Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Phương pháp kí hiệu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (47.17 KB, 4 trang )

Phương pháp kí hiệu học:
hiện nay trên thế giới đã có ba cách định nghĩa khác nhau:
(1) Cách định nghĩa mẫu mực và phổ biến nhất về kí hiệu học là định nghĩa dựa
vào đối tượng: Kí hiệu học là khoa học về các kí hiệu và/hoặc về các hệ thống kí
hiệu
(2) Định nghĩa theo kiểu thứ hai là định nghĩa dựa vào phương pháp: Kí hiệu học
là khoa học đem các phương pháp ngôn ngữ học áp vào những đối tượng, không
phải là ngôn ngữ tự nhiên.
(3) Định nghĩa theo kiểu thứ ba là định nghĩa của Lotman Iu. M. Theo Lotman, kí
hiệu học là khoa học về các hệ thống giao tiếp và các kí hiệu được sử dụng trong
quá trình thông tin
Định nghĩa theo cách thứ nhất có thể thấy ở công trình của U. Eco (Một lí thuyết
về kí hiệu học, 1976) và phổ biến trong định nghĩa của các từ điển
en.m.wikipedia.org, Oxford advanced learner’s dictionary 7th edition, Microsoft
student with Encarta Premium 2008 DVD… Dù được chấp nhận rộng rãi nhưng
cách định nghĩa này lại quá chung chung. Định nghĩa thứ hai cho thấy một khuynh
hướng tiếp cận mà người ta gọi là truyền thống Saussure. Quan điểm sau đây của I.
I. Revzin thể hiện rõ nhất điều này: “Đối tượng của kí hiệu học là mọi khách thể có
thể miêu tả bằng các phương tiện ngôn ngữ học” [Dẫn theo 7, tr.97]. Những nhà
nghiên cứu theo khuynh hướng này lấy ngôn ngữ học làm trung tâm, ngôn ngữ là
trục quy chiếu để xem xét các hệ thống kí hiệu khác. Định nghĩa thứ ba của
Lotman gắn chặt với vấn đề giao tiếp và thông tin trong giao tiếp. Nó là hệ thống
tư tưởng đã giúp ông trình bày thuyết phục các vấn đề trong Cấu trúc văn bản nghệ
thuật. Nhìn lại quan điểm này có thể thấy Lotman đã chỉ ra đặc trưng cốt lõi nhất
của kí hiệu và kí hiệu học. Bởi không thể có kí hiệu nào tồn tại ngoài giao tiếp,
ngược lại cũng không thể giao tiếp nếu không có kí hiệu. Hơn nữa, cấu trúc của kí
hiệu, nghĩa của kí hiệu chỉ có thể hình thành và sản sinh trong giao tiếp. Khi áp


dụng các vấn đề của kí hiệu học vào thực tiễn văn học, chúng tôi đi theo cách tiếp
cận này.


