Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng trầm cảm ở bệnh nhân sử dụng các chất dạng amphetamin điều trị nội trú tại viện sức khỏe tâm thần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.77 KB, 96 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Các chất dạng amphetamin (ATS) là nhóm ma túy kích thần, gây hưng
phấn, giúp cải thiện sự tập trung, giảm thèm ăn, giảm nhu cầu ngủ, và là chất
có thể gây ra ảo giác, hoang tưởng và các triệu chứng loạn thần khác ở người
sử dụng. Có nhiều đường sử dụng ATS như sử dụng qua đường hít, hút, uống
hoặc tiêm, ngoài ra có thể được sử dụng qua đường hậu môn, âm đạo [1].
Việc sử dụng ATS thường xuyên, kéo dài gây ra tình trạng lệ thuộc và
những hậu quả nặng nề về cơ thể, tâm thần cho người sử dụng. Đặc biệt là các
rối loạn tâm thần và hành vi (như lạm dụng chất, hội chứng nghiện, trạng thái
cai, rối loạn loạn thần, rối loạn cảm xúc), làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sức khỏe người sử dụng, ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội [2].
Một trong các rối loạn tâm thần do sử dụng ATS hay gặp là rối loạn
trầm cảm. Đây là rối loạn thường được phát hiện muộn và thường bị che lấp
bởi các rối loạn tâm thần khác. Nghiên cứu của Hando và Hall (1997) tại New
South Wales thấy có lo âu 63%, trầm cảm 64%, ý tưởng tự sát 19% ở người
sử dụng ATS [3]. Zweben (2004) tại Mỹ, mức độ cao của triệu chứng tâm
thần đặc biệt là trầm cảm (34% nữ và 24% nam) và tự tử (28% nữ và 13%
nam) [4]. Nghiên cứu của McKetin và cộng sự (2011) tại Úc thấy những
người sử dụng methamphetamin vào viện có 44% là trầm cảm do chất [5].
Trầm cảm ở những người sử dụng ATS không những ảnh hưởng đến
sức khỏe mà nó cũng là một trong những nguyên nhân làm tăng nguy cơ tái
sử dụng chất của người nghiện. Trong trường hợp trầm cảm nặng do sử dụng
ATS, người bệnh có thể có hành vi tự sát gây hại cho bản thân, gia đình và
cộng đồng. Do đó việc nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và phương pháp điều trị
rối loạn trầm cảm do sử dụng ATS có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác
chẩn đoán, điều trị cũng như nâng cao sức khỏe người bệnh. Ở Việt Nam chưa


2



có nghiên cứu nào về đặc điểm lâm sàng trầm cảm ở bệnh nhân sử dụng ATS.
Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng
trầm cảm ở bệnh nhân sử dụng các chất dạng amphetamin điều trị nội trú
tại Viện Sức khỏe Tâm thần” với mục tiêu:
Mô tả đặc điểm lâm sàng trầm cảm ở bệnh nhân sử dụng các chất
dạng amphetamin điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần .

CHƯƠNG 1


3

TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về ATS
1.1.1. Lịch sử phát triển và sử dụng amphetamin, ATS
Amphetamin được tổng hợp vào năm 1887 bởi nhà hoá học người Đức
để sử dụng thay cho ephedrin. Methamphetamin được nhà hoá học người Nhật
Bản tổng hợp lần đầu tiên vào năm 1917. Ephedrin và chất giống ephedrin
“pseudo-ephedrin” là thành phần chủ yếu trong methamphetamin. Năm 1932,
amphetamin được sử dụng dưới dạng dexamphetamin và methylphenidat để
điều trị bệnh xung huyết mũi và hen phế quản. Đến năm 1937, amphetamin
được sử dụng điều trị chứng ngủ rũ, parkinson sau viêm não, trầm cảm…
Thực tế ATS ngày càng bị lạm dụng và trở thành chất ma tuý thực sự,
được sử dụng phổ biến ở các nước công nghiệp và các nước đang phát triển.
Nghiện ATS thấy ở mọi tầng lớp xã hội, phổ biến hơn ở nhóm "nghề nghiệp
áo trắng": sinh viên học thi, lái xe tải đường dài, vận động viên thể thao trong
thi đấu, các doanh nghiệp trước các công việc quan trọng...
Ở Mỹ, việc sử dụng crystal methamphetamin (hay “đá”) khoảng một
thập kỷ trước đây có một mức độ tương đối thấp (0,5%) và tăng đều với tỷ lệ

gần đây (2013) là 1,5% trong số các học sinh lớp 12. Sự phổ biến của MDMA
đã tăng lên trong thập kỷ qua và tỷ lệ hiện tại (2013) của MDMA tại Hoa Kỳ
khoảng 5% học sinh lớp 10 và 8% học sinh lớp 12, mặc dù nhận thức về tác
hại của chất này đã tăng lên trong thập kỷ vừa qua tới gần 50% học sinh lớp
12 sử dụng [6].
Trong năm 1994 – 1995, ở Thụy Sĩ số người nghiện amphetamin là
8%; ở Đức là 2,8%; ở Tiệp Khắc là 1,6%; Australia 25% nam, 12% nữ tuổi từ
20 – 24 đã thử dùng amphetamin [2].
Trong khoảng thời gian từ đầu đến giữa những năm 90 của thế kỷ trước,


4

xu hướng sử dụng ma túy ở Việt Nam bắt đầu tăng lên và quy mô bắt đầu thay
đổi. Trước giai đoạn này, tỷ lệ sử dụng ma túy còn thấp và chủ yếu là hút thuốc
phiện, cần sa và lạm dụng một số loại dược phẩm trong nước. Năm 1994, thuốc
phiện là loại ma túy được sử dụng nhiều nhất chiếm 86%, nhưng đến năm 2000,
80% là người dùng heroin. Thay đổi trong quy mô cũng diễn ra trong giai đoạn
này, trong đó tuổi trung bình của người sử dụng giảm xuống và nữ giới sử dụng
ma túy tăng lên nhanh chóng chuyển từ hút sang tiêm chích [7].
Theo xu hướng trong khu vực, methamphetamin dạng viên là dạng được
sử dụng phổ biến nhất ở Việt Nam từ năm 2003 đến 2006. Methamphetamin
dạng tinh thể (đá) xuất hiện trên thị trường nội địa vào năm 2007. ATS tăng cả về
sự sẵn có và mức độsử dụng, trở thành loại ma túy trái phép được sử dụng nhiều
thứ ba sau heroin và thuốc phiện [7].
1.1.2. Một số khái niệm
1.1.2.1 Chất tác động tâm thần
Các chất tác động lên tâm thần đã được sử dụng ở một số cộng đồng và
một số nhóm tôn giáo. Đối với nhiều người sử dụng amphetamin là sở thích
hay được xem như là truyền thống văn hóa.

