Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Bài thuyết trình về biến đổi khí hậu ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.37 KB, 19 trang )

Bài thuyết trình về biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Mở đầu:
Kính chào cô và các bạn! Em tên là…, đến từ nhóm…, hôm nay em sẽ trình bày về biến đổi khí
hậu ở Việt Nam. Và ngay sau đây, xin mời cô và các bạn cùng đón xem một đoạn video clip…
Thưa cô và các bạn, có thể nói chưa bao giờ cụm từ “Biến đổi khí hậu” lại được nhắc nhiều như
trong thời gian gần đây. Biến đổi khí hậu, các hiện tượng thời tiết cực đoan không còn là câu
chuyện xa xôi mà nó đang ảnh hưởng đế cả bữa ăn của nhiều gia đình Việt Nam do mùa màng
thất bát, trâu bò chết hàng loạt do thời tiết giá lạnh bất thường. Biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng
đến cả sức khỏe mỗi người do dịch bệnh gia tang và ảnh hưởng đến cả ngôi nhà – nơi ta đang
sống khi nước biển nhấn chìm những vùng nước thấp.
Còn trên phạm vi toàn cầu, biến đổi khí hậu đang trở thành thách thức an ninh phi truyền thống
lớn nhất mà thế giới phải đối mặt bên cạnh các vấn đề khủng bố hay an ninh mạng ảnh hưởng
trực tiếp đến sự phát triển của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam.
Phần chính:
1.Định nghĩa:
Trước hết, chúng ta nên hiểu khái niệm thế nào là “Biến đổi khí hậu”? Biến đổi khí hậu
(climate change) là sự thay đổi đáng kể về chỉ số trung bình nhiều năm thường là vài thập kỷ
hoặc dài hơn của các yếu tố khí hậu. Biến đổi khí hậu cũng phản ánh những biến đổi khác
thường của điều kiện khí hậu trong bầu khí quyển và kéo theo đó là những tác động tiêu cực lên
trái đất.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần biết thêm một số thuật ngữ như:
El Nino dùng để chỉ hiện tượng nóng lên dị thường của lớp nước biển bề mặt ở khu vực
xích đạo trung tâm và Đông Thái Bình Dương, kéo dài 8 - 12 tháng, hoặc lâu hơn, thường
xuất hiện 3 - 4 năm 1 lần, song cũng có khi dày hơn hoặc thưa hơn. El Niño trong tiếng Tây
Ban Nha có nghĩa là "Đứa trẻ", có ý nói đến Chúa Giêsu Hài đồng. Cứ trung bình 3-10 năm, ngư
dân vùng biển tại Peru phát hiện ra nước biển ấm dần lên vào mùa đông, khoảng vài tuần trước
Lễ Giáng Sinh. Đây chính là một nghịch lý, nhưng nó vẫn tồn tại có chu kì và kéo theo hiện
tượng hơi nước ở biển bốc lên nhiều hơn, tạo ra những cơn mưa như thác đổ. Và ngư dân đã gọi
hiện tượng này là El Niño để đánh dấu thời điểm xuất phát của nó là gần Giáng Sinh.
Trong khí tượng học, đôi khi người ta còn gọi hiện tượng El Niño là Dao động phương Nam (El
Niño–Southern Oscillation). Ngày nay, khoa học đã chứng minh được rằng hiện tượng El Niño


có ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu.
La Niña là một hiện tượng trái ngược lại với hiện tượng El Niño. Hiện tượng La Niña thường
bắt đầu hình thành từ tháng ba đến tháng sáu hằng năm, và gây ảnh hưởng mạnh nhất vào cuối
năm cho tới tháng hai năm sau. La Niña sẽ xảy ra ngay sau khi hiện tượng El Niño kết thúc.
Hiện tượng La Niña thuộc dòng biển lạnh làm lạnh nhiệt độ của những vùng mà nó đi
qua.“La Nina” (hay còn gọi là bé Hài Đồng nữ) là hiện tượng lớp nước biển bề mặt ở khu vực


nói trên lạnh đi dị thường, xảy ra với chu kỳ tương tự hoặc thưa hơn El Nino. La Niña còn
được gọi với cái tên El Viejo hay Anti-El Niño.
ENSO là chữ viết tắt của các từ ghép El Nino Southern Oscillation (El Nino - Dao động
Nam) để chỉ cả 2 hai hiện tượng El Nino và La Nina và có liên quan với dao động của khí áp
giữa 2 bờ phía Đông Thái Bình Dương với phía Tây Thái Bình Dương - Đông Ấn Độ Dương
(Được gọi là Dao động Nam) để phân biệt với dao động khí áp ở Bắc Đại Tây Dương).
Hiệu ứng nhà kính (greenhouse effect) là sự trao đổi không cân bằng giữa Trái đất và không
gian chung quanh làm cho nhiệt độ của khí quyển Trái đất tăng lên. Điều này tương tự như
sự tăng nhiệt độ xảy ra tại các nhà kính trồng rau, quả tại các nước ôn đới. Năng lượng Mặt trời
chiếu xuống Trái đất nhẽ ra sẽ phản xạ ra khoảng không vũ trụ một phần năng lượng nhưng nay
lại bị lưu giữ lại tại tầng đối lưu và phát xạ trở lại Trái đất làm cho nhiệt độ của khí quyển tầng
thấp và bề mặt Trái đất tăng dần lên. Hiện tượng giữ nhiệt này xảy ra do một số khí được gọi
là khí nhà kính. Khí nhà kính là những khí có khả năng hấp thụ các bức xạ sóng dài (hồng
ngoại), chủ yếu bao gồm: hơi nước, CO2, CH4, N2O, O3 (ôzôn), các khí CFC CF6, HFCs
và PFCs.
2.Biểu hiện
Những dấu hiệu về biến đổi khí hậu là lời cảnh báo từ Trái đất về ảnh hưởng của chúng tới
đời sống hàng ngày.
A. Thời tiết ngày càng trở nên khắc nghiệt
Sự biến đổi khí hậu toàn cầu làm cho các hiện tượng thời tiết biến chuyển theo chiều hướng cực
đoan, khắc nghiệt hơn trước.
Khắp các châu lục trên thế giới đang phải đối mặt, chống chọi với các hiện tượng thời tiết

cực đoan: lũ lụt, khô hạn, nắng nóng, bão tuyết…
Dự báo của IPCC (Ủy ban Liên chính phủ về thay đổi khí hậu) chỉ ra, thế giới sẽ còn phải
đón nhận những mùa mưa dữ dội hơn vào mùa hè, bão tuyết khủng khiếp hơn vào mùa
đông, khô hạn sẽ khắc nghiệt hơn, nắng nóng cũng khốc liệt hơn.
Các dự báo và thống kê cho thấy, các hiện tượng thời tiết cực đoan sẽ tăng về cường độ và mức
độ trong thời gian tới nếu chúng ta còn tiếp tục hủy hoại hành tinh xanh như bây giờ.
B. Mực nước biển tăng cao, nước biển đang dần ấm lên
Sự nóng lên của toàn cầu không chỉ ảnh hưởng tới bề mặt của biển mà còn ảnh hưởng tới
những khu vực sâu hơn dưới mặt biển. Theo đó, ở vùng biển sâu hơn 700m, thậm chí là nơi
sâu nhất của đại dương, nhiệt độ nước đang ấm dần lên.


Mực nước biển dâng với tốc độ trung bình là 1,8 mm/năm trong thế kỷ qua. Sử dụng vệ tinh
đo độ cao để xác định mực nước biển, các nhà khoa học cho biết, từ năm 1993 - 2000, mực nước
biển đã dâng vào khoảng 2,9 - 3,4 ± 0,4 - 0,6 mm/năm, chủ yếu do hậu quả của sự giãn nở nhiệt,
nóng lên và tan chảy của các tảng băng.
Nhiệt độ gia tăng làm nước giãn nở, đồng thời làm tan chảy các sông băng, núi băng và băng lục
địa khiến lượng nước bổ sung vào đại dương tăng lên.
Các nhà khoa học cảnh báo, nếu khuynh hướng gia tăng này vẫn tiếp diễn, mức nước tăng
trong thế kỷ XXI có thể lên đến là 28-34cm, một số các hòn đảo hay vùng đất thấp có thể bị
nhấn chìm hoàn toàn.
C. Hiện tượng băng tan ở hai cực
Qua nghiên cứu thực nghiệm, vùng biển Bắc Cực nóng lên nhanh gấp 2 lần mức nóng
trung bình trên toàn cầu, diện tích của biển Bắc Cực được bao phủ bởi băng trong mỗi
mùa hè đang dần thu hẹp lại.
Theo trung tâm Dữ liệu Băng tuyết quốc gia Hoa Kỳ, tính đến ngày 16/9/2012, diện tích
băng ở Bắc Cực chỉ còn 3,4 triệu km vuông. Nói cách khác, băng biển Bắc Cực đã bị mất
80% khối lượng của nó ở thời điểm hiện tại.
Năm 1995, tảng băng Larsen A trên bán đảo Nam Cực sụp đổ và bắt đầu tan chảy, những năm
sau đó, các tảng băng lớn ở đây cũng sụp đổ theo, dần biến mất.

