tác dân vận?
Câu 14. Vì sao cán bộ dân vận cần phẩm chất đạo đức tốt, bản thân và gia đình phải gương
mẫu trước nhân dân, phải có kỹ năng vận động nhân dân?
Câu 15. Những nội dung hợp thành kỹ năng vận động người có uy tín trong khu vực dân cư
của người cán bộ dân vận?
Câu 16. Nêu và phân tích một số điểm cán bộ dân vận cần chú ý gặp gỡ, tiếp xúc, làm quen
trong công tác dân vận?

1


Bài làm
Câu 1. Phân tích vai trò của gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen trong công tác dân vận?
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác dân vận là nhiệm vụ
có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện quan trọng bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước


với nhân dân
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định, công tác vận động quần chúng là một
nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa quyết định sự thành bại của cách mạng trong mọi thời kỳ.
Người nhấn mạnh: “Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu,
truyền đơn, chỉ thị mà đủ. Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân
hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được.
Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân,
cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức
toàn dân ra thi hành.”
Do đó, gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen có vai trò rất quan trọng trong công tác Dân vận; là
hoạt động tiếp cận, thiết lập mối quan hệ của cán bộ đảng viên đối với nhân dân để tuyên
truyền, thuyết phục nhân dân thực hiện tốt chủ trương của Đảng, Nhà nước, nhằm tăng cường
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Từ đó, hiểu thêm các kiến nghị, đề xuất và
nắm được các tâm tư nguyện vọng của nhân dân để cán bộ làm công tác dân vận, nhất là cán
bộ quản lí trong Đảng và Nhà nước có phương pháp, định hướng tham mưu cho cấp ủy lãnh
đạo tốt trong công tác vận động quần chúng.
Gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen có vai trò đặt biệt rất quan trọng, là bước đầu tạo nên sự
thiện cảm, tiếp cận đối với nhân dân, để thu dần khoảng cách giữa Đảng với nhân dân, từ đó
để nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước, để nhân
dân ra sức tham giam góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh…
thể hiện một số vai trò cụ thể sau:
Thứ nhất: gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen với các tầng lớp nhân dân không chỉ là tuyên
truyền, giải thích, vận động nhân dân thực thực hiện tốt chủ trương của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước, các quy định của địa phương mà còn nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng,
kiến nghị của nhân dân để tham mưu cho cấp ủy, các cơ quan có thẩm quyền định hướng và
2


xử lí các vụ việc mà nhân dân vướng mắc, hoặc những khiếu kiện, khiếu nại tiềm ẩn trong
nhiều năm kéo dài. Từ những việc nắm bắt được thông tin qua buổi tiếp xúc làm quen giữa

người cán bộ dân vận và nhân dân, sẽ có rất nhiều lợi ích thiết thực, giải quyết được những
tình huống trước mắt và đôi khi tránh được những vụ khiếu nại, khiếu kiện kéo dài vượt cấp
dẫn đến các “điểm nóng”.
Chỉ cần cuộc gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen của người cán bộ dân vận biết khéo léo ứng
xử cho phù hợp trong từng đối tượng, thì hiệu quả mang lại sẽ thành công rất nhiều trong công
tác vận động quần chúng, nhất là: đền bù đất đai, giải phóng mặt bằng, các tình huống phức
tạp trong tôn giáo; khiếu nại, khiếu kiện…
Thứ hai: Qua các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen trong công tác vận động, sẽ giúp cho
người cán bộ dân vận tiếp xúc được nhiều đối tượng khác nhau, nhiều tầng lớp khác nhau
trong xã hội, để từ đó biết cách tiếp cận và xử lí khóe léo mọi tình huống một cách nhịp
nhàng. Bên cạnh đó, thông qua các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen còn giúp cho cán bộ dân
vận tiếp cận được nét văn hóa vùng miền, phong tục tập quán, truyền thống của từng thôn,
xã…, từng đối tượng tôn giáo, dân tộc. Tạo nên một khía cạnh khác trong không chỉ giỏi trong
cách vận động mà buộc người cán bộ dân vận phải có sự đầu tư nghiêm túc, chuyên sâu và
phải có lượng kiến thức rộng, am hiểu sâu trong từng lĩnh vực để kịp thời ứng phó trong mọi
tình huống xảy ra để có hướng giải quyết đúng đắn, tế nhị, hiệu quả trong mọi hoàn cảnh giao
tiếp khi xuống địa phương tiếp cận với dân.
Thứ ba: qua cuộc gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen có vai trò rất quan trọng; là bước đầu cho sự kết
nối, thu dần khoảng cách giữa cán bộ và người dân; tạo nên mối quan hệ mật thiết, gần gũi giữa nhân
dân với Đảng, tạo nên một niềm tin vững chắc trong lòng nhân dân, để nhân dân có thể nói hết những
tâm tư, nguyện vọng của mình cho cán bộ dân vận hiểu. Một khi dân đã đặt niềm tin vào cán bộ thì rất
dễ trong công tác vận động, tuyên truyền và thiết phục. Như Bác Hồ từng nhận định: “Dễ trăm lần
không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Do đó, trong công tác vận động quần chúng,
nhất là trong cuộc gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen cũng là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng, là
thước đo cho độ tin cậy, mức hài lòng trong cách vận động trực tiếp đối với nhân dân. Trong một tình
huống xảy ra, nếu người cán bộ có thể giải thích và có thái độ chuẩn mực trong cách xử lí thì rất dễ
trong cách tiếp cận và nắm thông tin từ người dân.
3



Thứ tư: từ buổi gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen sẽ giúp cho người cán bộ dân vận trực tiếp tuyên
truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và truyền tải các nội dung,
chương trình, kế hoạch mới của địa phương đến với nhân dân một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. Qua
đó, có thể trực tiếp giải thích các thắc mắc, những kiến nghị, đề xuất và nhận định của nhân dân đối với
các cơ chế, chính sách còn bất cập đối với nhân dân. Từ những thông tin góp ý quý báu trực tiếp của
nhân dân, có thể kịp thời tham mưu cho cấp ủy và cơ quan cấp trên có những định hướng và điều chỉnh
cho phù hợp với cơ chế, chính sách đối với từng địa phương, từng đối tượng, từng vùng miền.
Thứ năm: gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen còn giữ vai trò rất quan trọng trong công tác dân
vận; giúp cho cấp ủy các cấp và cán bộ dân vận quản lí có cái nhìn sâu sắc hơn, toàn diện hơn
trong mọi hoạt động. Trong tác phẩm “Dân vận”, Bác Hồ từng chỉ ra rằng: “Những người phụ
trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải
chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc”. Một người lãnh đạo
giỏi, một người quản lí tốt và một người làm công tác dân vận khéo thì cần hội đủ cả tài và phẩm
chất đạo đức, nói phải đi đôi với hành động và việc làm. Phải đi sát cơ sở, bám địa bàn, phải biết
lắng nghe ý kiến của nhân dân; không thể ngồi phòng lạnh mà đưa ra chỉ thị, nghị quyết...
Thứ sáu: gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen giúp cho công tác dân vận tiếp cận một phương
pháp tuyên tuyền hiệu quả, đổi mới phương thức trong cách điều hành và quản lí. Qua đó nắm
được nhiều kênh thông tin khác nhau, biết được nhiều đối tượng khác nhau, đặc biệt có cơ hội
được tiếp xúc và làm quen với người có uy tín, có trình độ và năng lực trong xã hội sẽ đưa ra
những ý kiến rất sát thực và hữu ích cho những giải pháp khắc phục những mặt tồn tại, hạn
chế trong công tác vận động và tuyên truyền.
Hiệu quả của mỗi cuộc gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen với các tầng lớp nhân dân phụ thuộc
vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan nhưng chủ yếu vẫn là nội dung, phương pháp, kinh
nghiệm và sự chân thành của người làm công tác vận động nhân dân.
Tóm lại: Một trong những nội dung để dẫn đến sự thành công trong công tác tuyên
truyền, vận động và thuyết phục nhân dân đạt hiệu quả đó là vận động sao cho dân tin, dân
nghe và dân làm theo các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Mà để đạt được những hiệu quả nói trên thì người làm công tác dân vận phải có tài hùng
biện, lý lẽ, có kiến chuyên sâu trong nhiều lĩnh vực và không nằm ngoài câu Bác Hồ từng
4



