Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Biến đổi khí hậu ở Việt Nam - Hiện trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.78 KB, 40 trang )

Chuyên đề 1: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở VIỆT NAM HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
A – MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề.
Các hoạt động của con người trong nhiều thập kỷ gần đây đã làm tăng đáng kể những
tác nhân gây hiệu ứng nhà kính (nồng độ khí thải trong các hoạt động công nghiệp, giao
thông, sự gia tăng dân số…), làm trái đât nóng dần lên, từ đó gây ra hàng loạt những thay đổi
bất lợi và không thể đảo ngược của môi trường tự nhiên. Nếu chúng ta không có những hành
động kịp thời nhằm hạn chế, giảm thiểu và thích nghi, hậu quả đem lại sẽ vô cùng thảm khốc.
Theo dự báo của Ủy ban Liên Quốc gia về biến đổi khí hậu (IPCC), đến năm 2100
nhiệt độ toàn cầu sẽ tăng thêm từ 1,4
0
C tới 5,8
0
C. Sự nóng lên của bề mặt trái đất sẽ làm
băng tan ở hai cực và các vùng núi cao, làm mực nước biển dâng cao thêm khoảng 90 cm
(theo kịch bản cao), sẽ nhấn chìm một số đảo nhỏ và nhiều vùng đồng bằng ven biển có địa
hình thấp.
Theo dự báo cái giá mà mỗi quốc gia phải trả để giải quyết hậu quả của biến đổi khí
hậu trong một vài chục năm nữa sẽ vào khoảng từ 5-20% GDP mỗi năm, trong đó chi phí và
tổn thất ở các nước đang phát triển sẽ lớn hơn nhiều so với các nước phát triển.
Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của BĐKH. Biến đổi khí
hậu (BĐKH) là sự biến động trạng thái trung bình của khí quyển toàn cầu hay khu vực theo
thời gian từ vài thập kỷ đến hàng triệu năm (IPCC,2007 [6]).. Những biến đổi này được gây
ra do quá trình động lực của trái đất, bức xạ mặt trời, và gần đây có thêm hoạt động của con
người. BĐKH trong thời gian thế kỷ 20 đến nay được gây ra chủ yếu do con người, do vậy
thuật ngữ BĐKH (hoặc còn được gọi là sự ấm lên toàn cầu-global warming) được coi là đồng
nghĩa với BĐKH hiện đai.
Biến đổi khí hậu gây nguy hại cho tất cả mọi sinh vật sống trên toàn cầu. Vì thế, biến
đổi khí hậu là một vấn đề hiện đang được các nước trên thế giới quan tâm sâu sắc. Để góp
phần nhỏ vào việc tuyên truyền cho người dân nhận thức rõ hơn về thảm họa của biến đổi khí
hậu – Bảo vệ môi trường xanh, sạch đẹp em chọn chuyên đề “Biến đổi khí hậu ở Việt Nam


thực trạng và giải pháp”
- 1 -
B – NỘI DUNG
2. Cơ sở lý luận
2.1. Định nghĩa về khí hậu (climate):


Quan niệm của Alixop về khí hậu: khí hậu của môt nơi nào đó là chế độ thời tiết đặc
trưng về phương diện nhiều năm, được tạo nên bởi bức xạ mặt trời, dặc tính của mặt đệm về
hoàn lưu khí hậu.
Các nhân tố hình thành khí hậu: nhân tố bức xạ, cân bằng bức xạ mặt đất, cân bằng
bức xạ khí quyển, cân bằng bức xạ hệ mặt đất-khí quyển, cân bằng nhiệt Trái Đất.
Thời tiết trung bình của một vùng riêng biệt nào đó, tồn tại trong khoảng thời gian dài,
thông thường 30 năm (theo WMO) bao gồm các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, các hiện
tượng xảy ra trong khí quyển và nhiều yếu tố thời tiết khác là một trạng thái, gồm thống kê
mô tả của hệ thống khí hậu.
Các yếu tố khí tượng: bức xạ mặt trời, lượng mây, khí áp (áp suất khí quyển), tốc độ
và hướng gió, nhiệt độ không khí, lượng nước rơi (lượng giáng thủy), bốc hơi và độ ẩm
không khí, hiện tượng thời tiết.
2.2. Khái niệm biến đổi khí hậu (climate change):
Hệ thống khí hậu Trái đất bao gồm khí quyển, lục địa, đại dương, băng quyển và sinh
quyển. Các quá trình khí hậu diễn ra trong sự tương tác liên tục của những thành phần này.
Quy mô thời gian của sự hồi tiếp ở mỗi thành phần khác nhau rất nhiều. Nhiều quá trình hồi
tiếp của các nhân tố vật lý, hóa học và sinh hóa có vài trò tăng tường sự biến đổi khí hậu
hoặc hạn chế sự biến đổi khí hậu. Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu
đã định nghĩa: “Biến đổi khí hậu là “những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu”, là
những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại đáng
kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của các hệ sinh thái tự nhiên và được
quản lý hoặc đến hoạt động của các hệ thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi
của con người”.

