Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Những vấn đề chung về hoạt động tiếp công dân của Viện kiểm sát nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.49 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
Tiếp công dân là công tác quan trọng trong các hoạt động của Đảng, Nhà
nước và các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta. Thông qua việc
tiếp công dân, Nhà nước và các cơ quan, tổ chức tiếp nhận được các khiếu nại,
tố cáo, kiến nghị, phản ánh của nhân dân liên quan đến việc thực hiện chủ
trương, đường lối, chính sách, pháp luật để có các biện pháp xử lý, khắc phục
kịp thời. Tiếp công dân là hoạt động nhằm thực hiện hóa quyền dân chủ của
công dân, là sự cụ thể hóa quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã
hội phát huy vai trò to lớn của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tổ chức
tốt công tác tiếp dân là biểu hiện cụ thể của quan điểm “dân là gốc” của Đảng
và Nhà nước ta, góp phần phát huy bản chất “Nhà nước của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân”. Làm tốt công tác tiếp công dân là thể hiện bản chất
Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tăng cường mối quan hệ giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước. Mặt khác, thông qua công tác tiếp công dân giúp cho Đảng
và Nhà nước tiếp nhận được những thông tin phản hồi từ thực tế, những vấn đề
nảy sinh từ cuộc sống, từ đó đề ra những chủ trương, quyết sách đúng đắn, hợp
lòng dân.
Đối với Viện kiểm sát nhân dân, công tác tiếp công dân từ trước đến nay
luôn được xác định là một trong những công tác trọng tâm của Ngành, là nhiệm
vụ thường xuyên được tập trung chỉ đạo. Để hiểu thêm về những quy định của
pháp luật trong công tác tiếp công dân, tôi chọn đề “Những vấn đề chung về
hoạt động tiếp công dân của Viện kiểm sát nhân dân” làm đề cho bài tập lớn của
mình.

1


NỘI DUNG
I. Căn cứ pháp luật
Luật tiếp công dân được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2013 tại kỳ họp
thứ 6 Quốc hội khóa XIII và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2014, Luật tiếp


công dân có 9 chương 36 điều. Luật quy định về trách nhiệm tiếp công dân;
quyền và nghĩa vụ của người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; việc tổ
chức hoạt động tiếp công dân tại trụ sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân
của cơ quan, tổ chức, đơn vị và các điều kiện bảo đảm cho hoạt động tiếp công
dân. Ngoài ra, Luật cũng quy định việc tiếp đại diện của cơ quan, tổ chức đến
khiếu nại, kiến nghị, phản ánh, tiếp người nước ngoài đến khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh được thực hiện như đối với tiếp công dân.
1. Về trách nhiệm tiếp công dân
Điều 4 Luật tiếp công dân đã quy định đầy đủ về các cơ quan, tổ chức có
trách nhiệm tiếp công dân. Theo đó, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm tổ
chức tiếp công dân bao gồm:
- Chính phủ;
- Bộ, cơ quan ngang bộ; tổng cục và tổ chức tương đương; cục;
- Ủy ban nhân dân các cấp;
- Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương; cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh;
- Các cơ quan của Quốc hội;
- Hội đồng nhân dân các cấp;
- Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán Nhà nước.
Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp có trách nhiệm tiếp
công dân theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác
có liên quan.

2


Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tổ chức chính
trị, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan thuộc
Chính phủ, đơn vị sự nghiệp công lập tổ chức việc tiếp công dân phù hợp với

yêu cầu, quy mô, tính chất hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình.
2. Về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan trong việc tiếp công dân
Điều 18 quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan trong việc
tiếp công dân. Cụ thể là, người đứng đầu các cơ quan có trách nhiệm lãnh đạo,
chỉ đạo, tổ chức công tác tiếp công dân của cơ quan mình; đồng thời trực tiếp
tiếp công dân ít nhất 01 ngày trong 01 tháng tại địa điểm tiếp công dân của cơ
quan mình. Người đứng đầu cơ quan còn có trách nhiệm tiếp công dân đột xuất
trong những trường hợp nhất định. Luật cũng quy định khi tiếp công dân, người
đứng đầu cơ quan phải có ý kiến trả lời về việc giải quyết vụ việc cho công dân.
Trường hợp chưa trả lời ngay được thì chỉ đạo các cơ quan, tổ chức, đơn vị,
công chức, viên chức thuộc quyền quản lý của mình kịp thời xem xét, giải quyết
và thông báo thời gian trả lời cho công dân.
Bên cạnh đó, lãnh đạo phải bố trí địa điểm tiếp công dân ở vị trí thuận tiện,
đảm bảo các điều kiện vật chất cần thiết để công dân đến trình bày khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh được dễ dàng, thuận lợi;, phải niêm yết rõ ràng nội quy
tiếp công dân của cơ quan, đơn vị, quy trình tiếp công dân, quy trình giải quyết
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh tại địa điểm tiếp công dân; các thông tin
về nơi tiếp công dân, thời gian tiếp công dân thường xuyên, lịch tiếp công dân
định kỳ của lãnh đạo và dự kiến nội dung tiếp phải niêm yết công khai tại nơi
tiếp công dân và phải được công bố trên trang thông tin điện tử của cơ quan (nếu
có).
3. Về trách nhiệm của người tiếp công dân
Điều 8 Luật tiếp công dân và Điều 3 Quy chế 51 quy định, khi tiếp công
dân, người tiếp công dân phải bảo đảm trang phục chỉnh tề, đúng quy định; có
thái độ đúng mực, tôn trọng công dân, lắng nghe, tiếp nhận đơn khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh hoặc ghi chép đầy đủ, chính xác nội dung mà người
3


đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trình bày. Không hứa hẹn hoặc thông

báo cho công dân nội dung hoặc kết quả giải quyết khi chưa được kết luận chính
thức bằng văn bản.
Tại khoản 5 Điều 8 quy định trách nhiệm của người tiếp công dân là phải
thông báo kết quả xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh cho công dân.
Quy định này vừa gắn trách nhiệm của người tiếp công dân với người giải quyết
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; đồng thời, cũng phù hợp với xu thế cải
cách thủ tục hành chính theo hướng 1 cửa.
Trên thực tế, để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, người tiếp công dân
phải thành thạo về chuyên môn nghiệp vụ, có kiến thức tương đối sâu sắc và
toàn diện về nhiều lĩnh vực từ chính sách pháp luật, công tác quản lý cho đến
văn hóa ứng xử, nghệ thuật giao tiếp và đôi lúc phải có tính chịu đựng.
4. Về quyền và nghĩa vụ cử người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh
Điều 7 Luật tiếp công dân quy định về quyền và nghĩa vụ của người đến
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Theo đó, quyền và nghĩa vụ của người
đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh quy định rõ ràng, đầy đủ hơn trước
đây, một số hành vi bị nghiêm cấm như việc lợi dụng các quyền này để gây rối
trật tự công cộng hoặc xuyên tạc, vu khống gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức,
cá nhân, đe dọa, xúc phạm cơ quan, tổ chức, đơn vị, người tiếp công dân, người
thi hành công vụ; kích động, cưỡng ép, dụ dỗ, lôi kéo mua chuộc người khác tập
trung đông người tại nơi tiếp công dân.
Ngoài ra, Luật tiếp công dân còn quy định nhiều vấn đề cụ thể như việc
tiếp nhận, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, các điều kiện đảm
bảo cho hoạt động tiếp công dân, những quy định này tất cả các cơ quan đều
phải thực hiện.
Để triển khai thực hiện Luật tiếp công dân, ngày 26/6/2014, Chính phủ ban
hành Nghị định số 64/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của
4



Luật tiếp công dân và Thanh tra Chính phủ cũng ban hành Thông tư số
06/2014/TT-TTCP ngày 31/10/2014 quy định về quy trình tiếp công dân.
Ngày 04/8/2014, Ban cán sự đảng VKSND tối cao đã ban hành Kế hoạch
số 09-KH/BCSĐ về việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ
Chính trị.
Ngày 02/02/2016, Viện trưởng VKSND tối cao có Quyết định số 51/QĐVKSTC-V12 ban hành Quy chế tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp (gọi tắt là Quy
chế 51), trong đó, công tác tiếp công dân được quy định tại Chương II, từ Điều 3
đến Điều 8 Quy chế 51, ngoài ra, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng đã ban hành
hệ thống mẫu biểu phục vụ công tác này.
Có thể nói, cho đến nay các quy định của pháp luật cũng như của Ngành về
công tác tiếp công dân đã cơ bản hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý cho công tác tiếp
công dân, giúp công tác này hoạt động ngày càng có thuận lợi và hiệu quả hơn.
II. Kỹ năng tiếp công dân trong ngành Kiểm sát nhân dân
Điều 2 Luật tiếp công dân quy định, tiếp công dân là việc đón tiếp để lắng
nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; giải thích,
hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
theo đúng quy định của pháp luật. Tiếp công dân bao gồm tiếp công dân thường
xuyên, tiếp công dân định kỳ và tiếp công dân đột xuất; tiếp công dân có mối
quan hệ chặt chẽ với công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, kết quả tiếp công dân
ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, công tác tiếp công
dân hiện nay đã được thể chế hóa thành luật.
Công tác tiếp công dân được thực hiện theo quy trình sau:
1. Xác định điều kiện của người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh

5


Yêu cầu công dân xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy giới thiệu, giấy ủy quyền

(nếu có) và tiến hành các thủ tục kiểm tra, đối chiếu các giấy tờ để xác định họ
là người tự mình thực hiện việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh hay là
người đại diện hay là người được ủy quyền; nếu giấy ủy quyền không hợp lệ và
không theo đúng quy định của pháp luật thì giải thích và hướng dẫn công dân,
người được ủy quyền làm lại các thủ tục cần thiết để thực hiện việc khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định và ghi chép vào sổ tiếp công dân
các thông tin cơ bản về nhân thân của công dân.
Trường hợp công dân hoặc người được ủy quyền, người đại diện theo quy
định của pháp luật cho cá nhân, cơ quan, tổ chức không vi phạm quy định Điều
9 Luật tiếp công dân thì người tiếp công dân tiến hành việc tiếp công dân.
Trường hợp công dân hoặc người được ủy quyền, người đại diện theo quy
định của pháp luật cho cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm quy định
tại Điều 9 Luật tiếp công dân như: người trong tình trạng say do dùng chất kích
thích, người có biểu hiện mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; người có hành vi đe
dọa, xúc phạm cơ quan, tổ chức, đơn vị, người tiếp công dân, người thi hành
công vụ hoặc có hành vi khác vi phạm nội quy nơi tiếp công dân thì người tiếp
công dân được quyền từ chối tiếp nhưng phải giải thích cho công dân được biết lý do
từ chối tiếp.
2. Phổ biến quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo
Người tiếp dân có nhiệm vụ phổ biến ý chính về quyền và nghĩa vụ của
người khiếu nại, tố cáo đã được quy định chi tiết tại Điều 7 Luật tiếp công dân.
3. Tiếp nhận đơn để phân loại, xử lý
Lắng nghe, ghi chép đầy đủ nội dung trình bày của người đến khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh. Trong trường hợp có nhiều người đến khiếu nại, tố cáo
về cùng một nội dung thì yêu cầu họ cử đại diện trình bày. Cần phối hợp với lực

6



lượng bảo vệ để hạn chế tình trạng tụ tập quá đông, gây mất trật tự tại phòng
tiếp công dân, ảnh hưởng trực tiếp đến công tác tiếp công dân.
Tiếp nhận đơn để nghiên cứu phân loại, xử lý theo quy định của pháp luật,
nếu nội dung đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh không rõ ràng, chưa đầy
đủ thì hướng dẫn công dân viết lại đơn hoặc bổ sung những nội dung chưa rõ,
còn thiếu. Trường hợp công dân không có đơn thì yêu cầu họ viết đơn; nếu công
dân không tự viết được đơn thì người tiếp công dân ghi chép đầy đủ, trung thực,
chính xác nội dung khiếu nại do công dân trình bày; nội dung nào chưa rõ thì đề
nghị công dân trình bày thêm, sau đó đọc lại cho công dân nghe và đề nghị công
dân ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản; trường hợp đơn vừa có nội
dung khiếu nại, vừa có nội dung tố cáo hoặc kiến nghị, phản ánh thì hướng dẫn
công dân viết thành từng đơn riêng.
Khi công dân cung cấp các thông tin, tài liệu, bằng chứng có liên quan đến
việc khiếu nại, tố cáo thì người tiếp công dân phải kiểm tra tính hợp lệ của các
thông tin, tài liệu, bằng chứng đó để quyết định việc tiếp nhận hay không, nếu
tiếp nhận thì viết giấy biên nhận (theo mẫu), nếu công dân có yêu cầu. Khi công
dân xuất trình bản gốc tài liệu, bằng chứng cần đề nghị công dân cung cấp bản
sao có công chứng (nếu cần) hoặc đem bản gốc đến để so sánh, hạn chế việc tiếp
nhận bản gốc.
Đối với những vụ, việc khiếu nại, tố cáo pháp luật quy định còn trình tự
giải quyết tiếp thì hướng dẫn cho công dân khiếu nại, tố cáo đến cơ quan có
thẩm quyền để xem xét giải quyết; nếu việc khiếu nại, tố cáo đó đã có văn bản
giải quyết cuối cùng thì hướng dẫn công dân làm đơn đề nghị kiểm tra lại việc
giải quyết gửi đến cơ quan có thẩm quyền xem xét.
Đối với những khiếu nại, tố cáo đã được giải quyết đúng chính sách, pháp
luật, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, rà soát, thông báo bằng
văn bản và đã được tiếp, giải thích, hướng dẫn nhưng công dân vẫn cố tình khiếu
nại, tố cáo kéo dài thì người tiếp công dân ra Thông báo từ chối tiếp công dân.