Đặc điểm:
Lĩnh vực ký hiệu học dĩ nhiên rất rộng lớn, bắt đầu từ những nghiên cứu về hành vi
giao tiếp của các loài động vật (ký hiệu học động vật-zoosemiotics) tới những phân
tích về các hệ thống ký hiệu biểu tượng như giao tiếp thông qua điệu bộ cơ thể con
người (kinesics và proxemics) các ký hiệu khứu giác (“sự mã hóa” của các mùi
hương), lý thuyết mỹ học, và tu từ học[2]. Hầu hết, các ranh giới của nó (nếu có)
đều có sự giáp giới với những gì thuộc về thuyết cấu trúc: sự hấp dẫn của hai lĩnh
vực này về cơ bản không tách rời nhau và, trong dài hạn, cả hai đều cần phải được
đưa vào một lĩnh vực thứ ba phù hợp hơn, bao hàm nhiều lĩnh vực được gọi đơn
giản là giao tiếp (communication). Với bối cảnh đó, bản thân cấu trúc luận sẽ trở
nên nổi bật như một phương pháp phân tích kết nối các lĩnh vực ngôn ngữ học,
nhân học và ký hiệu học
- Đã từng xảy ra những tranh luận rằng trong các xã hội loài người, ngôn ngữ rõ
ràng đã đóng vai trò điều khiển và về cơ bản nó mang ý nghĩa chủ đạo của giao
tiếp. Nhưng có thể thấy rõ rằng con người còn giao tiếp với nhau bằng các phương
tiện phi ngôn từ khác và với những cách thức có hệ quả hoặc phi ngôn ngữ (mặc
dù thể thức (mode) của ngôn ngữ vẫn đang hình thành và chi phối) hoặc nó phải có
tác động ‘kéo giãn’ (stretching) khái niệm ngôn ngữ của chúng ta cho tới khi nó
bao hàm các lĩnh vực phi ngôn từ. Trên thực tế, ‘kéo giãn’ chính xác là một thành
tựu to lớn của ký hiệu học. ‘Những gì ký hiệu học đã khám phá ra,’ theo Julia
Kristeva, ‘…đó chính là quy tắc chủ đạo (law governing) hoặc, nếu một ai đó
muốn nhấn mạnh hơn, sự cưỡng bức diện rộng (major constraint) ảnh hưởng đến
bất kỳ một hành động xã hội nào nằm trong cái thực tại mà nó biểu đạt; ví dụ khi
nó được phát âm giống như một ngôn ngữ.’[4] Nói cách khác, không có ai chỉ giao
tiếp bằng lời nói. Mọi hành động giao tiếp đều bao hàm trong đó sự chuyển tải
những thông điệp thông qua ‘ngôn ngữ’của điệu bộ, cử chỉ, tư thế, trang phục, kiểu
tóc, hương thơm, giọng nói, bối cảnh xã hội,v.v… từ trên xuống dưới, thậm chí ở
cả những bất đồng với những gì ngôn từ thực sự muốn nói. Và thậm chí khi chúng
ta không nói hoặc bắt buộc phải nói, những thông điệp từ những ‘ngôn ngữ’ khác
cũng len đầy trong chúng ta: tiếng còi ô tô, tiếng thét, ánh đèn flash, những quy tắc

hạn chế, những tuyên bố giữ lại, những mùi hương dễ chịu hoặc khó chịu, những


khẩu vị thích thú hoặc ghê tởm, thậm chí ‘cảm nhận’ của những chủ thể có tính hệ
thống kết nối những thứ có ý nghĩa đối với chúng ta. Vai trò của con người trong
thế giới, như bối cảnh đã được đề cập, là tinh hoa của sự giao tiếp. Anh ta là, như
Greimas đề cập, người gửi và nhận các thông tin: anh ta thu thập và phổ biến thông
tin. Trong từ vựng của Edward Sapir, “mỗi một hình mẫu văn hóa và mỗi hành
động đơn lẻ trong các hành vi xã hội đều có liên quan tới giao tiếp hoặc bằng các
giác quan cụ thể hoặc tiềm ẩn.”[5
- Một trong những người làm sáng tỏ rõ nhất về chủ đề ký hiệu học theo quan điểm
của Saussure chính là Roland Barthes. Trong một bài tiểu luận của ông “Huyền
thoại ngày nay”[9] ông đã đưa ra một trường hợp rằng bất kỳ một phân tích về ký
hiệu học nào đều phải mặc nhiên công nhận mối quan hệ giữa hai thuật ngữ cái
biểu đạt và cái được biểu đạt điều này không phải là một cái gì đó thuộc về ‘tính
ngang bằng’ mà là thuộc về ‘tính tương đương.’ Những gì chúng ta nắm giữ được
trong mối quan hệ này không phải là sự sắp xếp thứ tự liên tiếp bởi một thuật
ngữ dẫn tới các thuật ngữ khác, mà là mối tương quan thống nhất chúng với nhau.
Trong sự chú ý về ngôn ngữ (như tôi đã đặt tên nó ở trên) ‘quan hệ cấu trúc’ giữa
hình ảnh-âm thanh*(cái biểu đạt) và khái niệm (cái được biểu đạt) đã tạo nên
những gì mà Saussure gọi là ký hiệu ngôn ngữ. Trong mối quan tâm về một hệ
thống phi ngôn ngữ, Barthes cho rằng, ‘tổng thể liên kết’(associative total) này của
cái biểu đạt và cái được biểu đạt đơn giản sẽ cấu thành ký hiệu.
Ví dụ của ông chính là một bó hoa hồng. Nó có thể được sử dụng để biểu đạt sự
đam mê. Khi nó mang ý nghĩa như vậy, bó hoa hồng chính là cái biểu đạt, sự đam
mê là cái được biểu đạt. Mối quan hệ giữa hai ‘tổng hòa liên kết’ này sẽ tạo ra
thuật ngữthứ ba, bó hoa hồng là một ký hiệu. Và, là một ký hiệu, điều rất quan
trọng để hiểu rằng bó hoa hồng là một thứ tương đối khác so với bó hoa hồng khi
là một cái biểu đạt: đó chỉ là, một sản phẩm của vườn tược. Khi là một cái biểu đạt,
bó hoa hồng rỗng không, khi là một ký hiệu bó hoa hồng chứa đầy hàm ý. Cái đã