nhận định: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì
cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Do đó, gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen giữ một vai trò hết sức quan trọng, giúp cho người
làm công tác dân vận có những kỹ năng xử lý tình huống đa dạng qua nhiều cách gặp gỡ, làm
quen khác nhau; để lại ấn tượng tốt đẹp, chiếm được tình cảm trong lòng nhân dân và tạo nên
sự thoải mái, hài hòa giữa người dân với cán bộ, đồng thời cũng là hành trang rất quan trọng
của mỗi cán bộ làm công tác dân vận khi thường xuyên tiếp xúc với dân.
Liên hệ địa phương: cho một tình huống cụ thể rồi tự liên hệ ở địa phương (nếu
cần).................................................................................................

5


Câu 2: Phân tích các giải pháp để thực hiện tốt việc gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen
trong công tác dân vận?
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, Đảng ta khẳng định sự nghiệp cách mạng là của nhân
dân. Chính nhân dân làm nên chiến thắng của lịch sử. Công tác dân vận là một trong những
nhiệm vụ rất quan trọng nhằm vận động, tập hợp, tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân dân
thành một lực lượng, đông đảo, đoàn kết....
Trong tác phẩm “Dân vận” đăng trên Báo Sự Thật, số ra ngày 15-10-1949 với bút danh
"X.Y.Z", Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định, công tác vận động quần chúng là một nhiệm
vụ chiến lược, có ý nghĩa quyết định sự thành bại của cách mạng trong mọi thời kỳ. Người
nhấn mạnh: “Khuyết điểm to ở nhiều nơi là xem khinh việc dân vận. Cử ra một ban hoặc vài
người, mà thường cử những cán bộ kém rồi bỏ mặc họ. Vận được thì tốt, vận không được
cũng mặc. Những cán bộ khác không trông nôm, giúp đỡ, tự cho mình không có trách nhiệm
dân vận. Đó là sai lầm rất to, rất có hại”.
Do đó, gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen rất quan trọng trong công tác Dân vận; là hoạt động
tiếp cận, thiết lập mối quan hệ của cán bộ đảng viên đối với nhân dân để tuyên truyền, thuyết

phục nhân dân thực hiện tốt chủ trương của Đảng, Nhà nước, nhằm tăng cường mối quan hệ
mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Từ đó, hiểu thêm các kiến nghị, đề xuất và nắm được các
tâm tư nguyện vọng của nhân dân để cán bộ làm công tác dân vận, nhất là cán bộ quản lí trong
Đảng và Nhà nước có phương pháp, định hướng tham mưu cho cấp ủy lãnh đạo tốt trong công
tác vận động quần chúng.
Nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác vận động quần chúng, cần đề ra một số giải pháp
thực hiện tốt việc tiếp xúc, gặp gỡ và làm quen như sau:
Thứ nhất: Khi trực tiếp xuống cơ sở, địa bàn để gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen trước hết
phải nắm đầy đủ, đúng thông tin, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, nói ít nghe
nhiều.
Cần tỏ thái độ trân trọng người nói, không lơ đãng làm việc khác khi đang nghe người
khác nói, không cắt ngang lời đang nói. Khen thật lòng, góp ý có thiện chí, không lạnh nhạt,
thờ ơ. Đồng thời phải biết tỏ thái độ rõ ràng, thẳng thắn đúng lúc, khi thật sự cần thiết.
Thứ hai: Trang phục, tác phong, ngôn từ trong việc gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen trong
công tác vận động nhân dân cần phải thể hiện tính trân trọng, tính lắng nghe và có thái độ lịch
6


sự trong cách biểu hiện và cả cách ứng phó khi xử lí tình huống. Tránh có thái độ cáu gắt, cư xử
không tế nhị, thiếu sự tôn trọng đối với nhân dân, với đối tượng tiếp xúc trong công tác tuyên
truyền, vận động. Khi nhân dân chưa hiểu vấn đề gì thì người cán bộ dân vận có trách nhiệm
giải thích sao cho họ hiểu, họ tin để làm theo chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Thứ ba: Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, không ngừng nâng cao nhận
thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức trực tiếp làm cán bộ dân vận khi tiếp xúc, gặp
gỡ với nhân dân là người phải đại diện cho tiếng nói của nhân dân, phản hồi những thông tin,
những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và một số thông
tin mới của địa phương đầy đủ đến với nhân dân. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng, làm sao
người làm công tác dân vận phải truyền tải được tất cả các nội dung trọng tâm, ngắn gọn, dễ
hiểu nhất đến với nhân dân.
Thứ tư: Thường xuyên tổ chức các buổi tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; để lắng

nghe những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; tổ chức các phong trào thi đua yêu
nước, nhất là các phong trào “Dân vận khéo”, xây dựng “Nông thôn mới”…, đây cũng là một
trong những giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân qua các buổi tiếp
xúc và làm quen càng tạo nên sự thân thiện, gần gũi, dễ nắm thông tin phản hồi từ người dân
khi cần lấy ý kiến trong các kế hoạch, dự án đầu tư hay giải phóng mặt bằng, đền bù đất đai…
Thứ năm: Tiếp tục nâng cao năng lực, hiệu quả quản lí, điều hành của các cơ quan Nhà
nước, ban hành các chính sách hợp lòng dân, khuyến khích nhân dân chuyển đổi cơ cấu kinh
tế và các lợi thế trong nhân dân, nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng thu nhập và cải thiện đời
sống trong nhân dân. Khi có điều kiện gặp gỡ, tiếp xúc với nhân dân cần định hướng cho họ
những vấn đề họ chưa hiểu, chưa nắm về các quy định của Nhà nước.
Thứ sáu: Chọn cử cán bộ công tác dân vận khi trực tiếp xuống cơ sở gặp gỡ, tiếp xúc và
làm quen với nhân dân cần phải chọn người có uy tín, có kiến thức sâu rộng trong tất cả các
lĩnh vực, nhất là am hiểu về tôn giáo, dân tộc, có độ nhạy bén trong xử lý tình huống. Vì khi
tiếp xúc với nhân dân, với nhiều đối tượng khác nhau người cán bộ dân vận phải có tư duy lập
luận, có lý lẽ sắc sảo khi nhân dân thắc mắc và đưa ra nhiều câu hỏi khó hoặc trường hợp khi
tiếp xúc với người dân tộc... thì cần có hướng xử lý, chuyển chủ đề, nội dung vào thời điểm
sao cho phù hợp. Cả hai phải thật sự vui vẻ và hài hòa trong suốt buổi nói chuyện.
7