Biến đổi khí hậu (BĐKH) trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển,
thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên
và nhân tạo. Sự thay đổi về khí hậu gây ra trực tiếp hay gián tiếp từ hoạt động của con người
làm thay đổi cấu thành của khí quyển trái đất mà, cùng với biến đổi khí hậu tự nhiên, đã được
quan sát trong một thời kì nhất định”. (UNFCCC).
- 2 -
Biến đổi khí hậu là sự biến động trạng thái trung bình của khí quyển toàn cầu hay khu
vực theo thời gian từ vài thập kỷ đến hàng triệu năm (IPCC,2007)... )...” Những biến đổi này
được gây ra do quá trình động lực của trái đất, bức xạ mặt trời, và có sự tác động từ các hoạt
động của con người.
Những biến đổi này được gây ra do quá trình động lực của trái đất, bức xạ mặt trời, và
gần đây có thêm hoạt động của con người. BĐKH trong thời gian thế kỷ XX đến nay được
gây ra chủ yếu do con người, do vậy thuật ngữ BĐKH (hoặc còn được gọi là sự ấm lên toàn
cầu – Global warming) được coi là đồng nghĩa với BĐKH hiện đại.)
2.3. Nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu:
Biến đổi khí hậu toàn cầu là điều không thể tránh khỏi, dù chúng ta kiểm soát
mức phát thải khí nhà kính tốt đến đâu. Nguyên nhân là mức khí thải hiện có trong khí quyển
sẽ tiếp tục làm nhiệt độ và mực nước biển gia tăng trong thế kỷ tới.
Chuyên gia khí hậu Gerald Meehl và đồng nghiệp thuộc Trung tâm Nghiên cứu Khí
quyển quốc gia Mỹ (NCAR) cùng cộng sự đã sử dụng mô hình khí hậu trên máy tính để dự
đoán điều gì sẽ xảy ra nếu con người kiểm soát khí thải nhà kính ở các mức khác nhau.
Nghiên cứu trên có tính tới phản ứng chậm chạp của đại dương đối với ấm hoá toàn cầu. Kết
quả cho thấy viễn cảnh lạc quan nhất - tức lượng khí thải nhà kính trong khí quyển được duy
trì ở mức năm 2000 - đòi hỏi phải cắt giảm mạnh mẽ lượng khí CO
2
nhiều hơn so với mức
trong Nghị định thư Kyoto. Ngay cả trong trường hợp này, nhiệt độ toàn cầu vẫn sẽ tiếp tục
tăng thêm 0,4–0,6
o
C trong thế kỷ XXI, ngang bằng với nhiệt độ gia tăng trong suốt thế kỷ

XX.
Biến đổi khí hậu là một vấn đề hiện đang được các nước trên thế giới quan tâm sâu
sắc. Biến đổi khí hậu mà tiêu biểu là sự nóng lên toàn cầu đang diễn ra. Nhiệt độ trên thế giới
đã tăng thêm khoảng 0,7
0
C kể từ thời kỳ tiền công nghiệp và hiện đang tăng với tốc độ ngày
càng cao. Ngoài các nguyên nhân tự nhiên và tính chất biến đổi phức tạp của các hệ thống
khí hậu trên thế giới, hầu hết các nhà khoa học về môi trường hàng đầu trên thế giới đều
khẳng định: các loại khí nhà kính phát thải vào khí quyển do các hoạt động của con người đã
làm cho khí hậu toàn cầu nóng lên.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy việc phát xả khí nhà kính (chủ yếu là CO
2

Metan CH
2
) là nguyên nhân hàng đầu của BĐKH, đặc biệt kể từ 1950 khi thế giới đẩy nhanh
tốc độ công nghiệp hóa và tiêu dùng, liên quan với điều đó là sự tăng cường sử dụng nhiên
- 3 -
liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, sản xuất xi măng, phá rừng và gia tăng chăn nuôi đại gia
súc (phát xả nhiều phân gia súc tạo ra nguồn tăng Metan), khai hoang các vùng đất ngập
nước chứa than bùn.. Kết luận của các nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học Berne - Thụy Sĩ
công bố trên tạp chí khoa học Nature ngày 15.5 cho biết nồng độ khí CO
2
trong khí quyển
hiện ở mức cao nhất trong 800.000 năm qua. Vì vậy, nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu
Trái đất được cho là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt
động khai thác quá mức các bể hấp thụ khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái
biển, ven bờ và đất liền khác. Nhằm hạn chế sự biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto nhằm
hạn chế và ổn định sáu loại khí nhà kính chủ yếu bao gồm: CO
2

, CH
4
, N
2
O, HFCs, PFCs và
SF
6
.
+ CO
2
phát thải khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và là nguồn khí nhà
kính chủ yếu do con người gây ra trong khí quyển. CO
2
cũng sinh ra tử các hoạt động công
nghiệp như sản xuất xi măng và cán thép.
+ CH
4
sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai lại, hệ thống
khí, dầu tự nhiên và khai thác than.
+ N
2
O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp.
+ HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và HFC-23 là sản phẩm
phụ của quá trình sản uất HCFC-22.
+ PFCs sinh ra từ quá trình sản xuất nhôm.
+ SF
6
sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản xuất magiê
2.4. Các biểu hiện của biến đổi khí hậu:
- Sự nóng lên của khí quyển và Trái đất nói chung.

- Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của con
người và các sinh vật trên Trái đất.
- Sự dâng cao mực nước biển do băng tan, dẫn tới sự ngập úng ở các vùng đất thấp,
các đảo nhỏ trên biển.
- Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau
của Trái đất dẫn tới nguy cơ đe doạ sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái và hoạt
động của con người.
- Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần
hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác.
- 4 -
- Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của
thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển.
Bằng chứng về sự nóng lên của hệ thống khí hậu được thể hiện ở sự gia tăng nhiệt độ
trung bình của không khí và đại dương trên toàn cầu, tình trạng băng tan và tăng mực nước
biển trung bình trở nên phổ biến. 11 trong số 12 năm qua (1995-2006) được xếp vào những
năm có nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng kỷ lục (từ năm 1850). Xu thế nhiệt độ tăng trong 100
năm (kể từ năm 1906 – 2005) là 0,74
0
C (0,56
0
C đến 0,92
0
C), lớn hơn xu thế được đưa ra
trong báo cáo đánh giá lần thứ 3 của IPCC là 0,6
0
C (từ 0,4
0
C đến 0,8
0
C) (1901-2000). Sự gia