Cùng với đó, nhiệt độ phía Nam bán cầu tăng khoảng 2,8 độ C đã khiến cho băng mùa hè ở đây
tan chảy nhanh gấp 10 lần với 600 năm trước. Điều này đã chứng minh rằng, mức độ tan băng ở
bán đảo Nam Cực đặc biệt nhạy cảm với sự gia tăng nhiệt độ trong thế kỷ XX.
Dải băng lớn thứ hai trên thế giới sau Nam Cực - Greenland cũng đang dần biến mất với tốc độ
“chóng mặt”. Ba vệ tinh của NASA phát hiện ra, gần như toàn bộ sông băng lớn của Greenland
đột ngột tan chảy trong tháng 7/2012. Ngay cả trạm Summit - nơi lạnh nhất và cao nhất trên đảo
Greenland cũng bắt đầu tan chảy.
Theo chuyên gia của NASA, hiện tượng băng tan chảy diện rộng tại Greenland là do có một
luồng khí ấm tràn qua đảo. Họ cũng cho biết, tổng diện tích của những vùng băng tan chảy tăng
từ 40% - 97% chỉ trong 4 ngày.
Mới đây, các nhà khoa học cũng đã đưa ra hình ảnh và video về băng giá 1.600 năm tuổi tan
chảy chỉ trong vòng 25 năm.
D. Nền nhiệt độ liên tục thay đổi
Cho dù được đo từ đất liền hay từ vệ tinh, chúng ta không thể phủ nhận một sự thật rằng, nhiệt
độ toàn cầu đang gia tăng. Cơ quan kiểm soát khí hậu thuộc Trung tâm Dữ liệu Khí hậu Quốc gia
Mỹ cho biết, thập niên 80 của thế kỷ trước là thập kỷ nóng nhất tính đến thời điểm đó.


Tuy nhiên, nhiệt độ trung bình mỗi năm của thập niên 90 lại cao hơn nhiệt độ trung bình của thập
niên 80. Bước sang thế kỷ XXI, mỗi một năm qua đi, nhiệt độ trung bình lại cao hơn.
Theo thống kê, 10 năm đầu của thế kỷ XXI đánh dấu sự gia tăng nhiệt độ lớn với sức nóng
kỷ lục của Trái đất. Nhiệt độ trung bình toàn cầu tính trên mặt đất và mặt biển đã tăng
khoảng 0,74 độ C trong thế kỷ qua.
Những nhà khoa học thuộc trường ĐH tiểu bang Oregon và ĐH Harvard (Mỹ) đã khảo sát dữ
liệu từ 73 mẫu băng, đá trầm tích tại các trung tâm theo dõi trên khắp thế giới. Họ muốn tái lập
một lịch sử nhiệt độ trên khắp hành tinh kể từ thời điểm chấm dứt kỷ nguyên băng hà cuối cùng.
Sau khi nghiên cứu, các nhà khoa học kết luận rằng, nhiệt độ Trái đất tăng cao nhất trong 11.000
năm qua và có thể còn tăng thêm 5 độ nữa trong 100 năm tới.
E. Nồng độ carbon dioxide trong khí quyển đang tăng lên
Bằng cách phân tích các bong bóng khí trong băng ở Nam Cực và Greenland, các nhà khoa học

đã đưa ra kết luận rằng, 650.000 năm qua, nồng độ khí carbon dioxide (CO2) dao động từ 180 300ppm (đơn vị đo lường để diễn đạt nồng độ theo khối lượng, tính theo phần triệu).
Trước khi cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra (giữa thế kỷ XVIII), nồng độ CO2 đo được
ở mức cân bằng khoảng 280ppm. Tuy nhiên, con số này đã tăng nhanh không ngừng qua
các năm sau đó và hiện tại nó đang tiến sát tới mốc 400ppm.
Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (AIE), từ nay đến năm 2050, việc thải khí CO2 sẽ tăng
130%, lên đến 900ppm, cao gấp đôi hàm lượng mà ta không được phép vượt quá.
Việc phân tích các đồng vị của carbon trong khí quyển cho thấy sự gia tăng CO2 trong khí quyển
là kết quả của việc đốt cháy nhiên liệu hóa thạch và đốt rừng, chứ không phải là kết quả của quá
trình tự nhiên.
Carbon dioxide là khí nhà kính, làm tăng tính hiệu ứng nhà kính của khí quyển và do đó
dẫn đến sự nóng lên của Trái đất.
Ngoài ra còn một vài dấu hiệu khác như:
Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của con
người và các sinh vật trên Trái đất.
Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau của
Trái đất dẫn tới nguy cơ đe dọa sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái và hoạt động
của con người.
Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần
hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác.
Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thuỷ
quyển, sinh quyển, các địa quyển.
3. Tình hình biến đổi khí hậu ở nước ta:


Theo thống kê, Việt Nam là một trong 5 quốc gia chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu,
nước biển dâng.
Biến đổi khí hậu làm tăng các hiện tượng thiên nhiên nguy hiểm. Tần suất và cường độ các
hiện tượng bão, mưa lớn, nhiệt độ cao, hạn hán tăng hơn nhiều trong thập niên vừa qua.
- Nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,1 độ C/thập kỷ. Mùa đông, nhiệt độ giảm đi trong
các tháng đầu mùa và tăng lên trong các tháng cuối mùa. Nhiệt độ trung bình các tháng

mùa hè có xu thế tăng rõ rệt trong khi nhiệt độ trung bình của các tháng khác không tăng
hoặc giảm chút ít, dẫn đến nhiệt độ trung bình năm có xu thế tăng lên.
- Xu thế biến đổi của lượng mưa không nhất quán giữa các khu vực và các thời kỳ. Sự thay
đổi về tổng lượng mưa tháng và mưa năm không thể hiện xu thế tăng hay giảm nhưng
cường độ mưa đang có xu hướng tăng lên rõ rệt. Trên phần lớn lãnh thổ, lượng mưa giảm
đi trong tháng 7, 8 và tăng lên trong các tháng 9, 10, 11. Mưa phùn giảm đi rõ rệt ở Bắc Bộ
và Bắc Trung Bộ. Đến năm 2100 nhiệt độ bề mặt có thể tăng tới 1,5o đến 4,5o
- Trung bình hàng năm có khoảng 4,7 cơn bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến nước ta. Ba
thập kỷ gần đây, số cơn bão ảnh hưởng đến nước ta và mức độ ảnh hưởng cũng có xu
hướng tăng. Bão thường xuất hiện muộn hơn và dịch chuyển xuống vĩ độ thấp hơn.
- Trong thời gian gần đây, lũ lụt lớn xảy ra ở các tỉnh miền Trung và Đồng bằng sông Cửu
Long có xu thế tăng hơn nửa đầu thế kỷ trước. Năm 1999, miền Trung đã ghi nhận một trận
lụt lịch sử xẩy ra vào cuối mùa mưa.
- Mùa khô ở Nam Bộ và Tây Nguyên hầu như năm nào cũng có hạn gay gắt hơn. Các thập
kỷ gần đây hạn có phần nhiều hơn so với các thập kỷ trước.
- Nước biển dâng khoảng 5 cm/thập niên và năm 2070 sẽ dâng khoảng 33 đến 45cm, đến
năm 2100 dâng khoảng 100cm.
- Tần suất và cường độ El-Nino tăng lên rõ rệt trong những năm cuối thế kỷ trước và
những năm đầu thế kỷ này. Trong 5 thập kỷ gần đây hiện tượng ENSO ngày càng có tác
động mạnh mẽ đến chế độ thời tiết và đặc trưng khí hậu trên nhiều khu vực của Việt Nam.
4. Nguyên nhân:
Tuy nhiên nguyên nhân gây ra sự biến đổi khí hậu này lại không hoàn toàn giống nhau. Hai
loại nguyên nhân chính đó là: Nguyên nhân do tự nhiên và nguyên nhân do con người.
A. Nguyên nhân do tự nhiên:

Không phải thời đại ngày nay biến đổi khí hậu mới diễn ra. Trong lịch sự địa chất của
trái đất, sự biến đổi khí hậu đã từng nhiều lần xảy ra với những thời kỳ lạnh và nóng
kéo dài hàng vạn năm mà chúng ta thường gọi là thời kỳ băng hà hay thời kỳ giang
băng, thời kỳ băng hà cuối cùng đã xảy ra cách đây mười ngàn năm và hiện nay là giai
đoạn ấm lên của thời kỳ này. Nguyên nhân của sự biến đổi này là do thay đổi cường độ



sáng của Mặt trời, xuất hiện các điểm đen Mặt trời (Sunspots), các hoạt động núi lửa,
thay đổi đại dương, thay đổi quỹ đạo quay của trái đất.
Số Sunspots xuất hiện trung bình năm từ năm 1610 đến 2000. Với sự xuất hiện các
Sunspots làm cho cường độ tia bức xạ mặt trời chiếu xuống trái đất thay đổi, nghĩa là
năng lượng chiếu xuống mặt đất thay đổi làm thay đổi nhiệt độ bề mặt trái đất.Sự thay
đổi cường độ sáng của Mặt trời cũng gây ra sự thay đổi năng lượng chiếu xuống mặt
đất thay đổi làm thay đổi nhiệt độ bề mặt trái đất. Cụ thể là từ khi tạo thành Mặt trời
đến nay gần 4,5 tỷ năm cường độ sáng của Mặt trời đã tăng lên hơn 30%. Như vậy có
thể thấy khoảng thời gian khá dài như vậy thì sự thay đổi cường độ sáng mặt trời là không
ảnh hưởng đáng kể đến BĐKH.
Núi lửa phun trào - Khi một ngọn núi lửa phun trào sẽ phát thải vào khí quyển một
lượng cực kỳ lớn khối lượng sulfur dioxide (SO2), hơi nước, bụi và tro vào bầu khí
quyển. Khối lượng lớn khí và tro có thể ảnh hưởng đến khí hậu trong nhiều năm. Các
hạt nhỏ được gọi là các sol khí được phun ra bởi núi lửa, các sol khí phản chiếu lại bức xạ
(năng lượng) mặt trời trở lại vào không gian vì vậy chúng có tác dụng làm giảm nhiệt độ lớp
bề mặt trái đất.
Đại dương ngày nay - Các đại dương là một thành phần chính của hệ thống khí hậu.
Dòng hải lưu di chuyển một lượng lớn nhiệt trên khắp hành tinh. Thay đổi trong lưu
thông đại dương có thể ảnh hưởng đến khí hậu thông qua sự chuyển động của CO2 vào
trong khí quyển.
Thay đổi quỹ đạo quay của Trái Đất - Trái đất quay quanh Mặt trời với một quỹ đạo. Trục
quay có góc nghiêng 23,5 °. Thay đổi độ nghiêng của quỹ đạo quay trái đất có thể dẫn đến
những thay đổi nhỏ. Tốc độ thay đổi cực kỳ nhỏ có thể tính đến thời gian hàng tỷ năm, vì
vậy có thể nói không ảnh hưởng lớn đến BĐKH.
Có thể thấy rằng các nguyên nhân gây ra BĐKH do các yếu tố tự nhiên đóng góp một phần
rất nhỏ vào sự BĐKH và có tính chu kỳ kể từ quá khứ đến hiện nay. Theo các kết quả
nghiên cứu và công bố từ Ủy Ban Liên Chính Phủ về BĐKH thì nguyên nhân gây ra BĐKH chủ
yếu là do các hoạt động của con người.

B. Nguyên nhân do con người

Trong khi những nguyên nhân đầu tiên thuộc về khách quan thì nguyên nhân cuối cùng lại đến từ
sự tác động rất lớn của con người mà chúng ta gọi đó là sự làm nóng bầu khí quyển hay hiệu ứng
nhà kính. Có thể tạm hiểu rằng, nhiệt độ trung bình của bề mặt trái đất được quyết định bởi sự
cân bằng hấp thụ năng lượng mặt trời và lượng nhiệt trả vào vũ trụ. Khi lượng nhiệt bị giữ lại
nhiều trong bầu khí quyển thì sẽ làm cho nhiệt độ trái đất tăng lên. Chính lượng khí CO2 chứa
nhiều trong khí quyển sẽ tác dụng như một lớp kính giữ nhiệt lượng tỏa ngược vào vũ trụ của trái
đất. Với nền gia tang mạnh mẽ của nền sản xuất công nghiệp và việc sự dụng các nguyên liệu
hóa thạch như hiện nay thật khó có thể để trái đất tránh khỏi tình trạng nóng lên này. Theo
nghiên cứu của các nhà khoa học, nhiệt độ toàn cầu sẽ gia tăng từ 1.4 độ C – 5.8 độ C từ năm


1990 đến 2100. Và với sự gia tăng này sẽ kéo theo những nguy cơ ngày càng sâu sắc đối với chất
lượng sống của con người.
Ở Việt Nam, tổng lượng phát thải khí nhà kính mỗi năm khoảng 120,8 triệu tấn, khí nhà kính của
VN gồm 4 loại chủ yếu: CO2, CH4, NO2, NO và phát thải chủ yếu dọc các hoạt động trong các
lĩnh vực năng lượng, công nghiệp, giao thông.
-

CO2 phát thải khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và là nguồn khí nhà
kính chủ yếu do con người gây ra trong khí quyển. CO2 cũng sinh ra từ các hoạt động
công nghiệp như sản xuất xi măng và cán thép.

-

CH4 sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai lại, hệ thống khí,
dầu tự nhiên và khai thác than.

-


N2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp.

-

HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và HFC-23 là sản phẩm
phụ của quá trình sản xuất HCFC-22.

-

PFCs sinh ra từ quá trình sản xuất nhôm.

-

SF6 sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản xuất magiê.

Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp (khoảng từ năm 1750), con người đã sử dụng ngày càng
nhiều năng lượng, chủ yếu từ các nguồn nguyên liệu hóa thạch (than, dầu, khí đốt), qua
đó đã thải vào khí quyển ngày càng tăng các chất khí gây hiệu ứng nhà kính của khí
quyển, dẫn đến tăng nhiệt độ của trái đất.
Cụ thể nhũng hoạt động của con người dẫn đến gia tăng lượng CO2, CH4,...(Khí nhà kính)
gây biến đổi khí hậu là:
+ Trong hoạt động công nghiệp: Các nhà máy, xí nghiệp hàng ngày thải ra hàng tấn bụi,
khí SO2, NO2, CO,...Nồng độ bụi có xu hướng tăng theo thời gian và hầu hết đều vượt quá
giới hạn cho phép nhiều lần.
+ Trong lâm nghiệp: Những vụ cháy rừng quy mô lớn cũng thải ra một lượng bụi và khí
CO2 khá lớn. Ngoài ra NO2 cũng được phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp.
+ Trong giao thông vận tải: Hoạt động lưu thông của các phương tiện giao thông ở Việt
Nam hằng ngày thải vào khí quyển rất nhiều khói bụi, làm cho các thành phần chất khí trong
khí quyển thay đổi hàm lượng một cách rõ rệt.



+ Trong năng lượng hạt nhân: Một vụ nổ hạt nhân sẽ cho ra hàng tấn bụi khí, số bụi khí
này bay vào khí quyển sẽ làm thay đổi hàm lương các chất có trog không khí.
+ Trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày: từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động
vật nhai lại, hệ thống khí, dầu tự nhiên và khai thác than sinh ra một lượng khí CH4 khá lớn.