Thứ bảy: Nâng cao vai tró, ý thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu
cơ quan trong công tác dân vận cần tăng cường đi cơ sở, nắm bắt tình hình dư luận quần
chúng. Có những phương pháp, cách thức vận động nhân dân hiệu quả hơn, tránh đi vào lối
mòn là chỉ dùng lý thuyết suông, ngồi phòng lạnh mà đưa ra chỉ thi, nghị quyết và viết báo cáo
một cách cẩu thả, không sát với thực tiễn địa phương.
Thứ tám: Thường xuyên mở lớp tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng trong công tác vận động
nhân dân; quan tâm xây dựng nguồn quy hoạch, tuyển chọn và sử dụng cán bộ có trình độ
chuyên môn, năng lực, vừa có kinh nghiệm, kỹ năng vận động quần chúng, gương mẫu... giới
thiệu, bố trí với các chức danh phù hợp.
Đổi mới phong cách dân vận của cán bộ, công chức, thực hiện tốt quy tắc ứng xử, quy tắc

giao tiếp hành chính và thực hiện tốt trách nhiệm công vụ trong giải quyết các công việc liên
quan đến nhân dân.
Thứ chín: Tăng cường công tác phối hợp liên ngành giữa các cơ quan, ban, ngành, Mặt trận,
đoàn thể, người có uy tín khi xuống cơ sở gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen với nhân dân trong công
tác tuyên truyền, vận động nhân dân một cách nhịp nhàng, tránh chồng chéo trách nhiệm.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động quần chúng, đối với các
tầng lớp nhân dân; phải có những định hướng, chỉ đạo sao cho hợp lòng dân. Tham gia trực
tiếp trong các lần gặp gỡ, tiếp xúc với nhân dân thông qua các cuộc đối thoại trực tiếp, các
cuộc tiếp xúc cử tri, trưng cầu dân ý... từ đó nâng cao hiệu quả công tác lãnh, chỉ đạo trong
công tác vận động quần chúng, tạo nên niềm tin vững chắc trong lòng dân với Đảng.
Thường xuyên sơ, tổng kết, có đánh giá rút kinh nghiệm và có báo cáo cụ thể bằng văn
bản qua các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen trong công tác dân vận.
Tóm lại: gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen là một cách giao tiếp thường xuyên đối với người
làm cán bộ dân vận. Đó là kỹ năng giúp cho người làm cán bộ dân vận thích ứng và xử lý tốt
các tình huống khi xảy ra. Do đó, để làm tốt nhiệm vụ được giao, người cán bộ dân vận cần có
những phương pháp, kỹ năng truyền tải thông tin đến người nghe sao cho hợp lý, có tính
thuyết phục; đặc biệt là phải tìm ra những nguyên nhân hạn chế, yếu kém từ khâu quản lý, cho
đến thực hiện nhiệm vụ; từ đó mới có những giải pháp, định hướng phù hợp mang lại hiệu quả
cao trong công tác vận động. Tất cả đều vì mục tiêu chung là phục vụ cho nhân dân.
Liên hệ địa phương (nếu cần)....................................................................
8


Câu 3: Phân tích các giải pháp để thực hiện tốt việc phối hợp, liên kết trong CTDV?
Sự nghiệp xây dựng đất nước càng phát triển theo chiều rộng và chiều sâu, thì các
chương trình kinh tế - xã hội càng được triển khai mạnh mẽ. Các tổ chức đoàn thể và các hội
ngày càng phát triển đa dạng, các phương tiện thông tin đại chúng càng phong phú thì các yếu
tố tác động vào quần chúng càng nhiều luồng, nhiều chiều, vì vậy, mỗi tổ chức phải hoạt động
thích nghi với hoàn cảnh quần chúng có nhiều thông tin, chịu nhiều tác động. Sự phối hợp,
liên kết trong công tác dân vận là phù hợp với quy luật phát triển của xã hội; sẽ được phản ánh

ở quy mô và tính chất của các phong trào và hoạt động chung; nó trở thành nhu cầu tự thân
của công tác dân vận của hệ thống chính trị.
Công tác dân vận theo quan điểm của Đảng bao gồm: công tác dân vận của các cấp ủy và
tổ chức đảng; công tác dân vận của Nhà nước và các cấp chính quyền; công tác dân vận của
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các hội. Mỗi tổ chức có chức năng riêng và phương thức hoạt
động khác nhau, nhưng công tác dân vận phải tiến hành đồng bộ, phát huy được sức mạnh
tổng hợp, không chồng chéo về chức năng, không lấn sân nhau. Cơ sở là nơi chứa đựng và
thực hiện mọi chủ trương từ trên xuống. Thời gian và cuộc sống đời thường chỉ chọn lọc để
ngưng đọng lại ở cơ sở một số những chủ trương, những hoạt động và phong trào của quần
chúng bổ ích, thiết thực.
Trong khi mỗi đoàn thể chỉ thu hút được một tỷ lệ nào đó quần chúng trở thành đoàn
viên, hội viên, thì khoảng trống của các nhóm xã hội, các cộng đồng dân cư chưa tham gia tổ
chức còn khá rộng. Do đó, để "...vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để
sót một người dân nào...", thì cấp ủy đảng, chính quyền và Mặt trận, đoàn thể phải cùng bàn
bạc và phối hợp với nhau trong công tác dân vận.
Sự liên kết, phối hợp trong công tác dân vận là phù hợp với quy luật phát triển của xã
hội; sẽ được phản ánh ở quy mô và tính chất của các phong trào và hoạt động chung; nó trở
thành nhu cầu tự thân của công tác dân vận của hệ thống chính trị
Để thực hiện tốt việc phối hợp, liên kết công tác dân vận của Đảng trong tình hình mới,
nhất là giai đoạn đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế. Đồng thời, nhằm phát huy
vai trò, trách nhiệm của tổ chức trong việc tuyên truyền nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
hệ thống chính trị trong thực hiện công tác dân vận của Đảng; góp phần củng cố niềm tin và
9


sự đồng thuận xã hội; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ gắn bó mật
thiết giữa Đảng với Nhân dân. cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ và giải pháp sau:
Thứ nhất, Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng về việc phối
hợp, liên kết trong công tác dân vận.
Xác định công tác dân vận là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Đổi mới công tác tuyên

truyền vận động, đảm bảo tính thuyết phục với nội dung, hình thức đa dạng, dễ hiểu, gần với
đời sống nhân dân, phù hợp với từng giai tầng xã hội, góp phần nâng lên về chất lượng và hiệu
quả công tác dân vận trong tình hình mới; phát huy nội lực của quần chúng nhân dân hưởng
ứng mạnh mẽ các phong trào thi đua yêu nước, phong trào thi đua Dân vận khéo.
Các cấp ủy, tổ chức đảng tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo việc phối hợp tuyên truyền, phổ biến,
quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về công tác dân vận; quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: "Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng
kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công". Phối hợp hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám
sát, sơ kết, tổng kết các Nghị quyết, Chỉ thị, kết luận của Đảng, các công tác của Nhà nước về
công tác dân vận và phát huy quyền làm chủ của nhân dân tại các cơ quan nhà nước, chính
quyền các cấp. Đổi mới và nâng cao hiệu quả việc triển khai thực hiện Quy chế công tác dân
vận của hệ thống chính trị theo hướng thiết thực, cụ thể, rõ việc, xác định rõ chức trách, nhiệm
vụ của các tổ chức, cá nhân trong thực hiện công tác dân vận. Các cấp ủy đảng thống nhất lãnh
đạo, chỉ đạo giải quyết những bức xúc, nguyện vọng chính đáng của người dân.
Thứ hai, Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác phối hợp, liên kết trong việc giải quyết các
thủ tục hành chính của các cơ quan nhà nước nhằm xây dựng nền hành chính phục vụ nhân dân.
Cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước về
công tác dân vận thành các văn bản QPPL để các cấp chính quyền, cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp nhân dân thực hiện. Các cơ quan nhà nước xây dựng Quy chế công tác dân vận và
xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu trong thực hiện công tác dân vận đối với cán bộ,
công chức và người dân. Chú trọng đảm bảo an sinh xã hội, giải quyết tốt các chính sách đối
với người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số; quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người
lao động và doanh nghiệp phát triển sản xuất. Tăng cường tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với
nhân dân; tập trung giải quyết đơn thư KNTC ngay từ cơ sở, không để phát sinh "điểm nóng",
10


thực hiện nghiêm túc trách nhiệm giải trình của người đứng đầu trước những vấn đề bức xúc,
kiến nghị của người dân.

