Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Nghiên cứu mô hình và đối chiếu chẩn đoán dị tật thận niệu quản trước và sau sinh tại bệnh viện phụ sản trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 101 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Các dị tật thận-tiết niệu (DTTTN) trẻ em nói chung và thận-niệu quản
nói riêng chiếm một phần quan trọng trong ngành thận học nhi khoa. Phôi thai
học của đường tiết niệu trên và dưới là một quá trình hình thành phức tạp.
Những biến đổi di truyền nhiều khi rất nhỏ, cũng làm sai lệch trình tự của sự
hình thành và phát triển bình thường của hệ thận-tiết niệu. Vì vậy, các
DTTTN gặp khá phổ biến và có khả năng gây biến chứng hoặc tử vong.
Trên thế giới, từ thời Hypocrat, các nhà nghiên cứu cơ thể con người
khi mổ tử thi đã phát hiện thấy sự bất thường của đường tiết niệu. Theo Habib
(1959), có 5%-12% trường hợp mổ tử thi thấy có DTTTN ở người lớn [1], [2]
Theo Garret (1970), có 2%-5% trẻ sơ sinh có DTTTN, chiếm 50% các trường
hợp dị tật được phát hiện [3], [4], [5].
Ở Việt Nam, DTTTN nói chung và thận-niệu quản nói riêng thường
được phát hiện sau sinh muộn hơn so với những di tật bẩm sinh (DTBS) khác
như dị tật đường tiêu hóa, tim mạch, hàm mặt. Chẩn đoán dị tật chủ yếu dựa
vào các biểu hiện lâm sàng trong khi phần lớn những triệu chứng lâm sàng
khởi đầu âm thầm, mơ hồ như đau bụng, bụng chướng, suy dinh dưỡng;
nhiễm khuẩn tiết niệu(NKTN) tái phát nhiều lần nhưng chưa đe dọa đến tính
mạng bệnh nhi ngay. Tuy nhiên, DTTTN cũng là một nguyên nhân quan
trọng gây tử vong ở trẻ em mắc bệnh thận-tiết niệu là 5,7% [6].
Ngày nay, nhờ có tiến bộ của chẩn đoán hình ảnh nhất là siêu âm chẩn
đoán trước sinh, người ta có thể chẩn đoán sớm các dị tật này cho thai nhi, có
kế hoạch theo dõi và điều trị sớm sau sinh, giảm đáng kể tỉ lệ phải cắt thận do
suy giảm chức năng. Theo Kim E.K và Song T.B (1996) khi sử dụng siêu âm
để nghiên cứu 5.442 phụ nữ từ khi mang thai tới khi sinh đã phát hiện 48
trường hợp thai có DTTTN, chiếm tỉ lệ 0,9% [7], [3], [5].


2



Theo Rosendahl (1990) dùng siêu âm đã phát hiện được DTTTN ở thời
kỳ bào thai là 0,48% và trẻ 2-4 tuổi là 0,57% [2].
Theo F.Boussion (2011) bất thường hệ tiết niệu chiếm 20-30% trong
tổng số các dị tật bẩm sinh đứng thứ 2 sau bất thường hệ thần kinh trung ương
và 80% trong số đó được chẩn đoán trước sinh [8].
Việc dựa vào kết quả siêu âm trước sinh và theo dõi sát dị tật sau sinh
nhằm giúp chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời, tránh được hậu quả đáng tiếc
như: NKTN mạn, ứ nước, ứ mủ bể thận, suy thận mạn,… dẫn đến tàn phế,
mất sức lao động và tử vong. Nhờ chẩn đoán trước sinh, các thầy thuốc có
những tư vấn tốt giúp các thai phụ khi mang thai nên đi khám thai định kỳ.
Ở Việt Nam, đã có một số đề tài nghiên cứu về DTTTN ở trẻ sau đẻ.
Theo Trần Đình Long và cộng sự năm 2005, nghiên cứu di tật thận tiết niệu ở
6037 trẻ mới đẻ thì có 2,93% có dị tật thận tiết niệu sinh dục. Theo Trần Ngọc
Bích và cộng sự (2013): Tỷ lệ dị tật thận tiết niệu là 11,5% trong các loại dị
tật [9], [10], [11]. Tại bệnh viện Phụ sản Trung ương đã có Trung Tâm Chẩn
Đoán Trước Sinh chẩn đoán các dị tật thai nhi bằng siêu âm. Để đánh giá khả
năng chẩn đoán trước sinh các dị tật thận-niệu quản, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu mô hình và đối chiếu chẩn đoán dị tật
thận-niệu quản trước và sau sinh tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương” với
hai mục tiêu sau:
1. Xác định tỷ lệ các loại dị tật thận-niệu quản bẩm sinh tại khoa Sơ sinh
Bệnh viện Phụ sản Trung ương.
2. Đối chiếu chẩn đoán dị tật thận-niệu quản trước và sau sinh.


3

Chương 1
TỔNG QUAN

1.1. Đại cương
1.1.1. Định nghĩa: Đường tiết niệu
Đường tiết niệu bao gồm thận và đường dẫn niệu. Đường dẫn niệu bao
gồm niệu quản, bàng quang và niệu đạo. Thận đóng vai trò tạo nước tiểu, sau
đó nước tiểu được đưa qua hệ thống dẫn niệu bài tiết ra ngoài [12].
1.1.2. Khái niệm dị tật thận - tiết niệu
Dị tật thận-tiết niệu bao gồm nhiều loại bất thường về cấu trúc, chức năng,
hình thái khác nhau của hệ thống tiết niệu từ thận đến hệ thống dẫn niệu ngoài.
Có nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ dị tật thận-tiết niệu, chung quy lại
đều là những bất thường về cấu trúc, chức năng, hình thái của thận-tiết niệu từ
lúc sinh ra, mặc dù các dị tật đó được chẩn đoán hoặc chưa được chẩn đoán
tại thời điểm đó.
Dị tật bẩm sinh cơ quan thận-tiết niệu có thể chỉ ở một cơ quan, nhưng
cũng có thể nhiều bộ phận cùng mắc. Nó có thể nhẹ, tức là suốt đời người
không có biểu hiện rối loạn về lâm sàng, cũng có khi nặng vì có nhiều biểu
hiện không phù hợp với đời sống ngay trước và mới sinh [9], [10].
1.2. Phôi thai học và giả thiết sự hình thành các dị tật thận – niệu quản.
1.2.1. Phôi thai học thận – niệu quản
Thận và niệu quản phát sinh từ hai dải trung bì trung gian gọi là dải
trung thận, dọc theo chiều dài của nó theo thứ tự không gian và thời gian lần
lượt tạo ra 3 cơ quan bài tiết khác nhau đó là Tiền thận, Trung thận và Hậu
thận [13], [14].