5.Tác hại

Mực nước biển dâng
Dự đoán chính thức của Việt Nam về mức tăng tối đa mực nước biển trung bình là
75cm (dựa trên các kịch bản phát thải trung bình B2) vào năm 2100. Tuy nhiên, tham số
quy hoạch riêng của Việt Nam là mực nước biển trung bình dâng một mét vào năm
2100. Số liệu này phù hợp với dự đoán theo kịch bản phát thải cao A2 do sự giãn nở nhiệt
của vùng nước biển ấm hơn có kể đến băng tan. Con số này được sử dụng trong Chương
trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH
Nếu không có những biện pháp bảo vệ như củng cố hệ thống đê điều và cải thiện hệ
thống thoát nước, mức tăng mực nước biển trung bình 1 m dọc theo bờ biển của Việt
Nam sẽ gây ngập 17.423 km2, tương đương với 5,3% tổng diện tích đất của Việt Nam.
Trong đó, 82% diện tích đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ngập, 9% diện tích đồng bằng sông
Hồng sẽ bị ngập và hơn 4% diện tích khu vực Bắc Trung Bộ và khu vực Đông Nam Bộ sẽ bị
ngập. Khu vực Đông Nam Bộ bao gồm thành phố Hồ Chí Minh và vùng đất dọc sông Sài
Gòn/Nhà Bè.
Hơn nữa, 33 trong số 63 tỉnh và thành phố, hoặc 5 trong số 8 vùng kinh tế đang bị đe dọa bởi
ngập lụt nghiêm trọng. Trong số 33 tỉnh và thành phố, Kiên Giang, Cà Mau, Hậu Giang, và
Sóc Trăng là bốn tỉnh sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi mực nước biển trung bình tăng.

Thay đổi lượng mưa
BĐKH sẽ làm tăng tổng lượng mưa năm ở tất cả các vùng của Việt Nam. Tuy nhiên, sự
thay đổi lượng mưa rất phức tạp tùy theo mùa và khu vực cụ thể. Xác suất xuất hiện của các

trận mưa cực đoan và lũ lụt cũng sẽ tăng, đặc biệt là ở các vùng phía Bắc bao gồm Hà Nội, và
tăng rủi ro sạt lở đất ở vùng núi. Tuy nhiên, người ta cho rằng lượng mưa sẽ chỉ tăng trong
những tháng mùa mưa thậm chí với mức độ nhiều hơn hiện nay, trong những tháng mùa
khô (tháng mười hai – tháng năm), lượng mưa trung bình sẽ giảm khoảng 20% làm cho hạn
hán trở nên trầm trọng hơn, đặc biệt là sẽ ảnh hưởng đến khu vực phía Nam bao gồm cả
đồng bằng sông Cửu Long. Việc giảm lượng mưa trong các tháng mùa khô sẽ kéo theo sự
gia tăng các rủi ro hạn hán đồng thời cũng làm tăng lượng bốc hơi do nhiệt độ cao.

Nhiệt độ trung bình gia tăng


Theo kịch bản phát thải B2, nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam tăng khoảng 2,30C vào
cuối thế kỷ 21 so với những thập niên cuối thế kỷ 20. Sự gia tăng nhiệt độ sẽ được cảm nhận
rõ ở phía Bắc. Tuy nhiên, các số liệu khoa học gần đây cho thấy rằng thế giới vẫn còn trong quá
trình phát thải cao. Theo kịch bản phát thải cao A2, đến năm 2100, nhiệt độ trung bình hàng năm
sẽ tăng 3,60C ở vùng ven biển trung tâm phía bắc. Nhiệt độ trung bình gia tăng sẽ làm tăng số
lượng các đợt nóng và giảm số lượng các đợt lạnh. Nếu nhiệt độ tăng là 100C, số lượng
sóng nhiệt sẽ tăng từ 100 đến 180%, trong khi số lượng các đợt lạnh giảm từ 20 đến 40%. Ở
đồng bằng sông Hồng, nơi nhiệt độ mùa hè năm 2100 dự kiến tăng 1,60C theo kịch bản phát thải
trung bình B2 và tăng 2,40C theo kịch bản phát thải cao A2, số lượng sóng nhiệt tương ứng sẽ
tăng gấp đôi và gấp ba lần.
Khí thải công nghiệp - Một trong các nguyên nhân gây nên hiệu ứng nhà kính

Gia tăng lũ lụt
Thiệt hại lũ lụt dự kiến sẽ trầm trọng hơn do lượng mưa ngày sẽ tăng khoảng 12-19% vào
năm 2070 tại một số khu vực, tác động đến cả lưu lượng đỉnh lũ và tần suất xuất hiện mưa lũ.
Rủi ro lũ lụt cũng có khả năng gia tăng bởi những thay đổi về tần số và cường độ mưa lớn, mưa
nội đồng kèm theo nước dâng do bão vùng bờ biển.

Thay đổi hình thế bão

Rất khó dự kiến về tần suất xuất hiện của bão trong thế kỷ tới. Hàng năm Việt Nam phải
chịu những cơn áp thấp nhiệt đới và bão nhiệt đới. Trong những năm El Nino, bão xuất
hiện thường xuyên hơn, mạnh hơn và bao phủ một khu vực rộng lớn hơn.

Sóng thần
Các quan sát trong quá khứ chưa chứng tỏ được sự thay đổi về cơ cấu các hình thế hay cường độ
bão ở khu vực Tây Thái Bình Dương/ Đông Nam Á là do BĐKH, nhưng đã quan sát được sự
tăng số lượng các cơn bão ở khu vực phía Nam Đại Tây Dương/ Caribê. Do sự gia tăng nhiệt độ,
miền Bắc bão sẽ xuất hiện nhiều hơn và cường độ của bão sẽ tăng lên, dẫn đến tốc độ gió lớn
nhất tăng và mưa với cường độ cao hơn. Vùng ven biển sẽ chịu nhiều trận bão lớn, đe doạ hơn
tới cuộc sống, sinh kế của người dân, cơ sở hạ tầng và sản xuất nông nghiệp. Cộng đồng miền
núi sẽ phải đối mặt với sự gia tăng nguy cơ lũ quét và sạt lở đất do mưa lớn. Hơn nữa, thiệt hại
tiềm tàng từ các cơn bão nhiệt đới sẽ gia tăng do mật độ dân số sinh sống ở khu vực dễ xảy ra
bão gia tăng và xuất hiện nhiều cơ sở hạ tầng có giá trị kinh tế cao tại các khu vực này.
Ngoài ra BĐKH có tác động khác như làm tăng khả năng sạt lở đất. Các đợt nóng và lạnh cũng
như lốc xoáy cũng có thể xảy ra, mặc dù khó có thể ước tính được mức độ tác động của các sự
kiện này.

Xâm nhập mặn và thiếu nước ngọt
Theo kịch bản biến đổi khí hậu của thế giới và Việt Nam, trong các thập kỷ tới khi nước biển
dâng cao, vùng ĐBSCL sẽ phải đối mặt với tình trạng xâm nhập mặn và tình trạng ngập lũ hạ lưu


sông Cửu Long với qui mô lớn. Hệ sinh thái rừng ngập mặn cũng sẽ chịu tác động xấu khi chế
độ nước ngập sâu bị thay đổi do nước biển dâng cao. Quá trình xâm nhập mặn ở mức độ cao
có thể hủy diệt thảm thực vật và tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng tràm ở các
tỉnh như Cà Mau, Kiên Giang... An ninh lương thực quốc gia sẽ bị đe dọa và đời sống nông
dân nghèo trong khu vực sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Mất đa dạng sinh học:

Nhiệt độ trái đất hiện nay đang làm cho các loài sinh vật biến mất hoặc có nguy cơ tuyệt
chủng. Khoảng 50% các loài động thực vật sẽ đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng vào năm
2050 nếu nhiệt độ trái đất tăng thêm từ 1,1 đến 6,4 độ C nữa. Sự mất mát này là do mất môi
trường sống vì đất bị hoang hóa, do nạn phá rừng và do nước biển ấm lên. Con người cũng
không nằm ngoài tầm ảnh hưởng. Tình trạng đất hoang hóa và mực nước biển đang dâng lên
cũng đe dọa đến nơi cư trú của chúng ta. Và khi cây cỏ và động vật bị mất đi cũng đồng
nghĩa với việc nguồn lương thực, nhiên liệu và thu nhập của chúng ta cũng mất đi.

Các hệ sinh thái bị phá hủy
Biến đổi khí hậu và lượng cacbon dioxite ngày càng tăng cao đang thử thách các hệ sinh thái
của chúng ta. Các hậu quả như thiếu hụt nguồn nước ngọt, không khí bị ô nhiễm nặng, năng
lượng và nhiên liệu khan hiếm, và các vấn đề y tế liên quan khác không chỉ ảnh hưởng đến
đời sống của chúng ta mà còn là vấn đề sinh tồn.