Chú trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua dân chủ đại diện, dân chủ trực
tiếp. Nâng cao hiệu quả phối hợp thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; thực hiện công khai,
minh bạch các văn bản, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên
quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ công dân. Thực hiện đồng bộ phương châm “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra giám sát”, tổ chức tốt việc lấy ý kiến đóng góp, bàn bạc của
Nhân dân, đảm bảo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia xây dựng các chủ trương, chính
sách phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh.
Thứ ba, Phát huy vai trò nòng cốt của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc
phối hợp, liên kết trong công tác dân vận.
Thống nhất phương thức phối hợp chặt chẽ, xác định rõ trách nhiệm giữa các cấp chính
quyền với Mặt trận, đoàn thể vận động nhân dân, tạo sức mạnh đồng thuận xã hội. Chăm lo lợi
ích trực tiếp của Nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là
người dân nghèo ở nông thôn vùng sâu, vùng xa. Quan tâm đổi mới phương thức lãnh đạo, tạo
điều kiện để MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội phát huy tính tự chủ, ý thức trách nhiệm,
tránh hành chính hóa trong hoạt động, để gần dân, sát dân hơn. MTTQ, các đoàn thể chính trị xã hội phải hướng về cơ sở, làm tham mưu và nòng cốt trong việc nắm bắt dư luận xã hội, đề
xuất với cấp ủy đảng, chính quyền biện pháp giải quyết kịp thời, đúng pháp luật. Thực hiện tốt
chức năng giám sát, phản biện xã hội và tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền. Nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tạo đồng thuận trong xã hội.
Thứ tư, Đẩy mạnh Phong trào thi đua "Dân vận khéo", xây dựng, nhân rộng mô hình,
điển hình "Dân vận khéo".
Góp phần tuyên truyền và phổ biến sâu rộng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
dân về công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thúc
đẩy thực hiện thắng lợi các chương trình kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội ở địa phương, cơ sở.
11


Khuyến khích tinh thần nhiệt tình, sáng tạo, cổ vũ động viên và nhân rộng các điển hình,

mô hình làm "Dân vận khéo", thu hút sự quan tâm, giúp đỡ và phối hợp của các cơ quan, ban,
ngành đối với công tác dân vận của Đảng.
Giao lưu học hỏi, nâng cao năng lực, khuyến khích tinh thần nhiệt tình và sáng tạo của
đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, đặc biệt là trong lĩnh vực công tác vận động quần
chúng về tư duy chính trị, khả năng công tác, trách nhiệm và kỹ năng, nghiệp vụ công tác dân
vận cho đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị nói chung và cán bộ trực tiếp tham gia công
tác dân vận
Thứ năm, Tăng cường, củng cố tổ chức và hoạt động của hệ thống dân vận đáp ứng yêu
cầu trong tình hình mới.
Hệ thống dân vận thường xuyên tham mưu chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Quy chế công
tác dân vận của hệ thống chính trị. Chủ động và tham gia thẩm định các văn bản có liên quan
mật thiết đến công tác dân vận, quyền làm chủ của nhân dân trước khi trình cấp ủy, HĐND,
UBND. Chủ trì, phối hợp với các ban, ngành liên quan trong việc cụ thể hóa các chủ trương,
quan điểm của Đảng về công tác dân vận, thực hiện QCDC ở cơ sở./.

12


Câu 4. Phân tích vai trò, nội dung, phương pháp của gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen
trong công tác dân vận?
Muốn nắm vững đặc điểm, tình hình, nguyện vọng của nhân dân để có phương pháp,
biện pháp và các quyết định lãnh đạo quản lý đúng đắn, người lãnh đạo quản lý rất cần đến
những thông tin cần thiết, chân thực, kịp thời. Vì vậy, gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen với các
tầng lớp nhân dân là công việc thường xuyên, quan trọng và là một trong những nhân tố quyết
định sự thành công trong công tác của người cán bộ, đặt biệt la người cán bộ làm dân vận.
Vai trò của gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen trong công tác dân vận:
Gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen với các tầng lớp nhân dân giúp tuyên truyền, giải thích,
vận động nhân dân thực thực hiện tốt chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, các quy định của địa phương. Bên cạnh đó, còn nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, kiến
nghị của nhân dân để tham mưu cho cấp ủy, các cơ quan có thẩm quyền định hướng và xử lí

các vụ việc mà nhân dân vướng mắc, hoặc những khiếu kiện, khiếu nại.
Qua các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen trong công tác vận động, sẽ giúp cho người
cán bộ dân vận tiếp xúc được nhiều đối tượng khác nhau, nhiều tầng lớp khác nhau trong xã
hội, để từ đó biết cách tiếp cận và xử lí khóe léo mọi tình huống một cách nhịp nhàng. Bên
cạnh đó, thông qua các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen còn giúp cho cán bộ dân vận tiếp
cận được nét văn hóa vùng miền, phong tục tập quán, truyền thống của từng thôn, xã…, từng
đối tượng tôn giáo, dân tộc
Gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen có vai trò rất quan trọng; là bước đầu cho sự kết nối, thu dần
khoảng cách giữa cán bộ và người dân; tạo nên mối quan hệ mật thiết, gần gũi giữa nhân dân với Đảng,
tạo nên một niềm tin vững chắc trong lòng nhân dân, để nhân dân có thể nói hết những tâm tư, nguyện
vọng của mình cho cán bộ dân vận hiểu. Một khi dân đã đặt niềm tin vào cán bộ thì rất dễ trong công
tác vận động, tuyên truyền và thiết phục. Như Bác Hồ từng nhận định: “Dễ trăm lần không dân cũng
chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen giúp cho công tác dân vận tiếp cận một phương pháp
tuyên tuyền hiệu quả, đổi mới phương thức trong cách điều hành và quản lí. Qua đó nắm được
nhiều kênh thông tin khác nhau, biết được nhiều đối tượng khác nhau, đặc biệt có cơ hội được
tiếp xúc và làm quen vơi người có uy tín, có trình độ và năng lực trong xã hội sẽ đưa ra những
13


ý kiến rất sát thực và hữu ích cho những giải pháp khắc phục những mặt tồn tại, hạn chế trong
công tác vận động và tuyên truyền.
Nội dung của gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen trong công tác dân vận:
Nội dung chủ yếu của gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen trong công tác dân vận là tuyên
truyền, giải thích, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt chủ trương của Đảng, chính
sách pháp luật của nhà nước, các quy định cụ thể của địa phương.
Bên cạnh đó, nội dung của các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen trong công tác dân
vận còn là để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân để giải quyết theo chức
năng, nhiệm vụ hoặc báo cáo các cơ quan tổ chức có thẩm quyền giải quyết hoặc bổ sung,
hoàn thiện các quyết định quản lý.

Phương pháp gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen trong công tác dân vận:
Có nhiều phương pháp, cách thức để có thể gặp gỡ, tiếp xúc, làm quen trong công tác
dân vận. Tuy nhiên, có thể khái quát thành phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp.
* Phương pháp trực tiếp bao gồm:
- Đi cơ sở: Cán bộ làm CTDV đi cơ sở để có thể chủ động gặp gỡ các tầng lớp nhân
dân, trực tiếp nhận thông tin cần thiết, thực thi công việc cụ thể.
- Tiếp công dân: (Trong giờ hành chính tại công sở): Cơ quan có trách nhiệm và có liên
quan đến giải quyết mối quan hệ với công dân có chương trình, kế hoạch, lịch tổ chưc tiếp
công dân để tiếp thu những yêu cầu, kiến nghị cần được giải quyết, xử lý.
- Tiếp khách: ( trong hoặc ngoài giờ hành chính tại công sở hoặc ngoài công sở): theo
lịch làm việc hoặc tiếp những người có công việc đột xuất muốn phản ánh, yêu cầu, kiến nghị
giải quyết, xử lý.
- Dự hội nghị, mit tinh, lễ hội: theo sự phân công của tổ chức có thẩm quyền hoặc được
mời với cương vị, chức trách được giao.
- Báo cáo truyền đạt nghị quyết, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước và các quy định của ngành, địa phương.
- Thăm hỏi, chúc mừng, tặng quà: nhân ngày truyền thống , ngày kỷ niệm hoặc ngày lễ
tết, trên cương vị công tác theo quy định.