4

1. Tiền thận
2. Trung thận
3. Các đơn vị chế tiết của trung thận
4. Ống trung thận

5. Hậu thận
6. Mầm niệu quản
7. Vết tích của tiền thận
8. Ống noãn hoàng
9. Niệu nang
10. Ổ nhớp

Hình 1.1: Vị trí của tiền thận, trung thận, hậu thận [13], [1]
1.2.1.1. Tiền thận: Bắt đầu phát triển từ tuần thứ 3 của quá trình phát triển
phôi và đến cuối tuần thứ 4 tiền thận thoái hóa và biến đi hoàn toàn.
1.2.1.1. Trung thận: Phát sinh ngay ở phía đuôi của tiền thận từ tuần thứ 4 và tồn
tại đến tuần thứ 8. Cũng giống như tiền thận, trung thận chỉ là cơ quan tạm thời.
1.2.1.3. Hậu thận

Hình 1.2: Mối liên quan giữa ruột sau và ổ nhớp của phôi ở cuối tuần thứ 5 [1]
Hậu thận mới là thận vĩnh viễn của động vật có vú. Ở người, hậu thận bắt
đầu xuất hiện vào khoảng tuần thứ 5, từ đoạn đuôi của dải sinh thận. Ở đoạn này,
dải sinh thận không chia đốt và được gọi là mầm sinh hậu thận. Các đơn vị chế


5

tiết bao gồm tiểu cầu thận đến hết ống lượn xa phát sinh từ mầm sinh hậu thận
tương tự như ở trung thận và tiền thận.
Ở cuối tuần thứ 4, tại thành sau của ống trung thận dọc, gần nơi mở vào
ổ nhớp nảy ra một cái túi thừa gọi là mầm niệu quản. Mầm này phát triển về
phía mầm sinh hậu thận và sẽ sinh ra niệu quản, bể thận, đài thận, ống góp.
Ống lượn gần: Đoạn còn lại của ống hậu thận dài ra và đoạn gần tiểu
cầu thận to ra, cong queo tạo ra ống lượn gần.
Quai Henlé: Đoạn giữa của ống thận cong thành hình chữ U, dài ra và

hướng về phía bể thận tạo quai Henlé.
Ống lượn xa: Đoạn xa của ống thận thông với ống góp vẫn giữ nguyên
vị trí gần tiểu cầu thận, dài ra và cong queo tạo thành ống lượn xa [13].

Hình 1.3: Sự phát triển của một đơn vị chế tiết của hậu thận [13]
1.2.2. Giả thiết về sự hình thành các dị tật đường tiết niệu trên [13]
Nang thận bẩm sinh và tật thận đa nang: Do ống góp và ống hậu thận
không thông với nhau, nước tiểu bị ứ đọng trong ống hậu thận làm cho những
ống này biến thành những nang có thành mỏng.


6

Thận lạc chỗ: Do sai sót của thận khi di cư lên phía trên dẫn đến thận lạc
chỗ: tật thận nằm ở vùng đáy chậu (chỉ có 1 thận nằm vùng đáy chậu) hoặc tật
thận hình đĩa (cả 2 thận nằm ở vùng đáy chậu).
Thận hình móng ngựa: Do đầu dưới của 2 mầm sinh hậu thận sát nhập
với nhau tạo thành hình chữ U (hình móng ngựa).
Thận không phát triển: Có thể 1 hoặc cả 2 thận. Do sự ngừng phát triển
hoặc thoái hóa sớm của mầm niệu quản.
Hai thận có chung một niệu quản. Tật này do mầm sinh hậu thận bị chia đôi
Thận đôi: thường kết hợp với tật niệu quản đôi. Do mầm sinh hậu thận nhân đôi.
1.3. Sơ lược giải phẫu thận và niệu quản
1.3.1. Giải phẫu thận
Thận là một cơ quan có vai trò quan trọng trong việc duy trì thăng bằng
nước và điện giải trong cơ thể và thải một số chất độc đối với cơ thể ra ngoài
qua sự thành lập và bài tiết nước tiểu. Tuy nhiên, thận còn có vai trò nội tiết
ảnh hưởng tới sự điều chỉnh huyết áp và tạo hồng cầu. Mỗi thận thường có từ
4-18 đài nhỏ hứng nước tiểu từ các nhú thận đổ vào 2 hay 3 đài lớn, trước
khi hợp lại thành bể thận. Mỗi đài nhỏ có thể nhận một, hai hay nhiều nhú

thận, đặc biệt ở các cực thận. Các đài nhỏ sắp xếp thành hai hàng dọc theo
hai mặt trước và sau thận, theo mặt phẳng đứng, trục của bể thận làm thành
một góc 300. Các đài nhỏ hàng trước, hàng sau của thận phải và trái làm thành
một góc khác nhau với bể thận [12], [15].


7

Hình 1.4: Hệ thống đài bể thận
(Nguồn: Drake RL et al. (2015), Gray's anatomy for students [16]
Thận hình phễu dẹt, miệng phễu mở hướng vào các đài lớn, rốn phễu
tiếp nối với niệu quản tạo nên khúc nối bể thận niệu quản và thường đổ dưới 1
cm ở bờ dưới rốn thận. Bể thận có thể nằm chìm trong thận (bể thận trong
xoang) hoặc lộ ra ngoài thận (bể thận ngoài xoang) [15]
1.3.2. Giải phẫu niệu quản [12], [15]
Niệu quản là ống dẫn nước tiểu từ bể thận xuống bàng quang. Niệu
quản nằm sau phúc mạc, dọc hai bên cột sống và ép sát vào thành bụng sau.
Đường kính niệu quản khi căng vào khoảng 5mm, đều từ trên xuống
dưới trừ ba chỗ hẹp: khúc nối bể thận-niệu quản, nơi niệu quản bắt chéo động
mạch chậu ở đường cung xương chậu và đoạn thành bàng quang.
Chiều dài của niệu quản thay đổi tuỳ theo chiều cao cơ thể, giới tính, vị trí
của thận và bàng quang. Trung bình niệu quản dài từ 25-28 cm và chia làm hai
đoạn: đoạn bụng và đoạn chậu hông, mỗi đoạn dài khoảng 12,5-14 cm. Niệu quản
trái dài hơn niệu quản phải vì thận trái cao hơn. Niệu quản ở nam dài hơn ở nữ.