Các chất tác động lên tâm thần gồm rất nhiều loại. Trong tâm thần học,
chúng ta quan tâm nhiều tới các chất có khả năng gây lạm dụng và gây nghiện.
Phân loại các chất tác động lên tâm thần cũng rất đa dạng, phân loại có ích nhất
về lâm sàng hay được đề cập là phân loại theo dược lý học. Theo dược lý học,
chia các chấttác động lên tâm thần thành các nhóm: các chất ức chế, các chất
hưng phấn hệ thần kinh trung ương và các chất gây ảo giác [8],[9].
1.1.2.2. Chất ma túy
Chất ma túy (CMT) là chất gây nghiện, đó là chất tự nhiên (như thuốc
phiện, lá coca, hoa lá rễ cây cần sa), hoặc những chất bán tổng hợp như heroin
hay chất tổng hợp như ATS (amphetamin và các chế phẩm cùng loại), LSD 25...
Những chất này tác động đặc biệt vào hệ thần kinh trung ương và nếu sử dụng


5

lặp lại nhiều lần sẽ gây ra trạng thái lệ thuộc vào chất đã sử dụng. Các chất
này đều gây ra nhiều biến đổi tâm lý và cơ thể khác nhau, như trạng thái bàng
quan thờ ơ, đặc biệt trạng thái khoái cảm (rất dễ chịu, khó quên, khó từ bỏ)
[8],[9].
1.1.2.3. Lạm dụng chất
Lạm dụng chất nhấn mạnh trên các hậu quả xã hội và giữa các cá nhân
như thất bại trong các nhiệm vụ, vai trò. Lạm dụng chất ma túy là việc sử
dụng phá vỡ các chuẩn mực xã hội đang thịnh hành. Các chuẩn mực này thay
đổi với từng nền văn hóa, giới tính và thế hệ.
Theo DSM- IV, một trường hợp được gọi là lạm dụng chất ma túy khi
trong vòng một năm qua thường có một trong các biểu hiện sau và không đáp
ứng đầy đủ các tiêu chuẩn của nghiện ma túy [10].
+ Sử dụng tái diễn dẫn đến lơ là không hoàn thành trách nhiệm trong
công tác, học tập, công việc gia đình như: nghỉ làm việc, làm việc kém hiệu
quả, thường xuyên nghỉ học, bị đuổi học liên quan đến việc sử dụng chất ma

túy, bỏ bê việc chăm sóc con cái ...
+ Thường sử dụng chất ma túy nhiều trong những tình huống có thể
gây nguy hiểm cho bản thân như sử dụng chất ma túy trong các hoạt động lái
xe, điều khiển máy ....
+ Thường có những vấn đề liên quan đến luật pháp, đến việc sử dụng
chất ma túy như bị bắt do hành vi bị rối loạn sau khi sử dụng chất ma túy.
+ Sử dụng chất ma túy thường xuyên nhiều lần gây ra hậu quả xấu
trong quan hệ với mọi người xung quanh như: vợ chồng cãi nhau, đánh nhau,
suy sụp kinh tế.
1.1.2.4. Trạng thái dung nạp
Do phản ứng thích nghi của cơ thể, tác dụng của chất ma túy sẽ giảm


6

bớt nếu dùng lặp lại. Muốn đạt được tác dụng của những lần trước phải tăng
liều và cứ thế, cơ thể dần dần dung nạp được một liều chất ma túy rất cao.
Liều này nếu dùng cho một người không nghiện thì không thể dung nạp được
và có thể gây tử vong [1].
1.1.2.5. Trạng thái lệ thuộc về cơ thể và tâm thần
- Trạng thái lệ thuộc về cơ thể: là sự đòi hỏi của cơ thể liên quan tới
việc đưa vào đều đặn một chất hóa học ngoại sinh cần thiết để duy trì sự cân
bằng của cơ thể. Sự phụ thuộc này được biểu hiện bằng hội chứng cai hay hội
chứng thiếu thuốc khi ngừng sử dụng hoặc giảm liều đáng kể.
- Trạng thái lệ thuộc về tâm thần: được đặc trưng bởi một xung động sử
dụng chất ma túy theo các chu kỳ hoặc liên tục với mục đích tìm kiếm khoái
cảm hoặc làm giảm căng thẳng.
1.1.3. Khái niệm và phân loại về amphetamin và ATS
Amphetamin là chất tổng hợp, được coi là chất giống giao cảm, chất
gây kích thích, chất hưng thần. Các chế phẩm của amphetamin chính hiện có

phổ biến là [11]:
 Dextroamphetamin (Dextrin)
 Methamphetamin
 Methylphenidat (Ritalin)
Chế phẩm cần lưu ý là ice – một dạng tinh chất của methamphetamin
mà người nghiện có thể dùng bằng đường uống, hút, hít hoặc tiêm tĩnh mạch.
Hiệu quả tâm thần của ice được mô tả là rất nhanh, mạnh và kéo dài vài giờ.
Người ta cho rằng ice sẽ là ma túy được dùng phổ biến hơn cả trong vòng 5 –
10 năm tới đây.
ATS là những chất được tổng hợp có cấu trúc hóa học gần giống với
amphetamin. Tác dụng của chất này bao gồm cả tác động trên hệ
dopaminergicnhư amphetamin đồng thời chúng còn tác động trên cả hệ
serotoninergic và gây ra các ảo giác. Các chất này bao gồm:
 4 - Methylendioxy Methamphetamin (MDMA): còn gọi là Adam,


7

hay chất gây cảm giác say đắm (Estasy).
 N – ethyl – 3 – 4 methylendioxyamphetamin(NDEA) còn gọi là Eva.
 5– Methoxy – 3 – 4 methylen dioxy amphetamin (MMDA)
 5 - Dimethoxy – 4 methylamphetamin (DOM)

Công thức hóa học amphetamin và ATS [11],[12]:

Amphetamin: C9H13N

Methamphetamin: C10H15N

Ectasy (MDMA): C11H15NO2

1.1.4. Dược động học
ATS thường được sử dụng qua đường hít, hút, uống hoặc tiêm (có tác
dụng tức thì), ngoài ra có thể được sử dụng qua đường đặt hậu môn, âm đạo.
ATS tan trong mỡ, hấp thu nhanh qua ống tiêu hóa vào máu rồi phân bố
khắp cơ thể, qua hàng rào máu não và có tác dụng một giờ sau khi uống. Chất
được tích lũy trong mô mỡ, tập trung nhiều ở não, qua màng rau thai dễ dàng.
ATS được chuyển hóa chủ yếu ở gan, nhưng phần lớn thuốc được dùng
qua đường uống thì được đào thải nguyên chất qua nước tiểu, bằng phương
pháp miễn dịch huỳnh quang, xác định được ATS trong nước tiểu.
Thời gian bán hủy được rút ngắn đáng kể khi nước tiểu có tính axit
và phụ thuộc vào dạng thuốc, liều lượng, đường dùng và cách dùng. Thời
gian bán hủy của ATS là 8 - 10 giờ [13],[14].
1.1.5. Dược lực học
ATS gây ra cảm giác hưng phấn, giúp cải thiện sự tập trung, giảm thèm


8

ăn và giảm nhu cầu ngủ. Chất này có thể gây ra ảo tưởng, ảo giác, hoang
tưởng và các triệu chứng loạn thần khác rất khó phân biệt với các triệu chứng
dương tính của tâm thần phân liệt [2].
ATS giúp tự tin và dễ hòa đồng, giúp tăng cường khả năng tình dục,
những người sử dụng chất này cho biết có tăng tần xuất hoạt động tình dục và
thích quan hệ tình dục với nhiều bạn tình hơn những người sử dụng heroin.
Phần lớn những người sử dụng ATS điều trị cho biết nhu cầu ngày càng
tăng lên để đạt được hiệu quả điều trị như trước. Sự dung nạp ATS tăng có thể
gây nên các ảnh hưởng về tim mạch.
Thử nghiệm trên động vật cho thấy: sử dụng amphetamin hoặc các ATS
kéo dài cũng gây nhu cầu tăng liều để đạt được hiệu quả như giai đoạn đầu.
Giả thuyết cho sự tăng dung nạp của thuốc là do sự kích thích các thụ thể

khác nhau trong hệ thần kinh trung ương. Trong các nghiên cứu, lúc đầu dùng
với liều thấp và sau vẫn dùng với liều thấp thì phải nhắc lại nhiều lần mới đạt
tác dụng mong muốn [11].
1.1.6. Tác dụng dược lý
1.1.6.1. Cơ chế tác dụng
Amphetamin làm tăng hoạt tính của hệ catecholamin (noradrenalin và
dopamin) ở các mạt đoạn thần kinh trước synap. Tác dụng này đặc biệt mạnh
ở các neuron hệ dopaminergic từ vùng mái bụng phóng chiếu đến hệ viền, vỏ
não. Sự hoạt hóa con đường dẫn truyền này được coi là cơ chế chủ yếu gây
nghiện amphetamin [2].
ATS làm tăng cả hoạt tính catecholamin và serotonin. Serotonin được
coi là chất dẫn truyền thần kinh đóng vai trò chủ yếu gây ra ảo giác, gây ra
cảm giác phiêu diêu, huyền ảo, say đắm.
Các cơ chế tác động:


9

 Tăng giải phóng các monoamin vào khe synap.
 Ức chế tái hấp thu các monoamin.
 Ức chế phá hủy monoamin bởi MAO.

1.1.6.2. Biểu hiện lâm sàng
Một người chưa từng dùng amphetamin bao giờ thì chỉ cần liều 5mg
cũng có thể gây ra cảm giác “phê”, khoái cảm, tăng khí sắc, thân thiện với
mọi người. Liều nhỏ hơn thường có tác dụng làm tăng cường sự chú ý, tăng
cường hiệu suất công việc (trong nói, viết và một số nhiệm vụ khác). Thuốc
còn có thể làm giảm mệt mỏi, gây chán ăn, làm tăng ngưỡng kích thích đau,
tăng hoạt động tình dục, tăng năng lượng…
ATS còn có tác dụng làm cho người nghiện xuất hiện các ảo giác,

có thể gây rối loạn định hướng và các lệch lạc, méo mó về tri giác, cảm giác
say đắm, thấy những ánh hào quang rực rỡ… Do vậy còn được gọi là các chất
gây ảo giác và các chất ma túy thực sự.
1.1.6.3. Các tác dụng phụ:
- Với các amphetamin cổ điển:
+ Về mặt cơ thể: tác dụng phụ nghiêm trọng nhất là các tác động trên
mạch não, tim mạch và đường ruột. Các tác động đặc biệt đe dọa tính mạng là
nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp kịch phát, chảy máu não và viêm ruột hoại tử do
thiếu máu. Các triệu chứng thần kinh bao gồm từ co quắp chân tay… đến co giật
toàn thân, hôn mê, tử vong (thường là do việc tăng liều amphetamin quá cao).
Tiêm chích amphetamin có thể liên quan đến lây truyền HIV và viêm
gan virus. Đây còn là cơ địa phát sinh ápxe phổi, viêm nội tâm mạc, viêm
mạch hoại tử… Các tác dụng khác bao gồm: đỏ mặt, tái nhợt, sốt, đau đầu,


10

tim đập nhanh, đánh trống ngực, buồn nôn, nôn, nghiến răng, thở nhanh, run,
thất điều. Phụ nữ có thai nghiện amphetamin có thể dẫn đến trẻ thiếu cân, đầu
thai nhi nhỏ, đẻ non, chậm phát triển.
+ Về mặt tâm thần: bồn chồn, bất an, loạn cảm, mất ngủ, tăng kích
thích, hằn học, thù địch, lú lẫn.
Với liều cao kéo dài: các triệu chứng của rối loạn lo âu lan toả, rối loạn
hoảng sợ, rối loạn giấc ngủ, giảm tình dục. Có thể xuất hiện hội chứng
paranoid với các ý tưởng liên hệ, hoang tưởng bị theo dõi, ảo giác (thị giác,
thính giác…) cũng thường xuất hiện trên lâm sàng.
- Với ATS:
Ngoài các tác dụng phụ giống hệt amphetamin, còn có các tác dụng phụ
khác như cứng hàm, nghiến răng, khô miệng, tăng sự cảnh tỉnh, thấy các đồ
vật có ánh hào quang rực rỡ, toát mồ hôi, mất ngủ, chóng mặt, tăng cảm giác

lạnh, những cơn bốc nóng… Muộn hơn là các triệu chứng ngủ gà ngủ gật, đau
cơ, mệt mỏi, trầm cảm, đau đầu, khô miệng, lo âu, sợ hãi…
- Các triệu chứng loạn thần do amphetamin và ATS cần lưu ý để chẩn
đoán phân biệt với tâm thần phân liệt thể paranoid…
1.2. Các rối loạn tâm thần do sử dụngATS
Trong thực hành lâm sàng, chúng ta thường gặp các rối loạn về tâm
thần do sử dụng ATS như sau [10]:
- Nhiễm độc cấp
- Lạm dụng chất
- Hội chứng nghiện
- Hội chứng cai