tăng nhiệt độ đang trở nên phổ biến trên toàn cầu và tăng nhiều hơn ở các khu vực vĩ độ cao
ở phía bắc. Khu vực đất liền nóng lên nhanh hơn các khu vực đại dương. Những thay đổi về
nồng độ khí nhà kính trong khí quyển, các sol khí, độ che phủ đất và bức xạ mặt trời đã làm
thay đổi cân bằng năng lượng của hệ thống khí hậu. Lượng khí thải nhà kính trên toàn cầu do
con người đã tăng khoảng 70% so với thời kỳ trước cách mạng công nghiệp, trong khoảng
thời gian từ 1970 đến 2004.
3. Thực trạng biến đổi khí hậu ở Việt Nam trong những năm gần đây
Một số phác thảo kịch bản BĐKH ở Việt Nam đã được công bố tại Hội thảo BĐKH
toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt Nam tại Hà Nôi tháng 2/2008, được trình bày tóm tắt
dưới đây.
Bảng 1.Thông báo Quốc gia về Biến đổi khí hậu ở Việt Nam (so với năm 1990)
Năm Nhiệt độ tăng thêm(0C) Mực nước biển tăng thêm (cm)
2010 0,3-0,5 9
2050 1,1-1,8 33
2100 1,5-2,5 45
Nguồn: Nguyễn Khắc Hiếu, 2008 [1]. Chú ý rằng số liệu trên chưa tính đến tính ì của khí hậu
và đặc điểm sụt hạ địa chất địa phương
Bảng 2.Kịch bản BĐKH các vùng của Việt Nam (nhiệt độ tăng thêm 0C so với năm 1990)
Năm Tây
Bắc
Đông
Bắc
Đồng
bằng
BB
Bắc
Trung
Bộ
Nam
Trung

Bộ
Tây
nguyên
Nam
Bộ
2050 1,41 1,66 1,44 1,68 1,13 1,01 1,21
2100 3,49 4,38 3,71 3,88 2,77 2,39 2,80
Nguồn:Nguyễn Khắc Hiếu, 2008 [1].
Bảng 3. Kịch bản nước biển dâng ở Việt Nam so với năm 1990
- 5 -
Kịch bản / năm 2050 2100
A1F1 13,7 39,7
A2 12,5 33,1
A1B 13,3 31,5
B2 12,8 28,8
A1T 12,7 27,9
B1 13,4 26,9
Nguồn: Nguyễn Khắc Hiếu, 2008 [1] chú ý số liệu chưa tính đến biên độ sụt hạ địa chất địa
phương
Tính trung bình của cả 6 kịch bản thì đến cuối thế kỷ 21 nhiệt đô có khả năng tăng
thêm 2,80C, mực nước biển dâng cao thêm 37cm chưa tính đến sự tan băng mà chỉ tính đến
sự dãn nở nước đại dương.IPCC cũng dự báo rằng cuối thế kỷ 21 mực nước biển có thể tăng
thêm tối đa 81 cm [6]. Tuy nhiên các nhà khoa học Anh cho rằng con số đó chưa phản ánh
đúng, nước biển cuối thế kỷ 21 có thể tăng thêm đến 163 cm- tức là gấp đôi số liệu dự báo
của IPCC.
Xu thế chung của BĐKH ở Việt Nam:
Nhiệt độ ở các vùng phía Bắc tăng nhanh hơn các vùng phía Nam, nhiệt độ ở các vùng
ven biển tăng chậm hơn các vùng sâu hơn trong lục địa. Đến cuối thế kỷ 21 nhiệt độ có thể
tăng thêm từ 4,0 đến 4,50C theo kịch bản cao nhất và 2,0 đến 2,20C theo kịch bản thấp nhất.
Biên độ dâng cao mực nước biển ở nước ta là khá lớn theo tất cả các kịch bản, măc dù vậy

vẫn chỉ là tương đương hoặc thấp hơn chút ít so với dự báo của IPCC năm 2007
BĐKH kéo theo hiện tượng El Nino, làm giảm đến 20-25% lượng mưa ở khu vực
miền Trung-Tây Nguyên, gây ra hạn hán không chỉ phổ biến và kéo dài mà thậm chí còn gây
khô hạn thời đoạn ngay trong thời gian El Nino. Tác động này ở Nam Trung Bộ lớn hơn Bắc
Trung Bộ, Bắc Tây Nguyên lớn hơn Nam Tây Nguyên.
Những hiểm họa BĐKH đã, đang và sẽ xảy ra ở Việt Nam:
Sự biến động của thời tiết nước ta không thể tách rời những thay đổi lớn của khí
hậu thời tiết toàn cầu. Chính sự biến đổi phức tạp của hệ thống khí hậu thời tiết toàn cầu
đã và đang làm tăng thêm tính cực đoan của khí hậu thời tiết Việt Nam. Như chúng ta đã
biết, Thời kỳ băng hà cuối cùng của địa cầu trong kỷ Đệ tứ (băng hà Wurm 2) lạnh nhất cách
đây khoảng 18.000 năm. Tại thời điểm đó: Biển lùi xa về phía Đông. Đường bờ biển thời đó
nằm trên thềm lục địa ở độ sâu 100- 120 m so với mực nước biển hiện tại. Toàn bộ vùng
Vịnh Bắc Bộ và thềm Sunda (nối liền Nam Bộ Việt Nam với Indonesia), vịnh Thái Lan còn
- 6 -
là đất liền. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở Việt Nam vào thời băng hà lạnh nhất đó thấp hơn
so với ngày nay khoảng 5-7°C. Băng bắt đầu tan và mực nước biển bắt đầu dâng lên từ
khoảng 15.000 năm trước đây. Nhiệt độ Trái đất cũng như đường bờ biển đạt đến mức như
bây giờ vào khoảng 10.000 năm nay. Tuy nhiên, Trái đất vẫn tiếp tục nóng lên và băng tiếp
tục tan, biển vẫn tiến lấn sâu hơn vào so với đường bờ hiện tại. Nhiều bằng chứng thực vật ở
Đông Nam Á cho thấy, nhiệt độ trung bình ấm hơn ngày nay chừng 2°C ở khoảng 8.000 năm
cách nay, nhưng phải đến khoảng 6.000-5.000 năm cách nay, băng mới ngừng tan và nước
biển mới dừng ở độ cao 4-6 m so với mực nước biển ngày nay (biển tiến Flanđri). Các nhà
nghiên cứu khảo cổ Việt Nam đã phát hiện nhiều bằng chứng về con người trong lịch sử đã
chịu ảnh hưởng của các đợt biển tiến do nhiệt độ Trái đất ấm lên đó. Do mực nước biển dâng
cao hơn ngày nay 4-6 m, biển lấn sâu vào lục địa có chỗ tới hàng trăm km. Dấu tích đường
bờ biển đương thời xuất lộ ngay ở sát rìa Hà Nội, đến tận sát chân các dãy núi đá vôi thuộc
Hà Tây, Ninh Bình, Thanh Hóa và các tỉnh miền Trung. Những tài liệu nghiên cứu chi tiết về
địa chất học và khảo cổ học còn cho biết, từ đó đến nay, xu hướng chung là biển lùi, song
vẫn có một số chu kỳ tiến, lùi với biên độ dao động mực nước biển trên dưới 2-3 m vào
khoảng trước 3000 năm, sát trước và sau công nguyên và khoảng 1000-1200 năm sau công