8

Hình 1.5: Thận và niệu quản
(Nguồn: Drake RL et al. (2015), Gray's anatomy for students)[16]

1.4. Sự phát triển chức năng sinh lý thận
- Vào cuối thời kỳ bào thai khoảng từ tháng 7-8, thận đã hoạt động bài
tiết nước tiểu cùng các chất bất thường đối với cơ thể và người ta tìm thấy các
chất này trong nước ối của tử cung.
Tuy vậy, trong thời kỳ bào thai thận hoạt động nhưng chưa thật sự cần
thiết cho đời sống của bào thai.
- Trong thời kỳ sơ sinh chức năng thận được phát triển mạnh ngay sau
khi sinh để có thể đảm bảo cho sự hằng định thể dịch trong cơ thể.
Chức năng lọc của cầu thận trong thời kỳ sơ sinh còn thấp, mới chỉ đạt
được khoảng một phần tư trị số trung bình của trẻ lớn.
- Nước tiểu được sản xuất từ các cầu thận chảy xuống bể thận qua các
đài thận, với tốc độ sản xuất nước tiểu sinh lý, bể thận sẽ được lấp đầy dần, áp
lực trong bể thận tăng lên cho đến lúc cao hơn ở niệu quản. Các đài thận và cơ
bể thận co bóp đẩy nước tiểu xuống phần niệu quản. Phần trên niệu quản sẽ
co bóp đẩy nước tiểu xuống dưới bàng quang [17].


9

1.5. Các dị tật bẩm sinh tại thận [18]
 Bất thường về số lượng: Giảm sản thận, thận bất sản, thận đôi, thận thứ 3.
 Bất thường về hình dáng: Thận hình móng ngựa, thận hình bánh, hình bia,…
 Bất thường về vị trí: Thận xoay không hoàn toàn, thận lạc chỗ, thận sa.
 Các nang thận bất thường: Thận loạn sản nhiều nang, nang đơn độc,
thận đa nang.
1.5.1. Giảm sản thận [19]
Giảm sản thận là hiện tượng trọng lượng trung bình của thận giảm đi tối
thiểu là 1/3 so với trọng lượng thận bình thường, xuất hiện ở trẻ ngay khi sinh ra.
Giảm sản thận có thể ở một bên hoặc cả hai bên thận, có các dạng sau:
 Giảm thận đều đặn: Các tiểu thùy thận vẫn có cấu trúc bình thường

nhưng số lượng giảm đi, thận thực sự bé đi nhưng chức năng vẫn bình
thường. Ngay cả trường hợp giảm thận đều đặn ở hai bên cũng không
thể hiện bất thường ra bên ngoài.
 Giảm sản thận do ít tiểu cầu thận: Trường hợp này số lượng tiểu thùy
thận giảm đi nhiều, kèm theo có hiện tượng phì đại đáng kể của cần
thận, ống thận và bộ máy cầu thận. Nếu tổn thương cả hai bên thận lâu
ngày, bệnh nhi có thể bị tử vong do suy thận mạn tính. Tổn thương có
thể ở toàn bộ thận hoặc chỉ khu trú ở một phần thùy.
 Giảm thận do không có cầu thận: Nhu mô của một phần thùy khá to
không có cầu thận. Các tháp thận thu nhỏ lại thành tổ chức xơ có vài
ống Bellini. Vỏ thận chỉ có những ống bị teo, thoái hóa thành nang.
Về lâm sàng, tổn thương này thường là nguyên nhân gây cao huyết áp ở trẻ em.
 Giảm sản kèm theo loạn sản thận: Thận bị loạn sản với hiện tượng
giảm sản thận kèm theo có tổ chức thận nguyên thủy (các ống thận
nguyên thủy) và các tổ chức bình thường không thấy có trong nhu mô


10

thận như những đảo sụn, cơ vân, nang ở trong lớp vỏ hoặc lõi, tổ chức
trung mô bào thai.
Bằng phương pháp thăm dò hình ảnh sẽ thấy: kích thước thận nhỏ hơn
so với tuổi, bể thận nhỏ hình tam giác hoặc hình phễu, các đài thận nhỏ. Các
mạch máu dù ở cuống hoặc ở trong thận đều có kích thước nhỏ.
1.5.2. Thận bất sản
1.5.2.1. Bất sản thận hai bên
Bất sản thận cả hai bên rất hiếm gặp, ở nam nhiều hơn ở nữ. Đứa trẻ
thường chết trong bụng mẹ, hạn hữu mới có sống được vài giờ hoặc vài ngày
sau đẻ. Có thể có các dị dạng khác như hai thận liền làm một.
Lâm sàng có thể chẩn đoán nhờ bộ mặt đặc biệt mà Potter đã mô tả lần

đầu tiên: Các nếp mí mắt dẹt đi hoặc thậm chí có dạng mí mắt Mông Cổ; có
các nếp quạt che góc trong mắt rõ rệt; “ mũi mỏ vẹt”; tai to và thấp; cằm hụt.
Tỷ lệ dị dạng các cơ quan sinh dục khác rất cao: có thể không có bàng quang,
niệu đạo và các bộ phận sinh dục [20]
1.5.2.2. Bất sản thận một bên.
Gặp ở khoảng 1/1500 trẻ sơ sinh. Nam nhiều hơn nữ, thường kết hợp với
thiếu hoàn toàn niệu quản cùng bên. Đôi khi có niệu quản với lỗ niệu quản bình
thường. Khi thấy có một khối mô ở vùng thận mà không phải là mô thận bình
thường thì gọi là loạn sản thận. Thận bên đối diện bình thường hoặc phì đại. Quả thận
đơn này có thể nằm ở hố chậu và lỗ niệu quản đổ vào bàng quang. Hơn 50% số bệnh
nhi này có dị dạng đường sinh dục, cột sống, tim, có thể kèm theo teo thực quản.
Chẩn đoán được bằng phương pháp chụp UIV và siêu âm đường tiết
niệu hoặc chụp động mạch, chụp cắt lớp vi tính.
1.5.3. Thận đôi
Hay gặp hơn cả, chiều dài của thận đôi dài hơn thận bình thường. Giữa
hai thận trên và dưới có 1 rãnh. Thận ở trên thường nhỏ hơn thận dưới. Việc