11

- Rối loạn loạn thần
- Rối loạn cảm xúc
- Rối loạn chức năng tình dục
- Rối loạn giấc ngủ

1.2.1. Nhiễm độc cấp
Nhiễm độc ATS có thể xảy ra bằng một liều đơn độc ở người không
dung nạp nhưng thường thấy hơn ở những người lạm dụng hoặc lệ thuộc. Các
triệu chứng nhiễm độc ATS hầu như thoái triển sau 24 giờ và thoái triển hoàn
toàn sau 48 giờ.
Chẩn đoán nhiễm độc ATS theo DSM IV [10]:
 Các triệu chứng này xuất hiện trong khi sử dụng hay một thời gian

ngắn sau khi sử dụng ATS.
 Có 2 hoặc nhiều các triệu chứng sau:



Tăng hay giảm nhịp tim



Kích động hay ức chế tâm thần vận động.



Giãn đồng tử.



Mệt mỏi, đau ngực, ức chế hô hấp.



Tăng hoặc giảm huyết áp.



Lú lẫn hay hôn mê.



Toát mồ hôi hay rét run.




Co giật, loạn trương lực cơ.



Sút cân


12



Buồn nôn hay nôn.

 Các triệu chứng này không phải là do một bệnh cơ thể nào khác gây

ra và không ghép được vào một rối loạn tâm thần nào khác.
1.2.2. Lạm dụng chất
Tiêu chuẩn chẩn đoán lạm dụng ATS là tiêu chuẩn đoán lạm dụng chất
nói chung của ICD-10 và DSM-IV [15],[10]:
A. Có bằng chứng rõ ràng về việc sử dụng chất gây ra (hoặc đóng góp
phần nào vào) các tổn hại về tâm thần và cơ thể, bao gồm: rối loạn sự xét
đoán hoặc rối loạn hành vi chức năng, có thể dẫn tới sự mất khả năng hoặc
hậu quả có hại với mối quan hệ giữa các cá nhân.
B. Bản chất tồn tại được xác định rõ ràng.
C. Phương thức sử dụng kéo dài trong vòng ít nhất hoặc lặp đi lặp lại
trong khoảng thời gian 12 tháng.
D. Rối loạn này không đáp ứng các tiêu chuẩn đối với bất kỳ rối loạn
hành vi hoặc rối loạn tâm thần khác liên quan tới loại ma túy và thời gian sử
dụng loại ma túy đó (ngoại trừ nhiễm độc cấp).
1.2.3. Hội chứng nghiện ATS

Là tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện ma túy chung theo tiêu chuẩn chẩn
đoán của ICD-10 và DMS-IV. Song đối với ATS người nghiện không có sự lệ
thuộc nghiêm trọng về mặt cơ thể, cho nên có thể có những giai đoạn vài ngày
hay vài tuần gián đoạn không cần sử dụng.
Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng nghiện ATS theo ICD-10 [16],[15]:
1. Thèm muốn mạnh mẽ hoặc cảm thấy buộc phải sử dụng ATS.
2. Khó khăn trong việc kiểm tra tập tính sử dụng ATS (về thời gian,


13

mức độ, cách sử dụng).
3. Có hội chứng cai khi ngừng uống hay giảm sử dụng ATS.
4. Có bằng chứng về hiện tượng dung nạp chất ma túy đang sử dụng
5. Xao nhãng các thú vui, thích thú trước đây để dành thời gian tìm
kiếm hay sử dụng cũng như hồi phục sau tác động của ATS.
6. Tiếp tục sử dụng mặc dù có các bằng chứng rõ ràng về hậu quả tai
hại do sử dụng ATS.
Chẩn đoán nghiện khi có ít nhất 3 trong 6 tiêu chuẩn nghiện chất đã mô
tả trên xảy ra cùng nhau trong vòng ít nhất 1 tháng. Nếu 3 tiêu chuẩn đó tồn
tại ít hơn 1 tháng thì cần lặp đi lặp lại cùng nhau trong thời gian 12 tháng.
1.2.4. Hội chứng cai ATS


Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng cai theo ICD- 10 nghiên cứu [15]

A. Các tiêu chuẩn chung đối với trạng thái cai phải được đáp ứng:


Phải có bằng chứng rõ ràng về việc mới ngừng hoặc giảm sử dụng ATS, sau


khi đã sử dụng chất đó lặp đi lặp lại, thường với liều cao và thời gian kéo dài.
• Các triệu chứng và dấu hiệu tương ứng với các đặc điểm đã biết của trạng thái
cai ATS.
• Các triệu chứng và dấu hiệu không thể quy cho một bệnh nội khoa không liên
quan đến việc sử dụng ATS, và không thể quy cho một rối loạn tâm thần hoặc
một rối loạn hành vi khác.
B. Có rối loạn khí sắc (buồn hoặc mất khoái cảm).
C. Hai trong số các dấu hiệu sau phải có mặt:





Mệt mỏi.
Chậm chạp hoặc kích động tâm thần vận động.
Cảm giác thèm khát đối với một thuốc kích thích.
Tăng khẩu vị.


14

• Mất ngủ hoặc ngủ nhiều.
• Có các giấc mơ khó chịu hoặc kỳ quặc.
 Tiêu chuẩn chẩn đoán theo DSM- IV [10]:

A. Hội chứng xảy ra do ngừng hay giảm sử dụng ATSở người nghiện (đã
dùng liều cao và kéo dài...).
B. Có rối loạn khí sắc và có 2 hoặc nhiều hơn các rối loạn sau đây (xuất
hiện sau khi ngừng sử dụng ATS một vài giờ hay một vài ngày).







Mệt mỏi
Có những giấc mơ đáng sợ.
Mất ngủ hay ngủ nhiều.
Tăng cảm giác ngon miệng.
Kích thích hoặc ức chế tâm thần vận động.