nguyên đến nay. Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng, nếu chu kỳ biển tiến, lùi với biên độ thời
gian khoảng 800-1000 năm thì hiện tại chúng ta đang ở đoạn cuối của chu kỳ biển tiến hiện
đại, không loại trừ tốc độ sẽ nhanh hơn nhiều hoặc có đột biến. Như vậy, mực nước biển
dâng đang xảy ra nằm trong chu trình chung của biến động, cộng thêm tác động nhanh do
hiệu ứng nhà kính gây ra. Vậy chúng ta thấy gì và nghĩ gì về những hiểm họa này trước thực
tế và thực tiễn Việt Nam? Những biến động thời tiết bất thường gây thiệt hại lớn cho đời
sống dân cư và thiên tai cần được nghiên cứu, xem xét theo chiều hướng có sự báo động toàn
cầu về gia tăng nhiệt độ bề mặt Trái đất và mực nước biển ngày càng dâng cao: nhiệt độ khí
quyển và thủy quyển tăng lên kéo theo những biến động khác thường (hiện tượng El Nino)
làm cho chế độ thời tiết gió mùa bị xáo động bất thường; bão có xu hướng gia tăng về cường
độ, bất thường về thời gian và hướng dịch chuyển; thời tiết mùa đông nói chung ấm lên, mùa
hè nóng thêm; xuất hiện bão lũ và khô hạn bất thường. Hiện tượng ngập úng vùng đồng bằng
châu thổ mở rộng vào mùa mưa lũ, các dòng sông tăng cường xâm thực ngang gây sạt lở lớn
các vùng dân cư tập trung ở 2 bờ trên nhiều khu vực từ Bắc chí Nam. Hiện tượng này cũng
đồng thời tạo cồn, bãi bồi, lấp dòng chảy các sông, nhánh sông ở vùng hạ du; ở những sông
- 7 -
đã xây dựng hệ thống đê kiên cố thì có hiện tượng bồi lấp ngay chính dòng sông cũng như
tuyến khống chế giữa hai bờ đê, tạo nên thế địa hình ngược; những dòng sông nổi cao hơn cả
đồng bằng hai bên sông. Vào mùa khô, hiện tượng phổ biến là nước triều tác động ngày càng
sâu về phía trung du, hiện tượng nhiễm mặn ngày càng tiến sâu vào lục địa. Ở vùng ven biển,
đã thấy rõ hiện tượng vùng ngập triều cửa sông mở rộng hình phễu (hiện tượng estuary) trên
những diện rộng, nhất là ở hạ du các hệ thống sông nghèo phù sa. Rõ nhất là vùng hạ du hệ
thống sông Thái Bình - Bạch Đằng, ở vùng ven biển Hải Phòng, Quảng Ninh và hệ thống
sông Đồng Nai, ở vùng ven biển Bà Rịa - Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh. Vào mùa
khô, các nhánh sông và dòng sông ở các khu vực này đã không thể đóng vai trò tiêu thoát
nước về phía biển, biến thành những dòng sông, kênh tù đọng với mức độ ô nhiễm nhân tạo
gây nguy hại cho đời sống của những vùng dân cư đông đảo (thuộc diện này có thể kể đến cả
vùng rộng lớn thuộc các lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy, Châu Giang ở phía tây nam Hà Nội
và các tỉnh Hà Tây, Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình).
Hiện tượng sạt lở bờ biển trên nhiều đoạn kéo dài hàng chục, hàng trăm km với tốc độ