Ảnh hưởng đến sinh mạng của con người:
Với rất nhiều tác hại trên mà biến đổi khí hậu để lại, mạng sống con người đang có nguy cơ
bị đe cao. Thiếu nước sạch, lũ lụt, hạn hán dẫn đến mất mùa, nước biển dần, dịch bệnh,...
đã và sẽ cướp đi sinh mạng của rất nhiều con người nếu chúng ta không thay đổi cách sống
và cách đối xử với môi trường.

Tác động tới phát triển kinh tế
BĐKH tác động đến hầu hết các ngành kinh tế, trong đó ngành nông - lâm nghiệp ảnh hưởng
nhiều nhất.


Tác động của biến đổi khí hậu đến ngành nông nghiệp và thuỷ sản

Thứ nhất, tình trạng ngập lụt do nước biển dâng sẽ làm mất đất canh tác
trong nông nghiệp. Nếu mực nước biển dâng thêm 1m, ước tính khoảng 40% diện tích đồng
bằng sông Cửu Long, 11% diện tích đồng bằng sông Hồng và 3% diện tích của các tỉnh khác

thuộc vùng ven biển sẽ bị ngập. Ngập lụt sẽ làm mất đất canh tác ở hai khu vực nông nghiệp
quan trọng nhất của Việt Nam là đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng vì
khoảng 80% diện tích đồng bằng sông Cửu Long và 30% diện tích đồng bằng sông Hồng
có độ cao dưới 2,5 m so với mực nước biển. Hiện tại, diện tích đất gieo trồng của Việt Nam là
khoảng 9,4 triệu ha (trong đó có 4 triệu ha đất trồng lúa). Tính trên phạm vi cả nước, Việt Nam


sẽ bị mất đi khoảng hơn 2 triệu ha đất trồng lúa (khoảng 50%) nếu mực nước biển dâng thêm
1m.

Thứ hai, tình trạng xâm nhập mặn ở khu vực ven biển cũng sẽ làm thu hẹp
diện tích đất nông nghiệp. Một phần diện tích đáng kể đất trồng trọt ở vùng đồng bằng
sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị nhiễm mặn vì 2 đồng bằng này đều là những vùng
đất thấp so với mực nước biển. Xâm nhập mặn làm cho diện tích đất canh tác giảm, từ đó hệ
số sử dụng đất có thể giảm từ 3-4 lần/năm xuống còn 1-1,5 lần/năm. Ngập mặn sẽ đặc biệt
nghiêm trọng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nếu nước biển dâng cao thêm 1m thì khoảng
1,77 triệu ha đất sẽ bị nhiễm mặn, chiếm 45% diện tích đất ở đồng bằng sông Cửu Long và ước
tính rằng, có khoảng 85% người dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long cần được hỗ trợ về
nông nghiệp.
Thứ ba, nhiệt độ tăng, hạn hán (và thiếu nước tưới) sẽ ảnh hưởng đến sự phân bố của cây
trồng, đặc biệt làm giảm năng suất, cụ thể là năng suất lúa của vụ xuân có xu hướng giảm
mạnh hơn so với năng suất lúa của vụ mùa; năng suất ngô vụ đông có xu hướng tăng ở đồng
bằng Bắc Bộ và giảm ở Trung Bộ và Nam Bộ. Ước tính rằng, năng suất lúa xuân ở vùng đồng
bằng sông Hồng có thể giảm 3,7% vào năm 2020 và giảm tới 16,5% vào năm 2070; năng suất
lúa mùa sẽ giảm 1% vào năm 2020 và giảm 5% vào năm 2070 nếu không có các biện pháp ứng
phó kịp thời và hiệu quả.
Mất đất canh tác trong nông nghiệp và năng suất cây trồng suy giảm sẽ đặt ra những thách
thức và đe dọa đến đời sống của nông dân, vấn đề xuất khẩu gạo và an ninh lương thực
quốc gia đối với một quốc gia mà nông nghiệp đóng vai vai trò quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân như Việt Nam

Nhìn chung, BĐKH có xu hướng làm thay đổi môi trường sống của các loài thuỷ sản, dẫn đến

thay đổi trữ lượng các loài thuỷ hải sản do di cư hoặc do chất lượng môi
trường sống bị suy giảm; từ đó làm thu hẹp ngư trường đánh bắt, sản lượng
đánh bắt và sản lượng nuôi trồng. Kết quả khảo sát của Bộ Lao động, Thương binh và
Xã hội năm 2011 cho thấy, các địa phương được khảo sát đều có tỷ lệ lao động đang làm trong
lĩnh vực nuôi trồng thủy hải sản khá cao, dao động từ trên 50% đến 90% lực lượng lao động. Do
hạn chế về vốn đầu tư và kiến thức/kỹ thuật nên hoạt động nuôi trồng thủy sản của người dân
hầu như phụ thuộc vào môi trường tự nhiên, thời tiết,... Thiệt hại trong nuôi trồng thủy sản có xu
hướng gia tăng trong những năm gần đây do ảnh hưởng của nước biển dâng, khô hạn, xâm nhập
mặn, mưa lũ trái mùa, thay đổi môi trường nước. Thiệt hại về sản lượng nuôi trồng thủy sản ở
một số tỉnh, ví dụ như Bạc Liêu, Bến Tre, Cà Mau,… đã tăng tới 30-40%/năm.


Tác động của biến đổi khí hậu đến ngành công nghiệp

Các ngành công nghiệp, đặc biệt là khu công nghiệp ven biển, sẽ bị ảnh hưởng nặng nề bởi
BĐKH:
· Nước biển dâng khoảng 1m vào cuối thế kỷ 21 sẽ làm cho hầu hết các khu công nghiệp bị
ngập, thấp nhất là trên 10% diện tích, cao nhất là khoảng 67% diện tích.


· Nguồn nguyên liệu cho công nghiệp, đặc biệt là nguyên liệu cho công nghiệp chế biến
lương thực thực phẩm, dệt, may mặc sẽ bị suy giảm đáng kể vì không được tiếp ứng từ các
vùng nguyên liệu ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long vốn bị ngập lụt nặng nề nhất ở Việt
Nam. Điều này càng gây sức ép đến việc chuyển dịch cơ cấu các ngành công nghiệp về loại hình
công nghiệp, tỷ lệ công nghiệp chế biến, công nghệ cao.
· Nhiệt độ tăng làm tăng tiêu thụ năng lượng trong các ngành công nghiệp:

tăng chi phí thông gió, làm mát hầm lò khai thác và làm giảm hiệu suất, sản

lượng của các nhà máy điện. Tiêu thụ điện cho sinh hoạt gia tăng và chi phí làm mát trong
các ngành công nghiệp thương mại cũng gia tăng đáng kể khi nhiệt độ có xu hướng ngày càng
tăng.
· Mưa bão thất thường và nước biển dâng sẽ tác động tiêu cực đến quá trình vận hành,
khai thác hệ thống truyền tải và phân phối điện , dàn khoan, đường ống dẫn dầu và
khí vào đất liền, cấp dầu vào tàu chuyên chở dầu; làm gia tăng chi phí bảo dưỡng và sửa chữa
các công trình năng lượng; ảnh hưởng tới việc cung cấp, tiêu thụ năng lượng, an ninh năng lượng
quốc gia.


Tác động của biến đổi khí hậu đến một số lĩnh vực lao động và xã hội

BĐKH tác động đến lao động, việc làm theo hai xu hướng rõ rệt là: BĐKH làm cho việc làm
trong nông nghiệp trở nên bấp bênh hơn , rủi ro hơn và điều kiện làm việc tồi
tệ hơn; BĐKH làm cho một bộ phận lao động phải chuyển đổi việc làm (ví dụ từ
nông nghiệp sang công nghiệp, thương mại, dịch vụ), làm giảm thời gian làm việc, giảm thu
nhập và làm tăng lượng lao động di cư của địa phương. Nghiên cứu của Viện Khoa học Lao động
và Xã hội (năm 2011) về tác động của BĐKH đến việc làm của tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 20062010 cho thấy, các hiện tượng thời tiết cực đoan đã làm giảm tiềm năng tạo việc làm bình quân
khoảng 0,22%/năm (tương đương với khoảng 1.400 việc làm mỗi năm bị mất đi).