làm đầy nó (với ý nghĩa) là một sự kết hợp giữa ý định của tôi với bản chất của các
phương thức quy ước của xã hội và các kênh truyền tải đã đem đến cho tôi một loạt
các phương tiện để đạt được mục đích. Loạt phương tiện này rất rộng lớn, nhưng
đã được quy ước hóa và vì vậy rất hạn chế, và nó đã mang đến một hệ thống phức
tạp về cách thức biểu đạt:
…đưa ra một viên đá cuội màu đen: tôi có thể dùng nó để biểu đạt theo một vài
cách, nó chỉ là một cái biểu đạt; tuy nhiên nếu tôi cầm nó với một điều được biểu
đạt đã được xác định (một án tử hình, ví dụ, trong một lá phiếu vô danh), nó sẽ trở
thành một ký hiệu. (Mythologies, tr.113).


Tuy nhiên, quá trình biểu đạt không kết thúc ở đó, Barthes tiếp tục cân nhắc cách
thức mà ở đó ‘huyền thoại’ biểu đạt trong xã hội (và thông qua ‘huyền thoại’ ông
muốn nói, giống như những gì chúng ta nhìn thấy ở trên, thần thoại ‘cổ điển’ không
giống như hệ thống phức tạp của các hình ảnh và tín ngưỡng mà một xã hội xây
dựng nên để chống đỡ và xác nhận ý nghĩa tự thân của nó: ví dụ như kết cấu của ‘ý
nghĩa’ trong hệ thống của nó).
Trong trường hợp của huyền thoại, ông cho rằng, chúng ta sẽ tìm lại quá trình biểu
đạt gồm ba phần đã được mô tả ở trên: cái biểu đạt, cái được biểu đạt, và sản phẩm
của chúng, ký hiệu. Tuy nhiên, huyền thoại vẫn có những nét riêng biệt mà ở đó nó
luôn có chức năng giống như một hệ thống ký hiệu thứ hai được xây dựng trên nền
tảng của một loạt ký hiệu đã tồn tại trước nó. Do đó nó đóng vai trò của một ký
hiệu (ví dụ ‘tổng thể liên kết’ của cái biểu đạt và cái được biểu đạt) trong hệ thống
đầu tiên sẽ trở thành một cái biểu đạt trong hệ thống thứ hai. Vì vậy, ở đâu ngôn
ngữ cung cấp một phương thức cho những gì mà chúng ta gọi là ý nghĩa tiền
đề (như trong trường hợp về bó hoa hồng), hình mẫu (hoặc tính thần thoại) cho ý
nghĩa thứ hai sẽ phức tạp hơn:
Mọi thứ xảy ra như thể huyền thoại đã chuyển đổi hệ thống chính thức của ý nghĩa
đầu tiên qua một bên. Khi sự chuyển đổi này là thiết yếu cho việc phân tích về
huyền thoại, tôi sẽ trình bày nó theo cách dưới đây, nó sẽ được hiểu, đương nhiên,

việc mô hình hóa ở đây chỉ là một phép ẩn dụ:
_ưu , nhược điểm theo t là trong sách hết c à



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×