phá hủy bờ sâu vào đất liền hàng chục, thậm chí hàng trăm mét, là hiện tượng xảy ra thường
xuyên trong nhiều năm gần đây, liên quan đến sự tàn phá do gia tăng bão, sóng lớn và sự thay
đổi của động lực biển ở đới bờ. Hiện tượng hình thành các cồn cát chắn và tái trầm tích bồi
lấp luồng vào các cửa sông, gây trở ngại lớn cho hoạt động vận tải ra vào các cảng biển,
khiến cho những công trình nạo vét rất tốn kém đều nhanh chóng bị vô hiệu hóa.
Biến đổi khí hậu tại Việt Nam (VN) ảnh hưởng lên đời sống của người dân ngày càng
rõ ràng. Nếu như năm 1990, TP.HCM chỉ có 10 điểm ngập thì đến năm 2003, số điểm ngập
đã tăng lên 80 điểm và hiện là 100 điểm ngập.Th.s Hoàng Phi Long, ĐH Bách Khoa dự tính,
nếu mức thủy triều đỉnh chỉ cần tăng lên 50cm nữa thì gần như 90% diện tích đất của
TPHCM đều bị ngập. Khảo sát của Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và môi trường cho
biết, tại Bến Tre, mực nước biển đã dâng lên khoảng 20 cm so với cách đây 10 năm, hiện
tượng thời tiết cực đoan xuất hiện ngày càng nhiều. “Trước đây vùng này không hề có bão
nhưng năm 2007 đã có bão...”. Do biến đổi khí hậu, ô nhiễm mặn đã tăng lên khoảng 20% so
với trước đó 10 năm. Tại Thừa Thiên - Huế, thay đổi khí hậu còn đậm nét hơn, cường độ
mưa tăng rõ rệt. Từ năm 1952 đến 2005 đã có 32 cơn bão ảnh hưởng trực tiếp và lũ lụt
thường xuyên hơn nửa đầu thế kỷ trước. Không những thế, mực nước biển và đỉnh lũ lần sau
luôn cao hơn lần trước. Chỉ riêng năm 1999, mực nước biển tháng 11 đã lên đến mức cao
- 8 -
nhất so với trước đây. “Thay đổi khí hậu làm gia tăng thiên tai ở nhiều vùng miền của VN.
Điều này được thể hiện rõ qua hiện tượng bão lụt xảy ra liên tiếp tại khu vực duyên hải miền
Trung VN những năm gần đây” - ông Christophe Bahuet, Phó đại diện Chương trình Phát
triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) tại VN, khẳng định. Báo cáo phát triển con người 2007/2008
của ông Christophe Bahuet cảnh báo rằng nếu nhiệt độ tăng lên từ 3
0
C-4
0
C, các quốc đảo nhỏ
và các nước đang phát triển sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Khi mực nước biển dâng lên
khoảng 1 m, VN sẽ có khoảng 22 triệu người bị mất nhà cửa; vùng trũng Ai Cập có khoảng 6
triệu người mất nhà cửa và 4.500 km

2
đất ngập lụt; ở Bangladesh có khoảng 18% diện tích
đất ngập úng, tác động tới 11% dân số... Tuy nhiên, ông Christophe Bahuet cũng cho rằng
không chỉ những nước đang phát triển ảnh hưởng mà những nước đã phát triển cũng không
tránh khỏi thảm họa biến đổi khí hậu. Trước mắt, băng tan sẽ đe dọa hơn 40% dân số toàn thế
giới. Mặt khác, biến đổi khí hậu sẽ làm cho năng suất nông nghiệp giảm, thời tiết cực đoan
tăng, thiếu nước ngọt trầm trọng trên toàn thế giới, hệ sinh thái tan vỡ và bệnh tật gia tăng...
Những nước như VN, Bangladesh, Ai Cập... sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất. Nguy cơ bão lụt,
thiên tai sẽ làm cho những nước này rất khó khăn để phát triển kinh tế, đẩy lùi đói nghèo.
Theo dự báo của Văn phòng quản lý điều tra tài nguyên biển và môi trường (Bộ Tài nguyên
và Môi trường), ở Việt Nam mực nước biển sẽ dâng cao từ 3 đến 15 cm năm 2010 và từ 15
đến 90 cm vào năm 2070; các vùng ảnh hưởng gồm có Cà Mau, Kiên Giang, Bà Rịa-Vũng
Tàu, Thanh Hóa, Nam Định, Thái Bình. Cũng theo dự báo này, nếu mực nước biển dâng cao
1 mét thì 23% dân số sẽ thiếu đất.
Bảng 1: Các vụ thiên tai lớn gần đây ở Việt Nam & các tác động
Thiên tai Số người chết,
mất
tích/thương tật
Tác động chính(số liệu do CCFSC
cung cấp chính thức)
Ước
tính
tổn
thất
(triệu
USD)
Các trận lũ ở Đồng
bằng Sông Hồng,
1996
89, 0 / 82 - 84,265 căn nhà bị đổ và ngập

- 1,313 lớp học bị thiệt hại
- 57,900 ha lúa bị ngập
- 11,675 ha đất nông nghiệp bị
30
- 9 -
thiệt hại
- 806 ha ao tôm/cá bị ngập tràn
- 178 tấn cá và tôm bị thiệt hại
Bão Linda ở Cà
Mau, 1997
778, 2123 /
1232
- 312,456 căn nhà bị đổ và phá
huỷ
- 7,151 trường bị phá huỷ
- 348 bệnh viên và trung tâm y tế
bị ngập và phá huỷ
- 323,050 ha ruộng lúa bị thiệt hại
- 57,751 ha đất nông nghiệp bị
ngập và phá huỷ
- 136,334 ha đầm cá bị ngập
- 7,753 tàu thuyền bị phá huỷ
450
Các đợt hạn hán
1997, 1998
- tổn thất nặng nề cây trồng ở
miền Trung
Không
có số
liệu