Tác động của biến đổi khí hậu tới hạ tầng kỹ thuật

- Hệ thống đê biển: mực nước biển dâng cao có thể làm hệ thống đê biển không thể chống chọi
được nước biển dâng khi có bão, dẫn đến nguy cơ vỡ đê trong các trận bão lớn.
- Hệ thống đê sông, đê bao và bờ bao: mực nước biển dâng cao làm cho khả năng tiêu thoát
nước ra biển giảm, kéo theo mực nước ở các con sông trong nội địa dâng lên, kết hợp với sự gia
tăng dòng chảy lũ từ thượng nguồn sẽ làm cho đỉnh lũ tăng lên, ảnh hưởng đến sự an toàn của
các tuyến đê sông ở các tỉnh phía Bắc, đê bao và bờ bao tại các tỉnh phía Nam.
- Các công trình cấp nước: Mực nước biển dâng làm gia tăng tình trạng xâm nhập mặn của

biển vào đất liền, làm cho các tầng nước dưới đất vùng ven biển cũng có nguy cơ bị nhiễm
mặn, gây khó khăn cho công tác cấp nước phục vụ sản xuất.
- Cơ sở hạ tầng đô thị: Nước biển dâng và triều cường sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng các khu đô
thị ven biển, gây ảnh hưởng đến giao thông, sinh hoạt và các hoạt động sản xuất.


• Một số tác động tiêu cực khác:
- Biến đổi khí hậu làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái, gây nguy cơ tuyệt chủng cho nhiều loài

thực vật cũng như động vật hoặc làm sụt giảm nghiêm trọng số lượng của chúng => con
người có nguy cơ bị cạn kiệt nguồn lương thực hoặc ảnh hưởng đến thu
-

nhập nếu làm trong các ngành cần đến nguyên liệu của hệ sinh thái
Ngoài ra dịch bệnh bùng phát do biến đổi khí hậu cũng ảnh hưởng nghiêm trọng tới
nền kinh tế: chi phí để kiểm soát, ngăn chặn khắc phục dịch bệnh, tiền thuốc men, tiền cơ
sở vật chất để chữa trị.

Tác động đối với đời sống - xã hội
Ở nước ta trong những năm gần đây, số lượng người mất nhà cửa và kinh tế lâm vào khó khăn
sau mỗi trận bão, lũ lụt… là rất lớn. Điển hình là cơn bão số 4 năm 2008 đã làm 162 người chết,
làm sập, hỏng 11.500 căn nhà, trường học, gây ngập úng 27.200 ha lúa và hoa màu, làm sạt trôi
và bồi lấp 2,3 triệu khối đất đá trên các công trình giao thông, thủy lợi và các khu nuôi trồng thủy
sản, làm chết 28.000 gia súc, gia cầm, thiệt hại lên tới 1.900 tỉ đồng. Hậu quả của thiên tai không
chỉ dừng lại ở đó, ảnh hưởng của chúng còn tồn tại sau một thời gian dài, chất lượng sống con
người ảnh hưởng nghiêm trọng do thiếu ăn, thiếu nhà ở, y tế và giáo dục không đảm bảo.
Mới đây, theo báo cáo của Uỷ ban liên quốc gia về BĐKH đã khẳng định, BĐKH gây tử vong
và bệnh tật thông qua hậu quả của các dạng thiên tai như sóng nhiệt/nóng, bão, lũ lụt, hạn
hán… nhiều bệnh, dịch gia tăng dưới tác động của sự thay đổi nhiệt độ và hoàn cảnh sống,
nhất là các bệnh truyền qua vật trung gian, như sốt rét, sốt xuất huyết, viêm não, các bệnh

đường ruột và các bệnh khác… Những bệnh này, đặc biệt phát tán nhanh ở các vùng kém phát
triển, đông dân cư và có tỉ lệ đói, nghèo cao thuộc các nước đang phát triển. Nước ta, trong thời
gian qua cũng đã xuất hiện một số bệnh mới ở người và động vật (cúm gia cầm, bệnh lợn tai
xanh…), nhiều bệnh có diễn biến phức tạp và bất thường hơn (sốt xuất huyết) và gây ra nhiều
thiệt hại đáng kể.
Về giao thông vận tải, thông tin liên lạc bị gián đoạn, các cơ sở hạ tầng, mạng thông tin bị
hư hại nghiêm trọng sau những trận thiên tai. Việc củng cố, khắc phục sau các sự cố do
BĐKH gây ra hết sức khó khăn, tốn kém nhiều thời gian và kinh phí.
6. Giải pháp:
Với việc đưa ra giải pháp, chúng ta sẽ xét trên hai phương diện chính đó là:



Những chính sách, những biện pháp mà nhà nước, nhân dân đã đưa ra và thực hiện
để hạn chế thấp nhất những rủi ro mà biến đổi khí hậu có thể để lại.
Những điều mà ta có thẻ hướng tới làm trong tương lai đẻ đảm bảo cuộc sống bình
thường và vững mạnh của oài người.( hính sách mới hay những điều thiết thực mà sinh
viên có thể làm)

Nhà nước:


a. Để ứng phó với bão, lũ lụt trên toàn lãnh thổ và nước dâng do bão ở các vùng ven biển
cần thực thi một số giải pháp:
- Thực hiện đầy đủ và có hiệu quả phương châm 4 tại chỗ (chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại
chỗ, phương tiện tại chỗ và hậu cần tại chỗ).
- Tăng cường công tác dự báo thời tiết trên cơ sở hiện đại hoá ngành khí tượng thủy văn
(cả về con người và cơ sở vật chất).
- Tăng cường công tác thông tin thời tiết trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt
là hệ thống phát thanh để đến được các vùng sâu, vùng xa, ngư trường, hải đảo…

- Tăng cường cơ sở vật chất và mạng lưới cứu hộ thiên tai bão, lũ, đặc biệt là vùng núi,
ven biển, hải đảo và các ngư trường biển.
- Nhà nước quy hoạch, xây dựng các khu vực tránh bão, tránh lũ, vận động người dân
(có điều kiện kinh tế) xây nhà kiên cố, nhà cao tầng nhằm hạn chế tối đa tổn thất về người và
của. Từng địa phương, vùng có phương án, tổ chức diễn tập theo phương án và tổ chức tốt
cho người dân di chuyển đến nơi cao và an toàn trước các trận bão và lũ lụt, nước dâng có
cường độ lớn.
- Nhà nước có kế hoạch từng bước nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông, trồng cây chắn
sóng, trồng rừng ngập mặn ngoài đê để hạn chế tác động của bão, lũ và nước dâng.
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục vận đồng người dân nâng cao nhận thức và áp dụng
các kĩ thuật giảm nhẹ, thích ứng với tình huống.
- Thực hiện huy động kinh phí của xã hội và các tổ chức quốc tế hỗ trợ cho các khu dân
cư xây dựng các biện pháp phòng ngừa và khắc phục hậu quả.
- Tiến hành các giải pháp giảm thiểu tác động của xói lởi như điều tra hiện trạng, xây dựng
giải pháp kĩ thuật phòng chống xói lở, đầu tư kiên cố hoá một số đoạn đê xung yếu, quy
hoạch các điểm dân cư, các dự án kinh tế - xã hội vùng có nguy cơ xói lở, tổ chức và huy
động sự tham gia của cộng đồng vào công tác bảo vệ, duy tu đê điều hàng năm; đối với khu
vực không có đê, cần tổ chức di dân ra khỏi vùng có nguy cơ sạt lở trong mùa mưa bão.
b. Các giải pháp ứng phó với nguy cơ thiếu nước ngọt và xâm nhập mặn, có thể áp dụng
giải pháp trực tiếp và giải pháp hỗ trợ:
- Về nhóm giải pháp trực tiếp bao gồm:
+ Xây dựng các hệ thống đê bao và bờ ngăn chống lũ và xâm nhập mặn ở đồng bằng
sông Cửu Long, kiên cố hoá và nâng cao đê biển, đê chắn lũ ở đồng bằng sông Hồng và
đồng bằng Trung Bộ.