11

nuôi dưỡng do hai động mạch thận. Hệ bạch mạch ở từng thận đều riêng rẽ.
Nếu thận sinh đôi hoàn toàn thì ở mỗi thận đều có hệ thống bể và đài thận
riêng rẽ. Thường phát triển bình thường ở thận dưới, còn thận trên thì phát
triển không đầy đủ. Ở mỗi thận đều có một niệu quản riêng rẽ. Do đó, có thể
nói rằng mỗi thận đều có cấu trúc giải phẫu và chức phận riêng biệt, mỗi thận
đều có quá trình bệnh lý riêng biệt của nó. Người ta hay gặp nhiều quá trình
rối loạn bệnh lý ở thận trên. Nếu thận đôi mà không có hai niệu quản là thận
đôi không hoàn toàn.
Biểu hiện lâm sàng thường là ứ nước. Ở một thận, viêm bể thận-thận,
sỏi thận. Chẩn đoán thận đôi dựa vào siêu âm, chụp niệu đồ tĩnh mạch, xạ

thận đồ. Bình thường không có chỉ định can thiệp trừ khi có biểu hiện bệnh lý
(cắt thận bán phần hoặc cắt bỏ thận phụ và niệu quản phụ).
1.5.4. Thận móng ngựa
Trong trường hợp này, hai cực dưới thận dính vào nhau. Thận móng
ngựa thường kèm thận xoay không hoàn toàn, bể thận xoay ra trước. Hai thận
thường dính nhau bằng một cầu nối nhu mô ở ngang mức đốt sống L4-5, phía
trước động mạch chủ bụng. Không hiếm trường hợp có kèm theo những dị
dạng khác về hệ tiêu hóa, xương, tim mạch.
Lâm sàng thường gặp với đau bụng, sờ được sự phản ứng thành
bụng, nhiễm trùng niệu hoặc tiểu máu nhẹ. Siêu âm và chụp UIV sẽ giúp
ích cho chẩn đoán.
1.5.5. Thận xoay không hoàn toàn
Thường gặp nhất, nghĩa là bể thận xoay ra phía trước. Phần lớn không có
triệu chứng. Trên phim X quang cho thấy hình ảnh đài bể thận không bình thường.
1.5.6. Thận lạc chỗ
Hiếm gặp. Có thể thận nằm trong tiểu khung hoặc ở ngực kèm theo
thoát vị cơ hoành. Trường hợp thận ở tiểu khung, triệu chứng biểu hiện là
vùng hạ vị có khối gồ, sờ được.


12

Chụp UIV ở tư thế nằm và đứng có thể phân biệt với trường hợp thận
sa, tức thận nằm ở vị trí bình thường nhưng khi đứng thì sẽ sa xuống thấp.
Hai niệu quản chạy qua phần dính nhu mô thận, do đó có thể bị tắc
nghẽn, nhiễm trùng tái phát và hình thành sỏi.
Trường hợp thận lạc chỗ bắt chéo, tức là niệu quản vẫn đổ vào vị trí
bình thường, nhưng thận lại lạc chỗ nằm sâu về bên đối diện hoặc trong tiểu
khung cho nên niệu quản phải chạy bắt chéo phía trước xương cùng cụt.
1.5.7. Nang thận

1.5.7.1. Thận đa nang
Thận đa nang là loại dị tật nặng, có tính di truyền và xuất hiện ở một hoặc
hai thận. Dị tật hiếm gặp với tần số là 1/10.000 – 1/40.000 trẻ sơ sinh [21]. Ở trẻ
sơ sinh nếu có loạn sản ở một số các cầu thận thì 70% số trẻ đó sẽ chết vào
những ngày đầu sau đẻ, khi số lượng cầu thận bị không nhiều, đứa trẻ có thể lớn
lên, hiện tượng suy thận xuất hiện chậm và thường có viêm thận – bể thận mạn
tính, cao huyết áp. Bệnh thường kèm theo đa nang ở gan, lách, phổi, buồng trứng
cùng với phồng động mạch não. Bệnh thường tiến triển qua 3 giai đoạn:
 Giai đoạn còn bù: Cảm giác đau âm ỉ vùng thận, khó chịu, bứt dứt.
 Giai đoạn nặng: Cảm giác đau vùng thận, miệng khô, khát nước, dễ mệt
mỏi, nhức đầu, nôn do suy thận, huyết áp cao.
 Giai đoạn mất bù: Nôn liên tục, toàn thân mệt mỏi, choáng váng đầu,
khát nước nhiều do suy thận, urê, creatinin máu cao.
Dùng siêu âm để chẩn đoán thận đa nang ở trẻ sơ sinh. Trên hình ảnh
siêu âm hai thận rất to [21].
1.5.7.2. Nang thận đơn độc
Các nang thận đơn thuần thường là đơn độc và ở một bên, nhưng cũng
có trường hợp nhiều nang ở một bên hoặc nang đơn độc ở hai bên thận.


13

thường không biểu hiện bằng một khối trong ổ bụng. Các nang thường là một
khoảng và không nhất thiết liên thông với thận.
Cần phân biệt với bệnh thận đa nang, thận ứ nước và u Wilms. Siêu âm
nhấp nháy thận đồ, UIV, CLVT thận có ý nghĩa chẩn đoán tốt [20].
1.5.8. Loạn sản thận [20]
Tương đối hay gặp và thay đổi rất nhiều về mức độ. Có thể hai bên,
một bên hoặc một phân thùy trong quả thận và quả thận đó thường giảm sản.
Trong nhiều trường hợp có các cấu trúc dạng nang.

Cấu trúc giải phẫu học cơ bản là cấu trúc ống có lát biểu mô, bao bọc bởi
các dải đồng tâm của mô, trung mô không biệt hóa, trong đó có thể chứa những
dải cơ trơn hoặc những màng sụn nhỏ. Bể thận thường không có, niệu quản hầu
như bao giờ cũng bất thường. Thường có kèm dị dạng các cơ quan khác.
Nếu là loạn sản thận một bên thì có thể không có giảm chức năng thận,
tuy vậy tăng huyết áp có thể là một biểu hiện. Khi cắt bỏ thận loạn sản một
bên thì thấy hết tăng huyết áp.
Sự tạo thành nang tràn lan thường là một bên, đặc biệt là trong các trường
hợp chẩn đoán được trên lâm sàng, và nói chung được gọi là thận đa nang.
1.6. Các dị tật bẩm sinh của niệu quản [22], [23]
 Bất thường về số lượng: Niệu quản bất sản, niệu quản đôi, niệu quản ba,…
 Tắc nghẽn bẩm sinh: Hẹp khúc nối bể thận-niệu quản, phình to niệu
quản tiên phát và van niệu quản, trào ngược bàng quang-niệu quản tiên phát.
 Bất thường lỗ niệu quản: Niệu quản cắm lạc chỗ, túi sa niệu quản.
1.6.1. Hẹp khúc nối bể thận – niệu quản
Hẹp khúc nối bể thận–niệu quản (BT-NQ) gặp với tần số khoảng
1/1500 trẻ sơ sinh. Bệnh hay gặp ở nam nhiều hơn nữ (65% ở nam), bên trái
bị nhiều hơn bên phải (2/1) [24]. Khoảng 5% trường hợp có tổn thương cả
hai bên. Hẹp khúc nối BT-NQ có thể thường xuyên, từng đợt, hoàn toàn


14

hoặc không hoàn toàn, phụ thuộc lượng nước mà bệnh nhân tiếp nhận vào.
Hẹp khúc nối bể thận – niệu quản có thể do các nguyên nhân bên trong
hoặc bên ngoài [25], [26], [24].
- Bất thường tổ chức học của đoạn nối bể thận niệu quản: Các sợi
cơ vòng bị thay thế bởi các sợi cơ dọc, có nhiều sợi keo giữa các bó cơ, các
tế bào cơ bị mất liên tục. Điều này làm cho đoạn nối bể thận niệu quản không
có nhu động và không có khả năng đẩy nước tiểu xuống niệu quản.