14


- Ngoài ra, còn có thể thông qua các hoạt động khác để gặp gỡ, tiếp xúc và làm quen
trong công tác dân vận như tham gia các hoạt động kinh tế, sinh hoạt văn hóa với tư cách gia
đình, họ hàng, bạn bè hoặc tư cách công dân với nhau.
* Phương pháp gián tiếp bao gồm:
- Đọc đơn thư của công dân và viết thư trả lời công dân
Khi nhận được đơn thư của công dân cần xem kỹ nội dung đơn thư rồi viết thư phúc
đáp. Nếu nội dung đó thuộc quyền giải quyết của cơ quan mình thì có trách nhiệm xử lý theo
chức năng, hoặc bao cáo với lãnh đạ, các cơ quan liên quan để xử lý.

Thư phúc đáp công dân cần ngắn gọn, rõ ràng, có căn cứ, thuộc trách nhiệm có thể giải
quyết được.
- Gọi, nghe và trả lời điện thoại
Khi gọi điện thoại tới công dân, cần gặp đúng đối tượng, đi thẳng vào nội dung, trao đổi
rõ ràng, ngắn gọn.
Trả lời điện thoại thì phải niềm nở, tế nhị, nhẹ nhàng, ngắn gọn, rõ ràng, đầy đủ, thõa
mãn theo yêu cầu của người gọi.
- Nhận và chuyển thông tin tới công dân qua mạng internet
Nhận thông tin trên mạng internet cần xem xét kỹ nội dung thông tin để có cách thức trả
lời phù hợp và phải thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình.
Thông tin trả lời cần ngắn gọn, đầy dủ, rõ ràng, chú ý tính đại chúng của phương tiện
truyền thông là mạng internet.

15


Câu 5. Phân tích giải pháp để nâng cao kỹ năng vận động người có uy tín?
Người có uy tín là người có được sự thừa nhận của một nhóm người do người đó đảm
nhiệm chức vụ, trách nhiệm, chức vị…nó chung là được gọi là quyền lực. chức vị…nói chung
được gọi là quyền lực; là người có phẩm chất năng lực cống hiến nhất định đối với xã hội và
từ đó có tác động cá nhân đối với cá nhân, hay đối tượng khác, nhóm khác.
Người có uy tín ở khu dân cư ở nước ta nói chung được hình thành một cách tự nhiên
phát triển theo từng thời kỳ và những hình thức đa dạng tùy thuộc vào đặc điểm văn hóa của
từng dân tộc, từng nhóm dân tộc cụ thể, nhằm đáp ứng được những đòi hỏi của thực tế cuộc
sống cộng đồng. Trong xã hội truyền thống của đồng bào dân tộc đã hình thành những tập tục
và có yêu cầu tự quản được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác được mọi người tự giác
chấp hành và ở nhiều nơi đã trở thành “Luật tục” cộng đồng suy cử ra những người am hiểu
luật tục của ông bà, tổ tiên mình để điều hành hoạt động của cộng đồng những người này là
các già làng, trưởng bản, trưởng các dòng họ. Họ đóng vai trò thực hiện giao tiếp giữa con
người với con người trong cộng đồng. Đây là những người có khả năng vận dụng những

phong tục, tập quán để giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh trong đời sống cộng đồng
Trong những năm qua công tác tranh thủ, vận động, phát huy vai trò của người có uy tín đã
được các cấp uỷ, chính quyền các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Chính vì vậy, vị trí vai trò của
người có uy tín không ngừng được phát huy trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ở mỗi địa phương đều có người uy tín, với thành phần rất đa dạng: Cán bộ nghỉ hưu,
chức sắc, nhân sỹ, trí thức, trưởng thôn, bí thư chi bộ... Những người có uy tín trong cộng
đồng dân cư thường được đồng bào tín nhiệm và nhiều người tin tưởng đến bày tỏ tâm tư,
nguyện vọng, tranh thủ, xin ý kiến giải quyết những vấn đề bức xúc của bản thân, gia đình, xã
hội. Người có uy tín có khả năng tác động, chi phối, tập hợp quần chúng bằng lời nói, hành
động hoặc bằng những quy ước, hương ước của địa phương, dân tộc. Đại đa số người có uy tín
có trình độ hoặc hiểu biết về lĩnh vực nào đó, có đạo đức, kinh nghiệm sống phong phú, lòng
nhiệt tình và sự gương mẫu tận tâm, đội ngũ những người có uy tín đã trở thành mắt xích quan
trọng, là cầu nối giữa nhân dân với cấp uỷ, chính quyền địa phương.
Hiện nay, vai trò của một số người có uy tín tiêu biểu trong các thời kỳ trước đã bị hạn
chế do tuổi cao, sức yếu, tuy vậy họ vẫn được cộng đồng tôn trọng và suy tôn vì những thành
tích và tuổi tác được cộng đồng tin theo trong một phạm vi nhất định vì có những kinh nghiệm
16


như hiểu biêt tập tục và những ghi thức cộng đồng, giải quyết những xích mích nội bộ khu dân
cư theo truyền thống, đồng thời cùng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội xuất hiện lớp
người tiêu biểu mới có trình độ học vấn, am hiểu khoa học kỹ thuật mạnh dạn đi đầu trong
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, biết cách làm giầu, được cộng đồng tín nhiệm suy tôn dẫn dắt quần
chúng trong phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng đó là tầng lớp trí
thức, những nhà giáo, thầy thuốc, những nhà sản xuất kinh doanh giỏi, những lãnh đạo các cấp
đã nghỉ hưu có uy tín, do đó vai trò của người có uy tín cũ cùng với người có uy tín mới đang
thực sự phát huy tác dụng trong mỗi cộng đồng dân cư.
Tuy nhiên, những năm qua công tác phát huy vai trò người có uy tín còn bộc lộ một số
hạn chế nhất định, đó là: Những năm đầu thực hiện chính sách ở cấp cơ sở chưa thực sự quan
tâm đến chế độ, chính sách cho người có uy tín theo quy định như cung cấp thông tin cho

người có uy tín hoặc người có uy tín khi bị ốm đau, gặp khó khăn thiên tai, lũ lụt …bên cạnh
đó một số ít người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số chưa phát huy tốt vị trí, vai trò,
chưa thực sự gương mẫu trong một số lĩnh vực, dẫn đến việc vận động đồng bào, tuyên truyền
còn có những hạn chế nhất định.
Việc phối hợp giữa cấp ủy, chính quyền và các cơ quan liên quan trong việc vận động,
tranh thủ người có uy tín đôi lúc thiếu chặt chẽ, chưa đồng bộ. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
việc cung cấp thông tin cho người có uy tín chưa được thực hiện thường xuyên và liên tục.
Ở một số cơ sở chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò của người có uy tín vì vậy trong
công tác bình chọn chưa chú trọng về chất lượng, dẫn đến nhiều nơi tuy bầu được người có uy
tín nhưng chưa thực sự là người có uy tín tiêu biểu, do vậy một số người có uy tín khi được
bầu chọn chưa cống hiến nhiều và phát huy hết khả năng của mình lại thay thế người khác.
Công tác chỉ đạo triển khai chính sách cho người có uy tín ở một số cơ sở còn lúng túng, chưa
chặt chẽ, thiếu thông tin.
Có thể nói vai trò của người có uy tín trong đời sống xã hội là hết sức quan trọng và cần
thiết, có thể thấy rằng ở cơ sở nào mà vai trò của người có uy tín được phát huy tốt thì ở đó
tình hình kinh tế xã hội, an ninh trật tự được giữ vững ổn định.
Để nâng cao kỹ năng vận động người có uy tín, trong thời gian tới cần thực hiện tốt
các giải pháp sau:
17