Các trận lụt miền
Trung năm 1999
721, 35 / 476
- Hơn 1 triệu căn nhà bị hư hại
- 5,915 lớp học bị phá huỷ
- 701 bệnh viện và trung tâm y tế
bị ngập và phá huỷ
- 67,354 ha ruộng lúa bị ngập
- 98,109 ha đất nông nghiệp bị
thiệt hại
- 41,508 ha đầm cá tôm bị ngập
- 1,335 tấn cá tôm bị phá huỷ
- 2,232 tàu thuyền bị chìm
300
Các trận lũ sông ở
đồng bằng Sông
Cửu Long, 2000
481, 1 / 6
- 895,499 căn nhà bị hư hại
- 12,909 lớp học bị huỷ hoại
- 379 bệnh viện và trung tâm y tế
- 10 -
bị ngập và phá huỷ
- 401,342 ha ruộng lúa bị ngập và
thiệt hại
- 85,234 ha đất nông nghiệp bị
thiệt hại
- 16,215 ha đầm nuôi cá tôm bị
ngập
- 2,484 tấn cá tôm bị phá huỷ

250
Các trận lũ sông ở
đồng bằng Sông
Cửu Long, 2001
393, 1 / 0 - 345,238 căn nhà bị hư hại
- 5,315 lớp học bị huỷ hoại
- 20,690 ha ruộng lúa bị ngập và
thiệt hại
- 1,872 ha đất nông nghiệp bị
thiệt hại
- 4,580 ha đầm nuôi cá tôm bị
ngập
- 969 tấn cá tôm bị phá huỷ
100
Cơn bão Damrey ở
miền Bắc và Bắc
Trung Bộ, 2005
10, 0 / 11
- 113,431 căn nhà bị hư hại
- 3,922 lớp học bị huỷ hoại
- 2,227,627 ha ruộng lúa bị ngập
và thiệt hại
- 55,216 ha đất nông nghiệp bị
thiệt hại
- 21,193 ha đầm nuôi cá tôm bị
ngập
- 1,300 tấn cá tôm bị phá huỷ
200
Bão Chanchu ở
miền Trung, 2006

19, 249 / 1 - Thuyền đánh cá bị chìm ở Biển
Đông
2
- 349,348 căn nhà bị đổ và ngập
- 11 -
Bão Xangsane ở
miền Trung, 2006
72, 4 / 532
- 5,236 lớp học bị huỷ hoại
- 21,548 ha ruộng lúa bị ngập và
thiệt hại
- 3,974 ha đầm nuôi cá tôm bị
ngập
- 494 tấn cá tôm bị phá huỷ
- 951 tàu thuyền bị chìm
650
Và gần đây nhất ở miền Trung Sáu trận lụt liên tiếp chưa từng có xuất hiện đã gây
thiệt hại nặng nề cho người dân. Rồi đợt triều cường lớn nhất trong vòng 48 năm qua ở
TPHCM và nhiều tỉnh Nam Bộ, dịch tiêu chảy cấp bùng phát phức tạp và bất thường khiến
ngành y tế nước ta lúng túng…
Làng mạc Quảng Nam ngập chìm trong lũ lịch sử vùa xảy ra gần đây
Biến đổi khí hậu tại Việt Nam ngày
càng khắc nghiệt theo (báo Dân trí) - Biến
đổi khí hậu (BĐKH) sẽ tác động nghiêm
trọng đến Việt Nam trong thời gian tới.
Nhiệt độ toàn quốc tăng cao, hạn hán kéo
dài và bất thường, nguồn nước ở các hệ
thống sông lớn có xu hướng giảm nhanh.
Khí hậu thay đổi, khô hạn đe dọa khắp cả nước. (Ảnh minh họa)
Riêng ở Việt Nam, nước biển dâng

sẽ khiến 22 triệu người Việt Nam mất nhà
cửa với thiệt hại lên tới 10% GDP. Lũ lụt
và bão tố mạnh hơn cũng có thể làm chậm
những tiến bộ trong phát triển con người ở
những vùng dân cư chính yếu, kể cả Đồng
bằng sông Cửu Long.
4. Những giải pháp khắc phục tình trạng biến đổi khí hậu:
Từ thực trạng của biến đổi khí hậu toàn cầu đặt ra hai vấn đề lớn mà nhân loại cần
phải giải quyết:
- 12 -
Một là làm giảm tác động biến đổi khí hậu
Hai là thích ứng với biến đổi khí hậu.
Để làm giảm tốc độ của biến đổi khí hậu có liên quan đến nhiều lĩnh vực như nền kinh
tế chúng ta phải làm. Hiện nay tất cả các nước trên thế giới đang sử dụng nguồn nhiên liệu có
nguồn gốc hóa thạch như dầu lửa, than đá... Cần phải sử dụng nhiên liệu hóa thạch một cách
hợp lý để giảm khí thải nhà kính. Chúng ta cần phải tiết kiệm năng lượng, sử dụng các hình
thực năng lượng khác như nhiên liệu sinh học, năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng
lượng nguyên tử... thay thế các nhiên liệu dùng nhiên liệu hoá thạch như than đá, dầu lửa. Có
rất nhiều các biện pháp liên ngành và đòi hỏi các chính sách phù hợp với từng nước và từng
địa phương với mục tiêu tối đa. Mặt khác, chúng ta phải làm sao có những biện pháp đối phó
thích nghi sống cùng biến đối khí hậu và tránh thiệt hại tối đa, chính sách, truyền thông các
biện pháp ứng phó. Khi chúng ta đắp đê biển chúng ta trồng rừng ngập mặn ở phía ngoài để
bảo vệ. Để có thể giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu thế giới cần tăng cường các biện pháp
nhằm giảm thiểu phát thải khí nhà kính từ các nước công nghiệp và huy động sự tham gia
nhiều hơn nữa của các nước đang phát triển, đề ra các biện pháp khuyến khích các nước này
hạn chế mức phát thải, đồng thời đảm bảo tăng trưởng kinh tế.
4.1. Thích ứng biến đổi khí hậu trong nông nghiệp:
Thích ứng phản ứng lại gồm: Quản lý sạt lở, duy trì đất màu mỡ, xây dựng đập thuỷ
lợi, chương trình giáo dục mở rộng đối với việc quản lý và bảo vệ nguồn đất và nước, thay
đổi việc sử dụng và áp dụng phân bón, thay đổi thời gian trồng trọt và thu hoạch, chuyển đổi