- Bất thường trong quá trình phát triển của niệu quản: Trong thời kỳ
bào thai, niệu quản lúc đầu là một ống đặc nhưng sau đó thành một ống rỗng.
Khi quá trình này không xảy ra hoàn toàn sẽ làm niệu quản bị hẹp và tắc.
- Tồn tại nếp niệu quản (Maizels và Stephens, 1980): Nó hoạt động
giống như một van đậy kín lòng niệu quản [24].
- Nguyên nhân bên ngoài hay gặp nhất là động mạch thận cực dưới
phân nhánh sớm hoặc bất thường (khoảng 20 – 30%), nó chạy phía trước bể
thận và niệu quản gây chèn ép gây tắc. Theo Võ Văn Hải và cộng sự (2012),
sự hiện diện của động mạch cực dưới ở người bình thường là 8,0%, hẹp
khúc nối BT-NQ có phẫu thuật là 15,8%. Ngoài ra, niệu quản bám vào bể
thận ở vị trí cao cũng có thể gây hẹp khúc nối BT-NQ [27].
1.6.2. Niệu quản đôi
Niệu quản đôi (NQĐ) là dị tật hay gặp nhất của đường tiết niệu trên với
tỷ lệ 0,7% trên mổ tử thi, 4% trên tổng số phim chụp đường tiết niệu.
Bệnh thường được phát hiện tình cờ, không có triệu chứng lâm sàng và không
cần điều trị. Dị tật gặp ở nữ nhiều hơn nam và thường có tiền sử gia đình khá
rõ nét [28], [26].
NQĐ là hậu quả của những bất thường trong quá trình phát triển thai.
Niệu quản hình thành từ một mầm niệu quản, phát sinh từ ống Wolff (ống
trung thận). Mầm niệu quản dài ra tiến về và xuyên vào mầm hậu thận trong


15

khi hậu thận đang di chuyển từ vùng xương cùng lên vùng thắt lưng. Mầm
niệu quản hình thành hệ thống ống trong thận và đài thận, hậu thận hình thành
nên các nephron.
- Niệu quản đôi hoàn toàn (NQĐHT): Hai niệu quản chạy từ hai bể thận
khác nhau, hai lỗ niệu quản đổ vào các vị trí khác nhau, do hai mầm niệu
quản phát sinh từ ống Wolff riêng rẽ và tuân theo quy luật Weigert – Meyer

(niệu quản trên đổ xuống dưới thấp, trong khi đó niệu quản dưới lại đổ cao
hơn ở phía trên). Niệu quản cực trên liên quan đến túi sa niệu quản và niệu
quản cắm lạc chỗ, trong khi đó cực dưới niệu quản liên quan đến trào ngược
bàng quang niệu quản và bệnh lý khúc nối bể thận niệu quản.
- Niệu quản đôi không hoàn toàn (NQĐKHT): Hai niệu quản dẫn lưu
từ hai bể thận khác nhau nhưng chỉ chạy riêng một đoạn rồi đổ chung vào
một phần tận cùng, do mầm niệu quản phân đôi sớm trước khi tiến đến mầm
thận. NQĐKHT thường gặp gấp 3 lần NQĐHT [29].
- NQĐKHT ngược chiều: Niệu quản đoạn gần tách thành hai niệu
quản riêng nhau ở phía dưới.
- NQĐ hoàn toàn hoặc không hoàn toàn với một nhánh tận cùng
thành túi cùng tịt trước khi đến bể thận.
- Bên cạnh lỗ niệu quản đổ lạc chỗ ngoài bàng quang và túi sa niệu
quản, dị tật NQĐ còn có thể đi kèm với trào ngược bàng quang – niệu quản,
phình niệu quản, bệnh lý khúc nối bể thận niệu quản cực dưới [26].
1.6.3. Niệu quản cắm lạc chỗ
Niệu quản cắm lạc chỗ (NQCLC) là các trường hợp lỗ niệu quản không
đổ vào vùng quy định về giải phẫu bình thường (tam giác bàng quang). Vì
vậy, về lý thuyết, lỗ niệu quản cắm mé ngoài có thể coi như lạc chỗ. Nhưng
thực tiễn, từ này chỉ dùng cho những niệu quản cắm ngoài bàng quang [25].
Bệnh gặp với tỷ lệ 1/2000 dân số, nữ nhiều gấp 5 lần so với nam, khoảng
80% trường hợp NQCLC có NQĐ. Ở bệnh nhân nữ, NQCLC hầu hết là một
phần của dị tật niệu quản đôi và phần lớn ở cực trên thận.


16

Ở bệnh nhân nam, NQCLC thường xuất hiện trên hệ thống đơn hơn
là đôi, khi lỗ niệu quản lạc chỗ càng xa vị trí bình thường thì càng ít có khả
năng kết hợp với niệu quản đôi. Trong một báo cáo gần đây ở 500 trường hợp

niệu quản lạc chỗ lỗ niệu quản đổ vào niệu đạo sau (57%) là thường gặp nhất
ở nam (Keating, 2007). Theo Nguyễn Thanh Liêm và cs (2002) lỗ niệu quản
có thể đổ vào niệu đạo sau, thường là trên cơ thắt(50-60%) hoặc đường sinh
dục (ống dẫn tinh, túi tinh, ống phóng tinh) 40-50%.
NQCLC là do sự phát triển bất thường của niệu quản trong thời kỳ bào
thai. Vị trí bất thường của mầm niệu quản trên ống Wolff hoặc mầm niệu
quản tách khỏi ống Wolff muộn đều có thể dẫn đến NQCLC. Khi mầm niệu
quản tách khỏi ống Wolff sớm, lỗ niệu quản sẽ đổ vào đường tiết niệu (cổ
bàng quang) hoặc niệu đạo sau ở nam hay niệu đạo ở nữ [30], [26].
1.6.4. Phình niệu quản tiên phát do hẹp
Hẹp khúc nối niệu quản bàng quang là tình trạng hẹp đầu xa của niệu
quản đổ vào bàng quang, với tên thường gọi là phình niệu quản tiên phát do
hẹp (PNQTP). Cơ chế bệnh sinh còn chưa được sáng tỏ. Bệnh đã được
Carlk mô tả lần đầu tiên từ năm 1923 [26]. Bệnh gặp ở nam nhiều hơn nữ,
bên trái nhiều hơn bên phải. Theo Lê Tấn Sơn, tỷ lệ nam/nữ là 1,6/1, tỷ lệ
bên trái/ phải là 4,2/1 [31]. Đường kính niệu quản bình thường hiếm khi
lớn hơn 5mm (Cussen 1971), gọi là phình niệu quản khi đường kính lớn
hơn 7mm [26], [24].
Năm 1952, Swenson và cộng sự cho rằng có sự giống nhau giữa
PNQTP và phình đại tràng bẩm sinh do không có hạch thần kinh. Tuy nhiên,
Leibowitz đã phủ nhận giả thuyết này và cho rằng nguyên nhân của giãn niệu
quản là do các khuyết tật tiên thiên của lớp cơ thành niệu quản.
Thật vậy, các nghiên cứu khác cũng kết luận, chính các rối loạn về tổ
chức học đã làm cho đoạn niệu quản tận cùng không có khả năng co bóp bình
thường để đẩy nước tiểu xuống bàng quang gây ứ đọng nước tiểu và giãn niệu
quản ở phía trên [26].