Một là, Thường xuyên quan tâm chỉ đạo thực hiện đồng bộ, thống nhất; quán triệt các
văn bản hướng dẫn của cấp trên để bầu chọn người có uy tín phải có chất lượng; phương pháp
tranh thủ người có uy tín phải linh hoạt dựa trên năng lực thực tế của từng người và điều kiện
cụ thể của địa phương, dân tộc.
Hai là, Tranh thủ người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số tham gia tuyên truyền
vận động nhân dân phải gắn vào nhiệm vụ chính trị cụ thể của địa phương như: Gương mẫu
thực hiện phong trào “ Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” và cuộc vận động “ Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, “xây dựng nông thôn mới”…
Ba là, Thường xuyên cập nhật, cung cấp thông tin cần thiết về tình hình thời sự chính trị,

kinh tế, xã hội trong, ngoài nước và của địa phương, tình hình âm mưu thủ đoạn hoạt động của
các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá chính quyền để nâng cao nhận
thức cho người có uy tín.
Bốn là, Cấp ủy, chính quyền cơ sở cần tăng cường sự lãnh đạo, định hướng nhiệm vụ, nội
dung hoạt động đối với người có uy tín; thường xuyên cung cấp thông tin, tình hình phát triển
kinh tế - xã hội, chủ trương, chính sách mới cho người có uy tín.
Năm là, Quan tâm, thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với người có uy tín, đảm bảo “
Đúng - Đủ - Kịp thời” để động viên, khuyến khích người có uy tín phát huy khả năng vốn có
của mình để góp phần cùng cấp ủy, chính quyền thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã
hội của địa phương.
Sáu là, Thường xuyên thăm hỏi, tặng quà người có uy tín, tiêu biểu nhân ngày lễ tết; ốm
đau, cứu trợ khi gặp khó khăn; khen thưởng về vật chất và tinh thần khi có thành tích trong dịp
tổng kết các phong trào thi đua yêu nước. Quá trình vận động người có uy tín, tiêu biểu phải
đặc biệt chú ý đến công tác bảo vệ bản thân và gia đình họ, không để các phần tử xấu tác
động, đe dọa. Đối với người nhất thời có việc làm tiêu cực phải gần gũi đối thoại, kiên trì vận
động, phát huy mặt tích cực, hạn chế tiêu cực, tránh định kiến, ứng xử thô bạo, gây bức xúc
dẫn họ đến nghi ngờ, xa lánh hoặc đối lập với chính quyền và MTTQ.
Bảy là, Ban thường trực Ủy ban MTTQ các cấp cần xây dựng kế hoạch cụ thể để phối
hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng, định kỳ hàng năm hoặc giai đoạn phối hợp tổ chức
hội nghị biểu dương nhằm phát huy tốt vai trò của người có uy tín, tiêu biểu trong nhân dân,
đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số.
18


Câu 6. Phân tích các giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác hòa giải trong công tác
dân vận.
Hòa giải là nét đẹp truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam, là hoạt động mang tính tự
nguyện, tính xã hội và nhân văn sâu sắc. Theo từ điển Bách khoa Việt Na, hòa giải là giải
quyết các tranh chấp, bất đồng giữa hai hay nhiều bên tranh chấp bằng việc các bên dàn xếp,
thương lượng với nhau có sự tham gia của bên thứ ba (không phải là bên tranh chấp). Điều 1

Pháp lệnh về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở do Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X ban
hành năm 1998 quy định rõ: Hòa giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên
đạt thỏa thuận, tự nguyện giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ
gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự,
an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư.
Qua hơn 15 năm thực hiện Pháp lệnh số 09/1998/PL-UBTVQH10 về tổ chức và hoạt
động hòa giải ở cơ sở, 2 năm thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở và các văn bản pháp luật liên
quan, việc triển khai thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở những năm qua đã đạt được những
kết quả nhất định; hòa giải ở cơ sở không ngừng được củng cố về tổ chức, đội ngũ, từng bước
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì việc
triển khai thi hành hòa giải ở cơ sở vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần được khắc phục như:
Một số nơi việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của các Tổ hòa giải tiến hành còn chậm; hoạt
động hoà giải chưa đồng đều, một số nơi còn mang tính hình thức; năng lực hòa giải viên một
số nơi nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu, ảnh hưởng đến kết quả hòa giải thành ở một số
địa phương; một số vụ việc quá trình hoà giải chưa giải quyết triệt để mâu thuẫn dẫn đến tình
trạng mâu thuẫn kéo dài và phải chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo thủ
tục tố tụng hoặc thủ tục hành chính; sự phối hợp giữa cơ quan Tư pháp các cấp và Ủy ban
MTTQ Việt Nam cùng cấp trong xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức các Tổ hòa giải ở cơ sở,
trong theo dõi hướng dẫn, kiểm tra, tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở, trong động viên các
tầng lớp Nhân dân tích cực tham gia xây dựng củng cố tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở
cũng như gắn hoạt động hòa giải ở cơ sở với việc xây dựng và thực hiện các phong trào quần
chúng ở địa phương chưa thường xuyên; kinh phí đảm bảo cho công tác hòa giải còn hạn chế
nên việc chi cho các hoạt động hòa giải của các địa phương theo mức chi của tỉnh hầu như
chưa thực hiện được.
19


Từ thực tiễn trong công tác hòa giải ở cơ sở hiện nay đặt ra cho chúng ta cần phải có
những giải pháp thật đúng đắn, cụ thể và sát với tình thình thực tế để nhằm nâng cao hiệu quả
trong công tác hòa giải.

Đối với cấp Trung ương: Cần xây dựng chương trình, đề án nhằm nâng cao hơn hiệu quả
công tác hòa giải ở cơ sở; nhân rộng một số mô hình và cách làm hay, để các địa phương áp
dụng trong công tác hòa giải; thường xuyên tổ chức lớp tập huấn nghiệp vụ về công tác hòa
giải ở cơ sở; tổ chức các cuộc thi, hội thi nhằm nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ
năng và cách làm hay, tạo điều kiện để đội ngũ này giao lưu, học hỏi kinh nghiệm giữa các địa
phương; đồng thời cung cấp tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ cho đội ngũ hòa giải viên.
Đối với cấp Địa phương, cơ sở:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng và vai trò của MTTQ và
các tổ chức thành viên các cấp đối với công tác hòa giải ở cơ sở. Là một tổ chức quần chúng
trong cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, Tổ hoà giải không thể
đứng ngoài sự lãnh đạo của Đảng, không thể thiếu vai trò quản lý của Nhà nước và sự tham
gia của Mặt trận và các tổ chức đoàn thể xã hội trong hoạt động hoà giải. Ủy ban Mặt trận các
cấp và các tổ chức thành viên thường xuyên phối hợp chặt chẽ và phối hợp thực hiện tốt
những quy định của pháp luật về hòa giải nhằm tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Nhân
dân với Nhân dân, giữa Nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, quán triệt đường lối, chủ trương của
Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước để không ngừng nâng cao nhận thức và trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp Nhân dân đối với vị trí, vai trò của công tác
hòa giải ở cơ sở.
Thứ ba, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phát huy vai trò, trách nhiệm của cơ
quan Tư pháp trong công tác hòa giải ở cơ sở, nhất là trong việc phối hợp với Ủy ban MTTQ và
các tổ chức thành viên cùng cấp của Mặt trận để thực hiện tốt công tác hòa giải ở cơ sở.
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về công
tác hòa giải ở cơ sở phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo khả thi. Trên cơ sở kết quả nghiên
cứu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền hoàn thiện hệ thống pháp luật hòa giải ở cơ sở để hoạt
động hòa giải ngày càng mang lại hiệu quả thiết thực hơn.
20