loại cây trồng. Thích ứng truớc kỳ hạn gồm: nghiên cứu và phát triển các vấn đề trong nông
nghiệp; quản lý đất và nước; có các biện pháp về chính sách khuyến khích trợ cấp về thuế; cơ
chế thị trường, đa dạng hoá và tăng cường về lươong thực cũng như vụ mùa; phát triển vụ
mùa có khả năng chịu hạn, mặn, côn trùng, sâu bọ; phát triển hệ thống cảnh báo sớm cho các
sự kiện cưc đại; các biện pháp thích ứng biến đổi khí hậu.
Trong nông nghiệp và lâm nghiệp sử dụng nhiều phân bón hữu cơ để tránh phát thải
khí metan rất nhiều. Đôi khi những thay đổi tưởng như tầm thường lại có thể giúp được
người dân đối phó được với tai họa tiềm tàng. Chẳng hạn tại các vùng thường xuyên ngập
lụt, tổ chức CARE đã dạy cho người dân chuyển từ nuôi gà sang nuôi vịt ví dụ: phụ nữ
Bangladesh chuyển từ nuôi gà sang nuôi vịt. (Trích báo cáo của CARE, tổ chức nhân đạo
chống nghèo khổ lớn nhất thế giới trình bày tại hội nghị chuẩn bị cho Hội nghị thượng đỉnh
- 13 -
LHQ về biến đổi khí hậu sẽ họp vào tháng 12/2009). Tại những vùng khác lại cần chuyển đổi
cả các giống cây trồng, từ những cây lương thực chỉ trồng trên cạn sẽ được thay thế bằng
những cây trồng chịu nước hoặc ngược lại. Với các biện pháp ấy, dù khí hậu thay đổi thất
thường, lụt hoặc hạn, người ta sẽ không bị mất trắng cả một vụ thu hoạch.
Biến đổi khi hậu là mối đe dọa thực sự đối với sự phát triển kinh tế xã hội đang tiếp
tục diễn ra ở Việt Nam. Lượng mưa ngày càng thất thường và luôn biến đổi, nhiệt độ cao
hơn, tình hình thời tiết ngày càng khốc liệt hơn, như bão, hạn hán và lượng mưa lớn gây ngập
lụt và mực nước biển dâng cao, tất cả chắc chắn sẽ có những tác động đáng kể đến các ngành
và các vùng, và các nhóm thu nhập và nhất là an sinh của dân nghèo nông thôn. Mối đe dọa
về biến đổi khí hậu bắt đầu được ghi nhận, nhưng thông tin và nhận thức vẫn còn ở mức
thấp. Mặc dù Việt Nam có nhiều chính sách và chiến lược phát triển liên quan, nhưng Việt
Nam chưa có chiến lược toàn diện thích ứng với biến đổi khí hậu Quốc Gia và địa phương.
Xây dựng năng lực quốc gia và địa phương là rất cấp thiết để đảm bảo các biện pháp đối phó
về chính sách là thích đáng và hữu hiệu. Cần phải có điều phối rất tốt giữa các Bộ Ngành và
tăng cường hợp tác với các cơ quan quốc tế và các tổ chức NGO quốc tế để có thể giải quyết
biến đổi khí hậu một cách có lồng ghép với các nỗ lực lâu dài và phát triển kinh tế xã hội và
giảm nghèo. Hết sức quan trọng là chính những người gặp rủi ro biến đổi khí hậu nhiều nhất.
Người nghèo nông thôn sống ở các tỉnh bị ảnh hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu rất hạn

chế về thông tin hoặc hỗ trợ tài chính và kỹ thuật để thích ứng với thế giới của họ đang biến
đổi, mặc dầu đã đạt được một số thành công tại địa phương. Kinh nghiệm trực tiếp đối mặt
với những tác động của biến dổi khí hậu cần được lồng ghép với các biện pháp ứng phó trong
tương lai và các giải pháp đề ra, cần được xây dựng dựa vào những thực tiễn thích ứng của
địa phương nếu thích hợp. Người nghèo “gặp rủi ro” cũng cần phải trở thành những người
tham gia chủ yếu trong quy hoạch và thực hiện các biện pháp thích ứng biến đổi khí hậu, nhất
là ở những nơi các biện pháp đó đòi hỏi phải di dời hoặc từ bỏ đáng kể các phương thức sinh
kế hiện có.
5. Những giải pháp cụ thể nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu ở Việt Nam.
Chương trình trồng rừng là một trong những chương trình được ưu tiên trong "Chiến
lược Quốc gia của Việt Nam về Phòng chống và Giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020" vừa được
Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 172/2007/ QĐ - TTg ngày 16/11/2007. Nội dung của
chương trình: Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai; đảm bảo quy hoạch phát triển,
- 14 -
quy chuẩn xây dựng kết cấu hạ tầng phù hợp với tiêu chuẩn phòng chống và giảm nhẹ thiên
tai; đảm bảo 100% cán bộ làm công tác giảm nhẹ thiên tai được tập huấn nâng cao năng lực;
70% số dân các xã, phường vùng thường xuyên bị thiên tai được phổ biến kiến thức về phòng
chống thiên tai; hoàn thành việc di dời, sắp xếp và ổn định đời sống nhân dân vùng thường
xuyên xảy ra thiên tai theo quy hoạch được duyệt; phối hợp chặt chẽ với lực lượng tìm kiếm
cứu nạn để chủ động đối phó; đảm bảo an toàn hệ thống đê điều từ Hà Tĩnh trở ra; nâng cao
khả năng, mức chống lũ của đê miền trung, Tây Nguyên và Nam Bộ, củng cố nâng cấp đê
biển; đảm bảo an toàn các hồ chứa; hoàn thành 100% việc xây dựng khu neo đậu tàu thuyền;
hoàn thành hệ thống tin liên lạc. Về công tác chỉ đạo: Nguyên tắc chỉ đạo phòng chống và
giảm nhẹ thiên tai phải được thực hiện đồng bộ, theo giai đoạn và có trọng điểm. Quán triệt
phương châm "4 tại chỗ", chủ động phòng tránh, ứng phó kịp thời, khắc phục khẩn trương và
hiệu quả. Đầu tư cho công tác phòng chống và giảm nhẹ thiên tai là yếu tố quan trọng để phát
triển bền vững..."
Trong những năm vừa qua, hậu quả phá rừng ở một số nơi đã rất rõ, ví dụ như cùng
một lượng mưa nhưng nếu phá rừng lũ quét sẽ về gây thiệt hại và ảnh hưởng đến cuộc sống
nhiều hơn. Nhưng mấy năm gần gây thông qua chương trình 5 triệu ha rừng nhiều nơi đã