C. Các triệu chứng này thể hiện rõ rệt và gây rối loạn các hoạt động xã
hội, lao động.
D. Các triệu chứng này không phải do một bệnh lý cơ thể hay rối loạn
thần khác gây ra.
1.2.5. Rối loạn loạn thần
Nhiều ảo thị (sinh động, nhiều màu sắc, cấp diễn) và ảo thanh.
Ảo thanh gồm có loại ảo thanh như nghe tiếng chuông, tiếng còi, tiếng
máy nổ, tiếng súng... và ảo thanh điển hình: nghe tiếng nói, tiếng chuyện trò,
tiếng nói có thể to hay nhỏ hoặc bình thường. Nội dung của ảo thanh có thể là
chế nhạo, cảnh cáo, đe doạ, báo trước một điềm chẳng lành hay là phê bình,
chửi rủa.... Ảo thanh có thể xảy ra liên tục hoặc từng lúc. Ảo thanh ảnh hưởng
đến cảm xúc làm người bệnh lo lắng, buồn rầu, giận dữ, vui vẻ phấn khởi....
Tuỳ nội dung ảo thanh mà người bệnh có thể phản ứng bằng cách bịt tai,
khóc, cười, có hành vi chạy trốn, tự sát hay tấn công người khác [15].
Ảo thị cũng thường gặp và thường kết hợp với ảo thanh. Nội dung ảo


15


thị rất đa dạng như thấy một ngọn lửa, thấy đom đóm, thấy khói, sương mù,
thấy hình ảnh cảnh vật mờ mờ hay rõ rệt. Ảo thị có thể sinh động, một đám
đông, một bầy sâu bọ, một đàn thú dữ.
Các hoang tưởng thường gặp là: hoang tưởng liên hệ, bị truy hại, đôi
khi có cả hoang tưởng bị kiểm tra.
Các hoang tưởng, ảo giác sinh động làm bệnh nhân tăng hoạt động
hoặc rối loạn hành vi theo ảo giác, hoang tưởng chi phối.
Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn loạn thần [2]:


Khởi phát của các triệu chứng loạn thần xảy ra trong khi sử dụng
hoặc trong vòng 2 tuần cósử dụng chất.



Các triệu chứng phải tồn tại hơn 48 giờ.



Các triệu chứng này kéo dài không quá 6 tháng.

1.2.6. Rối loạn cảm xúc
Khởi đầu của rối loạn cảm xúc có thể xảy ra trong quá trình nhiễm độc
hoặc hội chứng cai. Nói chung, nhiễm độc đi kèm với tính chất cảm xúc thất
thường, trong khi hội chứng cai thường gây ra trầm cảm. Các triệu chứng cảm
xúc thất thường hoặc hưng phấn nhẹ thường thấy trong dùng ATS. Trong
những tình huống này nên xem xét đến chẩn đoán rối loạn cảm xúc do ATS.
Tuy nhiên, thường thì khó phân biệt rối loạn cảm xúc do các chất này với rối
loạn cảm xúc nguyên phát đặc biệt ở những bệnh nhân có tiền sử trầm cảm

trước khi sử dụng ATS. Việc sử dụng chất này có thể làm trầm trọng hơn
những rối loại trầm cảm nguyên phát [2],[17].
Khởi đầu của rối loạn lo âu do ATS có thể xảy ra trong nhiễm độc hoặc
sau cai. Giống như cocain, có thể gây ra các triệu chứng giống như thấy trong


16

rối loạn ám ảnh nghi thức với các hành vi nhắc lại, rập khuôn. Tuy nhiên,
những triệu chứng này không kéo dài sau giai đoạn ngộ độc. ATS cũng có thể
gây ra các cơn hoảng sợ ở những cá nhân chưa có tiền sử hoảng sợ [18].
1.3. Đặc điểm rối loạn trầm cảm ở bênh nhân sử dụng ATS
1.3.1. Khái niệm trầm cảm
Trầm cảm là một trạng thái bệnh lý cảm xúc, biểu hiện quá trình ức chế
toàn bộ hoạt động tâm thần, được biểu hiện bằng hội chứng trầm cảm gồm có:
cảm xúc bị ức chế, tư duy bị ức chế và hoạt động bị ức chế [19],[20].
 Cảm xúc bị ức chế: khí sắc hạ thấp, buồn rầu, ủ rũ, mất thích thú cũ,nhìn xung

quanh thấy ảm đạm, bi quan về tương lai. Bệnh nhân cảm thấy nỗi buồn nhiều
sắc thái. Nỗi buồn có thể kèm theo hiện tượng mất cảm giác tâm thần. Đôi khi
kèm theo các hiện tượng giải thể nhân cách, tri giác sai thực tại.
 Tư duy bị ức chế: suy ngẫm chậm chạp, liên tưởng khó khăn. Tự cho mình

hèn kém, mất tin tưởng bản thân. Trường hợp nặng có hoang tưởng bị tội hay
tự buộc tội, dễ đưa đến ý tưởng và hành vi tự sát.
 Hoạt động bị ức chế: bệnh nhân ít hoạt động, ít nói, ăn uống kém, thường nằm

hay ngồi lâu trong một tư thế, mặt mày đau khổ, trầm ngâm suy nghĩ. Trường
hợp nặng có thể có hiện tượng bất động. Bệnh nhân có thể có cơn xung động
trầm cảm (kích động, la hét, lăn lộn…).

1.3.2. Bệnh nguyên, bệnh sinh
1.3.2.1. Bệnh nguyên, bệnh sinh của trầm cảm nói chung
Hiện nay, bệnh nguyên và bệnh sinh của rối loạn cảm xúc nói chung và
trầm cảm nói riêng vẫn còn chưa được sáng tỏ. Chưa có giả thuyết nào có thể
giải thích đầy đủ và thỏa đáng bệnh sinh rối loạn cảm xúc [16],[19].
 Giả thuyết về yếu tố di truyền


17

Các nghiên cứu gia đình cho thấy 50% số bệnh nhân rối lọan cảm xúc
có ít nhất một người cha hoặc mẹ bị rối loạn cảm xúc và thường là trầm cảm.
Nếu cả hai bố mẹ cùng mắc bệnh thì 50-70% con có thể bị rối loạn cảm xúc
[19].
Nghiên cứu sinh đôi cũng cho thấy rối loạn trầm cảm ở người sinh đôi
cùng trứng (75%). Nhiều tác giả cho rằng có nhiều gen tham gia trong cơ chế
bệnh sinh của rối loạn cảm xúc [21].
 Giả thuyết về các chất dẫn truyền thần kinh