Thứ năm, tiếp tục củng cố, kiện toàn nâng cao chất lượng tổ hòa giải và hòa giải viên

thông qua việc rà soát số lượng, chất lượng đội ngũ hòa giải viên; chuẩn hóa các tiêu chuẩn,
điều kiện để được công nhận là hòa giải viên; bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng hòa giải;
tạo điều kiện cho hòa giải viên giao lưu, học hỏi kỹ năng hòa giải thông qua các hoạt động
như thi hòa giải viên giỏi, học hỏi kinh nghiệm.
Thứ sáu, trang bị cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho cơ quan quản lý nhà nước và
hòa giải viên. Tạo điều kiện cho các hòa giải viên trong việc tiếp cận thông tin và ứng dụng
công nghệ thông tin. Đặc biệt, UBND các cấp quan tâm bảo đảm kinh phí hoạt động cho công
tác hòa giải ở cơ sở; giải quyết kịp thời, đầy đủ các chính sách, chế độ cho hoà giải viên và
kinh phí cho hoạt động hoà giải để động viên những người làm công tác hòa giải, qua đó góp
phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở.
Thứ bảy, kết hợp chặt chẽ công tác hòa giải ở cơ sở với hoàn thiện quy chế dân chủ ở cơ
sở; cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; phong trào xây dựng nông thôn
và thực hiện chuẩn tiếp cận pháp luật ở cơ sở. Thực hiện tốt giải pháp này là cơ sở quan trọng
để góp phần đảm bảo tình hình an ninh trật tự ở địa phương, hạn chế các vụ việc tiêu cực và
các xích mích trong cộng đồng dân cư.
Thứ tám, thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin, báo cáo; công tác thanh tra, kiểm tra; sơ
kết, tổng kết và khen thưởng đối với công tác hòa giải ở cơ sở.Qua đó giúp ngành Tư pháp chủ
động nắm bắt được thông tin về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở một cách sát thực để
đôn đốc, hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động sát thực, biết được cách làm hay, những nơi hoạt động
có hiệu quả để nhân rộng mô hình trên địa bàn tỉnh. Hàng năm, thực hiện tốt việc sơ kết, tổng
kết công tác hoà giải ở cơ sở để kịp thời biểu dương khen thưởng các tập thể và cá nhân có
thành tích trong hoạt động hoà giải ở cơ sở.
Liên hệ thực tiễn: Trên địa bàn tỉnh Bình Định, công tác hòa giải ở cơ sở trong nhiều
năm qua đã được UBND tỉnh rất quan tâm chỉ đạo ngành Tư pháp phối hợp MTTQ Việt Nam
và các tổ chức thành viên cùng cấp triển khai thực hiện khá đồng bộ và mang lại hiệu quả
ngày càng cao. Từ Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTWMTTQVN giữa Chính
phủ và Ủy ban trung ương MTTQ Việt Nam hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định về
pháp luật hòa giải ở cơ sở, Ban Thường trực UBMTTQ Việt Nam tỉnh cùng UBND tỉnh ban
hành Chương trình phối hợp thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh, bước đầu
21



được MTTQ các cấp trong tỉnh phối hợp ngành Tư pháp chỉ đạo, hướng dẫn các Ban Công tác
Mặt trận, phối hợp Trưởng thôn ở khu dân cư củng cố kiện toàn 1.148 Tổ hòa giải / 1.123 khu
dân cư, với 8.260 hòa giải viên, tích cực, năng nổ tham gia công tác hòa giải tại địa bàn khu
dân cư đạt hiệu quả ngày càng cao, tỷ lệ hòa giải thành năm sau cao hơn năm trước. Sau 3
năm (2013-2016) triển khai thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh, các Tổ hòa giải ở
cơ sở đã tham gia hòa giải thành 7328/8913 vụ việc mâu thuẫn, xích mích nhỏ tại cộng đồng,
(chủ yếu là tranh chấp đất đai, mâu thuẫn trong gia đình, ngược đãi, bạo hành, vay mượn, gây
ô nhiễm, tiếng ồn v.v....), đạt tỷ lệ trên 80%, góp phần giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, đoàn kết
cộng đồng, phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm ở cơ sở, phát hiện và giải quyết tận gốc
những mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ, tạo sự ổn định an ninh, trật tự xã hội ở địa bàn dân cư, tạo
điều kiện thuận lợi cho các cấp chính quyền tăng cường công tác quản lý xã hội ở cơ sở. Tỷ lệ
hòa giải thành cao, góp phần hạn chế đơn thư khiếu kiện trong nhân dân, giảm bớt tình trạng
khiếu nại đến Tòa án nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước, tiết kiệm thời gian, chi phí của
cơ quan nhà nước và công dân. Đặc biệt có nhiều địa phương tỷ lệ hòa giải thành đạt khá cao
(Phù Cát: 90%, An Nhơn: 89%, Phù Mỹ: 88%, Hoài Nhơn: 81% ...); nhiều điểm sáng, nổi bật
trong công tác hòa giải tại địa bàn khu dân cư như phường Gềnh Ráng (Quy Nhơn), xã Cát
Hanh (Phù Cát)....
Tuy nhiên, công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua vẫn còn nhiều
khó khăn, bất cập. Ở một số ít địa phương, cấp ủy, chính quyền chưa thấy hết tầm quan trọng
và hiệu quả của công tác hòa giải, nên chưa quan tâm chỉ đạo, đầu tư mua sách và tài liệu pháp
luật cung cấp cho các tổ hòa giải; đội ngũ cán bộ làm công tác hòa giải thường kiêm nhiệm
nhiều công việc khác nhau, nên không có nhiều thời gian dành cho việc tiếp cận đối tượng để
hòa giải, thường tác nghiệp vào ngày nghỉ hoặc buổi tối để giảng giải, phân tích, vận động
thuyết phục người dân, song chế độ đãi ngộ chưa được quan tâm. Việc đào tạo, bồi dưỡng kỹ
năng, nghiệp vụ cán bộ hòa giải còn hạn chế, Kinh phí cho hoạt động của tổ hòa giải và hòa
giải viên, cho những vụ hòa giải thành, không thành theo quy định của pháp luật ở nhiều địa
phương chưa thực hiện, hoặc thực hiện chưa đủ. Sự phối hợp giữa ngành Tư pháp, MTTQ và
các đoàn thể trong công tác hòa giải có nơi còn thiếu chặt chẽ, còn hình thức, chưa huy động