nâng cao được rừng che phủ và phòng hộ rất tốt. Một trường hợp thấy rõ là Thừa Thiên - Huế
trong đợt lũ vừa qua, lượng mưa tới 3.000 ml nhưng không bị lũ quét tàn phá.
Ngày 2-12-2008, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định 158/2008/QĐ-TTg
về Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu. Theo đó, các nguyên tắc cơ
bản của Việt Nam trong ứng phó với biến đổi khí hậu là:
- Ứng phó trên nguyên tắc phát triển bền vững, đảm bảo tính hệ thống, tổng hợp,
ngành, vùng, bình đẳng về giới, xóa đói, giảm nghèo.
- Các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu được tiến hành có trọng tâm, trọng
điểm; ứng phó với những tác động cấp bách trước mắt và những tác động tiềm tàng lâu dài.
Đầu tư cho ứng phó với biến đổi khí hậu là yếu tố quan trọng đảm bảo phát triển bền vững,
ứng phó hôm nay sẽ giảm được thiệt hại trong tương lai.
- Ứng phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị, của toàn xã
hội.
- 15 -
-Các nhiệm vụ ứng phó với biến đổi khí hậu phải được thể hiện trong các chiến lược,
chương trình, quy hoạch, kế hoạch phát triển của các ngành, các địa phương, được thể chế
hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật và được quán triệt trong tổ chức thực hiện.
- Triển khai ứng phó với biến đổi khí hậu theo nguyên tắc “trách nhiệm chung nhưng
có phân biệt” được xác định trong Công ước Khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu.
Hội chữ thập đỏ Việt Nam với sự hỗ trợ của hội chữ thập đỏ Hà Lan (NRC) đã thực
hiện dự án biến đổi khí hậu ở 5 tỉnh ven biển từ năm 2003 đến 2005. Dự án này đã xây dựng
các tư liệu về các tác động và thích ứng biển đổi khí hậu, giúp đánh giá các khả năng dễ bị
tổn thương và năng lực của 30 trong tổng số các Xã dễ bị tổn thương nhất và đồng thời nâng
cao nhận thức, xây dựng năng lực của người dân địa phương. Dự án còn đào tạo các nhân
viên của hội chữ thập đỏ Việt Nam và các tình nguyện viên ở các cấp khác nhau và nâng cao
nhận thức cho các nhà ra quyết định. Hội chữ thập đỏ Việt Nam và hội chữ thập đỏ Hà Lan
còn hỗ trợ đưa vào thực hiện dự án tái trồng rừng và thích ứng với biến đổi khí hậu ở Tỉnh
Quảng Bình để ổn định các đùn cát ven biển bằng trồng cây phi lao và hổ trợ sinh kế của
người nghèo. Tổ chức phát triển của Hà Lan (SNV) cùng hội chữ thập đỏ Việt Nam đang
khảo sát thêm công trình khác ở Quảng Bình với nguồn tài trợ thông qua cơ chế phát triển

sạch.
Những nổ lực khác để thích ứng với biến đổi khí hậu gồm có diễn đàn cải thiện công
tác quản lý nguồn tài nguyên nước có cân nhắc đến khả năng biến đổi thời tiết gia tăng do
CPWC đăng cai và công trình xây dựng các cách thức hữu hiệu hổ trợ nông dân ở tỉnh Quảng
Trị sử dụng thông tin khí hậu theo mùa (do ADPC thực hiện). Một nghiên cứu đang được
triển khai để tìm cách hợp lý hóa các vấn đề liên quan đến tính dễ tổn thương và thích ứng
biến đổi khí hậu với phát triển kinh tế xã hội, các dự án ứng phó và giảm thiểu hạn hán và các
biện pháp thích ứng với những tác động của biến đổi khí hậu đối với các hệ thống nước và
lưu lượng sông trong lưu vực sông Hương (do IMH và NCAP thực hiện). Dự án lưu vực sông
Hương bao gồm việc nghiên cứu các nhu cầu và sự hổ trợ khả dĩ các sinh kế cho các cộng
đồng nghề cá dễ bị tổn thương, kể cả việc đa dạng hóa sinh kế thông qua các chương trình
đào tạo và cung cấp tín dụng quy mô nhỏ và cải thiện các quyền và quy định đánh bắt cá và
phục hồi rừng ngập mặn.(Trap 2006).
Cả tổ chức Oxfam Anh lẫn chương trình hỗ trợ nhỏ không hoàn lại từ quỹ môi trường
toàn cầu (GEF) của UNDP- Việt Nam hỗ trợ các sinh kế ở Ninh Thuận, một trong số các tỉnh
- 16 -

×