Đây cũng là thuyết được nhiều tác giả đề cập đến. Có rất nhiều các
nghiên cứu mới đây cho thấy cơ chế bệnh sinh của rối loạn cảm xúc có liên
quan tới hệ thống chất dẫn truyền thần kinh trong hệ thần kinh trung ương.
Các chất này bao gồm các chất hệ serotonin và cathecholamin (noradrenalin,
adrenalin, dopamin). Việc tăng hay giảm các amine sinh học có thể gây ra sự
thay đổi về hành vi và cảm xúc. Các trạng thái trầm cảm được nhiều tác giả cho
là có liên quan tới sự suy giảm lượng serotonin tại các synap thần kinh não. Các
thuốc chống trầm cảm được xác định là có hiệu quả nhờ điều chỉnh lại lượng các
amin sinh học tại các thụ thể ở vùng dưới đồi hoặc hệ viền của não [16],[19].
 Giả thuyết về rối loạn thần kinh nội tiết


Một số tác giả đề cập bệnh sinh của rối loạn trầm cảm có liên quan đến
các rối loạn hoạt động nội tiết. Rối loạn trầm cảm hay gặp ở phụ nữ, các giai
đoạn trầm cảm thường xuất hiện liên quan với thời kỳ dậy thì, có thai, sau đẻ,
chu kỳ kinh nguyệt.
Một số tác giả khác đề cập đến sự thay đổi nội tiết do rối loạn trục
“dưới đồi - tuyến yên - thượng thận”. Sự tăng hoạt động ở trục này được nhận


18

thấy ở bệnh nhân trầm cảm tăng cortisol trong máu.
Rối loạn hoạt động của trục “dưới đồi - tuyến yên - tuyến giáp” cũng được
nhận thấy ở bệnh nhân trầm cảm. Khoảng 4% bệnh nhân rối loạn cảm xúc giảm
đáp ứng với TSH, TRH, trong dịch não tủy thấy tăng TRH [19],[21].
 Các yếu tố về tâm lý - văn hóa - xã hội

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rối loạn trầm cảm có liên quan đến sự kiện gây
stress. Những yếu tố gây stress chủ yếu là sự mất mát, những biến cố bất lợi
liên quan đến điều kiện sống và hành vi của cá nhân và gia đình như: sự chia
ly, mất việc, sự xúc phạm nặng nề, bệnh cơ thể mãn tính…
Những người có đặc điểm nhân cách nhất định như lo âu, tránh né, dễ
phụ thuộc, cảm xúc không ổn định, ám ảnh, hay suy diễn… có nguy cơ cao dễ
bị trầm cảm. Tuy nhiên, bất cứ kiểu nhân cách nào cũng có khả năng bị trầm
cảm trong hoàn cảnh khó thích ứng [21].
1.3.2.2. Cơ chế trầm cảm do sử dụng ATS
Cơ chế sinh học thần kinh của trầm cảm do sử dụng ATSđến nay chưa
hoàn toàn sáng tỏ. Nhưng các nghiên cứu gần đây có nói nhiều đến sự tương
tác giữa ATS với hệ Serotoninergic: chỉ ra rằng có tình trạng giảm tương đối
serotonin tại khe synap khi sử dụng ATS kéo dài hoặc khi giảm hay ngừng sử
dụng các chất này [17].

ATS tác động đến hệ thần kinh trung ương và hệ giao cảm. Tác động
cấp của ATS gồm tăng huyết áp, tăng nhịp thở, giãn đồng tử, mất ngủ, giảm
mệt mỏi, cảm thấy tăng tự tin, hài lòng. ATS liên quan đến các chất dẫn
truyền thần kinh dopamin, noradrenalin và serotonin. ATS giải phóng các chất
dẫn truyền từ tiền synap, ức chế tái hấp thu chất dẫn truyền thần và ở liều cao
ức chế chuyển hóa các chất dẫn truyền bởi men MAO. Sử dụng ATS thường


19

xuyên liên quan đến giảm các nguồn dự trữ các chất dẫn truyền thần kinh tiền
synap, giảm sự điều hòa của các chất mang chất dẫn truyền thần kinh và các
receptor, giảm chuyển hóa dopamin và serotonin, gây ra sự hủy hoại và chết
các tế bào thần kinh. Dùng chất lặp đi lặp không những gây ra nhiều tổn
thương não nặng khó hồi phục, mà còn làm giảm đáng kể nồng độ, sự chuyển
hóa các chất dẫn tryền thần kinh ở một số vùng não [17].
Khi sử dụng ATS lâu dài hoặc khi giảm hay ngừng sử dụng các chất
này đều gây ra tình trạng giảm tương đối các chất dẫn truyền thần kinh tại các
synap thần kinh não trong đó có serotonin. Đây cũng là giả thuyết được nhiều
tác giả cho là nguyên nhân gây ra rối loạn trầm cảm ở bệnh nhân sử dụng ATS
[26].
1.3.3. Một số đặc điểm về dịch tễ và các yếu tố liên quan
1.3.3.1. Dịch tễ về trầm cảm
Trầm cảm là một trạng thái phổ biến ở cộng đồng, tỷ lệ mắc bệnh
chung của trầm cảm khoảng 3-5% dân số. Gánh nặng trầm cảm xếp hàng thứ
5 ở nữ, hàng thứ 7 ở nam. Tỷ lệ nữ/nam là 2/1. Trầm cảm có thể gặp ở mọi
lứa tuổi, gặp nhiều ở lứa tuổi từ 25-44 tuổi. Tái diễn là khuynh hướng thường
gặp của trầm cảm[19].
1.3.3.2. Một số yếu tố liên quan đếnrố loạn trầm cảm ở bệnh nhân sử dụng ATS
- Liên quan đến mức độ ngộ độc thần kinh do sử dụng ATS quá liều:

mức độ ngộ độc thần kinh ảnh hưởng đến mức độ tổn thương não bộ, ảnh
hưởng đến nồng độ, tốc độ dẫn truyền các chất dẫn truyền thần kinh
(dopamin, noradrenain, serotonin…). Từ đó có thể ảnh hưởng nhiều hay ít tới
mức độ trầm cảm.Hình ảnh giải phẫu thần kinh cho thấy trầm cảm dai dẳng
có thể liên quan đến ngộ độc thần kinh do methamphetamin [22].
- Liên quan đến sang chấn tâm lý: trong các giả thuyết bệnh nguyên,
bệnh sinh của trầm cảm thì thuyết về các yếu tố về tâm lý, văn hóa và xã hội