+ Thúc đẩy ngư nghiệp thông qua ươm, nuôi, đa dạng hoá các mô hình thực tiễn nuôi các
loài thủy sản có khả năng chịu mặn ở các vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long, đồng
bằng sông Hồng và các vùng khác.
+ Mở rộng diện tích rừng ngập mặn ở vùng ven biển, ven sông có sự tham gia của cộng

đồng địa phương.
+ Xây dựng các trạm khai thác nước sạch và cung cấp nước sạch cho các cộng đồng
vùng ven biển với các phương án công nghệ: khai thác nước ngầm tầng sâu ở vùng đồng
bằng ven biển; xây dựng các hồ chứa nước ngọt ở vùng cao liền kề; lọc nước mặn bằng công
nghệ thẩm thấu ngược.
- Về nhóm các giải pháp hỗ trợ gồm:
+ Giảm thiểu hiện tượng nhiễm mặn đồng bằng thông qua chính sách quản lý và bảo vệ
lưu vực sông.
Trong đó, đặc biệt quan tâm đến hợp tác quốc tế trong quản lý lưu vực sông Mê Kông, sông
Hồng.
+ Đối với các sông miền Bắc và miền Trung cần xây dựng quy trình vận hành điều phối
các hồ chứa thủy lợi, thuỷ điện đầu nguồn.
+ Thúc đẩy nghiên cứu các giống cây trồng có khả năng chống, chịu mặn, ngập úng
nhằm chuẩn bị để thích ứng với những biến đổi trong tương lai. Đồng thời, tìm kiếm, phổ
biến kiến thức, kinh nghiệm (đặc biệt là các kiến thức bản địa) về thích ứng với khả năng
BĐKH và thích nghi với nhiễm mặn, nhiễm phèn…
+ Đưa vấn đề BĐKH vào chương trình học tập ở cấp trung học trở lên, phổ biến thông tin
về BĐKH và các giải pháp thích ứng, ứng phó khẩn cấp và nâng cao nhận thức về các thảm
hoạ liên quan đến thiên tai, khí hậu.
c. Hợp tác quốc tế ứng phó với BĐKH trái đất
- Việt Nam cần thoả thuận kí kết các hiệp định đa phương, song phương về hỗ trợ tài
chính và chuyển giao công nghệ mới, thân thiện với môi trường và phối hợp, xây dựng, thực
hiện các dự án CDM nhằm phục vụ phát triển bền vững và giảm phát thải khí nhà kính.
- Nhà nước cần tăng cường hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực
BĐKH và thoả thuận hợp tác về cơ chế phát triển sạch, đẩy mạnh hợp tác tài chính, công
nghệ và xây dưng năng lực trong giai đoạn mới sau Nghị định thư Kyoto, tích cực tham gia
các cuộc hội thảo, hội nghị và đàm phán quốc tế về các vấn đề liên quan đến BĐKH.
- Xây dựng các danh mục dự án thuộc lĩnh vực BĐKH để kêu gọi tài trợ và thiếp nhận
công nghệ từ các nước công nghiệp và các nước phát triển.



- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo, nâng cao năng lực thông qua đầu tư trực tiếp,
tư vấn và xây dựng các hệ thống cảnh báo sớm.
- Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế về BĐKH để nghiên cứu, xây dựng và thực
hiện có hiệu quả Chương trình Mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH.
- Việt Nam cần tham gia hợp tác tích cực trong các dự án và chương trình liên quan đến
BĐKH khu vực, như Tuyên bố Singapore về biến đổi khí hậu, năng lượng và môi trường;
Hợp tác các nước Tiểu vùng sông Mê Kông về quản lý lưu vực và tài nguyên nước sông Mê
Kông; Hợp tác với Trung Quốc về quản lý nước theo lưu vực sông Hồng, sông Đà.
(a) Dự án do UNDP/UNITAR/GEF tài trợ “CC:TRAIN (Giai đoạn 1). Dự án đã giúp xây dựng chính
sách về biến đổi khí hậu nhằm thực hiện Công ước Khung của Liên hiệp quốc về Biến đổi khí hậu
(UNFCCC). Trong khuôn khổ dự án đã xây dựng chương trình quốc gia để thực hiện UNFCCC với
nhiều biện pháp và những hoạt động cụ thể.
(b) Dự án “ Chiến lược giảm nhẹ khí nhà kính với chi phí thấp nhất ở Châu Á” (ALGAS) –Việt Nam
là một trong 12 nước tham gia. Dự án tập trung vào việc nâng cao năng lực quốc gia trong việc
kiểm soát lượng khí nhà kính, đánh giá các phương pháp giảm nhẹ, xây dựng chiến lược và kế hoạch
hành động giảm khí nhà kính với chi phí thấp nhất. Trong dự án này đã thực hiện kiểm kê khí nhà
kính cho năm 1993 dựa trên chỉ dẫn của IPCC.
(c) Dự án của UNEP/GEF “ Vấn đề kinh tế trong hạn chế khí nhà kính - Giai đoạn 1: Thành lập một
hệ phương pháp luận cho việc đánh giá giảm nhẹ biến đổi khí hậu”. Dự án này được xây dựng dựa
trên kết quả các công việc trước đây đặc biệt là của ALGAS. Dự án phân tích tiềm năng giảm khí nhà
kính và các chọn lựa chi phí-hiệu quả, chú trọng vào bốn nội dung chính: (a) Kinh tế vĩ mô liên
quan; (b) Lâm nghiệp và sử dụng đất; (c) Nông nghiệp; và (d) Năng lượng.
(d) “Biến đổi khí hậu ở Châu Á: Việt Nam” - Dự án nghiên cứu khu vực về vấn đề môi trường toàn
cầu được ADB tài trợ. Phạm vi của dự án bao gồm cả kiểm kê phát thải khí nhà kính dựa trên số liệu
năm 1990 và đưa ra các phương án giảm nhẹ KNK cho các lĩnh vực năng lượng, công nghiệp, xây
dựng, giao thông vận tải, nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất. Ngoài ra, dự án cũng bao gồm
nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu đến kinh tế xã hội trong vùng châu thổ sông Hồng và sông
Cửu Long, đánh giá các tác động đến nông nghiệp, chế độ mưa và tài nguyên nước, vùng bờ biển,
lâm nghiệp, sức khoẻ cộng đồng, hệ thống năng lượng, giao thông vận tải và cơ sở hạ tầng.

(e) “Những ảnh hưởng tiềm tàng của biến đổi khí hậu đến kinh tế xã hội ở Việt Nam”- Dự án
được UNEF tài trợ này chú trọng vào nghiên cứu những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với môi
trường tự nhiên và đối với nền kinh tế của Việt Nam, đánh giá những mối liên hệ mật thiết với biến
đổi khí hậu trong tương lai do hậu quả của việc phát thải khí nhà kính. Dự án bao gồm nhiều hoạt
động nghiên cứu tập trung vào việc đánh giá tác động tiềm tàng của biến đổi khí hậu ở Việt Nam
trong lĩnh vực nông nghiệp, sức khoẻ cộng đồng, sản xuất và sử dụng năng lượng, rừng ngập mặn
và đánh bắt ven bờ.
(f) “Việt Nam: Chuẩn bị thông báo quốc gia đầu tiên cho Công ước Khung của Liên hợp quốc về
biến đổi khí hậu” được Viện KTTV thực hiện với mục tiêu chính là báo cáo các hoạt động quốc gia


thực hiện UNFCCC. Đây là thông báo đầu tiên của của Việt Nam cho Ban thư ký Công ước. Thông
báo quốc gia đầu tiên này của Việt Nam đã trình lên UNFCCC vào tháng 11-2003.
(g) Năm 2001, sau khi ký Nghị định thư Kyoto Việt Nam đã tham gia vào chương trình “Nghiên
cứu chiến lược quốc gia về cơ chế phát triển sạch”. Viện KTTV đã thực hiện thành công dự án
“Nghiên cứu chiến lược quốc gia của Việt Nam về cơ chế phát triển sạch” trong đó đã đánh giá tiềm
năng và lợi ích của Việt Nam tham gia cơ chế phát triển sạch và nghị định thư Kyoto.