7



Người tiếp công dân phải xác định được nội dung đơn, thẩm quyền giải
quyết, đủ điều kiện thụ lý thì mới quyết định có tiếp nhận đơn hay không hoặc
yêu cầu bổ sung những tài liệu gì; nếu khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải
quyết của Viện kiểm sát thì thông báo cho đơn vị nghiệp vụ liên quan cử người
tiếp công dân; còn khiếu nại, tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện
kiểm sát thì người tiếp dân có trách nhiệm hướng dẫn công dân khiếu nại, tố cáo
đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
4. Kết thúc tiếp công dân
Giai đoạn này người tiếp công dân cần làm tốt các việc sau:
Một là, kiểm tra lại đơn, các tài liệu đã nhận do công dân cung cấp;
Hai là, đọc biên bản bản ghi lời trình bày của người khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh (nếu có) và yêu cầu họ ký tên xác nhận;
Ba là, ghi chép đầy đủ các ý kiến bổ sung của người khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh vào sổ tiếp công dân;
Bốn là, kiểm tra việc ghi chép sổ sách, làm giấy biên nhận cho công dân.
* Phối hợp giữa các đơn vị trong công tác tiếp công dân
Việc tiếp công dân của Viện kiểm sát là trách nhiệm của cán bộ, công chức
trong Ngành. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ chung của Ngành, Viện trưởng
VKSND tối cao đã phân công đơn vị kiểm sát và giải quyết đơn khiếu nại, tố
cáo trong hoạt động tư pháp (gọi tắt là đơn vị 12) đảm nhận việc thường trực
tiếp công dân hàng ngày, các đơn vị nghiệp vụ khác tiếp công dân trong trường
hợp công dân đến khiếu nại, tố cáo có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ của
đơn vị đó. Sự phối hợp giữa đơn vị 12 và các đơn vị nghiệp vụ trong việc tiếp
công dân là thường xuyên và hết sức cần thiết, hạn chế tối đa việc gây phiền hà,
bức xúc cho công dân, giúp việc giải quyết khiếu nại, tố cáo sẽ có hiệu quả hơn.
Theo quy định tại Điều 5 và Điều 6 Quy chế số 51, các đơn vị nghiệp vụ
tiếp công dân trong những trường hợp sau:
8



Thứ nhất, khi đơn vị 12 thấy việc khiếu nại, tố cáo của công dân thuộc
trách nhiệm của đơn vị nghiệp vụ nào thì thông báo tới đơn vị nghiệp vụ đó. Sau
khi nhận được thông báo của đơn vị 12, đơn vị nghiệp vụ phải khẩn trương cử
người để tiếp công dân, trường hợp chưa tiếp công dân được ngay thì cũng phải
thông báo lại cho đơn vị 12 để trả lời cho công dân biết lý do và hẹn ngày tiếp
công dân.
Thứ hai, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nếu xét thấy cần thiết tiếp
công dân thì đơn vị nghiệp vụ có trách nhiệm làm giấy mời công dân và thông
báo ngày, giờ tiếp để đơn vị 12 chủ động phối hợp bố trí, sắp xếp nơi tiếp công
dân.
Thứ ba, các đơn vị nghiệp vụ cùng đơn vị 12 tham gia tiếp dân của lãnh
đạo Viện kiểm sát.
Như vậy, việc phối hợp ở đây thể hiện trong việc thông tin người đến khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị phản ảnh cũng như kết quả giải quyết giữa đơn vị 12 với
các đơn vị nghiệp vụ liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, phối hợp
trong việc tham mưu tiếp công dân của Viện trưởng…
KẾT LUẬN
Tiếp công dân là việc đón tiếp để lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị, phản ánh của công dân; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc
thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp
luật. Để đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, quyền con người,
quyền công dân thì hoạt động tiếp công dân là hoạt động thường xuyên và có vai
trò, ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vì vậy, việc tiếp công dân của Viện kiểm sát là
trách nhiệm của cán bộ, công chức trong Ngành; cán bộ, công chức ngành Kiểm
sát cần ý thức được công tác tiếp công dân là việc làm không thể thiếu trong hoạt
động quản lý trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung và hoạt động
quản lý hành chính nhà nước nói riêng, nhờ hoạt động này mà chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước được thực hiện hiệu quả, quyền làm chủ của


9


nhân dân được phát huy, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được giải quyết nhanh
chóng, góp phần giúp xây dựng và tổ chức chính quyền vững mạnh hơn.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp;
2. Luật tiếp công dân 2013;
3. Quy chế 51 (Ban hành kèm theo Quyết định số 51/QĐ-VKSTC-V12
ngày 02 tháng 02 năm 2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao)
quy định về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp.

11


MỤC LỤC
Trang

12




×