được đông đảo các thành viên tham gia.
22


Câu 7. Phân tích vai trò, nội dung, phương pháp của phối hợp, liên kết trong công
tác dân vận?
Sự nghiệp xây dựng đất nước càng phát triển theo chiều rộng và chiều sâu, thì các
chương trình kinh tế - xã hội càng được triển khai mạnh mẽ. Các tổ chức đoàn thể và các hội
ngày càng phát triển đa dạng, các phương tiện thông tin đại chúng càng phong phú thì các yếu
tố tác động vào quần chúng càng nhiều luồng, nhiều chiều, vì vậy, mỗi tổ chức phải hoạt động
thích nghi với hoàn cảnh quần chúng có nhiều thông tin, chịu nhiều tác động.
Vai trò: Phối hợp liên kết trong công tác dân vận được bắt nguồn từ yêu cầu khách quan
và cũng từ nhu cầu tự thân của công tác dân vận. Công tác dân vận theo quan điểm của Đảng
bao gồm công tác vận động của các cấp ủy và tổ chức đảng công tác dân vận của nhà nước và
các cấp chính quyền, công tác dan vận của Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể, các hội, mỗi tổ
chức có chức năng riêng và có phương thức hoạt động khác nhau, nhưng công tác dân vận
phải tiến hành đồng bộ phát huy được sức mạnh tổng hợp, không chồng chéo về chức năng,
không lấn sân nhau. Cơ sở là nơi chức đựng và thực hiện mọi chủ trương từ trên xuống. Thời
gian và cuộc sống đời thường chỉ chọn lọc để ngưng đọng lại ở cơ sở một số chủ trương,
những hoạt động và phong trào quần chúng bổ ích, thiết thực. Trong khi mỗi đoàn thể chỉ thu
hút được một tỷ lệ nào đó quần chúng trở thành đoàn viên, hội viên thì khoảng trống của các
nhóm xã hội, các cộng đồng dân cư chưa tham gia tổ chức còn khá rộng, đó đó, để “… vận
động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào…” thì đòi hỏi
cấp ủy đảng, chính quyền và Mặt trận, các đoàn thể phải cùng nhau bàn bạc, phối hợp với
nhau trong công tác dân vận
Sự liên kết, phối hợp trong công tác dân vận phù hợp với quy luật phát triển của xã hội,
sẽ được phản ảnh ở quy mô và tính chất của accs phong trào và hoạt động chung, nó trở thành
nhu cầu tự thân của công tác dân vận cảu hệ thống chính trị.
Nội dung, phương pháp hoạt động phối hợp, liên kết cụ thể trong công tác dân vận.
a) Mặt trận, đoàn thể cùng tham gia chương trình kinh tế - xã hội

Các chương trình kinh tế - xã hội đang có sức thu hút Mặt trận và các đoàn thể tham gia,
bởi các chương trình ấy tác động tới quần chúng, chăm lo đời sống quần chúng. Ví dụ, các
chương trình: xoá đói, giảm nghèo; trợ giúp các xã khó khăn (Chương trình 135); thực hiện kế
hoạch hoá gia đình; phòng chống tệ nạn xã hội; vay vốn làm kinh tế gia đình, v.v..
23


Với các chương trình này, đáng lưu ý là:
- Vai trò chủ trì: cơ quan chính quyền, do một đồng chí có trách nhiệm đứng ra làm Chủ
nhiệm chương trình, Trưởng ban chỉ đạo.
- Ban chỉ đạo: thường mời đại diện của Mặt trận, đoàn thể tham gia.
- Điều kiện thực hiện: nói chung thuận lợi, có kinh phí, có cơ quan giúp việc theo dõi
thực hiện, công tác điều hành, kiểm tra, sơ kết.
b) Nghị quyết liên tịch
Nghị quyết liên tịch giữa hai bên (song phương) hoặc nhiều bên (đa phương) là sự phối
hợp, liên kết tương đối dài, nội dung tương đối toàn diện để cùng đẩy mạnh thực hiện các hoạt
động có phạm vi và đối tượng gần giống nhau. Ở Trung ương là phối hợp giữa Ban Dân vận,
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể ở Trung ương với các bộ, ngành ở
Trung ương. Dưới đây là một số ví dụ về các nghị quyết liên tịch:
- Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với Hội Cựu chiến binh Việt Nam về giáo dục
truyền thống cách mạng cho thanh niên;
- Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về
giải quyết các vấn đề về chính sách với thanh niên xung phong;
- Hội Nông dân Việt Nam với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về phong trào
nông dân sản xuất giỏi;
- Hội Nông dân với Ban Tôn giáo Chính phủ về vận động nông dân thực hiện chính sách
tôn giáo của Đảng, Nhà nước;
- Hội Nông dân Việt Nam với các bộ: Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa - Thông tin, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban Dân tộc và Miền núi về giáo dục pháp luật cho nông
dân ở nông thôn và vùng cao, vùng sâu, vùng dân tộc thiểu số…

- Ban Dân vận Trung ương phối hợp với Cục Dân vận, Tổng cục Chính trị, với Bộ Công
an về công tác dân vận; với các Ban Chỉ đạo Tây Bắc, Tây nguyên, Tây Nam Bộ và với Ủy
ban Dân tộc về công tác đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, với Ủy ban về người Việt
Nam ở nước ngoài về công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài…
Với các loại nghị quyết liên tịch này, đáng lưu ý là:
- Danh nghĩa phối hợp: hai Ban Thường vụ đoàn thể phối hợp với nhau; Ban Thường vụ
đoàn thể với bộ trưởng hoặc một số Bộ trưởng của bộ, ngành (Nhà nước) phối hợp với nhau.
24


Nghị quyết liên tịch tạo môi trường để các cấp đoàn thể phối hợp với các cấp của chính quyền
thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội.
- Công tác chuẩn bị: do hai cơ quan hoặc nhiều cơ quan cử ra các bộ phận chuẩn bị cho
nghị quyết liên tịch hai bên hoặc nhiều bên.
- Lễ ký kết: là một nghi thức, có lãnh đạo cấp cao của các cơ quan dự ký. Sau đó văn bản
được gửi theo hệ thống các bên để thực hiện.
- Việc kiểm tra, theo dõi, sơ kết là của mỗi bên. Định kỳ có cuộc gặp các bên để nhìn
nhận, đánh giá chung; đôn đốc, kiểm tra và điều chỉnh chỉ đạo (thường tiến hành hằng năm).
c) Phối hợp phong trào quần chúng và thi đua yêu nước
* Mặt trận và đoàn thể phối hợp
Một thí dụ rất điển hình là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
ở khu dân cư” là sự phối hợp nhiều chương trình kinh tế - xã hội, hoạt động của đoàn thể ở
khu dân cư, đơn vị gắn được nhiều sinh hoạt của cộng đồng dân cư.
Để phối hợp được tốt cuộc vận động trên, mỗi đoàn thể phải khéo chọn những hoạt động
thích hợp, để với cách làm riêng, tác động riêng, hình thức riêng mà tham gia cuộc vận động
chung, đạt mục tiêu chung rộng lớn và sâu sắc hơn. Tại địa bàn địa phương (tỉnh, huyện) có
thể có một số phối hợp như: giao ban đôn đốc, kiểm tra chéo, tổ chức giới thiệu mô hình tiên
tiến, tập huấn cách làm cho cán bộ thuộc hệ thống chính trị…
* Mặt trận, đoàn thể động viên phong trào thi đua yêu nước
Phong trào thi đua yêu nước là của toàn dân, các danh hiệu thi đua do Nhà nước ban hành

và công nhận hằng năm. Phong trào thi đua của mỗi đoàn thể có thể phối hợp được với phong
trào thi đua chung. Sự tham gia của một trận và các đoàn thể qua các hoạt động cụ thể sau:
- Xây dựng mô hình tốt, phổ biến áp dụng kinh nghiệm tốt của phong trào thi đua.
- Phối hợp động viên các mô hình tiên tiến, cá nhân xuất sắc động viên phong trào thi đua
chung.
d) Phối hợp chỉ đạo, xây dựng tổ chức
Mặt trận, các đoàn thể chủ động hoặc do cấp ủy chỉ đạo, Mặt trận và các đoàn thể cùng
phối hợp trong một kế hoạch công tác. Ví dụ: rút kinh nghiệm xây dựng cơ sở trong sạch,
vững mạnh; phối hợp hoạt động của các tổ chức của cơ sở; khảo sát công tác cán bộ tại một
địa bàn; kiểm tra thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, v.v..
25


×