17


1.6.5. Trào ngược bàng quang- niệu quản tiên phát
Trào ngược bàng quang-niệu quản (BQ-NQ) là hiện tượng trào ngược
nước tiểu từ bàng quang vào niệu quản, có thể lên đến đài bể thận và trong
thận. Bệnh chiếm tỷ lệ gần 0,5% ở trẻ khỏe mạnh nhưng lên 30% đến 50% trẻ
có nhiễm khuẩn niệu (tùy theo tuổi) [26], [32]. Ở trẻ em, đa số các trường hợp
trào ngược BQ-NQ là do nguyên nhân tiên phát. Trong trào ngược BQ-NQ,
bàng quang có cấu trúc bình thường, lỗ niệu quản giãn rộng. Lyon và cộng sự
thấy lỗ niệu quản có thể có bốn hình thái: bình thường hoặc hình nón, hình
sân vận động, hình móng ngựa và hình lỗ gôn. Trào ngược BQ-NQ tiên phát
xuất hiện khi các yếu tố tham gia cơ chế chống trào ngược thay đổi bất
thường: chiều dài của đoạn niệu quản dưới niêm mạc bàng quang ngắn, vùng
tam giác bàng quang lỏng lẻo, thiếu hụt cơ trong niệu quản và lớp cân
Waldeyer, thiếu hụt nâng đỡ cơ của đoạn niệu quản tận cùng [25], [26].
Hiện nay, phân loại quốc tế chia trào ngược BQ-NQ làm 5 mức độ
được chấp nhận và sử dụng rộng rãi [32], [33].

Hình 1.6: Các mức độ trào ngược BQ-NQ trên phim chụp bàng quang
(Nguồn: Traubici J, Lim R (2008), Comprehensive Pediatric Nephrology) [34]


18

1.6.6. Túi sa niệu quản [26]
Túi sa niệu quản (TSNQ) là giãn thành nang của đoạn cuối niệu quản
nằm trong bàng quang (Tekgül, 2014). Thuật ngữ này tuy không chính xác
để chỉ bản chất của bệnh nhưng là thuật ngữ đã được quen dùng. TSNQ
được Lilienfeld mô tả lần đầu tiên năm 1856 trên một bệnh nhân 65 tuổi có
NQĐ và ứ nước ở đơn vị thận trên. Năm 1911, Young tiến hành cắt chỏm
nang và nong lỗ niệu quản để điều trị vì cho rằng nguyên nhân là do hẹp
lỗ niệu quản. Bệnh gặp với tỷ lệ 1/5000 đến 1/12000 trẻ vào viện, thường kết

hợp với NQĐ [17]. Tỷ lệ nữ/nam = 4-7/1. Khoảng 70% các trường hợp có
biểu hiện bệnh trước 12 tháng tuổi. 80% TSNQ liên quan với niệu quản cực
trên của hệ thống đôi, tỷ lệ gặp cả hai bên khoảng 10%. Bệnh nguyên của
TSNQ chưa rõ, có bốn giả thuyết về cơ chế bệnh sinh của túi sa niệu quản:
tắc lỗ niệu quản bẩm sinh, khiếm khuyết cơ của thành niệu quản ở phần tận
cùng, mầm niệu quản bị đẩy lệch lên trên và sự phát triển bất thường trong
thời kỳ bào thai.
Mặc dù có nhiều cách phân loại như của Stephens [33], Tekgül S
nhưng phân loại của Husmann (1999) là có nhiều ý nghĩa về phương diện lâm
sàng: TSNQ trên niệu quản đơn, TSNQ trên NQĐ, TSNQ trong lòng
bàng quang, TSNQ lạc chỗ và TSNQ dạng manh tràng.
1.6.7. Lâm sàng [26], [35], [18], [20]
Thay đổi tùy thuộc vào từng loại dị tật và tuổi của bệnh nhân. Đau
bụng, tiểu máu hoặc nhiễm khuẩn niệu là các biểu hiện hay gặp ở trẻ lớn,
trong khi đó thận lớn là biểu hiện chủ yếu ở trẻ nhỏ.
- Đau bụng: Hay gặp nhưng không đặc hiệu, đau đơn độc hoặc kèm
các triệu chứng tiêu hóa khác như nôn, buồn nôn. Đau bụng có thể xuất hiện
từng đợt sau mỗi lần uống nhiều nước làm bể thận giãn đột ngột kết hợp với
tăng bài niệu mà được gọi là “cơn Dietl” được Dietl mô tả đầu tiên năm 1864


19

(gặp trong hẹp khúc nối BT-NQ). Chính sự giãn đột ngột của bể thận và căng
của bao thận giải thích cho cơn đau cấp.
- Đi tiểu hai lần kế nhau và đau di chuyển ngược từ hạ vị lên vùng thắt
lưng trong hoặc ngay sau tiểu là triệu chứng đặc hiệu của trào ngược BQ-NQ.
- Tiểu máu: Hay xảy ra sau đau bụng hoặc chấn thương bụng nhẹ với
các mức độ khác nhau. Theo Nguyễn Khoa Hùng và cộng sự (2014), tiểu máu
gặp 3,3% trường hợp.