20

cũng được đề cập tới. Có nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ cao của sang chấn
tâm lý ở người sử dụng amphetamin có thể làm trầm trọng thêm lo âu và trầm
cảm [23]. Mặt khác, sang chấn tâm lý xảy ra ở những người sử dụng ATS là
một trong những lý do khiến bệnh nhân sử dụng ATS thường xuyên hơn và
tăng nguy cơ tái sử dụng ATS. Đây cũng là vấn đề cần phải lưu ý trong điều
trị rối loạn trầm cảm ở bệnh nhân sử dụng ATS.
- Liên quan đến đường sử dụng, tần suất, thời gian và tiền sử sử dụng
chất: lượng ATS đưa vào cơ thể càng nhanh, càng nhiều và càng thường
xuyên thì mức độ ảnh hưởng của chất tới cơ thể càng nặng nề, đặc biệt ảnh
hưởng tới nồng độ các chất dẫn truyền thần kinh, đến mức độ tổn thương não
bộ, và có thể sự hồi phục những tổn thương sẽ khó khăn và kéo dài hơn, hoặc
thậm chí khó có thể hồi phục. Theo nghiên cứu của Sekine (2001), nếu tiếp
tục sử dụng và tăng liều ATS sẽ làm trầm trọng thêm các triệu chứng trầm
cảm do sự suy giảm chất dẫn truyền thần kinh. Nhiều nghiên cứu đã chứng
minh serotonin bị suy giảm trầm trọng và kéo dài nhiều tháng sau khi ngừng
ATS, đặc biệt cấu trúc hệ viền và vùng não trước trán [24]. Theo Nguyễn Kim
Việt (2000), những bệnh nhân sử dụng liều cao kéo dài thì trầm cảm trong
trạng thái cai rất nặng nề, có thể có ý tưởng và hành vi tự sát [2].
1.3.4. Triệu chứng lâm sàng và chẩn đoán trầm cảm

1.3.4.1. Triệu chứng một giai đoạn trầm cảm điển hình
Giai đoạn trầm cảm được biểu hiện bởi các triệu chứng đặc trưng và
phổ biến sau [25]:
 Các triệu chứng đặc trưng

+ Khí sắc giảm
+ Mất mọi quan tâm thích thú
+ Giảm năng lượng dẫn đến tăng mệt mỏi và giảm hoạt động
 Các triệu chứng phổ biến hay gặp


21

+ Giảm sự tập trung chú ý
+ Giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin
+ Những ý tưởng bị tội và không xứng đáng
+ Nhìn vào tương lai ảm đạm
+ Ý tưởng và hành vi tự hủy hoại hoặc tự sát
+ Rối loạn giấc ngủ
+ Ăn ít ngon miệng
 Các triệu chứng cơ thể (sinh học) của trầm cảm

+ Mất quan tâm ham thích trong những hoạt động thường ngày gây
thích thú
+ Không có phản ứng cảm xúc với những sự kiện và môi trường xung
quanh mà thường ngày vẫn tạo phản ứng thích thú
+ Thức giấc sớm ít nhất 2h so với bình thường
+ Trầm cảm nặng nề đi đôi với hoang tưởng, ảo giác mang tính chất
buộc tội, sám hối, miệt thị, chê bai
+ Chậm chập tâm lý vận động hoặc kích động, nặng nề có thể sững sờ

+ Không hoặc từ chối ăn uống
+ Sút cân (thường giảm lớn hơn hoặc bằng 5% trọng lượng cơ thể so
với tháng trước)
+ Mất dục năng rõ rệt, rối loạn kinh nguyệt ở nữ.
1.3.4.2.Tiêu chuẩn chẩn đoán xác định giai đoạn trầm cảmtheo ICD-10
 Giai đoạn trầm cảm nhẹ (F32.0)

+ Phải có 2 trong 3 triệu chứng đặc trưng của trầm cảm
+ Có 2 trong 7 triệu chứng phổ biến khác hay gặp của trầm cảm
+ Không có triệu chứng cơ thể (sinh học) của trầm cảm
+ Khó tiếp tục công việc và hoạt động xã hội nhưng không bị gián đoạn
hoàn toàn
+ Kéo dài ít nhất 2 tuần
 Giai đoạn trầm cảm vừa (F32.1)


22

+ Phải có 2 trong 3 triệu chứng đặc trưng của trầm cảm
+ Có 3 trong 7 triệu chứng phổ biến khác hay gặp của trầm cảm
+ Gây nhiều trở ngại trong sinh hoạt gia đình, xã hội và nghề nghiệp
+ Có thể có các triệu chứng cơ thể (phải có 4 hoặc nhiều hơn các triệu
chứng cơ thể)
+ Kéo dài ít nhất 2 tuần
 Giai đoạn trầm cảm nặng không có triệu chứng loạn thần (F32.2)

+ Có 3 trên 3 triệu chứng đặc trưng
+ Có 4 trong 7 các triệu chứng phổ biến
+ Kèm theo các triệu chứng cơ thể
+ Không có khả năng tiếp tục công việc xã hội và nghề nghiệp

+ Kéo dài ít nhất 2 tuần nhưng nếu các dấu hiệu rõ rệt, trầm trọng có
thể chẩn đoán trước 2 tuần
 Giai đoạn trầm cảm nặng có triệu chứng loạn thần (F32.3)

+ Thỏa mãn các triệu chứng đã nêu trong mục F32.2 ở trên
+ Kèm theo hoang tưởng, ảo giác hoặc sững sờ trầm cảm. Hoang tưởng
và ảo giác có thể được phân rõ là phù hợp hay không phù hợp với khí sắc.
1.3.4.3. Đặc điểm lâm sàng trầm cảm do sử dụng ATS
Trầm cảm do sử dụng ATS thường gặp nhiều ở những người sử dụng
ATS lâu dài hay khi ngừng hoặc giảm sử dụng ATS.Các biểu hiện của trầm
cảm trong cai ATS thường xuất hiện sau giai đoạn phản ứng tức thời của não
do thiếu cung cấp các chất ATS và thường diễn ra trong khoảng thời gian
ngắn nên không đáp ứng đủ tiêu chuẩn chẩn đoán một giai đoạn trầm cảm
điển hình [26]. Theo DSM-IV, rối loạn trầm cảm trong hội chứng cai ATS phù
hợp với một giai đoạn trầm cảm chủ yếu nhưng kéo dài dưới 2 tuần, kèm theo
cảm giác mất sinh lực, tăng cảm giác thèm ăn, ngủ nhiều và dễ có ý tưởng tự
sát [10]. Trên lâm sàng, các triệu chứng trầm cảm thường khó đánh giá và