Chúng ta:
1. Hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch
Một trong những giải pháp khả thi nhất là hạn chế đốt than, dầu và khí thiên nhiên.
Hiện nay, dầu là nhiên liệu phổ biến và cũng từ dầu người ta sản xuất ra nhiều sản phẩm
khác, còn than lại được sử dụng rất phổ biến ở hầu hết các quốc gia, chủ yếu là để sản xuất
điện. Theo các chuyên gia Năng lượng Mỹ, cho tới thời điểm hiện nay chưa có một giải
pháp hoàn hảo nào để thay thế nhiên liệu hóa thạch mặc dù đây là nguồn gây hiệu ứng nhà
kính rất lớn. Bởi vậy, sớm hay muộn con người cũng sẽ phải tìm ra nguồn nhiên liệu khác
thay thế như nhiên liệu sinh học, điện nguyên tử hay các nguồn năng lượng khác.
2. Cải tạo, nâng cấp hạ tầng

Theo số liệu thống kê, nhà ở chiếm tới gần 1/3 lượng phát tán khí gây hiệu ứng nhà kính trên

quy mô toàn cầu (riêng ở Mỹ là 43%). Vì vậy, việc cải tiến trong lĩnh vực xây dựng như tăng
cường hệ thống bảo ôn, xây dựng các cầu thang điều chỉnh nhiệt, các loại nhà "môi
trường"... sẽ tiết kiệm được rất nhiều nhiên liệu và giảm mức phát tán khí thải. Ngoài ra, các
công trình giao thông như cầu đường cũng là yếu tố cần đầu tư thỏa đáng. Đường tốt không
chỉ giảm nhiên liệu cho xe cộ mà còn giảm cả lượng khí phát tán độc hại hoặc sử dụng các
loại lò đốt trong công nghiệp (như lò khí hóa than, lò dùng trong sản xuất xi măng) cũng sẽ
giảm được rất nhiều khí thải gây hiệu ứng nhà kính.
3. Làm việc gần nhà
Theo các nhà khoa học, cứ khoảng 1 galon nhiên liệu (tương đương 4,5lít) cho xe chạy sẽ
tạo ra khoảng 9 kg CO2 phát tán, vì vậy phương án làm việc gần nhà không dùng xe mà đi
bộ hay đi xe đạp vừa có lợi cho sức khỏe lại có lợi về mặt kinh tế môi trường.
4. Giảm tiêu thụ
Một trong những phương án kinh tế nhất là tiết kiệm giảm chi tiêu, điều này không chỉ đúng
trong cuộc sống hàng ngày mà nó còn có tác dụng làm giảm các loại khí thải gây hiệu ứng
nhà kính. Ví dụ như giảm dùng các loại bao gói sẽ giảm được đáng kể chi phí sản xuất lẫn
phí tái chế. Một trong những vấn đề bức xúc hiện nay là sử dụng quá nhiều các loại bao gói
có nguồn gốc từ nhựa plastic đã gây nên hiệu ứng "ô nhiễm trắng"...


5. Ăn uống thông minh, tăng cường rau, hoa quả
Đây là phương án được giới y học khuyến cáo rất nhiều, nhưng đứng về mặt môi trường lại
có ý nghĩa khác. Theo đó, người ta đã khuyến khích việc canh tác hữu cơ, gieo trồng các loại
rau, hoa quả không dùng phân hóa học, thuốc trừ sâu. Việc lựa chọn thực phẩm để cân bằng
dưỡng chất, ngon miệng lại mang tính môi trường quả là không đơn giản, trong khi đó các
hãng sản xuất lại thi nhau quảng cáo nên đã làm cho người tiêu dùng dễ bị nhầm lẫn. Ngoài
ra việc ăn quá nhiều thịt cũng không tốt cho cơ thể, trong khi đó riêng ngành chăn nuôi cũng
là nơi sản xuất ra các loại gây hiệu ứng nhà kính lớn nhất.
6. Chặn đứng nạn phá rừng và trồng thêm cây xanh:
Theo số liệu thống kê của Bộ Môi trường Mỹ, mỗi năm bình quân trên thế giới có khoảng 33
triệu ha rừng bị phá, riêng nạn khai thác gỗ đã tạo ra trên 1,5 tỷ tấn CO2 thải vào môi

trường, chiếm 20% lượng khí thải nhân tạo gây hiệu ứng nhà kính. Vì vậy, chặn đứng nạn
phá rừng sẽ có tác dụng lớn trong việc giảm thiểu nguy cơ biến đổi khí hậu.
7. Tiết kiệm điện
Một trong những giải pháp kinh tế khả thi nhất nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường là tiết
kiệm điện, đặc biệt là sử dụng các thiết bị dân dụng tiết kiệm điện như bóng đèn compact,
các loại pin nạp. Theo các Bộ Môi trường Mỹ, ở quốc gia này mỗi gia đình chỉ cần thay một
bóng đèn dây tóc chiếu sáng bằng bóng compact thì cả nước sẽ tiết kiệm được lượng điện
dùng cho 3 triệu gia đình khác.
8. Mỗi cặp vợ chồng chỉ nên sinh 1 con
Hiện nay trên thế giới đã có trên 6 tỷ người và theo dự báo của LHQ thì đến giữa thế kỷ 21
sẽ tăng lên 9 tỷ và như vậy nhu cầu về thực phẩm, quần áo, các nhu yếu phẩm khác sẽ tăng
lên gấp rưỡi so với hiện nay. Với mức tiêu thụ lớn như vậy sẽ tạo ra nguồn phát tán khí thải
gây hiệu ứng nhà kính rất lớn, nhất là ở các nước đang phát triển. Áp dụng phương án mỗi
cặp vợ chồng chỉ sinh 1 con sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực, được coi là phương án phát
triển bền vững và khả thi nhất trong tương lai.
9. Khai phá những nguồn năng lượng mới
Việc tìm kiếm nguồn năng lượng mới để thay thế nhiên liệu hóa thạch là thách thức lớn nhất
của con người trong thế kỷ 21. Một số nguồn năng lượng ứng viên sáng giá là ethanol từ cây
trồng, hydro từ quá trình thủy phân nước, năng lượng nhiệt, năng lượng sóng, năng lượng
gió, năng lượng mặt trời và nhiên liệu sinh học...
10. Ứng dụng các công nghệ mới trong việc bảo vệ trái đất
Hiện nay các nhà khoa học đang tiến hành những thử nghiệm mới như quá trình can thiệp kỹ
thuật địa chất hay kỹ thuật phong bế mặt trời... nhằm giảm hiệu ứng nhà kính. Ngoài các giải
pháp này, các nhà khoa học còn tính đến kỹ thuật phát tán các hạt sulfate vào không khí để


nó thực hiện quá trình làm lạnh bầu khí quyển như quá trình phun nhan thạch của núi lửa,
hoặc lắp đặt hàng triệu tấm gương nhỏ để làm chệch ánh sáng mặt trời cho tới việc bao phủ
vỏ trái đất bằng các màng phản chiếu để khúc xạ trở lại ánh sáng mặt trời, tạo ra các đại
dương có chứa sắt và các giải pháp tăng cường dưỡng chất giúp cây trồng hấp thụ nhiều

CO2 hơn...
7. Lợi ích
Biến đổi khí hậu là điều không ai mong muốn bởi nó mang lại nhiều cái hại hơn là lợi.
Nhưng xét công bằng thì chính biến đổi khí hậu cũng mang đến cho con người những điều
có lợi như:
• Là một cơ hội để thúc đẩy các nước đổi mới công nghệ, phát triển công nghệ sạch,
công nghệ thân thiện với môi trường và triển khai các hoạt động nghiên cứu có liên
quan
• Phát triển trồng rừng để hấp thụ CO2, giảm phát thải khí nhà kính.
• Ở một số nước ôn đới khi nhiệt độ tăng sẽ thuận lợi để phát triển nông nghiệp, năng
lượng để sưởi ấm cũng được tiết kiệm hơn
Phần Kết:
Tuy nhiên, đúng như đã nói, hậu quả của BĐKH vẫn luôn lớn hơn và lớn hơn gấp hàng nghìn lần
so với lợi ích mà nó đem lại. Từng ngày từng giờ, chúng ta luôn phải đối mặt với những hậu quả
khôn lường đó. Hãy cùng theo theo dõi một đoạn clip ngắn sau…
Có thể các bạn sẽ nghĩ rằng những giải pháp chúng tôi đưa gia không thực tế. Đúng là như vậy.
Quả thật, chúng sẽ chỉ nằm trong sách vở nếu chúng ta không cùng nhau thực hiện nó. Một mình
cá nhân tôi không thể làm được điều này, tôi cần có các bạn. Nhưng chúng ta cũng chỉ có thể
thay đổi được một phần vô cùng nhỏ bé thôi, Vì vậy, chúng ta cần có cả cộng đồng, toàn Việt
Nam và toàn thế giới cùng nhau chung tay giảm nhẹ, thích ứng và ứng phó với BĐKH.
Xin chân thành cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe bài thuyết trình!



×