- Thận lớn: Do thận ứ nước, ở vùng hố thận hoặc chiếm gần hết một
bên ổ bụng với tính chất: mặt nhẵn, đều, không đau, kích thước có thể không
đổi. Nghiên cứu gần đây cho thấy thận lớn là triệu chứng hay gặp trên lâm
sàng chiếm 22,5% thận bị dị tật.
Ở nữ, NQCLC thường kèm NQĐ. Lỗ niệu quản có thể đổ vào cổ bàng
quang hoặc niệu đạo, xung quanh lỗ niệu đạo ngoài và âm đạo. Niệu quản có
thể đổ vào ống Gartner và qua ống này mở vào âm đạo hoặc tử cung. Phát
hiện lỗ niệu quản lạc chỗ giữa các nếp gấp vùng âm hộ thường khó khăn, vì
vậy có thể kết hợp nghiệm pháp bơm các chất màu. Triệu chứng đặc hiệu nhất
là són tiểu liên tục nhưng vẫn có các lần đi tiểu bình thường. Tuy nhiên, dấu
hiệu này chỉ rõ rệt và được chú ý ở trẻ lớn đã biết đi tiểu theo giờ. Theo
Trương Minh Khoa và cộng sự (2011), tiểu không kiểm soát ở nữ từ nhỏ cần
nghĩ đến dị tật NQCLC. Ở nam, NQCLC thường là niệu quản đơn như là một
qui luật, nếu niệu quản trên lạc chỗ vào ống dẫn tinh, túi tinh thường có
biểu hiện viêm tinh hoàn hoặc mào tinh hoàn cùng bên.
- Tiểu khó, bí tiểu: TSNQ là nguyên nhân bí tiểu thường gặp ở trẻ gái.
1.7. Chẩn đoán trước sinh
Được thực hiện trên thế giới từ thập niên 80 của thế kỷ trước. Ở nước ta
mới bắt đầu chẩn đoán trước sinh các dị tật bẩm sinh từ thập niên 90. Việc


20

hiểu biết phôi thai học quá trình hình thành các cơ quan là cơ sở cho việc phát
hiện các dị tật bẩm sinh [13].
Thận được hình thành từ tuần thứ 20 (tháng thứ 5) tức là khoảng 3 tháng
giữa của thời kỳ thai nghén. Khoảng từ tuần thứ 28-32 (tháng thứ 7-8) tức là
khoảng 3 tháng cuối thời kỳ thai nghén, thận đã hoạt động và bài tiết nước
tiểu. Nước tiểu thai nhi nói chung là nhược trương, khối lượng nước tiểu tăng
dần và đạt đến đỉnh cao ở cuối thời kỳ thai nghén, nhưng lại đột ngột giảm

xuống sau đẻ từ vài ngày đến vài tuần và sau đó tăng dần lên, ổn định ở tốc độ
1-2 ml/kg/h. Theo dõi liên tục bằng siêu âm đã cho phép hiểu rõ hơn diễn biến
các trường hợp thận ứ nước được phát hiện trong thời kỳ thai nhi.
1.7.1. Hình ảnh siêu âm thận-niệu quản trước sinh bình thường
Hiện nay nhờ những tiến bộ của siêu âm cho phép nghiên cứu được hình
thái của đường tiết niệu trước đẻ, bàng quang có thể quan sát lúc thai được 14
tuần. Thận cũng bắt đầu nhìn thấy lúc 14 tuần hiện rõ lúc thai 18 -20 tuần.
Các chỉ số hình ảnh siêu âm thận bình thường:
- Theo SFU (Hiệp hội siêu âm tiết niệu thai nhi) đường kính trước-sau
BT (anterior-posterior pelvic diameter viết tắt là APPD) khi thai 18-20 tuần là
4mm, khi thai 32 tuần là 6mm [36].
- Theo Anderson thì đường kính trước - sau BT khi thai:
+ 3 tháng giữa thời kỳ thai nghén: 4mm
+ 3 tháng cuối thời kỳ thai nghén: 7mm.
- Theo Jawson thì bể thận bình thường đo được ngoài xoang là 5mm vào
3 tháng cuối thời kỳ thai nghén.
- Theo Didier và Schmitt, đường kính ngang lớn nhất của thận ở tuần thứ
15 là 7mm và ở 3 tháng cuối là từ 20-23mm.


21

1.7.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán các dị tật của thận-niệu quản trước sinh bằng
siêu âm thai nhi [37], [9], [8]
1.7.2.1. Thể bất sản thận một bên
- Trên đường cắt dọc bên thai thấy một hố thận rỗng, không thấy hình ảnh
của thận, trong đó bên đối diện thận có hình ảnh và cấu trúc bình thường.
- Trên đường cắt ngang không thấy dấu hiệu mắt kính
- Trên đường cắt trực diện chỉ quan sát thấy một thận
- Sử dụng Doppler màu chỉ thấy hình ảnh của một cuống mạch thận.

- Bàng quang có hình ảnh và kích thước bình thường
- Lượng nước ối bình thường
1.7.2.2.Thể bất sản thận hai bên
- Trên đường cắt dọc thận thai nhi hai hố thận rỗng, không thấy hình ảnh
của thận, tuy nhiên có một số trường hợp tuyến thượng thận của thai chiếm
hai hố thận có thể nhầm với hình ảnh của thận.
- Trên đường cắt ngang không thấy hình ảnh mắt kính
- Trên đường cắt trực diện không thấy hai thận
- Doppler màu không thấy hình ảnh của bó mạch thận hai bên.
- Không thấy hình ảnh bàng quang trong suốt quá trình siêu âm
1.7.2.3. Loạn sản thận dạng nang
- Trên các đường cắt: Dọc thận thai nhi, cắt ngang hay cắt trực diện, hình
ảnh của thận là khá giống nhau.
- Thận to, bờ không đều thường có hình ảnh lồi ra do các nang đẩy lên,
thận thưa âm vang.
- Nhu mô thận không không thấy hình ảnh biệt hóa vỏ tủy.
- Không thấy hình ảnh của bệ thận.
- Chiếm toàn bộ nhu mô thận là những vùng âm vang thưa có ranh giới rõ,
chứa dịch đồng nhất, kích thước khác nhau từ 4-10mm, không thông với nhau.