23

phát hiện, các triệu chứng trầm cảm thường bị che lấp bởi các triệu chứng tâm
thần khác như hoang tưởng, ảo giác, kích động [26].
Các triệu chứng trầm cảm xuất hiện trong hội chứng cai ATS và trầm
cảm nội sinh có biểu hiện gần giống nhau như: chậm chạp tâm thần vận động,
giảm năng lượng tăng mệt mỏi, giảm quan tâm thích thú, cảm giác bi quan tội
lỗi. Angrist đã chỉ ra một số sự khác biệt về triệu chứng giữa 2 trạng thái đó:
tăng cảm giác ngon miệng và ngủ nhiều gặp trong cai ATS còn giảm cảm giác
thèm ăn và mất ngủ thường gặp trong trầm cảm nội sinh. Cả trầm cảm nội
sinh và trầm cảm do chất đều gây ra giảm năng lượng hoạt động. Trầm cảm

nội sinh gây giảm năng lượng hoạt động gấp 13 lần, trầm cảm do chất gấp 7
lần so với người không trầm cảm [25].
Một số rối loạn tâm thần có thể xảy ra trong giai đoạn nhiễm độc hoặc
trong quá trình ngừng sử dụng ATS. Các chất kích thần như ATS tạo ra các tác
động được nhìn nhận như chống trầm cảm bao gồm cảm giác bay bổng, tăng
năng lượng, tăng độ tỉnh táo và độ tập trung. Tuy nhiên nó gây ra hội chứng
cai đặc trưng là trầm cảm,lo âu cấp,rối loạn hoảng sợ, ngoài ra có mất ngủ
vàrối loạn nhân cách. Vì thế, hậu quả có thể rất khó lường.Ở người nghiện
ATS dài ngày, liều cao thì trầm cảm thường nặng, có thể có ý tưởng và hành
vi tự sát. Các triệu chứng trầm cảm được chú ý ngay sau khi dùng
methamphetamin và trong những tuần đầu hoặc vài tháng sau khi cắt giảm
methamphetamine [27],[28].
Trầm cảm liên quan đến trạng thái cai triệu chứng điển hình là khí sắc
khó chịu, cáu gắt, ít hoạt động và giảm sự tập trung. Trầm cảm và lo âu
nghiêm trọng nhất sau 2 – 3 ngày cai chất, và cải thiện từ từ trong 7 – 10
ngày. Hầu hết các trường hợp trầm cảm được giải quyết sau 2 tuần cai chất,
24% trầm cảm ở mức độ vừa đến nặng sau 3 tuần của cai, và một số có thể
kéo dài sau vài tháng [29],[22].


24

1.3.5. Một số thang đánh giá trầm cảm ở bệnh nhân sử
dụng ATS
Bên cạnh đánh giá lâm sàng, hiện nay có rất nhiều thang đánh giá trầm
cảm được sử dụng để đánh giá trầm cảm trên bệnh nhân như:
- Nghiệm pháp Beck (Beck Depression Inventory)
- Thang đánh giá trầm cảm Hamilton (The Hamilton Rating Scale for
Depression)
- Bộ câu hỏi PHQ-9

- Nghiệm pháp IDS ban đầu gồm 28 mục, sau đó được thêm 2 mục
đánh giá đầy đủ các triệu chứng của trầm cảm điển hình và không điển hình.
- Thang tự đánh giá Zung (Zung Self-Report Depression Scale)
Nhưng trên bệnh nhân sử dụng ATS, để đánh giá các triệu chứng trầm
cảm, thang đánh giá Beck và thang HAM-D thường hay được sử dụng [30]
 Nghiệm pháp Beck:

- Nghiệm pháp Beck ban đầu được phát triển để đánh giá hiệu quả của
những biện pháp trị liệu tâm lý dựa vào thuyết phân tâm ở những bệnh nhân
trầm cảm. Sau đó thang đánh giá này được thiết kế để đánh giá mức độ nặng
của những triệu chứng trầm cảm.
- Nghiệm pháp Beck ban đầu gồm 21 mục liên quan đến những nhóm
triệu chứng khác nhau, với 4 lựa chọn những triệu chứng với mức độ tăng dần
với số điểm từ 0 đến 3. Sau đó nó được sửa đổi thành BDI-IA và sau sự xuất
bản tiêu chuẩn chẩn đoán DSM-IV, đến BDI-ấn bản thứ hai (BDI-II). Bốn
mục mới (sự kích động, cảm giác vô dụng, khó khăn trong việc tập trung, và
giảm năng lượng) được thêm vào để tạo ra nghiệm pháp BDI-II phản ánh
chính xác hơn với những tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm điển hình (Major
Depression Disorders) (MDD) và một vài mục của BDI-IA (ví dụ: giảm cân,


25

thay đổi hình dạng cơ thể, khó khăn trong công việc, và những than phiền về
cơ thể) bị loại bỏ bởi vì ít có giá trị cho thấy mức độ nặng của trầm cảm [30].
- Ưu điểm:
+ Tốn ít thời gian để thực hiện
+ Không cần phải đào tạo để thực hiện
- Nhược điểm:
+ Yêu cầu người trả lời câu hỏi phải biết đọc ở mức độ tối thiểu

- Cách tính điểm:




14-19 điểm: Trầm cảm nhẹ
20-29 điểm: Trầm cảm vừa
≥30 điểm: Trầm cảm nặng

 Thang đánh giá trầm cảm Hamilton: Hamilton Rating Scale for Depression

(HAM-D hoặc HRSD)[30].
- Đây là thang đánh giá sớm nhất được phát triển trong việc đánh giá
trầm cảm và dùng để đánh giá mức độ trầm trọng của triệu chứng trầm cảm.
- Ban đầu, thang HAM-D bao gồm 21 mục, nhưng Hamilton đã nhận
thấy rằng bốn mục cuối (sự thay đổi trong ngày đêm, giải thể nhân cách/tri
giác sai thực tại, những triệu chứng paranoid và những triệu chứng ám ảnh
nghi thức) không nên được tính trong tổng số điểm bởi vì những triệu chứng
này không phổ biến và không phản ánh mức độ nặng của trầm cảm. Vì vậy
phiên bản 17 mục của HAM-D đã trở thành tiêu chuẩn cho việc đánh giá trên
lâm sàng trong những năm qua.
- Đây là thang đánh giá phổ biến nhất tuy nhiên nó có một vài hạn chế.
Đó là: không bao gồm tất cả những nhóm triệu chứng của trầm cảm điển hình,
cụ thể là những triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật, sự xuất hiện của những
mục đánh giá những cấu trúc khác nhau (ví dụ: sự cáu gắt và lo lắng, mất quan
tâm thích thú và cảm giác vô vọng) và đánh giá không đồng đều những nhóm
triệu chứng của trầm cảm (ví dụ: triệu chứng mất ngủ được đánh số điểm tối đa



×