22

- Doppler màu có hình ảnh tưới máu nhưng rất nghèo nàn.
- Tổn thương một bên: Rất hay gặp, thận còn lại thường bình thường,
nước ối bình thường, bàng quang có hình ảnh và kích thước bình thường.
- Tổn thương hai bên (15% số trường hợp): Không có hình ảnh của bàng
quang, không có nước ối hay thiểu ối.
1.7.2.4. Thận đa nang
Tuổi thai có thể chẩn đoán được vào đầu quý 2 khoảng từ 16 - 17 tuần. Tổn

thương thận trong bệnh lý này thường cả hai bên, cân đối.
- Trên các đường cắt dọc thân thai, cắt ngang hay cắt trực diện thì hình
ảnh 2 thận tổn thương đều có hình ảnh giống nhau:
- Thận to cân đối cả hai bên, vỏ thận đều rõ nét.
- Tỷ lệ chu vi thận / chu vi bụng tăng trên 0,3.
- Nhu mô thận tăng âm vang, không thấy hình ảnh biệt hóa vỏ tủy, chiếm
toàn bộ nhu mô thận là những nang rất nhỏ 1 - 2mm, đôi khi kích thước của
nó còn nhỏ hơn nữa.
- Bàng quang rất nhỏ hoặc không thấy hình ảnh bàng quang.
- Thiểu ối nặng hoặc không có nước ối.
- Hai dấu hiệu này chứng tỏ thận không có chức năng, chính vì vậy siêu
âm hình thái rất khó khăn, không thể tìm thấy được các bệnh lý bất thường
khác kèm theo.
1.7.2.5. Giảm sản thận
- Thường được phát hiện trong trường hợp giảm sản thận 1 bên vì có thể
so sánh được kích thước hai thận thấy chúng khác nhau.
- Đo kích thước thận thấy nhỏ hơn bình thường từ 2 - 3 độ lệch chuẩn.
- Tỷ lệ chu vi thận/ chu vi bụng < 0,3.
- Bàng quang có thể bình thường, có thể nhỏ hơn bình thường.
- Nước ối có thể bình thường hoặc thiểu ối.


23

1.7.2.6. Thận lạc chỗ
- Thường được nghi ngờ giống như bệnh cảnh của bất sản thận một bên
vì trên siêu âm thấy một hố thận rỗng trong đó bàng quang và nước ối bình
thường, siêu âm không nhìn thấy thận trong hố thận chỉ nhìn thấy tuyến
thượng thận và thận nằm trong tiểu khung phía trên bàng quang hoặc trong hố
chậu hoặc ở bụng dưới thai nhi.

1.7.2.7. Hội chứng vùng nối
- Hình ảnh siêu âm điển hình là trên đường cắt ngang, bể thận hai bên
giãn cân đối bình thường, đo kích thước bể thận theo chiều trước sau không
được vượt quá 4mm ở thai 20 tuần, 5mm ở thai 20-30 tuần và 7mm ở thai sau
30 tuần. Nói chung kích thước trước sau của bể thận trên đường cắt ngang
không được vượt quá 7mm ở bất kỳ tuổi thai nào.
- Kích thước của nhu mô thận bình thường
- Hình ảnh bàng quang và nước ối bình thường
1.7.2.8. Ứ nước bể thận
- Ứ nước bể thận thường xảy ra một bên, hiếm khi ở cả hai bên trừ
trường hợp hội chứng vùng nối tiến triển.
- Dấu hiệu siêu âm là giãn bể thận không cân đối.
- Trên các đường cắt ngang, hay cắt dọc hay cắt trực diện thấy bể thận
giãn to, kèm theo giãn cả các đài thận.
- Kích thước trước sau của các bể thận trên 10mm ở bất kỳ tuổi thai nào.
- Nhu mô thận có thể còn hình ảnh bình thường nếu giãn không nhiều,
hoặc có chỉ còn một lá mỏng, hoặc có thể bị loạn sản.
- Có thể thấy hình ảnh của niệu quản giãn to trong trường hợp tổn
thương ở vùng nối giữa niệu quản và bàng quang.
Lượng nước ối có thể bình thường.


24

Bảng 1.1. Phân loại ứ nước thận theo SFU [38]
Phân độ

Đài thận

ĐKTSBT


Độ I

Sinh lý

<1 cm

Độ II

Bình thường

1 - 1,5 cm

Độ III

Có dấu hiệu giãn

> 1,5 cm

Độ IV

Giãn vừa phải

> 1,5 cm

Độ V

Giãn nặng
Nhu mô thận mỏng


> 1,5 cm

1.7.2.9. Phình to niệu quản
- Là bệnh lý tắc nghẽn tại chỗ nối BQ-NQ, làm cho NQ giãn lớn, thường
ngoằn nghoèo và giãn bể thận.
- Nước ối và bàng quang bình thường.
- Trong dạng bẩm sinh có thể gặp đơn độc hay kết hợp với dị tật thận đôi.
1.7.2.10. Túi sa niệu quản và niệu quản lạc chỗ
-Túi sa niệu quản: Niệu quản cắm vào bàng quang giãn thành nang,
thường kèm với thận đôi.
-SA: Khó chẩn đoán thận đôi nếu không kèm ứ nước, niệu quản giãn và
nang nằm trong bàng quang.
Niệu quản lạc chỗ: Ứ nước cực trên thận, niệu quản giãn cắm thấp dưới
bàng quang, không có nang trong bàng quang
1.8. Chẩn đoán hình ảnh sau sinh
1.8.1. Siêu âm và phân loại thận ứ nước [39]
Siêu âm là phương tiện sàng lọc đầu tiên cho bệnh nhi có dị tật thận –
niệu quản mà không gây sang chấn và dễ thực hiện. Siêu âm không chỉ để
chẩn đoán mà còn được dùng để theo dõi tiến triển của bệnh.


25

Qua hình ảnh siêu âm có thể đánh giá:
+ Độ dày nhu mô thận.
+ Kích thước, hình dáng đài, đo đường kính ngang lớn nhất của đài thận
(C) và bể thận (P) để lập chỉ số C/P.
+ Tình trạng niệu quản phía dưới.
+ Hình ảnh bất thường tại thận hoặc xung quanh thận.
+ Tính chất ứ nước của thận: Trong, hay đục mủ. Đánh giá tình trạng

nhiễm trùng nếu có của thận, từ đó chọn lựa phương pháp điều trị: phẫu thuật
tạo hình, dẫn lưu tạm thời hay cắt bỏ.
+ Hình ảnh thận, niệu quản bên đối diện.
+ Dị tật tiết niệu phối hợp: Luồng trào ngược BQ-NQ, hẹp khúc nối NQBQ, phình to NQ, thận móng ngựa, thận NQ đôi.


Phân loại ứ nước thận trên siêu âm kinh điển [40]:
+ Ứ nước độ I:

BT giãn nhẹ, đài thận không giãn
Phân biệt vỏ và tuỷ thận rõ.
Nhu mô thận còn dầy.

+ Ứ nước độ II:

Độ dầy nhu mô thận hẹp rõ
Bể, đài thận giãn rộng rõ rệt.

+ Ứ nước thận độ III: Nhu mô thận mỏng
Không phân biệt ranh giới vỏ và tuỷ.


Phân loại ứ nước thận theo Lebowitz R và cộng sự [41]:
+ Ứ nước thận nhẹ : Giãn bể thận với đường kính trước- sau BT < 12 mm.
Đài thận không giãn.
+ Ứ nước thận vừa: Giãn BT với đường kính trước sau BT từ 12- 20 mm
Giãn đài thận.
+ Ứ nước thận nặng: Giãn BT với đường kính trước - sau BT > 20 mm
Đài thận giãn to.



×